12 tháng 9, 2017

Những chiếc xe hơi 100 năm trước...

The Cars You'd Drive 100 Years Ago! 

(Những chiếc xe bạn đã lái cách đây 100 năm!)

If you ever felt like your car is too old, and you wish you had a newer one, check out what an old car REALLY is. These cars start from the very first official automobile in the 19th century, and proceeds into the early morning of the 20th. Looking at these, it's hard not to appreciate the workmanship and class that went into these early vehicles, treasured as they were as the height of technology at the time. (Nếu bạn đã bao giờ cảm thấy như chiếc xe của bạn quá cũ, và bạn muốn bạn có một chiếc mới, hãy kiểm tra những gì một chiếc xe cũ REALLY. Những chiếc xe này bắt đầu từ chiếc ô tô chính thức đầu tiên vào thế kỷ 19, và bắt đầu vào sáng sớm ngày 20. Nhìn vào những điều này, thật khó để đánh giá cao tay nghề và lớp học đã đi vào những phương tiện ban đầu này.)

1888 Benz 


 The Benz Patent Motor Car is considered to be the world’s first automobile. 
1887 Coventry Daimler 
1900 Napier


1901 Columbia


1901 De Dion Bouton


1902 De Dietrich

1902 Panhard et Levassor



1903 Mercedes

1904 Gardner Serpoller Steam Car

1904 Lanchester

1904 Sunbeam


1905 Vauxhall

1906 Renault

1907 Grand Prix Itala

1908 Unic Taxi

1910 Delauney Belleville

1911 Austin
1912 Alfonso Hispano Suiza

1912 Delahaye

1912 Sunbeam


1913 DFP

1913 Mercer Raceabout

1914 Sizaire Berwick
1915 Ford Model T

GIÁO SƯ TƯƠNG LAI NÓI DZẬY NHƯNG KHÔNG PHẢI DZẬY !
(NGHĨA LÀ ÔNG VẪN LÀ MỘT ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN VÀ VẪN CHIẾN ĐẤU ĐỂ XÂY DỰNG CNCS Ở VIỆT NAM)

Giáo Sư Tương Lai tại tư gia ở Sài Gòn.
Nhà trí thức hàng đầu ở Việt Nam, Giáo sư Tương Lai, Cựu Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, từng là thành viên nhóm cố vấn cho các cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Ðảng Cộng sản Việt Nam vào đúng ngày Quốc khánh mùng 2-9-2017.

Tuy nhiên, trả lời phỏng vấn của Đài VOA mới đây Gs Tương Lai nói lại cho rõ là “ Tuyên bố của tôi mà một vài đài xem không kỹ, nghe không kỹ cho nên nói chưa chính xác, tôi xin nói lại, tuyên bố của tôi là dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng để tiếp tục chiến đấu với tư cách là đảng viên Đảng Lao động, đảng của Hồ Chí Minh…”. Vì sao?

Gs Tương lai giải thích, rằng “Tôi dứt bỏ mọi liên hệ với cái đảng hiện nay, là đảng do Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, không còn là đảng của Hồ Chí Minh nữa, để tiếp tục chiến đấu với tư cách là đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam, là đảng của Hồ Chí Minh. Tôi muốn nhấn mạnh điều ấy…”.

Tuyên bố và giải thích như thế, khách quan người ta phải hiểu là Ông Tương Lai chỉ rút ra khỏi đảng CSVN hiện tại của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng vẫn là một đảng viên cộng sản của đảng Lao Động Việt Nam (Tên gọi khác của đảng CSVN) của Hồ Chí Minh trước đây. Vì ai cũng biết việc thay tên đổi họ cho đảng CSVN vốn là một thủ thuật chính trị để đáp ứng theo đòi hỏi của tình hình thực tế. Thủ thuật này được vận dụng ngay từ khi mới thành lập đảng vào ngày 3-2-1930, với cái tên đảng CSVN, chẳng bao lâu sau đó đã vội đổi thành đảng Cộng sản Đông Dương do nhu cầu kết hợp lãnh đạo “chiến tranh cách mạng dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc” ở cả ba nước Đông Dương thuộc Pháp lúc bấy giờ là Việt-Miên-Lào; nhằm đánh đổ chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, theo chỉ thị của Đệ tam Quốc tế Cộng sản ở Moscow.

Tháng 8 năm 1945 sau khi cướp được chính quyền trên cả nước, bằng kỹ thuật vận dụng sức mạnh của quần chúng nhân dân đấu tranh (vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng mà), nên không đổ máu. Sau đó, ngày 2-9-1945 lãnh tụ cộng sản Việt nam Hồ Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thành lập chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng. Để dấu “cái đuôi cộng sản” tìm sự hậu thuẫn quốc tế và sự ủng hộ của nhân dân trong nước, ngoài nội dung bản Tuyên ngôn có câu nói nổi tiếng của lãnh tụ Hồ Chí Minh lấy ý từ bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ( Con người được Tạo hóa sinh ra có quyền tự do và bình đẳng…); và quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với bản Hiến pháp năm 1946 sau đó, đều muốn chứng tỏ Việt Nam là một quốc gia độc lập, với chế độ dân chủ pháp trị theo ý thức hệ dân chủ Phương Tây, nên đảng Cộng sản Đông Dương, giả vờ giải tán ngày 11/11/1945, mà thật ra là rút lui vào hoat động bí mật.

Sở dĩ phải dấu “cái đuôi cộng sản” vì lúc đó Thế Chiến II vừa kết thúc, thế lực của các cường quốc dân chủ tư bản Phương Tây đứng đầu là Hoa Kỳ vẫn bao trùm thế giới. Cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa mới manh nha và chủ nghĩa cộng sản bị coi là hiểm họa của toàn thế giới. Liên-Xô sau trở thành đối cực của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu này, lúc đó còn yếu kém, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa chưa hình thành, đảng CSVN chưa có chỗ dựa vững chắc nên cần hậu thuẫn của các cường quốc dân chủ tư bản Phương Tây cho nền độc lập còn mong manh mới hình thành. Đối với nhân dân trong nước, chủ nghĩa cộng sản còn xa lạ, lại bị hàng ngũ lãnh đạo kháng chiến chống Pháp mang ý thức hệ quốc gia tuyên truyền về hiểm họa của chủ nghĩa cộng sản vô thần, với chủ trương “tam vô” (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo…) nên rất sợ cộng sản.

Sau Hiệp Định Genève ngày 20-7- 1954 chia đôi đất nước, mặc dầu cộng sản Bắc Việt đứng hẳn về phe xã hội chủ nghĩa, nhưng đảng CSVN vẫn phải dấu “cái đuôi cộng sản”. Do đó, Đảng Lao Động đã ra đời tháng 2/1951 chỉ là cái mặt nạ của đảng CSVN. Bảng hiệu chế độ vẫn là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà thực tế cũng như thực chất đã và đang xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa theo kiểu Liên-Xô vá víu với Trung cộng. Sự che dấu sống sượng này chỉ là vì Ông Hồ và đảng CSVN vẫn muốn sử dụng lập trường “ngụy dân tộc” từ thời kháng chiến chống Pháp, để khơi dạy, lừa mị và lợi dụng lòng yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân, phát động và tiến hành cái gọi là “Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước” dưới ngọn cờ “ giải phóng dân tộc” ở Miến Nam Việt Nam. Trong khi thực tế cũng như thực chất cuộc chiến tranh do CSBV phát động sau năm 1954 chỉ là một cuộc chiến tranh thừa sai, làm nhiệm vụ công cụ tri tình cho quốc tế cộng sản, nhuộm đỏ Miền Nam hầu thỏa mãn tham vọng cộng sản hóa toàn cầu của hai tân đế quốc Đỏ Nga-Tàu.(mà thực tế nay thì đã thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn, chủ nghĩa cộng sản đang ở vào giờ thứ 25)

Tất cả sự thật trên đã được phơi bày sau ngày 30-4-1975 khi CSBV cưỡng chiếm được Miền Nam, đưa cả nước “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”; và bảng hiệu đảng Lao Động Việt Nam được đổi thành đảng Cộng sản Việt Nam theo đúng tên gọi đầu tiên mới thành lập vào ngày 3-2-1930.Đồng thời, hai đảng Dân Chủ của Nghiêm Xuân Yêm và đảng Xã Hội của Nguyễn Xiển do đảng CSVN dựng lên để trang trí bộ mặt giả tạo như là một chế độ dân chủ cộng hòa đa nguyên,đa đảng cũng bị giải tán. Vì “vai trò lịch sử” đã chấm dứt như lý do được đảng CSVN đưa ra sau ngày 30-4-1975 để giải tán hai đảng cò mồi này, cùng lúc khai tử công cụ quân sự “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” và công cụ chính trị “Chính phủ Cách Mạng Lâm thới Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”

Tất cả sự thật lịch sử và thực tiễn trên đây, về thủ thuật thay tên bảng hiệu đảng CSVN lúc này lúc khác, người dân thường ai cũng biết. Tất nhiên Gs. Thương Lai, một đảng viên CS kỳ cựu, từng nắm nhiều chức vụ quan trọng hàng đấu lãnh vực tư tưởng marxist-Lêninnist, hơn ai hết phải biết đảng Lao Động Việt Nam của Hồ Chí Minh trước đây và đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Phú Trọng hiện nay vẫn là một.

