6 tháng 9, 2017

Cảm nghĩ về bản tuyên bố bỏ đảng của Giáo sư Tương Lai

Thạch Đạt Lang
4-9-2017
Ông Hồ Chí Minh đọc Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951). Ảnh: TL/ báo Ấp Bắc
Là một trí thức thật sự, từng giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước như Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, lại là tác giả nhiều bài báo, phát biểu về các chủ đề về văn hóa và xã hội của Việt Nam như phát triển, hội nhập, giáo dục, văn hóa… được đánh giá là sắc sảo, thẳng thắn trên các phương tiện truyền thông, chứng tỏ GS Tương Lai là người dầy công nghiên cứu, tìm hiểu sâu xa về xã hội cũng như lịch sử hình thành xã hội qua các thời kỳ.
Tôi không nghi ngờ gì tấm lòng yêu nước trung thực, nồng nàn của ông Tương Lai với đất nước, dân tộc. Tôi cũng không đánh giá những bài viết – phản biện lại đường lối, chính sách mà đảng CSVN hiện nay đang theo đuổi – những phản biện nhằm mục đích đưa Việt Nam ra khỏi cơn khủng hoảng về kinh tế, suy đồi về văn hóa, hỗn loạn trong quản trị, điều hành đất nước, xã hội điên đảo, mất niềm tin giữa người dân với chính quyền, với công an, quân đội và giữa người dân với nhau… có thật sự tác động hay ảnh hưởng gì đến độc giả hay những người lãnh đạo đảng và chế độ CS hiện nay hay không?
Tuy nhiên, bài viết của ông Tương Lai “Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh”khiến tôi thật thất vọng. Sự thất vọng đó khiến tôi viết lên những dòng nhận định sau đây.
Bản tuyên bố của ông Tương Lai khá dài, tôi chỉ trích ra một vài đoạn, phân tích những mâu thuẫn mà ông Tương Lai mắc phải.
Trong tuyên bố của mình, ông Tương Lai nói rằng, ông dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng. Điều này khiến tôi vô cùng ngạc nhiên vì là lần đầu tiên nghe đến đảng Nguyễn Phú Trọng. Thú thật không biết đảng Nguyễn Phú Trọng là đảng nào, thành lập bao giờ, có bao nhiêu đảng viên, chủ trương, mục đích, cương lĩnh hoạt động ra sao? Tôi chỉ biết ông Trọng đang là Tổng Bí Thư của đảng CSVN.
Như thế, việc ông Tương Lai gọi ĐCSVN hiện nay là đảng Nguyễn Phú Trọng, theo tôi hiểu chỉ là một cách phủ nhận vai trò lãnh đạo đảng CSVN của ông Trọng. Vậy theo ông Tương Lai, khi quay về với đảng Lao Động của Hồ Chí Minh, ông muốn ai sẽ là người lãnh đạo của đảng HCM?
Là một nhà xã hội học dưới chế độ CS, chắc chắn ông Tương Lai phải đọc lịch sử thành lập ĐCSVN ít nhất là vài lần, chẳng những đọc mà còn đọc kỹ, nghiền ngẫm đến thuộc lòng lịch sử đảng. Do đó, không thể nói ông không biết rằng việc đổi tên đảng Cộng Sản Đông Dương thành Đảng Lao Động Việt Nam vào năm 1951 chỉ là một thủ đoạn chính trị của ông Hồ Chí Minh vì nhu cầu của tình hình trong nước.
Ngay từ ngày đầu thành lập cho đến tháng 10.1930, đảng CSVN mang tên đảng Cộng Sản Đông Dương là một bộ phận của Quốc Tế Cộng Sản, theo chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin. Cương lĩnh và điều lệ đảng CSVN từ năm 1930 đến nay đã thay đổi tổng cộng 11 lần nhưng bản chất hoàn toàn không có gì khác biệt với nội dung ban đầu.
Cho dù tự tuyên bố giải tán vào tháng 11 năm 1945 rồi tái xuất hiện chính thức vào tháng 2.1951, cương lĩnh của đảng CSVN không hề thay đổi. Thử so sánh môt vài lần đổi tên và điều lệ, cương lĩnh sau khi thành lập đảng CSVN xem có gì khác biệt:
Năm 1930: “Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xô viết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩatheo chương trình của Quốc tế Cộng sản”.
