7 tháng 9, 2017

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục


Phản biện lại bài viết của GS Tương Lai
Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ.

GS Tương Lai
Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944.” Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn.”

Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.

Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949.

Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin.

Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh

Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946.

Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng Sản.

Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản.”

Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ.

Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.

Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô.

Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả rung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì.

Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường.

Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.

Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng.

Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn
nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.

Trung Cộng muốn gì?

Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam:

Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng.

Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.
Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.

Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh.

Trong Thế Chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco.

Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng.

Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng

Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ.

Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao.

Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.


Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục

Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến.

Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước.

Trần Trung Đạo

(FB Trần Trung Đạo )

6 tháng 9, 2017

La Quán Cơm.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa kể Viên Thuật và Lưu Bị đánh nhau to, Lưu Bị có vẻ yếu thế và lực hơn, Nên cầu cứu Lã Bố; Viên Thuật cũng lôi kéo Lã Bố liên minh với mình để bắt sống Lưu Bị …
Đứng trước sự lựa chọn khó khăn này, Lã Bố muốn giảng hòa nên đã kéo cả Kỷ Linh bộ tướng của Viên Thuật và Lưu Bị ra cửa Nha Môn bày trò bắn kích.
[Lã Bố sai quân cắm họa kích ở đằng xa rồi nói với Lưu Bị, Kỷ Linh: “ Ta muốn 2 ông bãi binh nhưng các ông không nghe. Từ đây đến đó cách 150 bước, ta bắn một phát tên nếu trúng ngạnh của họa kích thì hai bên phải bãi binh bởi đó là ý trời. Nếu ta bắn không trúng hai ông muốn đánh nhau thì đánh. Ta định như thế, nếu ai không nghe thì sẽ gộp quân với phía bên kia đánh lại…”
Ký Linh thấy họa kích đặt xa như vậy nên tin Lã Bố không thể bắn trúng. Vả lại nếu không đồng ý cũng không được vì Lã Bố đã bày trò đã quyết. Còn Lưu Bị thì chỉ còn cách cầu trời khấn Phật cho Lã Bố đừng bắn trật…
Kết cục Lã Bố đã bắn tên trúng ngạnh của thiên phương họa kích, Kỷ Linh bộ tướng của Viên Thuật đành phải ngậm đắng nuốt cay bãi binh…

Theo La Quán Cơm, việc Trung Quốc động binh ở Biển Đông rất có thể do Tập Cận Bình bày ra trò này để giảng hòa cuộc chiến giữa Phú Trọng và Tấn Dũng đang vào hồi quyết liệt…Hành động này của Lã Bố-Tập Cận Bình là muốn giải vây, cứu Nguyễn Tấn Dũng đang bị rơi vào tình cảnh nguy khốn, tính mạng đang được tính theo ngày giờ Việt Nam
Hành động tập trận này nhằm răn đe ông Nguyễn Phú Trọng: chỉ được phép đập ruồi còn hổ thì chỉ có thể đuổi về rừng…nào đó ở Tâu Âu hoặc Mỹ…Nếu không nghe, không hiểu sự cảnh báo này tất yếu sẽ xảy ra đánh nhau với Trung Quốc thì khò lòng ngồi yên với nhau mà đập ruồi chứ đừng mong đuổi hổ ?
Tại sai Trung Quốc lại ra tay cứu nguy cho Nguyễn Tấn Dũng vào thời điểm kịch tính này ? Mặc dù dư luận bấy lâu nay của Việt Nam vẫn đồn rằng: Ông Nguyễn Phú Trọng theo đường lối thân Tàu; Còn Nguyễn Tấn Dũng theo đường lối thân Mỹ, muốn Việt Nam rời xa Trung Quốc…
Theo La Quán Cơm thì: nếu nhìn nhận như vậy là nông nổi, là chỉ căn cứ vào đầu môi chót lưỡi của đám chính khách nhà nghề. Ông Nguyễn Phú Trọng duyên nợ với Trung Quốc bởi cái bản quyền viện trợ không hoàn lại của cái dây chuyền “ cơ chế thị trường định hướng XHCN” thuộc tác quyền Tàu…
Khi ông Nguyễn Phú Trọng hướng đất nước, Đảng, nhà nước chỉ biết dựa vào cái dây chuyền này thì sẽ đẩy Việt nam vào cái tình thế lệ thuộc tàu dài dài không chỉ đường lối, chính sách, đối nội đối ngoại và cả làm ăn liên doanh kinh tế…Và Trung Quốc sẽ hưởng lợi dài dài từ cái khoản tiền tác quyền này…
Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2015, Tập Cận Bình một mặt bắt tay, đích thân mời Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Trung Quốc nhưng lại liếc mắt đưa tình với câu thần chú, phương châm hành  khi đàm đạo về quan hệ 2 đảng, 2 nhà nước với ông Nguyễn Phú Trọng…
Phương châm 16 chữ (tiếng Trung: 十六字方) (thập lục tự phương châm) đó là:"Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan" nghĩa là sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh, xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước Việt – Trung trong thế kỷ mới…
Còn với ekip Nguyễn Tấn Dũng ?
Ông Nguyễn Tấn Dũng đã từng tuyên bố 'Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông'…đừng hiểu là ông chống Trung Quốc mà ông chỉ chê trách, cười khẩy cái cách bắt tay, chơi với Trung Quốc của ekip Nguyễn Phú Trọng…
Ý của ông Dũng nếu có đánh đổi chủ quyền dân tộc  thì đổi bằng “tiền tươi thóc thật”…Điều này đã thể hiện qua hàng loạt dự án liên doanh với Trung Quốc, vay vốn Trung Quốc và tạo điều kiện cho Trung Quốc thắng thầu… Từ bauxite Tây Nguyên, đến 90 % nhà máy nhiệt điện do Trung Quốc là nhà thầu xây lắp; Rồi hàng loạt dự án ngàn tỷ liên doanh với Trung Quốc, có bàn tay ngầm của Trung Quốc phía sau, có vật tư, máy móc rởm Trung Quốc tuồn vào, giờ đắp chiếu, thành của nợ; Rồi đường sắt Cát Linh-Hà Đông từ 300 triệu USD đội vốn lên trên 800 triệu USD mà vẫn chưa chịu xong; rồi Formosa Hà Tĩnh danh nghĩa của Tàu Đài Loan nhưng ruột là Tạu đại lục…
Tất cả những cú liên doanh đó đều đẻ là tiền tươi thóc thật, có lợi cho Trung Quốc và chắc chắn chắn sẽ có một số nhóm lợi ích đã được Trung Quốc chi công hậu hĩnh xảy ra dưới thời Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ?
Hiếu Gió có đưa lên mạng đơn tố cáo của Trịnh Xuân Thanh, không biết sắp tới khi ra tòa, Trịnh Xuân Thanh có “anh dũng” như Nguyễn Xuân Sơn, khai tuốt tuột tuột đó là chuyện ăn bớt dầu thô hút được ngoài Biển Đông…
Thử hình dung, theo lời khai của Nguyễn Xuân Sơn, tiền trong tài khoản, trong két, mà các “bố” ở PETROVIETNAM còn tìm cách chuyển đi chuyển lại để rồi cho mất tiêu hàng ngàn tỷ VND, hàng trăm triệu USD ? Vậy thì số dầu hút được ngoài Biển Đông ai mà tin được “ ma đi ăn cỗ’ không hút trộm, múc trộm…
Mấy năm trước, người viết bài này cũng đã nghe tiếng xì xèo về chuyện trộm dầu thô mà Hiếu Gió đưa lên mạng; Theo thông tin thì mất trộm già một phần 3…Có nghĩa nếu tổng sản lượng dầu thô theo kê khai xuất được 30 tỷ USD thì số bị múc trộm cũng cỡ từ 15-20 tỷ USD…
Nên nhớ ½ lượng dầu thô của Việt Nam hút lên được bán cho Trung Quốc ? Việt Nam cần gì phải sang Panama rửa tiền…Chỉ cần xuất bán sang Trung Quốc rồi vòng về cái khoản tiền trộm cắp đó, thối lại đó bằng hàng Tàu rởm, rẻ dễ bán trao tay…
Đó chính là cai duyên nợ, dây mơ rễ má, cái tiền tươi thóc thật không phải là hữu nghị viển vông mà ông Dũng nêu thành tiêu chí…Tập Cận Bình tìm cách cứu nguy cho Nguyễn Tấn Dũng xuất phát từ cái ân tình được quy đổi bằng tiền tươi thóc thật đó…
Đã có năm, một quan chức Bộ Công thương lộ ra con số chênh lệch về côn số kim ngạch ngoại thương do 2 Bộ của 2 nước kê khai chênh nhau tới 20 tỷ USD?
Theo người viết bài này, đó là các khoản tiền đen, tiền rửa của các nhóm lợi ích Việt Nam móc ngoặc, làm ăn với Trung Quốc được Trung Quốc cố tình xì ra để các nhóm này dờ hồn mà cúc cung trung thành với Tàu. Nếu phản trắc, phía Trung Quốc chỉ cần xì ra cái danh sách đen này là các chủ toi, bị xé xác tại Việt Nam…
Ekip ông Trọng đã có ý định “ thanh toán” ông Dũng tại Hội nghị TW 6 khóa XI nhưng đã không thành và ông Trọng đã phải lên TV mếu máo. Vụ đó, ông Dũng đã được Tập Cận Bình cứu…
Bức ảnh chụp ông Nguyễn Tấn Dũng gặp Tập Cận Bình ở Nam Ninh, 2 bên mặc comle đồng màu, cà vạt máu xanh nước biển trước khi diễn ra Hội nghị TW 6 khóa XI chí 4-6 ngày đã hé cho thấy có sự thỏa thuận ngầm nào đấy mang màu sắc Biển Đông giữa Tập Cận Bình và Nguyễn Tấn Dũng, mặc dù lúc đó Tập Cận Bình mới là Phó Đảng…