Thành ra, Gs Tương Lai nói thế, nhưng không phải thế đâu. Vì sao?

Theo nhận định của chúng tôi và có lẽ cũng của nhiều người, Gs. Tương Lai nói thế có thể là vì:

1.- Về mặt tâm lý, dường như Gs Tương Lai muốn diễn đạt sự ly khai khỏi đảng CSVN theo cách biểu tỏ của một tín đồ tôn giáo ly khai khỏi giáo hội vì mất đức tin, nhưng vẫn không dám công khai thừa nhận mình đã mất đức tin, mà lại nói lý do ly khai khỏi tổ chức giáo hội là vì các tăng lữ lãnh đạo đã điều hành giáo hội sai trái với tín lý, tín điều của giáo hội và giáo chủ tiền nhiệm.

Theo đó, Gs Tương Lai thực sự cũng đã mất tin tưởng vào lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, vào vai trò “Đội tiên phong của giai cấp công nhân hay vô san” của đảng CS, nên đã ly khai khỏi đảng CSVN, nhưng bề ngoài vẫn phải nói chỉ “dứt bỏ mọi liên hệ với cái đảng hiện nay, là đảng do Nguyễn Phú Trọng đang thao túng…”nhưng vẫn “tiếp tục chiến đấu với tư cách là đảng viên Đảng Lao động, đảng của Hồ Chí Minh…”.

2.- Về mặt thực tế, Gs Tương Lai phải dùng cách biểu tỏ trên có thể chỉ là cách tự vệ, muốn tạo vỏ bọc bằng hình tượng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động Việt Nam, để đảng và nhà cầm quyền CSVN không có lý cớ trấn áp thô bạo, triệt hạ Ông quyết liệt như một tên “phản động, ly kha, chống đảng”.

Vì Ông vẫn “…tiếp tục chiến đấu với tư cách là đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam, là đảng của Hồ Chí Minh”. Vì đảng CSVN hiện nay “ là đảng do Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, không còn là đảng của Hồ Chí Minh nữa,…”. Do đó,việc tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên đảng Lao Động của Ông không có nghĩa là ly khai khỏi đảng; và việc “tiếp tục chiến đấu với tư cách là đảng viên Đảng Lao độngViệt nam” vẫn mang tính chất “đấu tranh nội bộ đảng” mang tính xây dựng để giải quyết mâu thuẫn nội bô (đảng) chứ không phải là một “mâu thuẫn đối kháng” (một mất một còn). Về nguyên tắc Gs Tương Lai vẫn trung thành với lý tưởng cộng sản của “Đảng Ta”; có phản đảng, chống đảng gì đâu mà trấn áp bỏ tù Ông được. Vì vậy về thực tế, người ta cho rằng Gs Tương Lai nói thế chứ không phải thế đâu.


Thực tế là, trong nhiều năm qua Gs Tương Lai đã có các hoạt động tham gia biểu tình chống Trung quốc xâm lược, có nhiều bài viết là tuyên bố mang tính cổ vũ và đấu tranh cho các quyền tự do, dân chủ, dân sinh và nhân quyền theo chiếu hướng dân chủ hóa đất nước.Điều này cho thấy từ lâu Ông (cũng như rất đông đảng viên CS khác còn dấu mặt) đã là một “đảng viên cộng sản phản tỉnh”, đã “mất đức tin cộng sản chủ nghĩa”. Thê nhưng cách biểu tỏ của Ông người ta cho rằng chỉ là sự “ phản tỉnh nửa vời” (về nhận thức), chứ chưa “Phản tỉnh hoàn toàn” ( cả nhận thức lẫn hành động quyết liệt, triệt để) góp phần hiệu quả tạo được chuyến biến có ý nghĩa cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam một cách hòa bình, theo quy luật “ Lượng đổi (lượng dân chủ thay thế dần lượng độc Tài) chất đổi (chất độc tài tiêu vong, chất dân dân chủ lên ngôi) ; như nước đun sôi đến 100 độ thì phải bốc hơi thôi. Đó là quy luật mà, những người cộng sản bảo thủ, ngoan cố và duy ý chí cách mấy rồi đây cũng không thể cưỡng lại được đâu.

Dẫu sao việc công khai tuyên bố “dứt bỏ mọi liên hệ với cái đảng hiện nay, là đảng do Nguyễn Phú Trọng đang thao túng…”của Gs Tương Lai, một đảng viên CS kỳ cựu, một trí thức hàng đầu từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong guồng máy công quyền chế độ độc tài toàn trị đương thời tại Việt Nam đã là một hành động dũng cảm rất đáng ca ngợi. Hành động quả cảm này như tiếng chuông cảnh tỉnh các đảng viên cộng sản chân chính khác sớm có hành động thức thời để cứu dân cứu nước.

Thiện Ý
TTHNO

10 tháng 9, 2017


Chu Mộng Long: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi muốn tôi trao đổi về ý kiến của chị Nghiêm Thúy Hẳng. Đó là lí do có bài viết này. Bài viết dài trong sự cần thiết để làm rõ một đoạn văn ngắn của chị Nghiêm Thúy Hằng
Cụ Nguyễn Lân
Về cuộc tranh luận sách của Hoàng Tuấn Công: Ý kiến của Ts Nghiêm Thúy Hằng

1. Xem trên trang của TS. Nghiêm Thúy Hằng, chưa thấy chị có bài trao đổi, tranh luận chính thức nào về sách của Hoàng Tuấn Công mà chỉ chia sẻ các ý kiến khác nhau. Chấp nhận tương tác đa chiều là dấu hiệu tốt của một nền học thuật lành mạnh, đáng khuyến khích.

Nhưng trong một comment trả lời ý kiến của người khác, ngoài thái độ đồng tình đầy tự hào về ý kiến của PGS.TS. Lê Đức Luận (xem stt trước của tôi – Lại thêm đứa dốt hay cãi), nguyên văn chị viết như sau: “Cụ (Nguyễn Lân – tôi chú thích) không hề “dốt” đâu anh nhé. Sai lầm có nhưng không nhiều, chủ yếu là do vấn đề dị bản, do bản chất đa nghĩa của thành ngữ, do vấn đề hỗn loạn chưa có luật ngôn ngữ văn tự, do biến đổi ngôn ngữ, do đặc trưng của tiếng Việt. Em tin sẽ vẫn còn các trí thức tiếp tục lên tiếng, người ta sẽ nói theo hiểu biết chuyên môn và lương tri, không có ai, kể cả những kẻ “dốt mà hay cãi” hoặc kẻ ăn mày ngoài đường đáng bị coi là “vứt đi” đâu anh. Phàm là làm việc gì cũng nên cẩn trọng, thấy vậy mà không phải vậy.”

Đó là chính kiến của Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng. Dù ngắn gọn, nhưng chứa nhiều nghĩa!

Tôi đồng tình với chị, như tôi đã viết ngay ở bài đầu tiên giới thiệu sách của Hoàng Tuấn Công, rằng cụ Nguyễn Lân không “dốt”. Trong thời điểm lịch sử 90% người Việt mù chữ đang học bình dân học vụ, một thầy giáo được đào tạo trong nhà trường của Pháp không thể bị xem là dốt. Nếu quả thật một thân cụ làm cả đống từ điển với cả chục ngàn mục từ, thành ngữ, tục ngữ thì cũng có thể xem là phi thường.

Nhưng phàm không lượng sức mình thì công việc tất yếu đổ vỡ. Hòn đá khổng lồ anh muốn vác lên vai sẽ đè nát chân anh hoặc đẩy anh xuống hố. PGS. Đoàn Lê Giang nói đúng: “Hồi xưa các cụ cung khiêm lắm, biết mười nói một. Cụ Lân là ca rất lạ!”