Năm 1951. “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
Đảng Lao động nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, dân chủ tự do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Không có gì mới, chỉ là những ngôn từ được viết khác đi, còn nội dung giống y chang, mục đích vẫn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đến đại hội đảng lần thứ 3 năm 1960 những chữ Engels, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông bị hủy bỏ. Đến năm 1976, đảng Lao Động Việt Nam chính thức đổi tên thành Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong tất cả những lần đại hội, ĐCSVN chỉ thay đổi tên và một ít điều lệ trong cương lĩnh nhưng mục đích, chủ trương, chính sách, đường lối hoạt động của đảng không có gì mới.
Mãi đến năm 1986 vì sự sai lầm nặng nề trong các chính sách cải cách giá-lương-tiền đưa đến việc đổi tiền năm 1985, gây ra khủng hoảng kinh tế, đảng CSVN mới hoảng hốt đổi mới, thay đổi đường lối kinh tế, gia nhập nền kinh tế thị trường nhưng lại thòng thêm cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chắc chắn không một kinh tế gia lỗi lạc nào trên thế giới có thể hiểu rõ hoặc giải thích “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là gì, vận hành ra sao”.
Đến khi chủ nghĩa CS sụp đổ trên toàn thế giới, bắt đầu ngay tại cái nôi của nó là Liên Xô, lan đến Đông Âu, đảng CSVN hoang mang, thấy rõ nguy cơ tan vỡ của chủ nghĩa Mác-Lê, vội vã ôm chân bọn bá quyền Bắc Kinh để tồn tại và để giữ vững độc quyền cai trị, liền chính thức đưa thêm tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong cương lĩnh của đảng năm 1991.
Khi quay trở lại với tư cách đảng viên đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh để tiếp tục chiến đấu, không thấy ông Tương Lai nói rõ là trở lại với đảng của Hồ Chí Minh vào thời điểm nào, năm 1930, 1951, 1960 hay 1991?
Xin đặt ra câu hỏi: Từ năm 1951 đến năm 1991 là 40 năm, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm ở đâu trong suy nghĩ của ông Tương Lai và các lãnh đạo đảng CS qua nhiều thế hệ? Chẳng lẽ sau khi ông Hồ Chí Minh chết 22 năm (1969-1991), các đảng viên, lãnh đạo ĐCS mới chợt khám phá ra bác Hồ có tư tưởng vừa sâu, vừa dài? Và nếu ông Hồ quả thật có tư tưởng, thì lý do gì trong khi ông Hồ còn sống, tư tưởng này không hề được nghe ai nói đến hay truyền bá nó?
Trong bản tuyên bố, ông Tương Lai cho biết cách đây 15 năm, năm 2002 ông có viết một tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể” để chứng minh rằng không có cái gọi là Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin, chỉ là sản phẩm của Stalin được nhào nặn, thêm mắm muối, bột ngọt… nhập cảng từ Trung cộng với chủ nghĩa Mao được du nhập vào Việt Nam và xác định đó là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam để trù dập, bịt miệng, kết tội phản động những nghiên cứu khoa học từ thực tiễn Việt Nam và trên thế giới.
Ông Trương Lai đã tốn 10 năm để thu thập tư liệu, nghiên cứu biến chuyển xã hội, những thành tựu thực tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ông bắt đầu tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh vào năm 1992 sau khi khối cộng sản sụp đổ, điều đó có nghĩa là, nếu CS thế giới chưa sụp đổ thì tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ không có cơ duyên xuất hiện? Nhưng ai là người đầu tiên “phát hiện” ra tư tưởng Hồ Chí Minh? Không ai biết, không ai hay, không thấy tài liệu, sách vở nào nói tới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đột ngột xuất hiện trong cương lĩnh ĐCSVN vào năm 1991 để cứu đảng CSVN, như “một tia chớp sáng lòa”, như Phật Thích Ca hay Chú Giê-Su giáng trần để cứu rỗi chúng sinh. Từ đó giáo sư Tương Lai trở thành người học trò lỗi lạc đi truyền bá tư tưởng này với tiểu luận “Chân lý là cụ thể” nói trên. Tiếc thay tiểu luận không được nhiều người trong ĐCSVN hưởng ứng, chỉ có 2 người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là ông Võ Văn Kiệt và tướng Võ Nguyên Giáp, theo ông Tương Lai.