Hội nghị TW 6 khóa XI bế mạc 17/10 thì ngày 7/10/2012 Phạm Viết Đào bắt gặp một đoàn xe 4 chỗ mang biển số Trung Quốc chạy trên cầu Thăng Long ra Nội Bài quang vài chục chiếc ?
Đoàn này là đoàn gì mà sang Việt Nam không dám đi xe Việt Nam một quãng đường ngắn từ Hà Nội sang Nội Bài. Họ đi sang và lên máy bay Trung Quốc về Trung Quốc; chứng tỏ phải là những nhân vật quan trọng, thực thi những nhiệm vụ quan trọng thì mới cất công mang xe từ Trung Quốc sang trong cái thời điểm Đảng CSVN đang tổ chực hội nghị để ký luật ông Dũng?
Theo một nguồn tin vỉa hè thì việc kỷ luật ông Dũng đã không được đồng thuận cao khi thăm dò trong BCT; Nghe đâu chỉ có 6 phiếu gồm các ông: T,S,Q,N,D,H…Trớ trêu ông T.H.R bỏ phiếu trắng…Không biết do thời điểm này nghe nói Trịnh Xuân Thanh có quan hệ mất thiết với con gái rượu của ông T.H.R và sau đó lá phiếu trắng này được đáp lại bằng việc bố trí cô này làm CT Hội đồng quản trị một Công ty nhà nước lớn…
Do không đạt được sự đồng thuận cao trong BCT nên buộc lòng phải đưa ra BCHTW để lấy ý kiến. Trước khi đưa ra BCHTW, Hội đồng tướng lĩnh đã có một cuộc họp riêng để bàn về vấn đề kỷ luật ông Dũng. Trong cuộc họp này do sự tác động của tướng N.C.V; có thể có thể có sự tác động nào đó, răng đe nào đó từ phía Trung Quốc nên Hội đồng tướng lĩnh nghe nói không đồng ý kỷ luật ông Dũng nên tha ông Dũng đã cầu hòa Trung Quốc.
Khi cánh quân đội đại diện là PQT lên tiếng không kỷ luật, tướng T.L thứ trưởng BCA đã phát biểu một câu rất khét: Nếu ký luật vì sai phạm kinh tế thì ký luật ai ngồi đây cũng được...Một ý kiến ngầm răn đe, các chú bỏ phiếu ký luật 3 X thì các chú chờ sẽ đến lượt các chú...
Nếu ai theo dõi sát truyền hình thời đó sẽ thấy hình bóng ông Dũng cũng mất hút trên truyền hình hơn 1 tháng như trường hợp ông Trần Đại Quang vừa qua…Nếu chú ý theo dõi phiên bế mạc, ông Trọng đọc diễn văn bế mạc mếu máo khóc thì máy quay quay cảnh phía dưới, ông Đinh La Thăng ngồi tự tin vẻ đầy đắc thắng. Xem lại clip này hiện hình ảnh này của ông Thăng đã bị cắt…
Tóm lại, theo La Quán Cơm, với 3 kịch bản đã trình bày cho thấy: Trung Quốc có quan hệ với nhiều nhóm trong chính trường Việt, có lợi ích, ân tình với nhiều nhóm và không muốn mất ai giống như Lã Bố muốn hưởng lợi từ Viên Thuật nhưng lại không muốn mất bạn Lưu Bị…
Hành động động binh của Trung Quốc trên Biển Đông là ngầm ý đó: các chú phải bãi binh đi, nếu không nghe ta sẽ gộp với phía bên kia oánh lại. Thông thường trong lịch sử mỗi khi Việt Nam đứng trước sự đe dọa thách thức ngoại xâm phương bắc, người Việt thường chủ động cởi bỏ oán thù cá nhân để đoàn kết với nhau bảo vệ đất nước !
Trần Hưng Đạo đã bỏ oán thù riêng với Trần Liễu để dốc lòng ra trận đánh quân Nguyên-Mông. Trung Quốc động binh vừa mang thông điệp hòa giải của Lã Bố bắn kích cửa Viên Môn, vừa kích hoạt tình thần đoàn kết Trần Hưng Đao-Trần Liễu…để hòa giải của chiến Nguyễn Phú Trọng-Nguyễn Tấn Dũng…
Với 3 kịch bàn này, Trung Quốc muốn phát đi tín hiệu cho các phe nhóm đương chức đương quyền  từng làm ăn, từng tình sâu nghĩa nặng với Trung cộng thì cứ nên gắn bó với Trung Quốc…Xin mượn lời trong 1 ca khúc của Tóc Tiên vợ của cầu thủ bóng đá xứ Nghệ Công Vinh: “Cứ ăn cắp đi  vì cuộc đời cho phép; Cứ ngu đi có Trung Quốc bảo kê rồi…” Vì tôi còn sống )
Qua các hành động nhãn tiền, không khó đoán giải, diễn nghĩa ý đồ của Trung Quốc.

