8 tháng 9, 2017

Tâm tình với nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng về việc G.S Tương Lai ra khỏi Đảng


Nguyễn Thị Thanh Bình: Thưa nhà báo, nhà văn, T.S kinh tế Phạm Chí Dũng, cho phép xin được “tra tấn” thêm một chuyên viên trả lời phỏng vấn rất tinh tế và thành thật như anh. Chắc anh đã nghe, đã thấy và cũng không lạ gì với tình trạng hỗn mang tranh sáng tranh tối của giới đấu tranh cho dân chủ tự do, và nhân quyền lúc này. Do đó hy vọng cuộc trò chuyện này được mở ra trong tinh thần xây dựng, có lý có tình hơn là sẵn sàng bôi bác, thành kiến và đào sâu thêm những hố thẳm chia rẽ, ngăn cách.

Ông Lê Hiếu Đằng (áo sậm, phải) - một người cộng sản đã tuyên bố từ bỏ đảng vào tháng 12 năm 2013
Thường thì khi đảng viên sắp hoặc đã về hưu trí, có chữ “nguyên” đi kèm đánh dấu mọi sự ngừng sinh hoạt, cũng có thể cả đảng phái của họ, thì những đảng viên ấy mới dám phản tỉnh bằng cách nộp đơn ra khỏi Đảng, vậy điều gì đã khiến họ phải “ngâm tôm” nỗi bứt rứt trăn trở của mình suốt năm tháng dài để cuối cùng mới dám đưa ra quyết định hẳn là rất nhiêu khê khó khăn ấy? Phải chăng đa phần chỉ vì sợ sẽ bị khai trừ sớm muộn trước sau gì, hoặc hứa hẹn gặp phải phiền toái nào đó nên đảng viên mới chọn cảnh “dứt áo ra đi” mà thôi, và khi ra đi thì liệu họ có còn điều gì để phải cảm thấy lấn cấn, ngoài những hệ lụy gia đình chăng?


Nhà báo Phạm Chí Dũng: Nếu tính từ năm 2013 trở lại đây, con số bỏ đảng là quá ít ỏi so với gần 4 triệu đảng viên đăng ký trên sổ sách của đảng. Tình hình này phản ánh tâm thế e ngại và sợ sệt vẫn bao phủ trong tuyệt đại đa số đảng viên, mặc dù theo tôi biết thì tâm lý đảng viên trong đảng đã quá chán ngán chế độ chính trị này, và hầu như mất hẳn niềm tin vào đảng.

Do bị gò bò bởi kỷ luật đảng và sợ ảnh hưởng đến vị thế chính trị lẫn công việc nên rất hiếm trường hợp đảng viên dám ra đảng trong lúc còn làm việc, mà chỉ đến khi nghỉ hưu mới có một ít người dám “xổ lồng”. Cho tới nay, đây vẫn là một tâm lý bao phủ lên 3,7 triệu đảng viên. 

Nhưng có một thực tế là ngay cả một ít đảng viên hưu trí từ bỏ đảng lại không phải xuất phát từ thái độ dứt khoát chia tay ý thức hệ hoặc phản kháng với một đảng tham nhũng, mà do những người này đã có những hoạt động bị đảng quy kết là “đa nguyên”, thậm chí “ủng hộ các thế lực phản động”, nên cấp ủy đảng gây sức ép khai trừ họ. Để tránh bị “hạ nhục”, những đảng viên này đã chủ động tuyên bố ra đảng trước khi bị khai trừ. 

Tuy nhiên, tình trạng thoái đảng lại rất lớn ở Việt Nam. Phần lớn những người thoái đảng thuộc về lớp cán bộ, công chức hưu trí. Họ âm thầm không nộp hồ sơ đảng từ nơi làm việc trước đó về nơi cư trú, và nếu sau một thời gian mà không thấy “nhắc nhở”, thì coi như không sinh hoạt đảng và cũng xem như đã “ra đảng”. Cũng có những đảng viên thoái đảng theo những cách khác như cố ý không sinh hoạt đảng dù có tên trong chi bộ địa phương, cố ý không đóng đảng phí, cố ý gây ra mâu thuẫn nội bộ để chi bộ bắt buộc phải khai trừ mình. Một số đảng viên khác, vì nguyện vọng đi định cư ở nước ngài cùng gia đình, đã đương nhiên đề nghị đảng xóa tên mình…

Năm 2013, một con số thống kê chính thức của một cơ quan đảng đã cho thấy có đến 40% đảng viên nằm trong những dạng thoái đảng khác nhau tại các địa phương. Cho tới nay, hẳn tỷ lệ này còn phải cao hơn, trong bối cảnh chính trị và xã hội nhiễu nhương hơn nhiều trước đây và còn chưa tới đáy.

Nếu như những năm trước, có những người muốn bỏ đảng nhưng vẫn lo sợ bị chính quyền cắt sổ hưu hoặc bị sách nhiễu bản thân và thân nhân, thì với một số trường hợp bỏ đảng từ năm 2013 đến nay, đặc biệt gần đây như ông Võ Văn Thôn – cựu giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, ông Lê Văn Hòa – cựu chuyên viên Ban Nội chính Trung ương, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, nhà báo Tống Văn Công - nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động… cho thấy áp lực và thủ đoạn gây khó khăn của chính quyền và công an đối với họ và những người thân giảm hẳn. Thậm chí đã xuất hiện một số trường hợp cán bộ hưu trí, xuất thân từ lực lượng vũ trang như quân đội và công an, cũng muốn công khai bỏ đảng.

Hoàn toàn không thể có chuyện chính quyền cắt sổ hưu của người bỏ đảng, vì làm như vậy là vi phạm pháp luật.

Một nguy cơ khác đối với đảng cầm quyền là đang manh nha dấu hiệu một số cán bộ lão thành, trung cấp và cả cao cấp, muốn từ bỏ đảng CSVN để trở về… đảng Lao Động. Trường hợp này vừa xảy ra với giáo sư Tương Lai ở Sài Gòn. Nếu khuynh hướng này mở rộng trong thời gian tới, tương lai “tách đảng” là dễ thấy.

Nguyễn Thị Thanh Bình: Dường như anh có người bố đã có 65 tuổi Đảng, và khi anh chia sẻ bức tâm thư đoạn lìa “ly dị” Đảng, thì ba anh có tỏ ra thông cảm cho một đứa con vốn có cá tính mạnh và độc lập tư duy như anh chăng? Thật ra anh đã phải thuyết phục gia đình như thế nào để được tôn trọng tự do cá nhân và sự dũng cảm của anh, cũng như thấy quyết định của anh là một quyết định đứng đắn hợp thời đã dám buông bỏ, thoát ra khỏi những cũi lồng để được bay bổng tự do?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Thật ra, tôi đã không hề hỏi ý kiến ba tôi về việc tôi công khai tuyên bố từ bỏ đảng vào tháng 12 năm 2013, vì tôi không muốn bị phân tâm bởi sự tác động của gia đình.

Việc từ bỏ đảng của tôi hoàn toàn không dễ dàng: từ năm 2003 khi nhận thấy càng đấu tranh thì tham nhũng càng nhiều, tôi bắt đầu nhận ra nếu chỉ có một đảng thì triển vọng chống tham nhũng sẽ là vô phương. Tôi bắt đầu nghĩ đến nhiều hơn một đảng để có được cơ chế kiểm soát chéo quyền lực như ở phương Tây, và cũng bắt đầu nghĩ đến việc đến một lúc nào đó sẽ ra đảng.

Nhiều đảng viên vẫn cho rằng ở lại trong đảng thì có điều kiện đấu tranh hơn là ra đảng. Nhưng tôi lại nhận ra một bài học đắt giá là chính đảng CS cũng luôn tuyên truyền và thuyết mị như thế để mọi người khỏi ra đảng, trong khi thực tế từ trước đến nay việc đấu tranh hiệu quả chống tiêu cực trong đảng là vô cùng hiếm hoi, mà bằng chứng rất rõ là toàn bộ những đảng viên trí thức, cựu quan chức trong nhóm 72 trước đây và nhóm 61 sau này đã không nhận được bất kỳ một hồi âm nào từ phía đảng và chính quyền sau khi họ gửi đi nhiều bản kiến nghị đầy tâm huyết.