Trong tiểu luận này, ông Tương Lai ca ngợi Hồ chí Minh rất lộ liễu, nhằm mục đích gì tôi không biết: “tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác”, mà quên đi rằng Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm chính trong vụ Cải Cách Ruộng Đất với hơn 100.000 người dân bị sát hại oan uổng, bao nhiêu nhân tài, tinh hoa của đất nước như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần… bị vùi dập, trấn áp trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm hay mấy triệu mạng thanh niên hai miền Nam Bắc hy sinh trong nội chiến 1954-1975, vì những điều hoang tưởng của chủ nghĩa CS.
Cũng theo lời ông Tương Lai: “Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam”.
Không thấy có sách vở, tài liệu, kết quả nào đã chứng tỏ rằng ông Hồ Chí Minh đã thực hiện được tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian hay vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng vào thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam.
“Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX”. Tại sao trong khi chính bản thân Hồ Chí Minh xác định, ông ta không hề có tư tưởng nào ngoài tư tưởng Marx-Lenin, thì có người lại ca ngợi rằng, tư tưởng của ông Hồ là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX?
Quan sát thực tế, có thể thấy rõ, không có thành quả về kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục, y tế… dưới chế độ cộng sản VN mấy chục năm qua, ngay cả khi ông Hồ còn sống, chứng minh được rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là cuộc gặp gỡ lịch sử nói trên.
Nói chuyện với một số người thân trong nước, họ cho rằng ông Tương Lai phải viết như thế để tranh thủ sự đồng tình của một số đảng viên còn phẩm chất, từ đó có thể tập trung được sức mạnh làm thay đổi tình hình từ trong nội bộ đảng CSVN, dẫn tới một cuộc cách mạng ôn hòa, thay đổi vận mệnh đất nước mà không phải đổ máu hay gây ra xáo trộn, khủng hoảng xã hội.
Tôi không tin điều này. Đất nước VN hiện tại đang có nguy cơ biến mất trên bản đồ thế giới, trở thành môt thuộc địa của Trung Cộng trong tương lai rất gần, mọi thay đổi có tính cách chắp vá đều không có hiệu quả, khó lòng cứu vãn được tình thế. Ông Tương Lai không phải là một tuyên giáo của đảng CS, ông là một nhà xã hội học, nghiên cứu phát triển thực tế của xã hội, nhưng làm gì có thực tế nào khác dưới chế độ CS ngoài thực tế mà người dân VN đang chứng kiến?
Tin tưởng vào những điều mình viết, nói ra và tìm cách truyền bá sâu rộng vào trong nội bộ đảng, trong dân chúng, tiếc thay, những điều GS Tương Lai viết và nói ra không được các đồng chí lãnh đạo trong đảng CS đón nhận, bởi vì họ biết đó chỉ là những chuyện phiếm, không thật.
Không có chiến lược, chính sách, đường lối hoạt động nào của chế độ CSVN trong suốt 72 năm qua phát xuất từ Tư Tưởng Hồ Chí Minh. Tất cả đều, một là rập khuôn theo các chính sách, đường lối của Mao Trạch Đông, hai là bắt chước y như Liên Xô.
Ban tuyên giáo CSVN dựng lên Tư tưởng Hồ Chí Minh như một tấm bình phong để ĐCS tiếp tục độc quyền cai trị đất nước và ông Tương Lai bập vào đó như một cơ hội để nghiền ngẫm, nghiên cứu mong được trọng dụng. Tiếc thay họ đã phớt lờ ông vì biết rõ ông Hồ Chí Minh chẳng có tư tưởng gì.
Ông Hà Sĩ Phu, tức tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, năm 1988 đã viết tham luận Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ, bài tham luận không hề được chính thức phổ biến hay đăng tải trên bất cứ tờ báo nào trong nước, chỉ được tác giả phổ biến, chuyền tay nhau trong vòng thân hữu, bạn bè – vạch ra những nghịch lý của chủ nghĩa CS – mà tác giả đã bị không biết bao nhiêu là công kích, đã phá, vu khống, chụp mũ từ báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân… khiến cho cuộc sống của tác giả điêu đứng trong một thời gian khá dài.