Cái dây chuyền công nghệ của Trung Quốc vẫn đặt trọng tâm, nhắm bỏ trứng vào tay các nhóm lợi ích đã và từng làm ăn với Trung Quốc. Cái dây chuyền công nghệ này khác và tương khắc với cái dây chuyền công nghệ mà Mỹ và Tây Âu đang khuyến khích Việt Nam tiếp nhận: Bỏ trứng vao tay và túi của nhân dân; động lực chính của dây chuyền…

Blog Phạm Viết Đào

Một quyết định nửa vời đáng tiếc

Bùi Tín
6-9-2017
GS Tuong Lai tại tư gia tại Sài Gòn. Courtesy Photo

Vậy là cuối cùng ông Tương Lai, một trí thức khá nổi tiếng trong nước đã rời bỏ đảng Cộng sản, nhưng với một quyết định nửa vời, nghĩa là không dứt khoát, tự cho vẫn còn là đảng viên đảng Lao Động Việt Nam của ông Hồ Chí Minh.
Tôi rất quý trọng ông Tương Lai (tên thật là Nguyễn Phước Tương) một trí thức hiếm hoi đất Thừa thiên – Huế, khá uyên bác, học nhiều, hiểu biết uyên thâm, có tư duy độc lập, gần đây nổi tiếng về các bài viết «Mông mênh thế sự, để gió cuốn đi…» sưu tầm tài liệu khá công phu, đặc sắc, tôi vẫn chờ để đọc kỹ hàng tuần. Gần đây nghe nói ông ốm, nhưng bút lực vẫn sung sức, tỏ ra ông đã khỏe.
Tôi mừng khi biết tin ông bỏ đảng Cộng sản hiện nay mà ông gọi là đảng của Nguyễn Phú Trọng, khi đảng đã thoái hóa, biến chất thành những nhóm đặc quyền, đặc lợi tranh giành nhau quyền lực và tài sản.
Tôi biết đây là một quyết định không đơn giản, khá dằn vặt, đau đớn, khi chế độ đã phong ông là Giáo sư, là Viện trưởng Viện Xã hội học, Tổng biên tập tạp chí Xã hội học, một thời là cố vấn cho các thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải. Hồi chuẩn bị cho Đại hội XII của đảng Cộng sản, ông Tương Lai đã cùng 125 trí thức – phần lớn là đảng viên cộng sản, viết thư yêu cầu đổi tên của đảng Cộng sản và đổi tên nước, không gọi là đảng Cộng sản và nước CHXHCN nữa. Đây là một đòi hỏi rất chính đáng, phù hợp với ý muốn của đông đảo nhân dân, của lẽ phải, hợp thời đại. Rất tiếc là Bộ chính trị đã khinh thị bỏ qua yêu cầu này.
Tôi rất đồng ý với ông Tương Lai khi ông lên tiếng phê phán ông Trọng một cách nghiêm khắc chính đáng. Tôi chia sẻ sự đánh giá rất ngay thật công bằng của ông vì bản thân tôi cũng đã có lần gặp gỡ, trò chuyện với ông Trọng hồi 1988 – 1989 khi ông Trọng là ủy viên ban biên tập của tạp chí Cộng sản, khi tôi là phó Tổng biên tập nhật báo Nhân Dân kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân dân Chủ nhật. Ông đã 2 lần ghé nhà tôi để yêu cầu viết bài cho tạp chí về cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1988 sau khi tôi dự họp ở Liên hợp Quốc – New York về. Khi ấy ông đi chiếc xe đạp cũ, ghé qua nhà tôi, hỏi chuyện về Hoa Kỳ và chăm chú nghe tôi kể về Hoa Kỳ, về cuốn sách «the best and the brightest»
của David Halberstam tôi đang đọc về những bộ óc tài giỏi xuất sắc nhất của nước Mỹ đã bế tắc ở Việt Nam. Ông tỏ ra rất kém hiểu biết về phương Tây vì mới học ở trường đảng Nguyễn Ái Quốc và mới biết có nước Nga, khi tiếng Nga ông nói chưa sõi, sai cả danh từ và văn phạm, còn không biết chút gì về tiếng Pháp, tiếng Anh. Tôi rất lo ngại một con người còn thấp kém, thiếu tư duy, hiểu biết như thế mà lại là lãnh tụ số 1 của đảng và Nhà nước thì nguy hiểm quá! Một con người cô đặc giáo điều máy móc cực đoan, không thể có ai bảo thủ hơn!
Trái lại tôi rất tiếc là ông Tương Lai còn sùng bái ông Hồ Chí Minh. Ông đã tự mâu thuẫn với mình, không nhất quán với chính mình khi ông tự bảo công bằng, tôn trọng sự thật lịch sử.
Với thời gian, mọi thần tượng giả tạo, bản chất thật của ông Hồ đã lồ lộ rõ ràng. Một trí thức có tư duy độc lập không thể mù quáng lâu.
Ông Tương Lai có biết ai đã mang tên Trần Dân Tiên để viết nên tiểu sử tự tâng bốc mình là «Cha già dân tộc,» còn vĩ đại hơn Trần Hưng Đạo, Quang Trung?
Ai đã quỵ lụy xin phép Staline và vâng lời Mao để tiến hành Cải cách ruộng đất theo chỉ đạo của đoàn Cố vấn Tàu, giết hại 17.000 trung nông – trí thức yêu nước kháng chiến chống Pháp, bị vu cáo là địa chủ – ác ôn, bị bắn chết và chôn sống.