Phải mất 10 năm tôi mới có được quyết định của mình. Tôi không cho đó là một sự dũng cảm của bản thân, mà chỉ đơn giản là khi tôi thấy ông Lê Hiếu Đằng – mà tôi xem như một người anh – quyết định viết thư bỏ đảng trên giường bệnh, tôi nghĩ rằng nếu lúc đó mà tôi không thể quyết định bỏ đảng thì e rằng sau đó có thể bị nhụt chí và chẳng biết bao giờ mới có đủ quyết tâm.

Vậy là ngay đêm hôm sau khi ông Lê Hiếu Đằng ra đảng, tôi viết tâm thư từ bỏ đảng và công bố luôn trên mạng xã hội để chặn đường lùi của mình, và sang ngày hôm sau mới nộp đơn ra khỏi đảng cho chi bộ như một thủ tục cần có. Sau đó cũng buồn một thời gian, nhưng lại nhẹ lòng vì mình không còn nằm trong một chính đảng không đi cùng được với nhân dân. Phải ra đảng, rồi muốn ra sao thì ra… 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Về việc chọn một ngày đặc biệt như ngày “Quốc Khánh 2/9” để xin ra khỏi “Đảng Nguyễn Phú Trọng” đang thao túng, nhưng vẫn muốn “chiến đấu” trong vai trò một đảng viên cũ của Đảng Lao Động, G.S Tương Lai là một khuôn mặt trí thức nổi bật của XHCN mới đây nhất vẫn một mực nêu cao “Tư tưởng HCM”, vậy liệu anh có thấy mình ủng hộ sự chọn lựa này, hay ít nhất là tôn trọng, đồng cảm với việc G.S Tương Lai đã chặt đứt tư duy “còn Đảng còn mình” với Đảng CSVN hay “Đảng Nguyễn Phú Trọng”, cách gọi muốn nhấn mạnh của G.S chăng. Liệu như thế có đồng nghĩa là G.S Tương Lai cho rằng Đảng của đời này (Nguyễn Phú Trọng) khác với Đảng của đời xưa (Hồ Chí Minh) và dĩ nhiên đảng của những thế hệ trước, thế hệ của chính G.S đã có mặt tham dự đóng góp là tốt, và đáng ca ngợi trường tồn, và đó là điều vị G.S này có quyền núp bóng hãnh tiến, nhất là khi phải đối diện với “Đảng Nguyễn Phú Trọng” đương thời thì than ôi chỉ thấy rặc những tham vọng quyền lực, giáo điều không thể chấp nhận được, nên phải nói lời chia tay, và như thế liệu có điều gì lợn cợn, lập lờ và điều gì bất ổn dưới cái nhìn dứt khoát của nguyên là đảng viên CS như anh?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Theo những tin tức mà tôi được biết trong mấy năm qua, việc đưa đảng Cộng sản VN trở lại tên đảng Lao Động là tâm tư của một bộ phận nhỏ đảng viên, chủ yếu là đảng viên hưu trí. Kể cả đổi tên nước, từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thâm tâm, những đảng viên này có phần tin rằng nếu trở lại quá khứ dù chỉ với tên gọi như thế, đảng cầm quyền ở Việt Nam có thể tự thanh lọc mình và gần dân, vì dân hơn.

Từ năm 2014, khi cuộc xung đột trong nội bộ đảng CSVN trở nên công khai và dữ dội, sử dụng mạng xã hội để bôi xấu và tấn công nhau, có những dấu hiệu một lực lượng trong đảng có thể đã muốn ngả về khuynh hướng “tách đảng”, tức tách đảng CS làm hai - một phần là đảng CS, còn phần kia trở về đảng Lao Động. Nhưng cần chú ý, “tách đảng” và “đa đảng” là hai việc khác nhau nhiều về bản chất. Với động cơ tiếp tục duy trì quyền lực và lợi ích nhóm của những lực lượng trong nội bộ đảng, “tách đảng” chỉ là một hình thức “đảng trong đảng”, mà về thực chất vẫn là cuộc chơi tham tàn của các nhóm xuất thân từ đảng CS, chưa hẳn chấp nhận đa nguyên chính trị và vẫn không có vai trò của nhân dân trong đó. 

Tôi tôn trọng suy nghĩ và cách hiểu của những đảng viên hưu trí muốn trở về tên đảng Lao Động. Tuy nhiên, cần nói thẳng là cho dù có gắn tên Lao Động hay những cái tên khác cho đảng mà không thật sự cải cách theo hướng bỏ điều 4 hiến pháp về độc đảng, tam quyền phân lập một cách thực chất và công nhận xã hội dân sự - tức những quyền căn bản của nhân dân đã được hiến định – thì cũng sẽ chỉ là động tác “thay áo” để mị dân mà thôi. Có khi lại kéo dài thêm một thời kỳ đau khổ mới cho con dân nước Việt, vốn trước đó đã quá khốn khổ.

Nguyễn Thị Thanh Bình: Trong bức tâm thư ra khỏi Đảng vốn được nhiều người và dư luận tâm đắc của anh mới đó cũng đã gần 4 năm rồi, anh đã viết không kém những bài diễn văn hùng hồn, và mãnh liệt nhất của một giai đoạn lịch sử có những đảng viên trí thức phản tỉnh: “Tôi tự thấy Đảng CS không còn đại diện và phục vụ cho quyền lợi cho đại đa số nhân dân và điều đó đi ngược với tôn chỉ mục tiêu ban đầu của Đảng, cùng lời thề của tôi khi vào Đảng. Do vậy, tôi không còn phù hợp với vai trò và nghĩa vụ một đảng viên trong Đảng CS.” Và câu kết luận rất đánh động lòng người: “Không nhằm mục đích chống Đảng, tôi thành tâm cho rằng thái độ từ bỏ Đảng CS là một trong những con đường ngắn nhất để gần gũi với nhân dân và quyền lợi người nghèo. Trong tận cùng tâm thức, một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi.” Tâm đắc ở đây đồng nghĩa với sự ủng hộ hết mình, và cảm phục tấm lòng cùng ý chí sâu sắc của anh. Vậy thì qua bản “Tuyên bố” của G.S Tương Lai, anh có thể chia sẻ là anh tán thành với G.S điều gì và không thể đồng cảm điều gì? Nhất là tôi hơi thắc mắc một điều là không phải chính ông Hồ Chí Minh cũng đã thú nhận với đảng viên kỳ cựu là ông Nguyễn Văn Trấn: “Không, tôi chẳng có tư tưởng gì, ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê.” Không lẽ G.S Tương Lai không thấy cả thế giới đã rũ bỏ thứ chủ thuyết lỗi thời Mác-Lê này hay chính ông một lần nữa phải tự đánh lừa mình có một “hệ tư tưởng”, một chủ thuyết giả tưởng như thế làm kim chỉ nam để giữ sự tồn tại trong một chế độ chuyên chính, hay chỉ là những mâu thuẫn đối kháng nội tâm nào đó thật không dễ để giải thích? Chúng ta cũng đã có dịp nghe khá nhiều bình luận và chỉ trích trên những trang cá nhân Facebook, cũng như báo chí truyền thông với những bài viết thẳng thắn của TS Hà Sĩ Phu, TS Nguyễn Quang A, cựu TNLT Phạm Thanh Nghiên…. Ước gì có thêm một cái nhìn lắng đọng, phân tích cặn kẽ chân tình đến từ một nhà báo độc lập, đối lập như anh. Và điều này hy vọng sẽ được G.S Tương Lai đón nhận lên tiếng phản hồi trong tinh thần “dân chủ đa nguyên” trong nay mai.