2. Tôi dám chắc không có từ điển nào một cá nhân tự hoàn thành. Các từ điển dù đứng tên một cá nhân vẫn luôn có sự kế thừa, phát triển từ nhiều nguồn để đi dần đến sự hoàn chỉnh trong tính tương đối của nó. Cụ Lân lại không làm thế. Gần như các từ điển của cụ đều là sản phẩm đoán mò và suy diễn một cách chủ quan, vô căn cứ nên sai là tất yếu. Căn cứ tốt nhất là thực tiễn sống động của ngôn ngữ và đời sống văn hóa, từ sự ghi nhận của các từ điển trước đó, nhưng cụ đã không làm như người ta vẫn làm.

Về thành ngữ, tục ngữ, lẽ ra khảo sát từ cách dùng của đời sống dân gian, kể cả của tác gia văn chương bác học, thì đa số cụ lại tự cho ví dụ theo cách nghĩ của mình. Chẳng hạn, tại mục từ “Rút dây động dừng”, cụ viết “(Dừng là cốt để trát bức vách). Ý nói: Đả động đến điều gì thì ảnh hưởng đến điều khác (Có người nói nhầm là: Rút dây động rừng)”. Rõ ràng là cụ không thực tế và nói ngược. Khoan nói đúng sai, khi đa số mọi người đều nói “Rút dây động rừng” thì phải xem xét đã chứ không thể phán bừa “có người nói nhầm”, trong khi chính mình nhầm mà không biết. Cũng như thế, “Chó già, gà non”, cụ viết “Ý nói: Thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm”. Chắc chắn cụ không biết thuật thiến chó thiến gà. Nhưng trước khi phán về ẩm thực, có thể cụ ăn chay, không biết thịt chó, thịt gà là gì, thì hãy đi hỏi dân sành ăn trước khi phán có lẽ sẽ không đến nỗi sai.

Những câu khó như “Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào”, cụ là đàn ông cụ mù mờ về cách ứng xử của nàng dâu nên nói sai, chứ đến câu: “Nhân nào quả nấy”, đứa trẻ con cũng biết đó là luật nhân quả, cụ lại phán xanh rờn: “Ý nói Con cái chịu ảnh hưởng sâu sắc của cha mẹ” thì quả là năng lực hiểu biết của cụ rất có vấn đề! Tôi không thể tưởng tượng nổi, câu “Gieo gió gặt bão” nằm trong cửa miệng của người bình dân vô học mà cụ lại có thể tưởng tượng ra “dịch một tục ngữ Pháp” của ông Tây học nào đó. Đến câu này thì đúng là cụ làm chính trị chứ không phải làm từ điển: “Giàu bán chó, khó bán con Nói lên sự bất công tệ hại của xã hội cũ”. Cái đầu chính trị làm cụ biến “ló” (lúa) thành “chó” mới tài. Những giáo sư, tiến sĩ ăn theo nói leo cụ gọi cái bản sai lệch đó thành “dị bản” mới thật là liên tài với cụ.

Một số ví dụ trên trong rất nhiều ví dụ mà Hoàng Tuấn Công đã viết là do “bản chất đa nghĩa” của thành ngữ, tục ngữ hay do sự thiếu hiểu biết rồi tự bịa ra dị bản và xuyên tạc nghĩa theo cách hiểu tùy tiện của cá nhân cụ Nguyễn Lân?

Về từ và ngữ Hán Việt, xem toàn bộ cách giải thích của cụ, có thể khẳng định chắc chắn cụ không biết chữ Hán. Chẳng hạn, mục từ “Hàn mặc”, cụ giải nghĩa: “dt (H. hàn: lạnh, nghèo khổ; mặc: mực – nghĩa đen là bút mực) Văn chương (cũ) Quen nghề hàn mặc, không chú ý đến thể dục.” Tiếp theo mục từ “Hàn nho”, cụ lại giải thích: “dt (H. hàn: ngọn bút; nho: nhà nho) Học trò nghèo” Đổi màu lữ khách, thay hình hàn nho (Tự tình khúc)”. Khổ thân cụ. Chắc là cụ có tra cứu từ điển Hán – Việt, nhưng không phân biệt được Hàn (ngọn bút) với Hàn (nghèo) nên lộn tùng phèo. Mà nhiều người không phân biệt được tự hình Hán, họ vẫn có thể dựa vào kết hợp từ “hàn mặc” với “hàn nho” để đoán nghĩa của từ tố, nhưng cụ lại không làm được! Không biết cái câu “Quen nghề hàn mặc, không chú ý đến thể dục” cụ lấy ở đâu ra, có vẻ như cụ ghét chuyện bút mực như Mao ghét trí thức, cho nên mới sáng chế ra cái câu ngồ ngộ ấy? Rõ ràng, toàn bộ từ điển Nguyễn Lân chỉ là đoán mò theo âm Hán Việt, cho nên xác suất hên xuôi, may rủi. Mà đã xác suất thì chỉ có tối đa 25% đúng.

Về chính tả, tôi không đặt vấn đề phải lấy âm Hà Nội làm chuẩn trong khi chưa có bộ luật chính tả, nhưng ít nhất cụ phải chọn một cách phát âm phổ biến, hoặc chua rõ hai, ba cách viết nào đó. Đằng này, cụ lại lấy âm địa phương hay nói ngọng của cụ ra để khẳng định đó là chính tả mà theo giai thoại, rằng cụ từng nhìn ai viết sai chính tả là cụ như thấy xúc phạm nghiêm trọng. “Xương quai xanh” thì cụ viết là “xương quai sanh”, “sàm sỡ” thì cụ viết là “xàm xỡ”, “sóng soài” thì cụ viết là “xóng xoài”, “trỗi dậy” thì cụ viết là “chỗi dậy”, “giải thể” cụ viết là “dãi thể”, “rơm rớm” thì cụ viết là “dơm dớm”, “ru rú” thì cụ viết là “giu giú”…

Những trường hợp trên trong vô số các trường hợp tương tự trong sách Nguyễn Lân là “do vấn đề hỗn loạn chưa có luật ngôn ngữ văn tự, do biến đổi ngôn ngữ, do đặc trưng của tiếng Việt” hay do chính sự hỗn loạn bất chấp quy tắc ngôn ngữ, bất chấp quy luật biến đổi ngôn ngữ, bất chấp đặc trưng tiếng Việt của chính người làm sách?

3. Thôi thì cái thời cụ Nguyễn Lân tư duy theo cách một nhà giáo dạy bình dân học vụ, làm từ điển như cụ có thể giúp được điều gì đó cho hàng triệu người mù chữ. Tất nhiên là tôi nói ở phần chữ, chứ tục ngữ, thành ngữ dân gian thì chẳng giúp gì, thậm chí còn bị người dân vô học cãi phăng, vì tục ngữ, thành ngữ là sản phẩm của họ không thể đem ra xuyên tạc được. Đáng nói là những ý kiến của những người có học hàm học vị ở thời đại phổ cập hóa đại học mà lại tiếp tục sai theo vết sai của cụ. Các ý kiến tranh luận, đúng ra là bênh vực cho cụ Nguyễn Lân lại chỉ biết dựa vào Từ điển Nguyễn Lân để chống chế, khác gì tư duy cối xay?

Có bào chữa cách gì thì lỗi đầu tiên vẫn thuộc về cụ Nguyễn Lân. Cụ đã sai dẫn đến những người sùng bái cụ sai theo. Cái sai chồng lên cái sai và không biết hối cải. Sinh thời cụ nói cụ cần sự góp ý. Nhưng nói vậy mà không phải vậy, ngay đến người uyên bác như học giả An Chi góp ý cũng bị cụ mắng cho là “vô văn hóa”. Học phiệt là một cố tật chỉ có thể lật đổ chứ không thể góp ý, bởi vì chính nó tạo ra thần tượng giả đầu độc nhiều thế hệ.

Tranh luận học thuật không có chuyện kính trên nhường dưới mà đòi hỏi sòng phẳng. Aristotle cãi nhau với thầy Plato đến mức tự tách trường riêng và người Hy Lạp chưa bao giờ xem người học trò kia là thiếu “lương tri”, chị Nghiêm Thúy Hằng ạ! Ở thời đại dân chủ, người ta còn dám cãi cả Chúa để tìm chân lí và tiến đến văn minh, huống hồ là một người trần mắt thịt như cụ Nguyễn Lân mà chị yêu cầu không được phép cãi để giữ “lương tri”.