Ai trong thâm tâm không muốn xuất khẩu bạo lực vào miền Nam, ai không muốn coi vũ trang là bảo bối theo phương châm của Mao «chính quyền ở đầu ngọn súng, » ai e ngại cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 là mạo hiểm, giá sinh mạng qua đắt, mà không dám can ngăn, không dám ra mặt chống lại bộ ba khát máu Lê Duẩn – Lê Đức Thọ – Nguyễn Chí Thanh, là Chủ tịch đảng, là lãnh tụ số 1, là Chủ tịch Nước mà ươn hèn, không dám có lập trường vững, để mặc cho bọn gian thần lộng hành mang lại thương vong hàng triệu sinh linh trẻ của 2 miền Nam Bắc, ông Hồ thật sự đáng chê trách, đáng lên án nặng nề nhất.
Hồi ấy tôi rất gần tướng Giáp. Ông rất tiếc là ông Hồ không nghe ông để can ngăn những quyết định «chủ quan, ngông cuồng, nguy hiểm khôn lường của 2 ông họ Lê», khi ông Giáp, cùng tướng Hoàng Văn Thái và tướng Lê Trọng Tấn đều suy nghĩ như nhau, coi Tổng tiến công tổng khởi nghĩa là chủ quan, liều lĩnh. Chỉ có ông Hồ là có quyền ngăn cản cuộc manh động phiêu lưu.
Cái rất đáng trách là ông Hồ chịu để cho bọn hiếu chiến cực đoan coi miền Nam ruột thịt là kẻ tử thù, đuổi ông sang Tàu nghỉ ngơi, đuổi ông Tổng tư lệnh Giáp sang Hungari dưỡng bệnh, để chúng tư do mở ra cuộc chiến Mậu Thân đẫm máu, một cuộc tự sát bi đát, chà đạp lên cam kết quốc tế «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Nam Việt Nam », cam kết «không dùng vũ lực để thôn tính nhau giữa 2 miền» ghi rõ trong Hiệp Định Gieneve 1954.
Thật là buồn cười khi ông Tương Lai muốn trở lại khôi phục đảng Lao Động Việt Nam! Tôi phải nói thật là ông lẩm cẩm rồi! Lẽ ra ông phải nhìn về tương lai phía trước – như chính tên ông – thì ông lại ngoái cổ về quá khứ! Đảng Lao Động ai chả biết ra đời tháng 2/1951 chỉ là cái mặt nạ của đảng Cộng sản Đông Dương, giả vờ giải tán ngày 11/11/1945, thật ra là rút lui vào bí mật. Chính dưới cái mặt nạ đảng Lao động mà đảng Cộng sản đã làm cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu người yêu nước, làm cho nông thôn, nông dân và nền nông nghiệp điêu đứng cho đến ngày nay. Chính dưới danh nghĩa đảng Lao động mà đảng Cộng sản làm hợp tác hóa – cải tạo nông thôn, cải tạo công – thương – nghiệp, rồi tự đề ra phương châm’’ đất đai là thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thay mặt quản lý’’ để cướp ruộng đất của nhân dân, để tự cho mình quyền thu hồi với đền bù rẻ mạt.
Và cũng dưới cái mặt nạ đảng Lao Động mà quân cộng sản đã lao vào xâm lược miền Nam, một quốc gia có chủ quyền được nhiều nước công nhận hơn miền Bắc, ngang nhiên chà đạp cam kết quốc tế tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, không dùng bạo lực, sẽ thống nhất qua Tổng tuyển cử tư do, sẽ có Hội đồng Hòa giải dân tộc có 3 thành phần ở miền Nam.
Và cũng dưới mặt nạ đảng Lao Động Việt Nam, đảng Cộng sản đã trả thù, bỏ tù hàng lọat không phân biệt mọi sỹ quan, viên chức, chính đảng thuộc Việt Nam Cộng hòa qua cái gọi là hàng trăm trại cải tạo cực kỳ tàn bạo bất nhân.
Vậy thì mong anh Tương Lai không nên quyến luyến gì cái quá khứ tàn bạo tội ác ấy, tuy mang chiếc mặt nạ lao động hiền lành nhưng lại là thời kỳ tàn bạo nhất, hung hãn nhất, đẫm máu, tội ác nhất, để đến năm 1976 đảng toàn trị mới lấy lại cái tên Cộng sản, khi cao trào cộng sản bắt đầu suy thoái theo tốc độ rơi tự do, dẫn đến bức tường Berlin tưởng là lâu bền sụp đổ trong một đêm cuối năm 1989, và thành trị Cộng sản Liên Xô tan vỡ tan bành cuối năm 1991, để cho đảng Cộng sản Việt Nam sớm cảm thấy đơn côi, phải lép về đầu hàng ô nhục đảng Cộng sản Trung Quốc những mong được yên thân từ sự kiện đi đêm với mật ước Thành Đô tháng 9/1990.
72 năm là quá đủ cho mọi người có lương tri, có tư duy độc lập, có sự trung thực
trí thức – probité intellectuelle – ngay thật với chính mình, bênh vực lẽ phải, thật lòng yêu nước mình, thật lòng thương dân mình, cùng nhân dân tìm ra lối thoát.
Không có lối thoát nào khác là từ bỏ dứt khoát, một lần cho mãi mãi một tổ chức mất gốc dân tộc, vay mượn từ nước ngoài những học thuyết sai lầm, ảo tưởng, cùng nhau dựng lên một tổ chức chính trị mới, trong sạch, hợp lòng dân hợp thời đại, ví như linh mục Nguyễn Văn Lý từng đề xướng là Tập Họp Quốc dân Việt Nam.