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về “đảng Hồ Chí Minh” của ông. Câu chuyện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã là quá khứ của hơn bảy chục năm trước, cùng sự khác biệt rất lớn về bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị, quốc tế. Không có gì bảo đảm là nếu đảng CS chịu lấy lại tên đảng Lao Động thì tình hình đất nước sẽ khả quan hơn. Cũng chưa có bất kỳ cơ sở nào để nhìn ra một sự “thành tâm” của giới chóp bu trong đảng CS nếu họ muốn “thay áo”. Tất cả chỉ tính toán cho quyền lực cá nhân và lợi ích nhóm, lo tranh giành đấu đá, tham nhũng và “ăn của dân không chừa thứ gì”.

Vào năm 2014 và 2015, không ít đảng viên và cả người thuộc giới đấu tranh dân chủ nhân quyền ở Việt Nam đã từng kỳ vọng vào Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng như một “Gorbachev Việt Nam”. Nhưng rốt cuộc ngoài vài lời nói ve vuốt mơ hồ về dân chủ và tinh thần “thoát Trung”, ông Dũng đã không thể hiện bất cứ hành động nào để ít ra cũng cho thấy ông ta quan tâm đến tuyệt đại đa số người dân Việt đang ngụp lặn trong vũng bùn quan chức. Ngược lại là đằng khác, chế độ Nguyễn Tấn Dũng bị rất nhiều người xem là một chế độ tham nhũng và phá chưa từng có trong toàn bộ lịch sử của triều đại cộng sản ở Việt Nam. Giả dụ sắp tới Nguyễn Tấn Dũng có đứng ra thành lập hoặc hậu thuẫn để thành lập đảng Lao Động thì hành động này cũng chỉ là hình ảnh “bình mới rượu cũ” mà thôi.

Vì thế, tôi nghĩ rằng giáo sư Tương Lai nên dứt khoát tuyên bố từ bỏ đảng CS chứ không chỉ cắt đứt liên hệ với “đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng”, trước khi đảng này có thể làm điều gì đó xúc phạm ông. Còn ở thêm trong đảng ngày nào, còn phải mang danh nghĩa đảng viên của một đảng mà đã từ lâu không còn của dân nhưng vẫn ăn thuế của dân, điều được gọi là lòng tự trọng và liêm sỉ của mỗi chúng ta đều đáng bị người dân đánh giá thấp hơn thế.

Một khả năng có lẽ duy nhất mà tôi thấy có ý nghĩa là nếu giáo sư Tương Lai và những người như ông khởi động một phong trào trở về tên đảng Lao Động, việc này có thể lôi kéo một số đảng viên đảng CS “tự chuyển hóa”, làm tiền đề cho việc tách đảng CS, trước khi dẫn đến đa đảng một cách thực chất. Hành động này sẽ được nhiều đảng viên, cựu quan chức và kể cả quan chức đương nhiệm ủng hộ theo nhận thức “có còn hơn không”. Tuy nhiên, làm thế nào để khi trở về tên đảng Lao Động mà không bị các lực lượng và các nhóm lợi ích trong đảng CS lợi dụng thì lại là một vấn đề rất khó khăn, mà về điều đó thì tôi e rằng có thể sẽ không được kiểm soát bởi giáo sư Tương Lai hay những người như ông. 

Sau cùng, tôi muốn nói về Tương Lai. Đất nước này, xã hội này đang tràn ngập những chỉ dấu bất ổn và chuẩn bị biến động như thời chỉ vài ba năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1990. Khi đó, đảng Cộng sản Liên Xô còn đến 20 triệu đảng viên kia mà! Và cả 5 triệu quân nhân lẫn 3 triệu công an! Nhưng tất cả đều bất động trước một biến đổi mang tính quy luật của lịch sử. Việt Nam cũng đang và sẽ như vậy chỉ trong ít năm nữa thôi, bất chấp số đảng viên được xem là “trung thành” còn tới gần 4 triệu người. Và cũng chỉ trong ít năm nữa thôi, tôi tin rằng sẽ có nhiều hơn hẳn đảng viên không vì phải chịu sức ép khai trừ mà sẽ hoàn toàn chủ động chia tay với đảng, chia tay với một chính đảng phi nhân bản để kiếm tìm một bến bờ mới hứa hẹn nhân văn hơn rất nhiều. Dù là để đến được bến bờ đó, xã hội và chính trị Việt Nam có thể phải trải qua một thời gian đầy biến động và hỗn loạn như thời hậu Xô viết vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Tôi nghĩ rằng cần chờ đợi thêm, nhưng là chờ đợi trong tâm thế chủ động. Sau SUY tất phải VONG, rồi mới PHỤC được. Mỗi người trong chúng ta vẫn có thời gian cho những lựa chọn chính trị của mình.

Trân trọng cảm ơn thời giờ quý báu, chịu khó soi rọi kỹ lưỡng những góc khuất của lòng mình và xã hội cho độc giả khắp nơi của nhà báo, nhà văn Phạm Chí Dũng.

7/9/2017

Nguyễn Thị Thanh Bình thực hiện

7 tháng 9, 2017

Vụ Đồng Tâm: Trấn áp không được, lại ‘lưỡi không xương’


Một “tin vui” vừa đến với hàng chục ngàn người dân Đồng Tâm: chỉ ít ngày sau khi Đồng Tâm họp “hội nghị Diên Hồng” để đồng lòng hạ quyết tâm “quyết giữ đất đến hơi thở cuối cùng”, đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy chính quyền Hà Nội, và cũng không thể thiếu bóng dáng của “tập thể Bộ Chính trị”, cũng hạ quyết tâm “kiên trì đối thoại, giáo dục thuyết phục” mà không còn hùng hổ đòi “trấn áp quyết liệt nhóm chống đối Đồng Tâm” nữa.

Quyết tâm thư ngày 3/9/2017 của người dân Đồng Tâm Ảnh: ijavn.org

Chiến dịch răn đe và trấn áp gần nhất của chính quyền là sử dụng Cơ quan điều tra của Công an Hà Nội và cả Cục Điều tra hình sự của Bộ Quốc phòng để dồn dập triệu tập đến 70 người dân Đồng Tâm, đe dọa bắt một số người dân, tìm cách “khủng bố” tâm lý người dân với mục đích lớn nhất là người dân phải đầu hàng mà không dám phản kháng việc chính quyền “chiếm” 59 ha đồng Sênh của dân để giao cho một nhóm lợi ích quân đội là Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel).

Đã có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy chính quyền và công an đang cố ý quy kết dẫn đến quy tội người dân Đồng Tâm theo cách “ông Lê Đình Kình và “nhóm đồng thuận” do ông lập ra để tuyên truyền lừa dối, lôi kéo, kích động người dân khiếu kiện đòi 59ha đất Đồng Sênh vẫn không chấm dứt. Những ngày gần đây, ông Lê Đình Kình còn tiến thêm những bước đi nguy hiểm, kêu gọi những phần tử cơ hội chống đối trong nước và nước ngoài can thiệp. Lấy tình cảm dòng họ, gia đình và những người chịu ơn nghĩa với ông trước đây để kết tụ thành lực lượng chống đối, sử dụng những phần tử bất hảo trong thôn xóm đe dọa, khống chế những người lên tiếng ủng hộ chính quyền…”.

Nhưng một lần nữa, chính quyền, công an và quân đội đã quá “chủ quan duy ý chí”. Chỉ trong vòng 4-5 tháng, họ đã biến người dân Đồng Tâm từ tâm thế “có đảng là có tất cả”, “vẫn một lòng tin đảng và không chống đối chính quyền” trở thành “Từ ngày 3 – 9 – 2017 nhân dân xã Đồng Tâm tuyên chiến với bọn tham nhũng, giặc nội xâm. Nhân dân xã Đồng Tâm sẵn sàng đổ máu để giữ bằng được đất của nhân dân ta. Kẻ nào từ chính quyền, công an đến quân đội vào cướp đất sẽ bị tan xác. Thà mất tất cả xã Đồng Tâm, còn một người cũng quyết chiến đến cùng”.

Bản quyết tâm thư mang tính sinh tử chưa từng có trên xuất hiện trong Hội nghị Toàn dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, xác định cuộc đấu tranh Chống Tham Nhũng của người dân đang đi vào giai đoạn quyết liệt nhất, thách thức nhất.