Kẻ “dốt mà hay cãi” như GS. TS. Nguyễn Đức Tồn, PGS.TS. Lê Đức Luận,… và cả chị nữa, đúng là “không vứt đi” nhưng rất có hại. Bởi chính những người này đã đem cái sai chồng lên cái sai, biến sai thành đúng một cách trí trá gây nhiễu loạn học thuật, làm méo mó tiếng Việt. Ai cũng có cái dốt, nhưng nói như dân gian, dốt thì phải dựa cột mà nghe. Cãi cùn thì dốt lại chồng thêm dốt và không thể hy vọng có sự tiến bộ được.

Chị nên nhớ Hoàng Tuấn Công không phủ nhận sạch trơn những gì tồn tại trong Từ điển Nguyễn Lân. Nhiều chỗ Hoàng Tuấn Công chỉ đính chính và bổ túc một cách hiển ngôn. Chị nói thành ngữ vốn đa nghĩa. Tôi bổ sung thêm, không chỉ thành ngữ, bản thân các kí hiệu, biểu trưng đã luôn tồn tại không dưới một nghĩa. Nghĩa luôn có tính dự phòng, hoặc bị trượt liên tục trên chuỗi biểu đạt (theo Lacan), hoặc phát tán với những khác biệt (theo J.Derrida). Có nghĩa là, không có kí hiệu nào cố định mà luôn vận động và chuyển nghĩa trong quá trình sử dụng. Vì thế, không có từ điển nào nói hết được nghĩa của từ hay thành ngữ, tục ngữ. Từ điển luôn có giới hạn. Nó không là tác phẩm diễn giải theo lối phân tích, bình luận. Nhưng nó phải luôn cập nhật. Tất nhiên nó phải dựa vào cái gốc để từ đó phát sinh cái khác chứ không chơi trò cắt ngọn và giải nghĩa méo mó như cụ Nguyễn Lân.

4. Tôi nói ra điều trên cũng đồng nghĩa với việc không xem Hoàng Tuấn Công là tuyệt đối như một thần tượng mới thay thế cho thần tượng cũ Nguyễn Lân mà nhiều bạn đọc đã tung hô. Trong sách của mình, với tư cách không phải là từ điển mà là “phê bình và khảo cứu”, Hoàng Tuấn Công cũng có những giới hạn nhất định. Không ít chỗ Hoàng Tuấn Công tự rơi vào bẫy của sự duy lí, thoát li hẳn cái kinh nghiệm cảm tính của dân gian. Chẳng hạn như câu: “Đường đi hay tối, nói dối hay cùng”, anh nhất quyết hình thức đúng phải là “Đường tắt hay tối, nói dối hay cùng”, trong khi cái câu kia mới có tính thông tục hơn. Vẫn nghĩa như anh nói, nhưng dân gian chẳng chặt chẽ về từ như anh nghĩ. Dân gian cần nghĩa tổng quát hơn là chiết tự ra theo lối bác học. Chẳng hạn, “chú như cha, già như mẹ” là nói cho có vần, thuận mồm với nghĩa tổng quát là xem bề trên như bậc cha mẹ, càng chiết tự hay tách vế ra càng thấy vô lí.

Câu “Tai vách mạch rừng” anh khăng khăng phải là “Tai vách mạch dừng” với cái lí “dừng ở đây là bức vách. Không phải tai vách mạch rừng”. Vì dừng là một bộ phận của vách, vách là bộ phận của ngôi nhà, nơi (theo nghĩa đen) hai người trao đổi chuyện bí mật, riêng tư… Nếu nói “Tai vách, mạch rừng” thì một là bức vách, một là cái mạch gì đó tận trên rừng thì nghe thật vô lí” [tr.21]. Rõ ràng cái bẫy duy lí tưởng chừng có lí về quan hệ giữa “vách” và “dừng” (giống như quan hệ thúng/ mê mà Lê Đức Luận đã cãi Hoàng Tuấn Công) đã làm anh mắc kẹt trong cái vô lí mà anh đã phê bình cụ Nguyễn Lân ở câu “Rút dây động dừng”. Anh hỏi “dứt dây gì ở bức vách?” trong câu “Bứt dây động rừng”, trong khi người ta cũng có quyền hỏi “mạch” gì ở trong bức vách trong câu “Tai vách mạch dừng”? Anh dẫn tục ngữ Hán “Tưởng hữu phùng, bích hữu nhĩ” mà quên tục ngữ Việt: “Rừng có mạch, vách có tai”. Hai vế tách biệt, không cần theo quan hệ “dừng là một bộ phận của vách, vách là bộ phận của ngôi nhà” mà vẫn có nghĩa. Đơn giản thế này, rừng có mạch, vách có tai, anh nói chuyện bí mật ở đâu cũng có thể bị người ta nghe được. Nhiều trường hợp tục ngữ, thành ngữ không thể chẻ hoe ra từng vế hay từng từ mà diễn nghĩa được.

Tất nhiên, trong giới hạn của bài viết, tôi chỉ đưa ra vài ví dụ, việc góp ý cho toàn quyển sách lại cần thời gian và trong một bài viết khác. Ở đây tôi chỉ muốn vạch ra cho chị Nghiêm Thúy Hằng thấy cái điều chị dạy người khác: “Phàm là làm việc gì cũng nên cẩn trọng, thấy vậy mà không phải vậy” là như tôi đã phân tích trong toàn bài chứ không phải như chị nghĩ trong đầu rằng, người ta phê cụ Nguyễn Lân là thiếu “lương tri” và không “cẩn trọng”!

Chu Mộng Long

(FB. Chu Mộng Long)
TTHNO

9 tháng 9, 2017

Múa ballet khỏa thân



Thư ngỏ gửi ông Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng

Trần Thị Thảo (VNTB) Bất cứ người dân nào dám chống lại Tàu cộng xâm lược: nhẹ thì bị đánh đập, câu lưu, nặng thì ở tù.