Tương Lai: Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng

Tương Lai
GS Tương Lai tại buổi lễ tưởng niệm những người con của đất nước đã ngã xuống bảo vệ Tổ Quốc. Nguồn: tư liệu
Tôi là Tương Lai, vào Đảng Lao Động Việt Nam ngày 6.1.1959, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam, hôm nay 2.9.2017 tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Đảng của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh.
Chọn hôm nay, ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước thế giới và với quốc dân đồng bào lý tưởng và mục tiêu chiến đấu nhằm xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thể hiện trong Hiến Pháp 1946 để đưa ra tuyên bố này là nhằm khẳng định lý tưởng và mục tiêu nhất quán của tôi, không hề là một quyết định nhất thời bởi những nhân tố ngẫu nhiên.
Cách nay 15 năm, trong một tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể”, đúc kết lại những bài viết của tôi trong vòng 10 năm trước, tôi đã chứng minh là không có cái gọi là “chủ nghĩa Mác Lênin”, mà đó chỉ là sản phẩm của Stalin được làm méo mó thêm qua lăng kính Mao-ít để du nhập vào Việt Nam mà xác định đó là “nền tảng tư tưởng”, là “kim chỉ nam”, để rồi ai có ý định nghiêm túc cần cẩn trọng tìm hiểu từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, từ những thành tựu nghiên cứu của giới khoa học quốc tế có uy tín, thì đều bị bịt miệng và quy cho tội phản động, chống đảng.
Trong tiểu luận ấy, tôi đã nghiêm chỉnh và thẳng thắn đề nghị cần trở lại với tên Đảng là Đảng Lao Động Việt Nam, trở lại với tên nước là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho lý luận phát triển của Việt Nam. Ở đó, tôi trình bày rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác. Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX. Tiểu luận ấy tôi đã gửi đến Hội đồng Lý luận TƯ và nhiều vị lãnh đạo song chỉ có hai người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Di bút của Đại tướng còn ghi rõ: “Chúc đc Tương Lai có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng” Hànội ngày 27/9/2006. Võ Nguyên Giáp Đã ký”.
Kiên trì dấn thân vào cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng và lý luận một cách công khai, tôi hy vọng bằng sự minh bạch đó, có thể góp phần nhỏ bé của mình cùng với những người khác làm thay đổi thực trạng của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ đang dìm đất nước trong trì trệ lạc hậu, làm hao mòn sức sống của dân tộc trước một thế giới đang biến động từng ngày. Đấy là lý do để tôi nhẫn nhục tiếp tục ở lại trong Đảng cho dù biết rằng, những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, với sự hậu thuẫn trực tiếp của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thao túng Đảng thì không còn gì là Đảng của Hồ Chí Minh nữa. Nhưng cũng lại có một thực tế oái oăm là, hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thay thế được đảng đang nắm quyền bằng hệ thống “chuyên chính vô sản” được cài cắm đến tận cơ sở.
Cho dù vậy, sự phân hóa trong nội bộ các cấp, đặc biệt là ở cấp cao nhất, các nhân tố cấp tiến chống lại sự trì trệ bảo thủ giáo điều cũng là một thực tế. Đó là một tất yếu phổ biến của mọi thực thể sống, luôn diễn ra “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” mà Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc. Cái mới sẽ thắng là không gì cản được. Bằng sự đấu tranh của từng đảng viên có lương tri, sự quyết liệt của của cuộc đấu tranh đòi dân chủ, đòi quyền sống trong các tầng lớp nhân dân đang dâng lên ngày càng mạnh mẽ thì những gì đã cũ kỹ, hư hỏng trong bộ máy quyền lực duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ sẽ bị lật nhào. Vấn đề chỉ còn là thời gian.
Thế nhưng thời gian không chờ đợi. Càng không suôn sẻ trong sự chờ đợi những gì mình mong muốn. Cho dù đã biết trước những trở ngại to lớn đang chờ đón, tôi cũng không lường trước những thủ đoạn bẩn thỉu mà người ta đã gây ra tầng tầng lớp lớp cho thiện chí phản biện hết sức trung thực và thẳng thắn một cách ôn hòa, không sa vào quá khích cực đoan mà tôi đã bền bỉ thực hiện trong nhiều năm qua. Từ những tham luận công khai trên diễn đàn của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mà tôi là ủy viên TƯ suốt hơn 30 năm qua đến những bài viết trên các báo chính thống, những trang mục thường kỳ của một số báo ở trung ương và ở thành phố HCM, tham luận tại nhiểu hội thảo trong đó có Hội thảo “Về Phương pháp luận nghiên cứu chủ thuyết phát triển và tư tưởng Hồ Chí Minh” theo lời mời của Hội đồng lý luận TƯ ngày 6.4.2009.v.v..và nhiều hoạt động lý luận, khoa học khác, tôi đều nhất quán với nguyên tắc đó. Khi bị cấm không được xuất hiện trên các báo chính thống của nhà nước cũng trên nguyên tắc đó tôi viết bài đưa lên mạng trong mục “Mênh mông thế sự” và “Mênh mông thế sự để gió cuốn đi” nhằm chuyển tải những ý tưởng vừa mang tính phản biện, vừa diễn đạt chính kiến và cảm nhận của tôi về thời cuộc.