Ngay sau khi bản quyết tâm thư trên được công bố và còn được người dân Đồng Tâm gửi đến các đại sứ quán nước ngoài tại Hà Nội và những tổ chức nhân quyền quốc tế, có những dấu hiệu cho thấy chính quyền, công an và quân đội đã một lần nữa “họp khẩn cấp”. Có dư luận cho biết cánh cơ quan điều tra của công an và cơ quan hình sự của Bộ Quốc phòng có vẻ đã bị bất ngờ trước tinh thần phản kháng quyết tử đến thế của người dân Đồng Tâm mà đã chùn hẳn lại thái độ hùng hổ sẵn sàng “ăn tươi nuốt sống dân” trước đó.

Tình thế đang trở lại tháng Tư năm 2017, vào những ngày căng thẳng khi có tin cho biết Bộ Chính trị đảng đã phải họp liên tục và cuối cùng quyết định “không dùng biện pháp mạnh’ mà chỉ “đối thoại”, kể cả “cam kết” vì lo sợ một cuộc “khởi nghĩa nông dân rào làng chiến đấu” y hệt thời Việt Minh kháng chiến chống thực dân Pháp.

Lần này cũng vậy: “chính quyền vẫn không ra tay trấn áp để đảm bảo công lý được thực thi, vì sao vậy?”

Lại có giải thích: “vì chính quyền Hà Nội đã nhận thức đúng về vấn đề giải quyết mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Mâu thuẫn giữa dân Đồng Tâm với chính quyền là loại mâu thuẫn nội bộ nhân dân, mâu thuẫn có cùng chung lợi ích vì sự ổn định và phát triển của đất nước, không phải là mâu thuẫn “địch ta”, mâu thuẫn “đối kháng”. Và vì vậy nó chỉ nên được giải quyết chủ yếu bằng giáo dục, thuyết phục chứ không nên giải quyết chủ yếu bằng bạo lực trấn áp”.

Tất nhiên, chính quyền cũng không quên thủ đoạn phân hóa: “trong vụ Đồng Tâm không phải tất cả dân Đồng Tâm đều có lợi ích ở Đồng Sênh. Ngay cả lợi ích của những người trong nhóm chống đối (chủ yếu ở thôn Hoành) không phải là đồng nhất, mỗi cá nhân, mỗi nhóm tiêu chí, mức độ yêu cầu lợi ích là khác nhau, động cơ vụ lợi khác nhau nên mức độ chống đối khác nhau. Vì vậy cần có cách thức tiếp cận phù hợp để tháo gỡ, không nên đánh đồng, quy kết, nghiêm trọng hóa vấn đề như nhau. Điều đó chỉ làm cho tính cố kết của họ tăng thêm và không tranh thủ được những người tốt trong nhân dân”.

Để cuối cùng: “cách giải quyết của chính quyền Hà Nội là kiên trì đối thoại, giáo dục thuyết phục để nhân dân Đồng Tâm không xu thời theo cái sai, cái xấu, không ủng hộ hành vi trái pháp luật. Kiên trì đối thoại, giáo dục, thuyết phục để những người “chống đối” nhận ra sai lầm mà tự nguyện chấp hành pháp luật, không manh động làm cho tình hình xấu hơn để rồi mắc tội nặng hơn. Biện pháp cưỡng chế chỉ là giải pháp cuối cùng khi không còn cách nào khác”.

Xin mời quý vị xem Video : [Cực Nóng] Dân Đồng Tâm ra quyết định tuyên chiến với CA, QĐ đến người cuối cùng để giữ đất?
          

Những cái lưỡi không xương quả lắm đường lắt léo!

Nhưng vào lần này, người dân Đồng Tâm liệu còn bị chính quyền lừa gạt dễ dàng như vụ “ký sống, lăn tay rồi khởi tố” từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2017?

Chiến dịch trấn áp người dân Đồng Tâm lại xảy ra ngay vào lúc Trung Quốc tập trận bắn đạn thật ở Biển Đông, chỉ cách Đà Nẵng 75 hải lý – một hành động không chỉ là khiêu khích mà đã bắt đầu mang tính xâm lược. Thế nhưng toàn bộ Bộ chính trị đảng và Bộ Quốc phòng đã “mất tích”, khiến một lần nữa rất nhiều người dân lại bừng bừng phẫn nộ về tư thế “hèn với giặc ác với dân” của đám quan chức Việt.

Thiền Lâm

(Cali Today News)

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục


Phản biện lại bài viết của GS Tương Lai
Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ.

GS Tương Lai
Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944.” Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn.”

Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.

Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949.

Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin.

Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh

Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946.

Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng Sản.

Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản.”

Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ.

Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.

Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô.

Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả rung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì.

Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường.

Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.

Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng.

Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn
nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.

Trung Cộng muốn gì?

Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam:

Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng.

Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.
Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.

Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh.

Trong Thế Chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco.

Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng.

Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng

Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ.

Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao.

Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.


Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục

Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến.

Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước.

Trần Trung Đạo

(FB Trần Trung Đạo )

6 tháng 9, 2017

La Quán Cơm.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa kể Viên Thuật và Lưu Bị đánh nhau to, Lưu Bị có vẻ yếu thế và lực hơn, Nên cầu cứu Lã Bố; Viên Thuật cũng lôi kéo Lã Bố liên minh với mình để bắt sống Lưu Bị …
Đứng trước sự lựa chọn khó khăn này, Lã Bố muốn giảng hòa nên đã kéo cả Kỷ Linh bộ tướng của Viên Thuật và Lưu Bị ra cửa Nha Môn bày trò bắn kích.
[Lã Bố sai quân cắm họa kích ở đằng xa rồi nói với Lưu Bị, Kỷ Linh: “ Ta muốn 2 ông bãi binh nhưng các ông không nghe. Từ đây đến đó cách 150 bước, ta bắn một phát tên nếu trúng ngạnh của họa kích thì hai bên phải bãi binh bởi đó là ý trời. Nếu ta bắn không trúng hai ông muốn đánh nhau thì đánh. Ta định như thế, nếu ai không nghe thì sẽ gộp quân với phía bên kia đánh lại…”
Ký Linh thấy họa kích đặt xa như vậy nên tin Lã Bố không thể bắn trúng. Vả lại nếu không đồng ý cũng không được vì Lã Bố đã bày trò đã quyết. Còn Lưu Bị thì chỉ còn cách cầu trời khấn Phật cho Lã Bố đừng bắn trật…
Kết cục Lã Bố đã bắn tên trúng ngạnh của thiên phương họa kích, Kỷ Linh bộ tướng của Viên Thuật đành phải ngậm đắng nuốt cay bãi binh…