Hà nội ngày 6 tháng 9 năm 2017

Thưa ông Tổng Bí thư : 
CHÍNH ĐẢNG CỘNG SẢN VN ĐÃ LÀM TÊ LIỆT Ý CHÍ QUẬT CƯỜNG CỦA DÂN TỘC. 
– Tháng 5/2014 khi Trung Quốc đưa giàn khoan 981 xâm phạm lãnh hải thì lập tức hàng ngàn người ở Hà Nội và Sài Gòn rầm rộ xuống đường, họ đã dương cao khẩu hiệu phản đối Tàu cộng xâm lược. Nhưng cũng ngay lập tức, nhà cầm quyền đã điều động tất cả các lực lượng đến để đàn áp và dập tắt phong trào phản kháng của nhân dân. Ngay tại các cuộc biểu tình và những ngày sau đó, công an đã bắt bớ, đánh đập & bỏ tù rất nhiều người yêu nước. 
– Ngày 4 & 5/11/2015 nghe tin Tập Cận Bình sang “ thăm” VN thì nhiều người yêu nước ở cả hai miền Nam Bắc đã tập trung trước cổng Đại Sứ Quán ở HN và Lãnh Sự Quán ở Sài Gòn dương cao biểu ngữ đòi họ Tập đừng vác mặt đến HN, đòi Tập phải trao trả Hoàng Sa, Trường Sa cho VN …Thế rồi nhà cầm quyền lại ra tay bắt bớ, đánh đập, giam cầm nhiều người yêu nước.
– Đầu tháng 3/2016, Formosa xả chất độc xuống biển làm cả vùng biển của 4 tỉnh miền Trung bị ô nhiễm nặng nề. Ngay khi vừa xảy ra vụ việc thảm khốc này thì hàng vạn người ở khắp nơi đã đứng dậy phản kháng. Nhưng lại một lần nữa nhà cầm quyền đã dùng bàn tay sắt để bóp chết những ai chống lại Formosa. Cho đến nay đã hơn một năm trôi qua, nhưng sự bắt bớ, đánh đập, bỏ tù những người yêu nước & giáo dân vẫn tiếp diễn không ngừng.
– Cùng với việc trấn áp bằng bạo lực thì nhà cầm quyền không ngừng tuyên truyền, đầu độc dân bằng những luận điệu vu khống, xảo trá như : Những người xuống đường là những người bị thế lực thù địch mua chuộc, xúi giục, được Việt Tân cho 200 000 đ/ người. Những người bị bắt và ở tù là những kẻ phản động đòi lật đổ chính quyền + phá rối trật tự trị an…
Tóm lại: Bất cứ người dân nào dám chống lại Tàu cộng xâm lược: nhẹ thì bị đánh đập, câu lưu, nặng thì ở tù.
Tất cả những sự việc kể trên do vừa mới xảy ra trong mấy năm gần đây nên được nhiều người chứng kiến. Nhưng nếu nhìn ngược về lịch sử, bắt đầu từ năm 1945 cho đến nay thì một đường lối nhất quán, xuyên suốt của đảng rất dễ nhận thấy, đó là : NGU ĐỂ TRỊ + BÀN TAY SẮT. Vì vậy dẫn đến: phần lớn dân tình đều vô cảm, u mê & sợ hãi. Thêm vào là sự gia tăng bắt bớ quá nhiều những nhà tranh đấu và gán cho họ những án tù quá nặng nề.
Đó chính là những lý do cơ bản trả lời cho câu hỏi: “Tại sao khi một tên tướng của Tàu cộng đứng giữa Ba Đình tuyên bố: Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc. Rồi mới đây Trung Quốc cho quân tập trận ở Biển Đông, chỉ cách Đà Nẵng có 139 km mà không thấy xuất hiện một cuộc xuống đường nào phản đối?”
Nhưng đảng chớ vội mừng khi thấy tình hình yên ắng như vậy. Với tư cách một công dân yêu tha thiết quê hương đất nước VN, tôi “xin” thưa với đảng mà đứng đầu là ông Nguyễn Phú Trọng rằng: khi người dân im lặng, thờ ơ, vô cảm với những điều khốn nạn mà Tàu cộng đang thực hiện trên lãnh thổ VN và dân thờ ơ với những hành động bán nước của các ông thì đó là điềm xấu, báo hiệu vận mệnh đất nước đã “ngàn cân treo sợi tóc” và chắc chắn một điều: đảng sẽ không bao giờ huy động được lực lượng nhân dân trong mọi trường hợp, bởi dân đã thấy mọi sự hy sinh của họ là vô ích.
Vậy thưa ông: Chính ông & cái đảng của ông đã làm tê liệt ý chí quật cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc VN.
Kính chúc ông nhiều sức khỏe để dẫn dắt dân VN nhanh chóng trở thành thuộc địa kiểu mới của Bắc kinh.
Trần Thị Thảo 
Phòng 408 – K10B- phường Bách Khoa – quận Hai Bà Trưng – Hà Nội 
Số Tel : 0981 027 336.
CUỐI CÙNG, HỌC GIẢ LÃO THÀNH AN CHI ĐÃ LÊN TIẾNG
Học giả lão thành An Chi. Ảnh: FB An Chi.
Từ điển phải là khuôn vàng thước ngọc 
Tuổi trẻ
05/09/2017 10:47 GMT+7
TTCT - Từ điển phải là khuôn vàng thước ngọc. Dứt khoát phải như thế.
Nhưng đó chỉ là nguyên tắc chứ trong thực tiễn thì nói chung, từ điển, dù có hoành tráng đến đâu, cũng khó lòng có thể tránh được sai sót một cách tuyệt đối.
Rất nhiều kiểu sai
Hoành tráng đến như Grand Larousse encyclopédique en 10 volumes (1963) mà còn lấy ảnh ông Phạm Văn Đồng để minh họa cho mục “Vô Nguyen-Giap” (Võ Nguyên Giáp), như chúng tôi đã chỉ ra ngày nào trên Kiến Thức Ngày Nay số 335.
Đồ sộ đến như The Encyclopedia of language and Linguistics (10 vols), do R. E. Asher làm tổng chủ biên (Pergamon Press, First Edition 1994) mà còn ghi chú “mệnh” [命] là density (tỉ trọng) thay vì destiny tại mục “Vietnamese Writing System” (Vol. 9, p. 4935).
Nhưng cái sai của hai bộ đại từ điển trên đây có nhiều phần chắc chắn không phải do lỗi của người soạn thảo mà do khâu trình bày.
Còn sai hoặc thiếu ý do biên soạn thì danh tiếng đến như từ điển của Oxford cũng đâu có tránh khỏi, như chúng tôi đã nêu trên Kiến Thức Ngày Nay số 232 và đặc biệt là trên số 143 về danh từ canary.
Danh từ này được Oxford Advanced Learner’s Dictionary giảng là “a small yellow bird with a beautiful song, often kept in a cage as a pet” (chim nhỏ màu vàng, có tiếng hót hay, thường nhốt trong lồng làm [chim] kiểng). Dưới đây là nhận xét của chúng tôi:
“Ai có chơi yến (canary) cũng có thể thấy đây là một định nghĩa không chính xác vì ngoài những con yến màu vàng, còn có những con màu trắng, những con màu saumon, những con màu ardoise, những con màu agate, những con màu isabelle, những con màu vert, những con màu rouge intensif...;
thậm chí bây giờ người ta còn muốn tạo ra những con yến màu đen! Phó từ thường (often) trong định nghĩa trên đây cũng thừa vì chẳng có con yến nào mà lại không được nuôi trong lồng, vì người ta chẳng bao giờ thả yến như thả bồ câu hoặc thả sáo, thả cưỡng”.
Thế nhưng, nếu cái sai của người chỉ là cá biệt, ít ỏi thì của ta lại ồ ạt, tràn lan. Nội dung của từ điển không chỉ yêu cầu sự uyên bác về chuyên môn mà còn đòi hỏi tác giả phải có một vốn sống phong phú, thường là khó đáp ứng được trọn vẹn cho sự hoàn hảo của công trình.
Vì thế cho nên việc điều tra hoặc tra cứu thấu đáo phải là những thao tác quen thuộc, thường xuyên của từ điển gia.
Về mặt này thì tác giả của mục canary trong từ điển Oxford thua hẳn những người chơi chim. Năng lực chuyên ngành cao đến đâu mà vốn sống thực tế lại nghèo nàn thì nội dung của lời giảng cũng khó mà đầy đủ hoặc tuyệt đối chính xác.
Tiến sĩ ngôn ngữ học chuyên về địa danh mà không có thực tế về địa chỉ hoặc địa phương mình muốn giới thiệu thì cũng sai sót như thường.
Chẳng thế mà quyển Từ điển thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh do Lê Trung Hoa đồng chủ biên (Nxb Trẻ, 2001) lại có không ít sai sót về mặt này mà sau đây là một thí dụ. Tác giả của mục từ đã viết: “Yểm Yểm thư quán (Nxb). Nhà sách kiêm xuất bản. Năm thành lập: 1970. ĐC: 72 Trần Văn Thạch, SG” (tr.886).
Ở đây có bốn chỗ sai. Thứ nhất, tên của hiệu sách này là “Yiễm Yiễm thư quán” (“viết Yiễm Yiễm, đọc Diễm Diễm”, theo lời giải thích của chủ nhân) chứ không phải là “Yểm Yểm”.
Thứ hai, đây không phải là nhà xuất bản mà chỉ là một chi nhánh của Yiễm Yiễm thư trang, 113-115 Kitchener (nay là đường Nguyễn Thái Học), do ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết chủ trương.
Thứ ba, ngay cả Yiễm Yiễm thư trang cũng không phải là nhà xuất bản mà lại là nơi phát hành của Nhà xuất bản Bốn Phương, cũng do ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết làm chủ.
Thứ tư là về thời điểm thành lập thì các nhà biên soạn cũng đi trễ gần hai thập kỷ vì Yiễm Yiễm thư quán thành lập hồi thập kỷ 1950 chứ không phải năm 1970.
Ấy là ta còn chưa nói đến chuyện tuy có kiến thức chuyên sâu nhưng không có tinh thần trách nhiệm thì công trình cũng đầy rẫy sai sót, như Dictionarium Anamitico Latinum của Pierre Pigneaux de Béhaine do Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu (NXB Trẻ, 1999), thì phần dịch từ tiếng Latin sang tiếng Việt có quá nhiều chỗ sai mà chúng tôi đã nêu lên 100 trường hợp trên tạp chí Thông Tin Khoa Học & Công Nghệ Thừa Thiên - Huế, số 3-2000.
Hoặc không biết kiến thức chuyên môn sâu đến đâu và tinh thần trách nhiệm của họ thế nào mà quyển Ngũ thiên tự do Vũ Văn Kính và Khổng Đức nhận mình là người biên soạn cũng đầy rẫy sai sót về nhiều mặt, như chúng tôi đã nêu lên 118 trường hợp, cũng trên tạp chí của Thừa Thiên - Huế, số 2-1997.
Quyển Việt sử diễn âm do PGS.TS Nguyễn Tá Nhí sưu tầm, giới thiệu và biên dịch (NXB Văn Hóa Thông Tin, 1997) thì lại có quá nhiều sai sót trong “biên dịch” và chú giải, như chúng tôi đã chỉ ra trên Kiến Thức Ngày Nay số 261 (20-10-1997).
Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng không tránh khỏi nhiều sai sót loại đó. Bộ từ điển này quy tụ rất nhiều nhà chuyên môn mà danh tính được liệt kê trong những danh sách dày đặc cho từng chuyên ngành nhưng rất tiếc là có “chuyên gia” lại phạm sai lầm sơ đẳng, như tác giả của mục sau đây tại tr.359, tập 2:
“Hổ phù (tiếng Sanskrit: Râhu), linh vật trong huyền thoại Ấn Độ. Hổ phù vốn là quỷ, do sự phát hiện của thần Mặt Trời, Mặt Trăng mà bị Visnu (Vishnu) chặt đứt làm đôi, nửa trên là Hổ Phù, nửa dưới là Kế Đô (Kétu)”.
Chỉ cần nói rằng “hổ phù” [虎符] là một khái niệm của Trung Hoa còn rāhu lại là một khái niệm của Ấn Độ thì ta đã có thể biết được trình độ của vị chuyên gia này như thế nào rồi (lẽ ra từ điển phải ghi danh tính của anh ta ở cuối mục).
Không biết có phải của cùng một chuyên gia hay không mà mục sau đây cũng quái dị không kém khi ghi chú cho mục “Long” như sau: “(Sanskrit: Naga), loài rồng”. “Long” là rồng của Trung Hoa, còn nāga là rắn của Ấn Độ thì hai bên có liên quan gì với nhau?
Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa từ Trung Hoa nên kiến trúc của chùa thường có trang trí hình rồng, còn Campuchia chịu ảnh hưởng của Phật giáo Tiểu thừa nên chùa của họ thường trang trí hình rắn. Danh từ nāga của tiếng Sanskrit có bao giờ có nghĩa là rồng?
Thật đáng phẫn nộ là có nhiều vị ăn theo những công trình lớn như trên để làm hại ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc.
Ấy thế nhưng ở ta lại còn có một cái tệ rất tệ là nể nang nhau, cụ thể là không dám nêu rõ những cái sai của nhau nên sai sót cứ tồn tại dài dài, như chuyện pre và proto dưới đây:
Pre là “tiền”  trước) còn proto là “nguyên sơ”  ban đầu). Thế nhưng trên 30 năm nay, ngành ngữ học của Việt Nam, dẫn đầu còn có cả GS Nguyễn Tài Cẩn, chuyên dịch proto thành “tiền”, chẳng hạn proto Việt Mường là “tiền Việt Mường”, proto Việt Chứt là “tiền Việt Chứt”...
Họ hoàn toàn không phân biệt rằng hễ nói pre-X là nói đến một cái có trước X và nằm ngoài X; còn hễ nói proto-X là nói đến chính X ở giai đoạn ban sơ. Làm khoa học mà không đếm xỉa đến những chuyện tế nhị nhưng trọng đại như thế thì rất nguy hiểm.
Về sai lầm và cốt cách của người làm khoa học
Hồi nhà ngữ học kiệt xuất Cao Xuân Hạo còn sống, khi ông thẳng thắn vạch trần những cái sai của một nhân vật trong giới ngữ học và giới đại học thì một số người có vai vế của Viện Ngôn ngữ học khuyên ông đừng làm thế.
Đó hiển nhiên không phải là cách hành xử của nhà khoa học chân chính. Làm khoa học không phải là “nhường nhịn” nhau về chuyên môn để giữ ghế.
Phương châm chính và xuyên suốt của người làm khoa học là “tránh sai lầm”, nhưng khi mình thực sự có sai lầm mà sai lầm đó lại được người khác chỉ ra giúp thì mình phải tỉnh ngộ và còn phải cảm ơn người đó nữa là đằng khác. Đằng này...
Trong công việc của mình, có ba lần chúng tôi nhận xét về từ điển của tác giả Nguyễn Lân và cả ba lần chúng tôi đều được cụ mắng mỏ.
Lần đầu tiên là trên Kiến Thức Ngày Nay số 277 (10-4-1998). Chúng tôi đã nhận xét về câu “Áo cứ chàng, làng cứ xã” trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của cụ, rồi cũng bị cụ mắng là "vô văn hóa".
Nhưng chúng tôi không hề lấy thế làm phiền lòng mà còn cảm thấy vui vui vì biết rằng tác giả là người từng được tôn sùng, xưa nay chưa được ai “gãi ngứa” nên khi được gãi thì giãy nảy lên là chuyện bình thường.
Nếu cần đặt tay lên lương tâm để tự vấn thì chúng tôi xin thẳng thắn nói rằng mình không hề giận cụ Nguyễn Lân. Nhưng những cái sai, rất nhiều, trong từ điển của cụ thì nhất thiết phải được vạch rõ.
Cũng từng có người làm, mà Lê Mạnh Chiến là một người khảng khái và kiên quyết. Nhưng có vẻ như vẫn chưa “đủ đô” đối với một số khá đông độc giả, và cả nhiều nhà chuyên môn.
Vậy phải có một cái gì đó thật hoành tráng thì mới lay động được thật dữ dội cái tệ sùng bái cá nhân rất có hại cho học thuật.
Cái gì đó đã đến: quyển sách khổ 16x24cm, dày 570 trang của Hoàng Tuấn Công nhan đề Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân - Phê bình và khảo cứu, do Phương Nam Books và NXB Hội Nhà Văn vừa ấn hành 2.000 bản.
AN CHI
Đoàn Lê Giang
(PGS. TS Ngữ văn, ĐH KHXH và NV tp HCM)