Cho đến bài “Ngọn lửa vẫy gọi” tôi viết để tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, nhà văn Trung Quốc, giải Nobel Hòa Bình vừa qua đời, phải chăng đã động đến “thiên triều” nên đã có “chiếu chỉ” ban ra, lập tức sự cố nảy sinh.? Có phải vì thế ma một kịch bản được dàn dựng lộ liễu và bẩn thỉu nhằm bôi nhọ tôi để bằng mọi cách phải “khai trừ” tôi ra khỏi đảng ngay để vừa lòng ai đó theo chỉ thị của cấp trên? Đây chỉ là giọt nước tràn ly. Trò hề này thật hài hước và nhục nhã, tuy bước đầu thất bại nhưng chắc chắn sẽ phải thực hiện trong thời gian tới như một số trường hợp họ đã làm trước đây.
Vì vậy sẽ là ngu ngốc nếu tôi lại tiếp tục nói nói cười cười với những rôbốt vô hồn vô cảm, vừa mới hôm qua tôi đã xúc động nói những lời cám ơn thật lòng vì đã thông cảm vởi bệnh tật đang hành hạ người đảng viên già có giấy miễn sinh hoạt đảng đã đến nhà để trao đổi nội dung viết kiểm điểm gửi cho chi ủy trình bày trước chi bộ chứ không phải trực tiếp đến, thì hôm sau trước toàn thể chi bộ, ông bí thư tội nghiệp đã lật lọng vu khống là tôi không chịu đến, chi bộ cứ việc biểu quyết.
Tôi sẽ không phải viết ra những bịa tạc vu khống khác từ những “cấp trên” đến “chỉ đạo” hội nghị chi bộ thực hiện kịch bản soạn sẵn từ bên trên đã bị mấy đảng viên phản đối, mà chỉ muốn nói rằng, những nhẫn nại nhằm thực hiện thiện chí của tôi đã trở nên quá vô nghĩa. Kể cả sự tự kiềm chế để vẫn viết “Bản trình bày” về nội dung “kiểm điểm” được cho là của cấp trên đưa ra đã tự vạch trần sự lố bịch và lộ liễu những sai lầm về đường lối đối nội và đối ngoại, và đến sự kiện này thì quá hèn hạ. ** Sẽ phung phí thời gian và sức lực để phải tiếp xúc với vô vàn những “rô bốt” đáng thương chỉ biết cúi đầu tuân phục. Đã đến lúc phải dứt bỏ mọi dính líu với mớ hỗn tạp này.
Tôi phải tìm một phương thức đấu tranh mới. Tôi sẽ chiến đấu trong tư thế, và chỉ bằng tư thế đó của một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam của Hồ Chí Minh suốt mấy chục năm qua kể từ lúc vào Đảng cho đến những thời kỳ tha hóa ngày càng trầm trọng của một bộ phận chóp bu thao túng, làm băng hoại uy tín và tính chất trong sáng của Đảng, đặc biệt là từ đại hội X.
Tôi hiểu rõ tôi không hề đơn độc. Trong Đảng còn nhiều đảng viên giữ được lý tưởng và phẩm cách đảng viên Đảng của Hồ Chí Minh, họ đã và đang thầm lặng nung nấu ý chí chiến đấu và bằng những cách riêng của mỗi người đã, đang và sẽ đấu tranh làm cho Đảng trong sạch trở lại, xứng đáng với vai trò lịch sử mà Đảng của Hồ Chí Minh từng có để cùng dân tộc đi tới trong bối cảnh mới. Đương nhiên, trong bối cảnh mới ấy, mục tiêu và phương thức đấu tranh phải thích ứng với đòi hỏi mới của cuộc sống đang thay đổi từng giây từng phút để dẫn tới những đột phá.
Khát vọng xây dựng đất nước của lớp người đã ngoài 80 là những người lót đường như tôi sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên…Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm: họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào” như F. Engel đã tiên đoán. Những con người như thế đang xuất hiện, và ngày càng nhiều. Chính họ sẽ quyết định cần phải xây dựng một Đảng lãnh đạo thế nào để đưa đất nước vượt khỏi vũng lầy hiện nay, khiến cho dân tộc đang phải đắm chìm trong tăm tối bứt lên trong ánh sáng văn minh, ngẩng cao đầu đi tới như ông cha ta đã từng viết nên những trang sử chói lọi trong thời đại của các vị. Lớp trẻ ấy sẽ quyết định vận mệnh của đất nước, đưa dân tộc bứt lên cùng thế giới.
Với nhận thức đó, tôi tiếp tục dấn bước trong cảm hứng “Hành khúc” của nhà thơ Pháp từng giữ nhịp đập cho trái tim yêu nước trong tôi “Giữa mùa phản phúc. Tối đen tù ngục. Suối đã đục dòng. Chỉ lệ còn trong … Những gì ta yêu phải cứu thoát ra. Tự mình ta, tự mình ta”!
Ngày 2.9.2017