Theo La Quán Cơm, việc Trung Quốc động binh ở Biển Đông rất có thể do Tập Cận Bình bày ra trò này để giảng hòa cuộc chiến giữa Phú Trọng và Tấn Dũng đang vào hồi quyết liệt…Hành động này của Lã Bố-Tập Cận Bình là muốn giải vây, cứu Nguyễn Tấn Dũng đang bị rơi vào tình cảnh nguy khốn, tính mạng đang được tính theo ngày giờ Việt Nam
Hành động tập trận này nhằm răn đe ông Nguyễn Phú Trọng: chỉ được phép đập ruồi còn hổ thì chỉ có thể đuổi về rừng…nào đó ở Tâu Âu hoặc Mỹ…Nếu không nghe, không hiểu sự cảnh báo này tất yếu sẽ xảy ra đánh nhau với Trung Quốc thì khò lòng ngồi yên với nhau mà đập ruồi chứ đừng mong đuổi hổ ?
Tại sai Trung Quốc lại ra tay cứu nguy cho Nguyễn Tấn Dũng vào thời điểm kịch tính này ? Mặc dù dư luận bấy lâu nay của Việt Nam vẫn đồn rằng: Ông Nguyễn Phú Trọng theo đường lối thân Tàu; Còn Nguyễn Tấn Dũng theo đường lối thân Mỹ, muốn Việt Nam rời xa Trung Quốc…
Theo La Quán Cơm thì: nếu nhìn nhận như vậy là nông nổi, là chỉ căn cứ vào đầu môi chót lưỡi của đám chính khách nhà nghề. Ông Nguyễn Phú Trọng duyên nợ với Trung Quốc bởi cái bản quyền viện trợ không hoàn lại của cái dây chuyền “ cơ chế thị trường định hướng XHCN” thuộc tác quyền Tàu…
Khi ông Nguyễn Phú Trọng hướng đất nước, Đảng, nhà nước chỉ biết dựa vào cái dây chuyền này thì sẽ đẩy Việt nam vào cái tình thế lệ thuộc tàu dài dài không chỉ đường lối, chính sách, đối nội đối ngoại và cả làm ăn liên doanh kinh tế…Và Trung Quốc sẽ hưởng lợi dài dài từ cái khoản tiền tác quyền này…
Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2015, Tập Cận Bình một mặt bắt tay, đích thân mời Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Trung Quốc nhưng lại liếc mắt đưa tình với câu thần chú, phương châm hành  khi đàm đạo về quan hệ 2 đảng, 2 nhà nước với ông Nguyễn Phú Trọng…
Phương châm 16 chữ (tiếng Trung: 十六字方) (thập lục tự phương châm) đó là:"Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan" nghĩa là sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh, xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước Việt – Trung trong thế kỷ mới…
Còn với ekip Nguyễn Tấn Dũng ?
Ông Nguyễn Tấn Dũng đã từng tuyên bố 'Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông'…đừng hiểu là ông chống Trung Quốc mà ông chỉ chê trách, cười khẩy cái cách bắt tay, chơi với Trung Quốc của ekip Nguyễn Phú Trọng…
Ý của ông Dũng nếu có đánh đổi chủ quyền dân tộc  thì đổi bằng “tiền tươi thóc thật”…Điều này đã thể hiện qua hàng loạt dự án liên doanh với Trung Quốc, vay vốn Trung Quốc và tạo điều kiện cho Trung Quốc thắng thầu… Từ bauxite Tây Nguyên, đến 90 % nhà máy nhiệt điện do Trung Quốc là nhà thầu xây lắp; Rồi hàng loạt dự án ngàn tỷ liên doanh với Trung Quốc, có bàn tay ngầm của Trung Quốc phía sau, có vật tư, máy móc rởm Trung Quốc tuồn vào, giờ đắp chiếu, thành của nợ; Rồi đường sắt Cát Linh-Hà Đông từ 300 triệu USD đội vốn lên trên 800 triệu USD mà vẫn chưa chịu xong; rồi Formosa Hà Tĩnh danh nghĩa của Tàu Đài Loan nhưng ruột là Tạu đại lục…
Tất cả những cú liên doanh đó đều đẻ là tiền tươi thóc thật, có lợi cho Trung Quốc và chắc chắn chắn sẽ có một số nhóm lợi ích đã được Trung Quốc chi công hậu hĩnh xảy ra dưới thời Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ?
Hiếu Gió có đưa lên mạng đơn tố cáo của Trịnh Xuân Thanh, không biết sắp tới khi ra tòa, Trịnh Xuân Thanh có “anh dũng” như Nguyễn Xuân Sơn, khai tuốt tuột tuột đó là chuyện ăn bớt dầu thô hút được ngoài Biển Đông…
Thử hình dung, theo lời khai của Nguyễn Xuân Sơn, tiền trong tài khoản, trong két, mà các “bố” ở PETROVIETNAM còn tìm cách chuyển đi chuyển lại để rồi cho mất tiêu hàng ngàn tỷ VND, hàng trăm triệu USD ? Vậy thì số dầu hút được ngoài Biển Đông ai mà tin được “ ma đi ăn cỗ’ không hút trộm, múc trộm…
Mấy năm trước, người viết bài này cũng đã nghe tiếng xì xèo về chuyện trộm dầu thô mà Hiếu Gió đưa lên mạng; Theo thông tin thì mất trộm già một phần 3…Có nghĩa nếu tổng sản lượng dầu thô theo kê khai xuất được 30 tỷ USD thì số bị múc trộm cũng cỡ từ 15-20 tỷ USD…
Nên nhớ ½ lượng dầu thô của Việt Nam hút lên được bán cho Trung Quốc ? Việt Nam cần gì phải sang Panama rửa tiền…Chỉ cần xuất bán sang Trung Quốc rồi vòng về cái khoản tiền trộm cắp đó, thối lại đó bằng hàng Tàu rởm, rẻ dễ bán trao tay…
Đó chính là cai duyên nợ, dây mơ rễ má, cái tiền tươi thóc thật không phải là hữu nghị viển vông mà ông Dũng nêu thành tiêu chí…Tập Cận Bình tìm cách cứu nguy cho Nguyễn Tấn Dũng xuất phát từ cái ân tình được quy đổi bằng tiền tươi thóc thật đó…
Đã có năm, một quan chức Bộ Công thương lộ ra con số chênh lệch về côn số kim ngạch ngoại thương do 2 Bộ của 2 nước kê khai chênh nhau tới 20 tỷ USD?
Theo người viết bài này, đó là các khoản tiền đen, tiền rửa của các nhóm lợi ích Việt Nam móc ngoặc, làm ăn với Trung Quốc được Trung Quốc cố tình xì ra để các nhóm này dờ hồn mà cúc cung trung thành với Tàu. Nếu phản trắc, phía Trung Quốc chỉ cần xì ra cái danh sách đen này là các chủ toi, bị xé xác tại Việt Nam…
Ekip ông Trọng đã có ý định “ thanh toán” ông Dũng tại Hội nghị TW 6 khóa XI nhưng đã không thành và ông Trọng đã phải lên TV mếu máo. Vụ đó, ông Dũng đã được Tập Cận Bình cứu…
Bức ảnh chụp ông Nguyễn Tấn Dũng gặp Tập Cận Bình ở Nam Ninh, 2 bên mặc comle đồng màu, cà vạt máu xanh nước biển trước khi diễn ra Hội nghị TW 6 khóa XI chí 4-6 ngày đã hé cho thấy có sự thỏa thuận ngầm nào đấy mang màu sắc Biển Đông giữa Tập Cận Bình và Nguyễn Tấn Dũng, mặc dù lúc đó Tập Cận Bình mới là Phó Đảng…