LỜI CẢNH CÁO CÁC NHÀ HỌC PHIỆT

Bài này đăng Tuổi trẻ cuối tuần (10.9.2017), FB Nguyễn Thanh Lợi có chụp đưa lên. Tôi thấy bản chụp khó đọc, hơn nữa TTCN cẩn thận quá, biên tập rất kỹ, bên cạnh những chỗ chỉnh sửa hợp lý thì đã bỏ đi nhiều chỗ có vẻ đụng chạm, thành ra ý tưởng của người viết không được liền mạch. Tôi xin đưa lại bản word ở đây cho mọi người dễ đọc, bản này vẫn còn nguyên những đoạn diễn giải, lập luận, đọc nó người ta có thể thấy bài viết có vẻ liền mạch, dễ hiểu hơn. Tôi không thuộc phe nào, tôi không có ý riêng gì ở đây, tôi chỉ muốn đời sống học thuật lành mạnh, đúng sai rõ ràng, dân chủ, công khai. Trong khoa học không chấp nhận thái độ "cha chú", "danh gia vọng tộc", hay "học phiệt" như cách nói của Phan Khôi. 

***** 

LỜI CẢNH CÁO CÁC NHÀ HỌC PHIỆT

Giáo sư Nguyễn Lân là một tên tuổi lớn trong làng chữ nghĩa, nhất là về phương diện từ điển. Đọc lý lịch của ông, thấy những nơi ông từng học, từng làm việc, ai cũng phải kiêng nể: tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương (đồng môn với các Giáo sư Đặng Thai Mai, Hoàng Ngọc Phách, Ca Văn Thỉnh…), từng giảng dạy văn sử ở trường Thăng Long, Chu Văn An (Hà Nội), Quốc học (Huế), từng học ở khu học xá Quảng Tây, Trung Quốc, từng dạy Đại học Sư phạm Hà Nội từ ngày đầu thành lập, từng được phong là Nhà giáo nhân dân…

Sai sót đã được chỉ ra từ lâu

Các công trình để lại của ông cũng thật đáng nể: Nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ từ 1941, tham gia biên soạn cuốn từ điển tiếng Việt nổi tiếng nhất ở miền Bắc trước 1975: Từ điển tiếng Việt do GS Văn Tân chủ biên (1967), nhất là ông là tác giả của hàng chục cuốn từ điển nổi tiếng: Muốn đúng chính tả (1949), Từ điển chính tả phổ thông (1963, viết chung), Từ điển từ và ngữ Hán - Việt (1989), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989), Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2000)… Các công trình về giáo dục học và từ điển tiếng Việt của ông được Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2001. 