Cảm nghĩ về bản tuyên bố bỏ đảng của Giáo sư Tương Lai

Thạch Đạt Lang
4-9-2017
Ông Hồ Chí Minh đọc Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951). Ảnh: TL/ báo Ấp Bắc
Là một trí thức thật sự, từng giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước như Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, lại là tác giả nhiều bài báo, phát biểu về các chủ đề về văn hóa và xã hội của Việt Nam như phát triển, hội nhập, giáo dục, văn hóa… được đánh giá là sắc sảo, thẳng thắn trên các phương tiện truyền thông, chứng tỏ GS Tương Lai là người dầy công nghiên cứu, tìm hiểu sâu xa về xã hội cũng như lịch sử hình thành xã hội qua các thời kỳ.
Tôi không nghi ngờ gì tấm lòng yêu nước trung thực, nồng nàn của ông Tương Lai với đất nước, dân tộc. Tôi cũng không đánh giá những bài viết – phản biện lại đường lối, chính sách mà đảng CSVN hiện nay đang theo đuổi – những phản biện nhằm mục đích đưa Việt Nam ra khỏi cơn khủng hoảng về kinh tế, suy đồi về văn hóa, hỗn loạn trong quản trị, điều hành đất nước, xã hội điên đảo, mất niềm tin giữa người dân với chính quyền, với công an, quân đội và giữa người dân với nhau… có thật sự tác động hay ảnh hưởng gì đến độc giả hay những người lãnh đạo đảng và chế độ CS hiện nay hay không?
Tuy nhiên, bài viết của ông Tương Lai “Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh”khiến tôi thật thất vọng. Sự thất vọng đó khiến tôi viết lên những dòng nhận định sau đây.
Bản tuyên bố của ông Tương Lai khá dài, tôi chỉ trích ra một vài đoạn, phân tích những mâu thuẫn mà ông Tương Lai mắc phải.
Trong tuyên bố của mình, ông Tương Lai nói rằng, ông dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng. Điều này khiến tôi vô cùng ngạc nhiên vì là lần đầu tiên nghe đến đảng Nguyễn Phú Trọng. Thú thật không biết đảng Nguyễn Phú Trọng là đảng nào, thành lập bao giờ, có bao nhiêu đảng viên, chủ trương, mục đích, cương lĩnh hoạt động ra sao? Tôi chỉ biết ông Trọng đang là Tổng Bí Thư của đảng CSVN.
Như thế, việc ông Tương Lai gọi ĐCSVN hiện nay là đảng Nguyễn Phú Trọng, theo tôi hiểu chỉ là một cách phủ nhận vai trò lãnh đạo đảng CSVN của ông Trọng. Vậy theo ông Tương Lai, khi quay về với đảng Lao Động của Hồ Chí Minh, ông muốn ai sẽ là người lãnh đạo của đảng HCM?
Là một nhà xã hội học dưới chế độ CS, chắc chắn ông Tương Lai phải đọc lịch sử thành lập ĐCSVN ít nhất là vài lần, chẳng những đọc mà còn đọc kỹ, nghiền ngẫm đến thuộc lòng lịch sử đảng. Do đó, không thể nói ông không biết rằng việc đổi tên đảng Cộng Sản Đông Dương thành Đảng Lao Động Việt Nam vào năm 1951 chỉ là một thủ đoạn chính trị của ông Hồ Chí Minh vì nhu cầu của tình hình trong nước.
Ngay từ ngày đầu thành lập cho đến tháng 10.1930, đảng CSVN mang tên đảng Cộng Sản Đông Dương là một bộ phận của Quốc Tế Cộng Sản, theo chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin. Cương lĩnh và điều lệ đảng CSVN từ năm 1930 đến nay đã thay đổi tổng cộng 11 lần nhưng bản chất hoàn toàn không có gì khác biệt với nội dung ban đầu.
Cho dù tự tuyên bố giải tán vào tháng 11 năm 1945 rồi tái xuất hiện chính thức vào tháng 2.1951, cương lĩnh của đảng CSVN không hề thay đổi. Thử so sánh môt vài lần đổi tên và điều lệ, cương lĩnh sau khi thành lập đảng CSVN xem có gì khác biệt:
Năm 1930: “Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xô viết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩatheo chương trình của Quốc tế Cộng sản”.
Năm 1951. “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
Đảng Lao động nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, dân chủ tự do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Không có gì mới, chỉ là những ngôn từ được viết khác đi, còn nội dung giống y chang, mục đích vẫn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đến đại hội đảng lần thứ 3 năm 1960 những chữ Engels, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông bị hủy bỏ. Đến năm 1976, đảng Lao Động Việt Nam chính thức đổi tên thành Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong tất cả những lần đại hội, ĐCSVN chỉ thay đổi tên và một ít điều lệ trong cương lĩnh nhưng mục đích, chủ trương, chính sách, đường lối hoạt động của đảng không có gì mới.
Mãi đến năm 1986 vì sự sai lầm nặng nề trong các chính sách cải cách giá-lương-tiền đưa đến việc đổi tiền năm 1985, gây ra khủng hoảng kinh tế, đảng CSVN mới hoảng hốt đổi mới, thay đổi đường lối kinh tế, gia nhập nền kinh tế thị trường nhưng lại thòng thêm cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chắc chắn không một kinh tế gia lỗi lạc nào trên thế giới có thể hiểu rõ hoặc giải thích “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là gì, vận hành ra sao”.
Đến khi chủ nghĩa CS sụp đổ trên toàn thế giới, bắt đầu ngay tại cái nôi của nó là Liên Xô, lan đến Đông Âu, đảng CSVN hoang mang, thấy rõ nguy cơ tan vỡ của chủ nghĩa Mác-Lê, vội vã ôm chân bọn bá quyền Bắc Kinh để tồn tại và để giữ vững độc quyền cai trị, liền chính thức đưa thêm tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong cương lĩnh của đảng năm 1991.
Khi quay trở lại với tư cách đảng viên đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh để tiếp tục chiến đấu, không thấy ông Tương Lai nói rõ là trở lại với đảng của Hồ Chí Minh vào thời điểm nào, năm 1930, 1951, 1960 hay 1991?
Xin đặt ra câu hỏi: Từ năm 1951 đến năm 1991 là 40 năm, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm ở đâu trong suy nghĩ của ông Tương Lai và các lãnh đạo đảng CS qua nhiều thế hệ? Chẳng lẽ sau khi ông Hồ Chí Minh chết 22 năm (1969-1991), các đảng viên, lãnh đạo ĐCS mới chợt khám phá ra bác Hồ có tư tưởng vừa sâu, vừa dài? Và nếu ông Hồ quả thật có tư tưởng, thì lý do gì trong khi ông Hồ còn sống, tư tưởng này không hề được nghe ai nói đến hay truyền bá nó?
Trong bản tuyên bố, ông Tương Lai cho biết cách đây 15 năm, năm 2002 ông có viết một tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể” để chứng minh rằng không có cái gọi là Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin, chỉ là sản phẩm của Stalin được nhào nặn, thêm mắm muối, bột ngọt… nhập cảng từ Trung cộng với chủ nghĩa Mao được du nhập vào Việt Nam và xác định đó là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam để trù dập, bịt miệng, kết tội phản động những nghiên cứu khoa học từ thực tiễn Việt Nam và trên thế giới.