Hội nghị TW 6 khóa XI bế mạc 17/10 thì ngày 7/10/2012 Phạm Viết Đào bắt gặp một đoàn xe 4 chỗ mang biển số Trung Quốc chạy trên cầu Thăng Long ra Nội Bài quang vài chục chiếc ?
Đoàn này là đoàn gì mà sang Việt Nam không dám đi xe Việt Nam một quãng đường ngắn từ Hà Nội sang Nội Bài. Họ đi sang và lên máy bay Trung Quốc về Trung Quốc; chứng tỏ phải là những nhân vật quan trọng, thực thi những nhiệm vụ quan trọng thì mới cất công mang xe từ Trung Quốc sang trong cái thời điểm Đảng CSVN đang tổ chực hội nghị để ký luật ông Dũng?
Theo một nguồn tin vỉa hè thì việc kỷ luật ông Dũng đã không được đồng thuận cao khi thăm dò trong BCT; Nghe đâu chỉ có 6 phiếu gồm các ông: T,S,Q,N,D,H…Trớ trêu ông T.H.R bỏ phiếu trắng…Không biết do thời điểm này nghe nói Trịnh Xuân Thanh có quan hệ mất thiết với con gái rượu của ông T.H.R và sau đó lá phiếu trắng này được đáp lại bằng việc bố trí cô này làm CT Hội đồng quản trị một Công ty nhà nước lớn…
Do không đạt được sự đồng thuận cao trong BCT nên buộc lòng phải đưa ra BCHTW để lấy ý kiến. Trước khi đưa ra BCHTW, Hội đồng tướng lĩnh đã có một cuộc họp riêng để bàn về vấn đề kỷ luật ông Dũng. Trong cuộc họp này do sự tác động của tướng N.C.V; có thể có thể có sự tác động nào đó, răng đe nào đó từ phía Trung Quốc nên Hội đồng tướng lĩnh nghe nói không đồng ý kỷ luật ông Dũng nên tha ông Dũng đã cầu hòa Trung Quốc.
Khi cánh quân đội đại diện là PQT lên tiếng không kỷ luật, tướng T.L thứ trưởng BCA đã phát biểu một câu rất khét: Nếu ký luật vì sai phạm kinh tế thì ký luật ai ngồi đây cũng được...Một ý kiến ngầm răn đe, các chú bỏ phiếu ký luật 3 X thì các chú chờ sẽ đến lượt các chú...
Nếu ai theo dõi sát truyền hình thời đó sẽ thấy hình bóng ông Dũng cũng mất hút trên truyền hình hơn 1 tháng như trường hợp ông Trần Đại Quang vừa qua…Nếu chú ý theo dõi phiên bế mạc, ông Trọng đọc diễn văn bế mạc mếu máo khóc thì máy quay quay cảnh phía dưới, ông Đinh La Thăng ngồi tự tin vẻ đầy đắc thắng. Xem lại clip này hiện hình ảnh này của ông Thăng đã bị cắt…
Tóm lại, theo La Quán Cơm, với 3 kịch bản đã trình bày cho thấy: Trung Quốc có quan hệ với nhiều nhóm trong chính trường Việt, có lợi ích, ân tình với nhiều nhóm và không muốn mất ai giống như Lã Bố muốn hưởng lợi từ Viên Thuật nhưng lại không muốn mất bạn Lưu Bị…
Hành động động binh của Trung Quốc trên Biển Đông là ngầm ý đó: các chú phải bãi binh đi, nếu không nghe ta sẽ gộp với phía bên kia oánh lại. Thông thường trong lịch sử mỗi khi Việt Nam đứng trước sự đe dọa thách thức ngoại xâm phương bắc, người Việt thường chủ động cởi bỏ oán thù cá nhân để đoàn kết với nhau bảo vệ đất nước !
Trần Hưng Đạo đã bỏ oán thù riêng với Trần Liễu để dốc lòng ra trận đánh quân Nguyên-Mông. Trung Quốc động binh vừa mang thông điệp hòa giải của Lã Bố bắn kích cửa Viên Môn, vừa kích hoạt tình thần đoàn kết Trần Hưng Đao-Trần Liễu…để hòa giải của chiến Nguyễn Phú Trọng-Nguyễn Tấn Dũng…
Với 3 kịch bàn này, Trung Quốc muốn phát đi tín hiệu cho các phe nhóm đương chức đương quyền  từng làm ăn, từng tình sâu nghĩa nặng với Trung cộng thì cứ nên gắn bó với Trung Quốc…Xin mượn lời trong 1 ca khúc của Tóc Tiên vợ của cầu thủ bóng đá xứ Nghệ Công Vinh: “Cứ ăn cắp đi  vì cuộc đời cho phép; Cứ ngu đi có Trung Quốc bảo kê rồi…” Vì tôi còn sống )
Qua các hành động nhãn tiền, không khó đoán giải, diễn nghĩa ý đồ của Trung Quốc.

Cái dây chuyền công nghệ của Trung Quốc vẫn đặt trọng tâm, nhắm bỏ trứng vào tay các nhóm lợi ích đã và từng làm ăn với Trung Quốc. Cái dây chuyền công nghệ này khác và tương khắc với cái dây chuyền công nghệ mà Mỹ và Tây Âu đang khuyến khích Việt Nam tiếp nhận: Bỏ trứng vao tay và túi của nhân dân; động lực chính của dây chuyền…