Thế nhưng ngay từ khi từ điển của Nguyễn Lân ra đời không lâu thì đã có phản ứng của giới học thuật. Trên tạp chí Văn ở TP Hồ Chí Minh, số 6, tháng 9 và số 8, tháng 11 năm 2000, Huệ Thiên trong bài viết Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, mới chỉ “đọc lướt’’ các vần A, B, C (chiếm 1/5 quyển sách) mà đã chỉ ra 117 mục từ sai. Tiếp đó Lê Mạnh Chiến chỉ ra 170 sai lầm trong một cuốn từ điển để đăng nhiều kỳ trên tạp chí Thế giới mới… và nhiều bài phê bình khác nữa. 

Thay vì trả lời nghiêm túc và chỉnh sửa những chỗ sai, thì Giáo sư Nguyễn Lân lại phủ nhận tất cả các ý kiến của nhà nghiên cứu Huệ Thiên, cho nó là sai lệch và từ nào cũng mắc sai lầm cả, mà không chỉ ra sai lầm chỗ nào. Đối với bài viết của Lê Mạnh Chiến cũng vậy, những người thuộc “phe” cụ đã có những tác động ngoài học thuật: khiến cho tạp chí Thế giới mới đã đăng được 6 kỳ (từ số 582 ra ngày 26/4/2004 đến số 587 ra ngày 31/5/2004), mới nói được 67/ 170 lỗi thìbị dừng lại. Sau đó Lê Mạnh Chiến đã phải đăng bài ở tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (Thừa Thiên-Huế) với tiêu đề Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt. Bài viết được tạp chí Văn hóa Nghệ An số 56 (tháng 01/2005) đã đăng lại sau đó. 

Mặc dầu đã có một số người vạch ra chỗ sai một cách cụ thể với số lượng rất lớn như thế, nhưng các nhà xuất bản vẫn liên tục in ra với số lượng lớn: Từ điển từ và ngữ Hán Việt được NXB. TP. Hồ Chí Minh in năm 1989, tái bản 1999; NXB. Từ điển Bách khoa in lại, 2002; NXB. Văn học tái bản 2003, 2007; Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, xuất bản lần đầu năm 1989, NXB. Khoa học xã hội tái bản năm 1993; riêng NXB. Văn học, năm 2003 tái bản lần thứ nhất, sau đó liên tục các năm 2014, 2015, 2016, 2017 tái bản tổng cộng đến gần 10.000 cuốn;Từ điển từ và ngữ Việt Nam NXB. Tổng hợp TP.HCM xuất bản lần đầu năm 2000, tái bản 2006; Muốn đúng chính tả, Thịnh Đức xuất bản, 1949; NXB. Văn hóa Thông tin tái bản 2010, 2012…

Hoàng Tuấn Công lên tiếng 

Trước tình hình ấy Hoàng Tuấn Công đã viết hàng loạt bài chỉ ra những sai sót trong các công trình từ điển của Giáo sư Nguyễn Lân của đăng trên Blog Tuấn Công thư phòng và được nhà văn Nguyễn Quang Lập đưa lên Blog của mình. Vừa qua các bài viết ấy đã được biên tập, sắp xếp lại thành quyển sách Từ điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu, NXB. Hội Nhà văn và Công ty Sách Phương Nam xuất bản quý 3 năm 2017 vừa rồi. Đọc sách của Hoàng Tuấn Công, người ta không thể tin nổi từ điển của GS Nguyễn Lân lại sai nhiều, sai rõ ràng như vậy! 

Quyển sách dày 676 trang khổ 16x24 cm sửa chữa hàng ngàn lỗi trongTừ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Muốn đúng chính tả của GS. Nguyễn Lân. Với mỗi mục từ giải thích sai, Hoàng Tuấn Công đều trưng ra các cách hiểu đúng trong các từ điển uy tín khác, bằng tiếng Việt cũng như tiếng Hán hay ngoại ngữ khác, rồi biện luận nó. Xin đưa vài ví dụ dễ thấy nhất và chỉ ở 3 mục A, B, C:
 
NL: Ái nam, ái nữ. Có cả hai bộ phận sinh dục ngoài của nam và nữ.

HTC: Nếu theo cách mô tả của GS Nguyễn Lân có lẽ đây là một ca sinh đôi có “cả hai bộ phận sinh dục ngoài” của một người nam và một người nữ nhưng chung một cơ thể chăng? Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức “Ái nam. Tiếng gọi đàn ông hay đàn bà không đủ bộ phận sinh dục. Có khi gọi ái nam, ái nữ, cũng là người bán nam, bán nữ”. Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê giải nghĩa: “Ái nam, ái nữ. Có bộ phận sinh dục ngoài không giống của nam, cũng không giốngcủa nữ”. Như vậy cách “hình dung” về bộ phận sinh dục người ái nam, ái nữ của soạn giả không đúng và nghe thật đáng sợ !

NL: Anh hùng nhất khoảnh (khoảnh: thời gian ngắn) Nói người tự cho mình là hơn cả mọi người trong một thời gian: Ở bến xe có tên lưu manh tự mình cho là anh hùng nhất khoảnh.

HTC: Chữ “khoảnh” trong câu thành ngữ gốc Hán này tự dạng là (頃), có nhiều nghĩa: khoảng ruộng 100 mẫu; thoáng chốc, khoảnh khắc… Ở đây, khoảnh (nghĩa đen = khoảng rộng 100 mẫu) được hiểu là một vùng, một địa phận, khu vực (chỉ không gian) chứ không phải khoảnh khắc (chỉ thời gian) như GS lầm tưởng. Thành ngữ nói kẻ chỉ (dám) xưng hùng, xưng bá, làm mưa làm gió trong một khu vực nhất định. Cái “bến xe” mà tên lưu manh tự xưng anh hùng trong câu dẫn chứng của GS chính là“nhất khoảnh” (chỉ không gian) đấy thôi.

NL: Âm phủ (âm: chết; phủ: dinh thự) Chỗ người chết ở theo mê tín.

HTC: Sai ! Ở đây “âm” là thế giới của người chết chứ không phải “chết”, “phủ” là là cõi chứ không phải “dinh thự”.

NL: Bất chắc. Không chắc nhưng có thể cũng sẽ diễn ra: Phòng khi bất chắc dụng binh (Tú-mỡ)

HTC: Người Việt chỉ nói không chắc chứ không dùng kết hợp từ: bất (không) + chắc (chắc chắn) = không chắc. Hơn nữa, soạn giả đã lẫn lộn giữa bất chắc (từ do tự GS Nguyễn Lân nghĩ ra) có nghĩa không chắc và bất trắc với nghĩa không lường được trong câu thơ của Tú Mỡ. Sai sót này xuất phát từ lỗi phát âm không phân biệt “ch”và “tr” dẫn đến lỗi chính tả, và cuối cùng là lỗi từ vựng của chính người làm từ điển.

NL: Cầm cương nảy mực (Cầm cương ngựa và nảy mực lên mặt gỗ để cưa). Điều khiển và chỉ dẫn những người dưới quyền làm theo: Trong những năm Hồ Chủ tịch cầm cương nảy mực.

HTC: Nhầm lẫn. Cầm cân chứ không phải “cầm cương”. Có lẽ GS cho rằng người cầm cương điều khiển để con ngựa rẽ theo ý muốn, còn người nảy mực nảy lên mặt gỗ để chỉ dẫn thợ mộc cứ thế làm theo? Thế nhưng người ta dùng chiếc cân để so sánh với công lý, và nảy mực tàu được ví với cách làm thẳng thắn, khách quan, không thiên, không lệch (có câu Thẳng mực tàu làm đau lòng gỗ là vậy). Hai vế của thành ngữ đều nói về sự thẳng thắn, công bằng, không thiên, không lệch, chứ không phải nói về sự dẫn đường chỉ lối. Cũng nên lưu ý soạn giả: người ta chỉ nảy mực lên mặt gỗ để xẻ (dọc) cho thẳng. Còn “cưa” (ngang) không ai nảy mực làm gì.

NL: Cử tọa (cử: cất lên; tọa: ngồi) Tất cả những người dự một buổi họp: Lời tuyên bố đó khiến cử tọa vỗ tay như pháo nổ.