Ông Trương Lai đã tốn 10 năm để thu thập tư liệu, nghiên cứu biến chuyển xã hội, những thành tựu thực tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ông bắt đầu tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh vào năm 1992 sau khi khối cộng sản sụp đổ, điều đó có nghĩa là, nếu CS thế giới chưa sụp đổ thì tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ không có cơ duyên xuất hiện? Nhưng ai là người đầu tiên “phát hiện” ra tư tưởng Hồ Chí Minh? Không ai biết, không ai hay, không thấy tài liệu, sách vở nào nói tới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đột ngột xuất hiện trong cương lĩnh ĐCSVN vào năm 1991 để cứu đảng CSVN, như “một tia chớp sáng lòa”, như Phật Thích Ca hay Chú Giê-Su giáng trần để cứu rỗi chúng sinh. Từ đó giáo sư Tương Lai trở thành người học trò lỗi lạc đi truyền bá tư tưởng này với tiểu luận “Chân lý là cụ thể” nói trên. Tiếc thay tiểu luận không được nhiều người trong ĐCSVN hưởng ứng, chỉ có 2 người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là ông Võ Văn Kiệt và tướng Võ Nguyên Giáp, theo ông Tương Lai.
Trong tiểu luận này, ông Tương Lai ca ngợi Hồ chí Minh rất lộ liễu, nhằm mục đích gì tôi không biết: “tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác”, mà quên đi rằng Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm chính trong vụ Cải Cách Ruộng Đất với hơn 100.000 người dân bị sát hại oan uổng, bao nhiêu nhân tài, tinh hoa của đất nước như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần… bị vùi dập, trấn áp trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm hay mấy triệu mạng thanh niên hai miền Nam Bắc hy sinh trong nội chiến 1954-1975, vì những điều hoang tưởng của chủ nghĩa CS.
Cũng theo lời ông Tương Lai: “Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam”.
Không thấy có sách vở, tài liệu, kết quả nào đã chứng tỏ rằng ông Hồ Chí Minh đã thực hiện được tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian hay vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng vào thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam.
“Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX”. Tại sao trong khi chính bản thân Hồ Chí Minh xác định, ông ta không hề có tư tưởng nào ngoài tư tưởng Marx-Lenin, thì có người lại ca ngợi rằng, tư tưởng của ông Hồ là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX?
Quan sát thực tế, có thể thấy rõ, không có thành quả về kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục, y tế… dưới chế độ cộng sản VN mấy chục năm qua, ngay cả khi ông Hồ còn sống, chứng minh được rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là cuộc gặp gỡ lịch sử nói trên.
Nói chuyện với một số người thân trong nước, họ cho rằng ông Tương Lai phải viết như thế để tranh thủ sự đồng tình của một số đảng viên còn phẩm chất, từ đó có thể tập trung được sức mạnh làm thay đổi tình hình từ trong nội bộ đảng CSVN, dẫn tới một cuộc cách mạng ôn hòa, thay đổi vận mệnh đất nước mà không phải đổ máu hay gây ra xáo trộn, khủng hoảng xã hội.
Tôi không tin điều này. Đất nước VN hiện tại đang có nguy cơ biến mất trên bản đồ thế giới, trở thành môt thuộc địa của Trung Cộng trong tương lai rất gần, mọi thay đổi có tính cách chắp vá đều không có hiệu quả, khó lòng cứu vãn được tình thế. Ông Tương Lai không phải là một tuyên giáo của đảng CS, ông là một nhà xã hội học, nghiên cứu phát triển thực tế của xã hội, nhưng làm gì có thực tế nào khác dưới chế độ CS ngoài thực tế mà người dân VN đang chứng kiến?
Tin tưởng vào những điều mình viết, nói ra và tìm cách truyền bá sâu rộng vào trong nội bộ đảng, trong dân chúng, tiếc thay, những điều GS Tương Lai viết và nói ra không được các đồng chí lãnh đạo trong đảng CS đón nhận, bởi vì họ biết đó chỉ là những chuyện phiếm, không thật.
Không có chiến lược, chính sách, đường lối hoạt động nào của chế độ CSVN trong suốt 72 năm qua phát xuất từ Tư Tưởng Hồ Chí Minh. Tất cả đều, một là rập khuôn theo các chính sách, đường lối của Mao Trạch Đông, hai là bắt chước y như Liên Xô.
Ban tuyên giáo CSVN dựng lên Tư tưởng Hồ Chí Minh như một tấm bình phong để ĐCS tiếp tục độc quyền cai trị đất nước và ông Tương Lai bập vào đó như một cơ hội để nghiền ngẫm, nghiên cứu mong được trọng dụng. Tiếc thay họ đã phớt lờ ông vì biết rõ ông Hồ Chí Minh chẳng có tư tưởng gì.
Ông Hà Sĩ Phu, tức tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, năm 1988 đã viết tham luận Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ, bài tham luận không hề được chính thức phổ biến hay đăng tải trên bất cứ tờ báo nào trong nước, chỉ được tác giả phổ biến, chuyền tay nhau trong vòng thân hữu, bạn bè – vạch ra những nghịch lý của chủ nghĩa CS – mà tác giả đã bị không biết bao nhiêu là công kích, đã phá, vu khống, chụp mũ từ báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân… khiến cho cuộc sống của tác giả điêu đứng trong một thời gian khá dài.
Hai năm sau, 1990 chủ nghĩa CS tan rã ở Đông Âu và Liên Xô chứng tỏ ông Hà Sĩ Phu đã tiên đoán được chủ thuyết CS hoang tưởng của Marx sẽ sụp đổ. Thế mà gần 30 năm sau, khi chủ nghĩa CS bị chôn vùi nơi sinh ra nó, giáo sư Tương Lai vẫn rị mọ, loay hoay truyền bá chủ thuyết này sau khi gắn thêm cho nó Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
Chế độ CSVN đã mục rữa toàn bộ, mọi sự thay đổi dù cho có bị tác động trong nội bộ đảng, chính quyền hay ảnh hưởng bên ngoài, đều không thể cứu vãn được tình thế. Khi tính cách độc đảng, độc quyền lãnh đạo đất nước vẫn tồn tại với điều 4 hiến pháp thì đảng Lao Động của Hồ Chí Minh hay đảng CS của Nguyễn Phú Trọng chẳng khác gì nhau.
Từ bỏ đảng CSVN của Nguyễn Phú Trọng để trở lại chiến đấu cùng với đảng Lao Động Hồ Chí Minh, phải chăng ông Tương Lai muốn quay về với quá khứ để giữ vững chế độ?
© Copyright Tiếng Dân