Blog Phạm Viết Đào

Một quyết định nửa vời đáng tiếc

Bùi Tín
6-9-2017
GS Tuong Lai tại tư gia tại Sài Gòn. Courtesy Photo

Vậy là cuối cùng ông Tương Lai, một trí thức khá nổi tiếng trong nước đã rời bỏ đảng Cộng sản, nhưng với một quyết định nửa vời, nghĩa là không dứt khoát, tự cho vẫn còn là đảng viên đảng Lao Động Việt Nam của ông Hồ Chí Minh.
Tôi rất quý trọng ông Tương Lai (tên thật là Nguyễn Phước Tương) một trí thức hiếm hoi đất Thừa thiên – Huế, khá uyên bác, học nhiều, hiểu biết uyên thâm, có tư duy độc lập, gần đây nổi tiếng về các bài viết «Mông mênh thế sự, để gió cuốn đi…» sưu tầm tài liệu khá công phu, đặc sắc, tôi vẫn chờ để đọc kỹ hàng tuần. Gần đây nghe nói ông ốm, nhưng bút lực vẫn sung sức, tỏ ra ông đã khỏe.
Tôi mừng khi biết tin ông bỏ đảng Cộng sản hiện nay mà ông gọi là đảng của Nguyễn Phú Trọng, khi đảng đã thoái hóa, biến chất thành những nhóm đặc quyền, đặc lợi tranh giành nhau quyền lực và tài sản.
Tôi biết đây là một quyết định không đơn giản, khá dằn vặt, đau đớn, khi chế độ đã phong ông là Giáo sư, là Viện trưởng Viện Xã hội học, Tổng biên tập tạp chí Xã hội học, một thời là cố vấn cho các thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải. Hồi chuẩn bị cho Đại hội XII của đảng Cộng sản, ông Tương Lai đã cùng 125 trí thức – phần lớn là đảng viên cộng sản, viết thư yêu cầu đổi tên của đảng Cộng sản và đổi tên nước, không gọi là đảng Cộng sản và nước CHXHCN nữa. Đây là một đòi hỏi rất chính đáng, phù hợp với ý muốn của đông đảo nhân dân, của lẽ phải, hợp thời đại. Rất tiếc là Bộ chính trị đã khinh thị bỏ qua yêu cầu này.
Tôi rất đồng ý với ông Tương Lai khi ông lên tiếng phê phán ông Trọng một cách nghiêm khắc chính đáng. Tôi chia sẻ sự đánh giá rất ngay thật công bằng của ông vì bản thân tôi cũng đã có lần gặp gỡ, trò chuyện với ông Trọng hồi 1988 – 1989 khi ông Trọng là ủy viên ban biên tập của tạp chí Cộng sản, khi tôi là phó Tổng biên tập nhật báo Nhân Dân kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật. Ông đã 2 lần ghé nhà tôi để yêu cầu viết bài cho tạp chí về cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1988 sau khi tôi dự họp ở Liên hợp Quốc – New York về. Khi ấy ông đi chiếc xe đạp cũ, ghé qua nhà tôi, hỏi chuyện về Hoa Kỳ và chăm chú nghe tôi kể về Hoa Kỳ, về cuốn sách «the best and the brightest»
của David Halberstam tôi đang đọc về những bộ óc tài giỏi xuất sắc nhất của nước Mỹ đã bế tắc ở Việt Nam. Ông tỏ ra rất kém hiểu biết về phương Tây vì mới học ở trường đảng Nguyễn Ái Quốc và mới biết có nước Nga, khi tiếng Nga ông nói chưa sõi, sai cả danh từ và văn phạm, còn không biết chút gì về tiếng Pháp, tiếng Anh. Tôi rất lo ngại một con người còn thấp kém, thiếu tư duy, hiểu biết như thế mà lại là lãnh tụ số 1 của đảng và Nhà nước thì nguy hiểm quá! Một con người cô đặc giáo điều máy móc cực đoan, không thể có ai bảo thủ hơn!
Trái lại tôi rất tiếc là ông Tương Lai còn sùng bái ông Hồ Chí Minh. Ông đã tự mâu thuẫn với mình, không nhất quán với chính mình khi ông tự bảo công bằng, tôn trọng sự thật lịch sử.
Với thời gian, mọi thần tượng giả tạo, bản chất thật của ông Hồ đã lồ lộ rõ ràng. Một trí thức có tư duy độc lập không thể mù quáng lâu.
Ông Tương Lai có biết ai đã mang tên Trần Dân Tiên để viết nên tiểu sử tự tâng bốc mình là «Cha già dân tộc,» còn vĩ đại hơn Trần Hưng Đạo, Quang Trung?
Ai đã quỵ lụy xin phép Staline và vâng lời Mao để tiến hành Cải cách ruộng đất theo chỉ đạo của đoàn Cố vấn Tàu, giết hại 17.000 trung nông – trí thức yêu nước kháng chiến chống Pháp, bị vu cáo là địa chủ – ác ôn, bị bắn chết và chôn sống.
Ai trong thâm tâm không muốn xuất khẩu bạo lực vào miền Nam, ai không muốn coi vũ trang là bảo bối theo phương châm của Mao «chính quyền ở đầu ngọn súng, » ai e ngại cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 là mạo hiểm, giá sinh mạng qua đắt, mà không dám can ngăn, không dám ra mặt chống lại bộ ba khát máu Lê Duẩn – Lê Đức Thọ – Nguyễn Chí Thanh, là Chủ tịch đảng, là lãnh tụ số 1, là Chủ tịch Nước mà ươn hèn, không dám có lập trường vững, để mặc cho bọn gian thần lộng hành mang lại thương vong hàng triệu sinh linh trẻ của 2 miền Nam Bắc, ông Hồ thật sự đáng chê trách, đáng lên án nặng nề nhất.
Hồi ấy tôi rất gần tướng Giáp. Ông rất tiếc là ông Hồ không nghe ông để can ngăn những quyết định «chủ quan, ngông cuồng, nguy hiểm khôn lường của 2 ông họ Lê», khi ông Giáp, cùng tướng Hoàng Văn Thái và tướng Lê Trọng Tấn đều suy nghĩ như nhau, coi Tổng tiến công tổng khởi nghĩa là chủ quan, liều lĩnh. Chỉ có ông Hồ là có quyền ngăn cản cuộc manh động phiêu lưu.
Cái rất đáng trách là ông Hồ chịu để cho bọn hiếu chiến cực đoan coi miền Nam ruột thịt là kẻ tử thù, đuổi ông sang Tàu nghỉ ngơi, đuổi ông Tổng tư lệnh Giáp sang Hungari dưỡng bệnh, để chúng tư do mở ra cuộc chiến Mậu Thân đẫm máu, một cuộc tự sát bi đát, chà đạp lên cam kết quốc tế «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Nam Việt Nam », cam kết «không dùng vũ lực để thôn tính nhau giữa 2 miền» ghi rõ trong Hiệp Định Gieneve 1954.
Thật là buồn cười khi ông Tương Lai muốn trở lại khôi phục đảng Lao Động Việt Nam! Tôi phải nói thật là ông lẩm cẩm rồi! Lẽ ra ông phải nhìn về tương lai phía trước – như chính tên ông – thì ông lại ngoái cổ về quá khứ! Đảng Lao Động ai chả biết ra đời tháng 2/1951 chỉ là cái mặt nạ của đảng Cộng sản Đông Dương, giả vờ giải tán ngày 11/11/1945, thật ra là rút lui vào bí mật. Chính dưới cái mặt nạ đảng Lao động mà đảng Cộng sản đã làm cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu người yêu nước, làm cho nông thôn, nông dân và nền nông nghiệp điêu đứng cho đến ngày nay. Chính dưới danh nghĩa đảng Lao động mà đảng Cộng sản làm hợp tác hóa – cải tạo nông thôn, cải tạo công – thương – nghiệp, rồi tự đề ra phương châm’’ đất đai là thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thay mặt quản lý’’ để cướp ruộng đất của nhân dân, để tự cho mình quyền thu hồi với đền bù rẻ mạt.
Và cũng dưới cái mặt nạ đảng Lao Động mà quân cộng sản đã lao vào xâm lược miền Nam, một quốc gia có chủ quyền được nhiều nước công nhận hơn miền Bắc, ngang nhiên chà đạp cam kết quốc tế tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, không dùng bạo lực, sẽ thống nhất qua Tổng tuyển cử tư do, sẽ có Hội đồng Hòa giải dân tộc có 3 thành phần ở miền Nam.
Và cũng dưới mặt nạ đảng Lao Động Việt Nam, đảng Cộng sản đã trả thù, bỏ tù hàng lọat không phân biệt mọi sỹ quan, viên chức, chính đảng thuộc Việt Nam Cộng hòa qua cái gọi là hàng trăm trại cải tạo cực kỳ tàn bạo bất nhân.
Vậy thì mong anh Tương Lai không nên quyến luyến gì cái quá khứ tàn bạo tội ác ấy, tuy mang chiếc mặt nạ lao động hiền lành nhưng lại là thời kỳ tàn bạo nhất, hung hãn nhất, đẫm máu, tội ác nhất, để đến năm 1976 đảng toàn trị mới lấy lại cái tên Cộng sản, khi cao trào cộng sản bắt đầu suy thoái theo tốc độ rơi tự do, dẫn đến bức tường Berlin tưởng là lâu bền sụp đổ trong một đêm cuối năm 1989, và thành trị Cộng sản Liên Xô tan vỡ tan bành cuối năm 1991, để cho đảng Cộng sản Việt Nam sớm cảm thấy đơn côi, phải lép về đầu hàng ô nhục đảng Cộng sản Trung Quốc những mong được yên thân từ sự kiện đi đêm với mật ước Thành Đô tháng 9/1990.
72 năm là quá đủ cho mọi người có lương tri, có tư duy độc lập, có sự trung thực
trí thức – probité intellectuelle – ngay thật với chính mình, bênh vực lẽ phải, thật lòng yêu nước mình, thật lòng thương dân mình, cùng nhân dân tìm ra lối thoát.
Không có lối thoát nào khác là từ bỏ dứt khoát, một lần cho mãi mãi một tổ chức mất gốc dân tộc, vay mượn từ nước ngoài những học thuyết sai lầm, ảo tưởng, cùng nhau dựng lên một tổ chức chính trị mới, trong sạch, hợp lòng dân hợp thời đại, ví như linh mục Nguyễn Văn Lý từng đề xướng là Tập Họp Quốc dân Việt Nam.