HTC: Ở đây Giáo sư giảng sai nghĩa của cả hai từ “cử” và “tọa”. Cho dù đều có tự dạng là舉, nhưng chữ “cử” trong cử tọa nghĩa là hết thảy, tất cả chứ không phải là “cất lên”. Ví như cử quốc = cả nước (Hán Việt tự điển - Thiều Chửu) Hán Việt tự điển-Trần Văn Chánh giải nghĩa chữ “cử”: “Cả, khắp, tất cả đều, mọi, hết thảy mọi người: 舉座 Tất cả những người dự họp; 舉國歡騰 Khắp nước tưng bừng”. Thứ hai, chữ “tọa” (座) đây là chỗ ngồi chứ không phải chữ “tọa” (坐) là “ngồi”. 

Về chính tả, sách GS. Nguyễn Lân sai sơ đẳng quá, không hiểu nổi: 

Trỗi dậy, Từ điển Nguyễn Lân dạy viết (sai) là: Chỗi dậy; Rớm máu, sai thành: Dớm máuQuyến rũ, sai thành Quyến dũ; Sàm sỡ, sai thành:Xàm xỡ; Sặc sỡ, sai thành Xặc sỡ; Màu sẫm, sai thành Màu xẫm; Con rạ, sai thành Con dạ; Xơ cứng, sai thành Sơ cứng; Muỗi như trấu, sai thành Muỗi như chấu; Nõ điếu, sai thành Lõ điếu v.v.

"Học phiệt" - chuyện xưa nay

Tại sao cụ sai nhiều như vậy? Theo tôi nghĩ có ít nhất 4 nguyên nhân:

(1) Cụ không có mẫn cảm về ngôn ngữ nhưng vẫn làm từ điển, cụ không rành chữ Hán mà vẫn làm từ điển từ ngữ Hán - Việt. Làm từ điển tiếng Việt mà không rành chữ Hán là tử huyệt của nhiều người làm ngôn ngữ ở nước ta;

(2) Thiếu cẩn trọng: thực ra thì trước và cùng thời với từ điển của Nguyễn Lân đã có không ít từ điển tiếng Việt tốt, nếu cụ cẩn trọng tra cứu, chỗ nào không rành thì chép của người ta cũng không đến nỗi sai;

(3) Thiếu kỹ năng làm từ điển: thực ra làm từ điển là một ngành học, phải có hiểu biết nhất định về từ điển học mới có thể làm từ điển được;

(4) Thiếu một thái độ cầu thị: khi người ta chỉ ra sai lầm của mình thì cần nghiêm túc xem xét lại, không được tự ái, cái gì sai thì nhận, cái gì đúng thì trao đổi lại cho rõ. 

Thiếu những phẩm chất ấy mà vẫn làm từ điển nên mới sai như vậy. Không thể nói tôi yêu tiếng Việt nên tôi làm từ điển. Yêu, nhưng anh có đủ năng lực để yêu không? Không phải ai cứ yêu tiếng Việt rồi ngồi làm từ điển. Cũng không thể nói cụ làm từ điển lúc cụ trên 90 tuổi rồi, nên sai. Nếu đã 90 rồi thì tốt nhất các cụ nên vui hưởng tuổi già, tưới cây, chơi với cháu chắt, ai bắt các cụ ngồi làm từ điển làm gì cho khổ mình khổ người. 

Để bênh vực cụ, có những quan chức trong ngành xuất bản còn nói như những người ngoại đạo hoàn toàn: “Chỉ có nhân dân mới hiệu chỉnh, còn nhà khoa học này không thể hiệu chỉnh nhà khoa học khác mà chỉ có thể trao đổi” (!) (Cục trưởng Cục xuất bản – in và phát hành Chu Văn Hòa trong trả lời phỏng vấn của VOV ngày 11-8-2017). Chúng ta đều biết nhân dân là một khái niệm trừu tượng, làm sao sửa? Trong khoa học có sai có đúng, có những cái sai chỉ những người có chuyên môn sâu về lĩnh vực ấy mới hiểu được, nhưng cũng có cái sai mà người có hiểu biết ở trình độ phổ thông cũng hiểu, thậm chí có những cái sai thì học sinh cũng có thể sửa được (như trường hợp sai chính tả). 

Trong khoa học hay trong đời sống cũng vậy, không ai biết hết được, sai thì sửa, không nên tự cao tự đại, tự ái: mình chỉ có đúng, không ai sửa được mình, hay mấy người kia trẻ con biết gì! 

Năm 1930 trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi lúc bấy giờ mới hơn 40 tuổi, đã viết bài Cảnh cáo các nhà “học phiệt” nhắm tới Phạm Quỳnh, một học giả lừng danh bấy giờ, ông viết: “Học phiệt” là “Hạng người ấy ỷ có học rộng, tri thức nhiều, văn hay, trí thuật cũng khá, rồi tự coi mình như là bậc “thầy”, chẳng kể dư luận ra chi. Đã hay rằng mình giỏi, song thế nào cho khỏi sự sai lầm, vậy mà họ tự phụ quá, cứ mạt sát hết. Ừ, cái dư luận nào không chánh đáng, họ mạt sát chẳng nói làm chi; cái nầy, khi người ta công kích họ một cách chánh đáng, mà họ cũng làm thinh. Làm thinh, không phải tỏ ra là họ phục; nhưng làm thinh, tỏ ra là họ không thèm nói với, thế mới đáng ghét. Tôi dâng cho họ cái huy hiệu “học phiệt”, lấy nghĩa rằng họ có ý kế nghiệp nhau mà chuyên quyền trong học giới, cũng như bọn “quân phiệt”, đã nối nhau mà chiếm cứ đất đai và quyền chánh trị bên Tàu.” (Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 62 ngày 24.7.1930). 

Công trình Từ điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu của Hoàng Tuấn Công không phải không có sai sót, không phải không ít chỗ phải bàn lại, nhưng điều đáng ghi nhận là ở thái độ khoa học sòng phẳng. Công trình này đã làm được công việc như Phan Khôi nói trước kia: cảnh cáo các nhà “học phiệt” - trong khoa học, chỉ có đúng sai, không có chỗ cho học phiệt, nhờ thế nhận thức của con người mới tiến lên. 

Nếu Giáo sư Nguyễn Lân còn sống, tôi không nghĩ cụ là “học phiệt”, mà chắc cụ sẽ trả lời các phê bình. Nhưng những người bênh vực cụ không phải bằng lý lẽ mà bằng sự im lặng, hay phản bác trịch thượng, thì làm sao tránh được sự cảnh cáo kia?

Đoàn Lê Giang 
(Trường ĐH KHXH và Nhân văn – ĐHQG-HCM)
Tuổi trẻ cuối tuần ngày 10/9/2017 đã đăng sau khi biên tập lại.
------------------------------
Đoàn Lê Giang

HAI TỪ LIỀN NHAU CỤ LÂN GIẢI NGHĨA SAI CẢ HAI 

Trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân – NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh – 2006), mục “hàn mặc” và ngay dưới đó "hàn nho", tác giả Nguyễn Lân giải thích như sau (không chụp ảnh thì không ai tin):

- “hàn mặc • dt. (H. hàn: lạnh, nghèo khổ, mặc: mực.- Nghĩa đen là bút mực) Văn chương (cũ)

- "hàn nho, dt, (H. hàn: ngọn bút; nho: nhà nho) Học trò nghèo..." 


Ý kiến của tôi: Cả hai từ cụ giảng sai cả hai: 

Chữ Hàn mặc 翰 墨, thì Hàn: bút; mặc: mực. Hàn mặc là bút mực, chỉ văn chương. 

Chữ Hàn nho 寒 儒, thì Hàn: lạnh, nghèo; nho: nhà nho. Hàn nho là nhà nho nghèo.

Cụ giảng lộn tùng phèo. May mà cháu không học cụ, may là cháu không dùng từ điển cụ. TĐ của cụ thế này khiến cho tôi nghi ngờ: không lý cụ NL không biết chữ Hán? 

Từ đây đặt ra câu hỏi: trình độ thẩm định của biên tập viên như thế có được phép biên tập từ điển không? Và NXB nào mới được phép in từ điển? Không trả lời được câu hỏi này thì chúng ta còn tiếp tay cho di hại văn hóa? Trước kia có NXB khá nổi tiếng in Từ điển Vũ Chất trở thành "thảm họa từ điển" (anh Chu Mộng Long đã từng phê bình gay gắt), nay thì nhiều nhà in từ điển Nguyễn Lân!

Sai quá! Có người đề nghị thu hồi từ điển NL. Tôi thì hiền hơn: đề nghị các NXB nào lỡ in rồi thì rút ở các hiệu sách lại và công bố đổi từ điển NL lấy từ điển của Viện Ngôn ngữ, ai không chịu thì hoàn tiền lại.