Tương Lai: Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng

Tương Lai
GS Tương Lai tại buổi lễ tưởng niệm những người con của đất nước đã ngã xuống bảo vệ Tổ Quốc. Nguồn: tư liệu
Tôi là Tương Lai, vào Đảng Lao Động Việt Nam ngày 6.1.1959, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam, hôm nay 2.9.2017 tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Đảng của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh.
Chọn hôm nay, ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước thế giới và với quốc dân đồng bào lý tưởng và mục tiêu chiến đấu nhằm xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thể hiện trong Hiến Pháp 1946 để đưa ra tuyên bố này là nhằm khẳng định lý tưởng và mục tiêu nhất quán của tôi, không hề là một quyết định nhất thời bởi những nhân tố ngẫu nhiên.
Cách nay 15 năm, trong một tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể”, đúc kết lại những bài viết của tôi trong vòng 10 năm trước, tôi đã chứng minh là không có cái gọi là “chủ nghĩa Mác Lênin”, mà đó chỉ là sản phẩm của Stalin được làm méo mó thêm qua lăng kính Mao-ít để du nhập vào Việt Nam mà xác định đó là “nền tảng tư tưởng”, là “kim chỉ nam”, để rồi ai có ý định nghiêm túc cần cẩn trọng tìm hiểu từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, từ những thành tựu nghiên cứu của giới khoa học quốc tế có uy tín, thì đều bị bịt miệng và quy cho tội phản động, chống đảng.
Trong tiểu luận ấy, tôi đã nghiêm chỉnh và thẳng thắn đề nghị cần trở lại với tên Đảng là Đảng Lao Động Việt Nam, trở lại với tên nước là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho lý luận phát triển của Việt Nam. Ở đó, tôi trình bày rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác. Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX. Tiểu luận ấy tôi đã gửi đến Hội đồng Lý luận TƯ và nhiều vị lãnh đạo song chỉ có hai người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Di bút của Đại tướng còn ghi rõ: “Chúc đc Tương Lai có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng” Hànội ngày 27/9/2006. Võ Nguyên Giáp Đã ký”.
Kiên trì dấn thân vào cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng và lý luận một cách công khai, tôi hy vọng bằng sự minh bạch đó, có thể góp phần nhỏ bé của mình cùng với những người khác làm thay đổi thực trạng của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ đang dìm đất nước trong trì trệ lạc hậu, làm hao mòn sức sống của dân tộc trước một thế giới đang biến động từng ngày. Đấy là lý do để tôi nhẫn nhục tiếp tục ở lại trong Đảng cho dù biết rằng, những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, với sự hậu thuẫn trực tiếp của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thao túng Đảng thì không còn gì là Đảng của Hồ Chí Minh nữa. Nhưng cũng lại có một thực tế oái oăm là, hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thay thế được đảng đang nắm quyền bằng hệ thống “chuyên chính vô sản” được cài cắm đến tận cơ sở.
Cho dù vậy, sự phân hóa trong nội bộ các cấp, đặc biệt là ở cấp cao nhất, các nhân tố cấp tiến chống lại sự trì trệ bảo thủ giáo điều cũng là một thực tế. Đó là một tất yếu phổ biến của mọi thực thể sống, luôn diễn ra “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” mà Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc. Cái mới sẽ thắng là không gì cản được. Bằng sự đấu tranh của từng đảng viên có lương tri, sự quyết liệt của của cuộc đấu tranh đòi dân chủ, đòi quyền sống trong các tầng lớp nhân dân đang dâng lên ngày càng mạnh mẽ thì những gì đã cũ kỹ, hư hỏng trong bộ máy quyền lực duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ sẽ bị lật nhào. Vấn đề chỉ còn là thời gian.
Thế nhưng thời gian không chờ đợi. Càng không suôn sẻ trong sự chờ đợi những gì mình mong muốn. Cho dù đã biết trước những trở ngại to lớn đang chờ đón, tôi cũng không lường trước những thủ đoạn bẩn thỉu mà người ta đã gây ra tầng tầng lớp lớp cho thiện chí phản biện hết sức trung thực và thẳng thắn một cách ôn hòa, không sa vào quá khích cực đoan mà tôi đã bền bỉ thực hiện trong nhiều năm qua. Từ những tham luận công khai trên diễn đàn của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mà tôi là ủy viên TƯ suốt hơn 30 năm qua đến những bài viết trên các báo chính thống, những trang mục thường kỳ của một số báo ở trung ương và ở thành phố HCM, tham luận tại nhiểu hội thảo trong đó có Hội thảo “Về Phương pháp luận nghiên cứu chủ thuyết phát triển và tư tưởng Hồ Chí Minh” theo lời mời của Hội đồng lý luận TƯ ngày 6.4.2009.v.v..và nhiều hoạt động lý luận, khoa học khác, tôi đều nhất quán với nguyên tắc đó. Khi bị cấm không được xuất hiện trên các báo chính thống của nhà nước cũng trên nguyên tắc đó tôi viết bài đưa lên mạng trong mục “Mênh mông thế sự” và “Mênh mông thế sự để gió cuốn đi” nhằm chuyển tải những ý tưởng vừa mang tính phản biện, vừa diễn đạt chính kiến và cảm nhận của tôi về thời cuộc.
Cho đến bài “Ngọn lửa vẫy gọi” tôi viết để tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, nhà văn Trung Quốc, giải Nobel Hòa Bình vừa qua đời, phải chăng đã động đến “thiên triều” nên đã có “chiếu chỉ” ban ra, lập tức sự cố nảy sinh.? Có phải vì thế ma một kịch bản được dàn dựng lộ liễu và bẩn thỉu nhằm bôi nhọ tôi để bằng mọi cách phải “khai trừ” tôi ra khỏi đảng ngay để vừa lòng ai đó theo chỉ thị của cấp trên? Đây chỉ là giọt nước tràn ly. Trò hề này thật hài hước và nhục nhã, tuy bước đầu thất bại nhưng chắc chắn sẽ phải thực hiện trong thời gian tới như một số trường hợp họ đã làm trước đây.
Vì vậy sẽ là ngu ngốc nếu tôi lại tiếp tục nói nói cười cười với những rôbốt vô hồn vô cảm, vừa mới hôm qua tôi đã xúc động nói những lời cám ơn thật lòng vì đã thông cảm vởi bệnh tật đang hành hạ người đảng viên già có giấy miễn sinh hoạt đảng đã đến nhà để trao đổi nội dung viết kiểm điểm gửi cho chi ủy trình bày trước chi bộ chứ không phải trực tiếp đến, thì hôm sau trước toàn thể chi bộ, ông bí thư tội nghiệp đã lật lọng vu khống là tôi không chịu đến, chi bộ cứ việc biểu quyết.
Tôi sẽ không phải viết ra những bịa tạc vu khống khác từ những “cấp trên” đến “chỉ đạo” hội nghị chi bộ thực hiện kịch bản soạn sẵn từ bên trên đã bị mấy đảng viên phản đối, mà chỉ muốn nói rằng, những nhẫn nại nhằm thực hiện thiện chí của tôi đã trở nên quá vô nghĩa. Kể cả sự tự kiềm chế để vẫn viết “Bản trình bày” về nội dung “kiểm điểm” được cho là của cấp trên đưa ra đã tự vạch trần sự lố bịch và lộ liễu những sai lầm về đường lối đối nội và đối ngoại, và đến sự kiện này thì quá hèn hạ. ** Sẽ phung phí thời gian và sức lực để phải tiếp xúc với vô vàn những “rô bốt” đáng thương chỉ biết cúi đầu tuân phục. Đã đến lúc phải dứt bỏ mọi dính líu với mớ hỗn tạp này.
Tôi phải tìm một phương thức đấu tranh mới. Tôi sẽ chiến đấu trong tư thế, và chỉ bằng tư thế đó của một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam của Hồ Chí Minh suốt mấy chục năm qua kể từ lúc vào Đảng cho đến những thời kỳ tha hóa ngày càng trầm trọng của một bộ phận chóp bu thao túng, làm băng hoại uy tín và tính chất trong sáng của Đảng, đặc biệt là từ đại hội X.
Tôi hiểu rõ tôi không hề đơn độc. Trong Đảng còn nhiều đảng viên giữ được lý tưởng và phẩm cách đảng viên Đảng của Hồ Chí Minh, họ đã và đang thầm lặng nung nấu ý chí chiến đấu và bằng những cách riêng của mỗi người đã, đang và sẽ đấu tranh làm cho Đảng trong sạch trở lại, xứng đáng với vai trò lịch sử mà Đảng của Hồ Chí Minh từng có để cùng dân tộc đi tới trong bối cảnh mới. Đương nhiên, trong bối cảnh mới ấy, mục tiêu và phương thức đấu tranh phải thích ứng với đòi hỏi mới của cuộc sống đang thay đổi từng giây từng phút để dẫn tới những đột phá.
Khát vọng xây dựng đất nước của lớp người đã ngoài 80 là những người lót đường như tôi sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên…Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm: họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào” như F. Engel đã tiên đoán. Những con người như thế đang xuất hiện, và ngày càng nhiều. Chính họ sẽ quyết định cần phải xây dựng một Đảng lãnh đạo thế nào để đưa đất nước vượt khỏi vũng lầy hiện nay, khiến cho dân tộc đang phải đắm chìm trong tăm tối bứt lên trong ánh sáng văn minh, ngẩng cao đầu đi tới như ông cha ta đã từng viết nên những trang sử chói lọi trong thời đại của các vị. Lớp trẻ ấy sẽ quyết định vận mệnh của đất nước, đưa dân tộc bứt lên cùng thế giới.
Với nhận thức đó, tôi tiếp tục dấn bước trong cảm hứng “Hành khúc” của nhà thơ Pháp từng giữ nhịp đập cho trái tim yêu nước trong tôi “Giữa mùa phản phúc. Tối đen tù ngục. Suối đã đục dòng. Chỉ lệ còn trong … Những gì ta yêu phải cứu thoát ra. Tự mình ta, tự mình ta”!
Ngày 2.9.2017