Hai năm sau, 1990 chủ nghĩa CS tan rã ở Đông Âu và Liên Xô chứng tỏ ông Hà Sĩ Phu đã tiên đoán được chủ thuyết CS hoang tưởng của Marx sẽ sụp đổ. Thế mà gần 30 năm sau, khi chủ nghĩa CS bị chôn vùi nơi sinh ra nó, giáo sư Tương Lai vẫn rị mọ, loay hoay truyền bá chủ thuyết này sau khi gắn thêm cho nó Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
Chế độ CSVN đã mục rữa toàn bộ, mọi sự thay đổi dù cho có bị tác động trong nội bộ đảng, chính quyền hay ảnh hưởng bên ngoài, đều không thể cứu vãn được tình thế. Khi tính cách độc đảng, độc quyền lãnh đạo đất nước vẫn tồn tại với điều 4 hiến pháp thì đảng Lao Động của Hồ Chí Minh hay đảng CS của Nguyễn Phú Trọng chẳng khác gì nhau.
Từ bỏ đảng CSVN của Nguyễn Phú Trọng để trở lại chiến đấu cùng với đảng Lao Động Hồ Chí Minh, phải chăng ông Tương Lai muốn quay về với quá khứ để giữ vững chế độ?
© Copyright Tiếng Dân

Ông Tương Lai bỏ ‘đảng Nguyễn Phú Trọng’, giữ ‘đảng HCM’

6-9-2017
Nhà trí thức bất đồng hàng đầu ở Việt Nam, Giáo sư Tương Lai, từng là thành viên nhóm cố vấn cho các cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Ðảng Cộng sản Việt Nam ngay vào ngày Quốc khánh 2017 của Việt Nam. Cựu Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam này trả lời đài VOA về tuyên bố bỏ đảng bị Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thao túng trong cuộc phỏng vấn sau đây.

Giáo sư Tương Lai
: Tuyên bố của tôi mà một vài đài xem không kỹ, nghe không kỹ cho nên nói chưa chính xác, tôi xin nói lại, tuyên bố của tôi là dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng để tiếp tục chiến đấu với tư cách là đảng viên Đảng Lao động, đảng của Hồ Chí Minh.Nhà trí thức bất đồng hàng đầu ở Việt Nam, Giáo sư Tương Lai, từng là thành viên nhóm cố vấn cho các cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Ðảng Cộng sản Việt Nam ngay vào ngày Quốc khánh 2017 của Việt Nam. Cựu Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam này trả lời đài VOA về tuyên bố bỏ đảng bị Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thao túng trong cuộc phỏng vấn sau đây.
Toàn bộ nội dung của vấn đề gói gọn trong cái câu mà tôi đưa lên hàng đầu ấy. Tôi dứt bỏ mọi liên hệ với cái đảng hiện nay, là đảng do Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, không còn là đảng của Hồ Chí Minh nữa, để tiếp tục chiến đấu với tư cách là đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam, là đảng của Hồ Chí Minh. Tôi muốn nhấn mạnh điều ấy.
VOA: Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một đảng lãnh đạo duy nhất đó là Ðảng Cộng sản Việt Nam, xuất thân từ Đảng Lao động, đảng của Hồ Chí Minh – như vậy Ðảng Cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn là Đảng Lao động?
GS Tương Lai: Vấn đề đề chính là chỗ ấy. Với tuyên bố này của tôi, tôi muốn tách bạch nó ra. [trong tuyên bố] tôi nói rằng khi mà cái đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, không chỉ riêng Nguyễn Phú Trọng thôi, mà trước đó là Nông Đức Mạnh và những người khác nữa – thao túng thì nó không còn là đảng của Hồ Chí Minh nữa.
Nhưng tôi vẫn ở lại trong cái đảng này để làm gì? Ở lại trong cái đảng này để biết rằng có những đảng viên Đảng Lao động hiện đang sinh hoạt trong cái đảng bị Nguyễn Phú Trọng thao túng. [Họ] bất đồng ý kiến sâu sắc với Nguyễn Phú Trọng và bè lũ. Nhưng chúng tôi hy vọng rằng có rất nhều người, kể cả những người ở mức độ rất cao, cũng giống như chúng tôi hiện nay là bất bình và không chấp nhận sự thao túng đó của Nguyễn Phú Trọng. Chúng tôi tìm mọi cách để mà chuyển biến dần để để làm cho cái tư tưởng giáo điều, bảo thủ, lệ thuộc vào Trung Quốc, được chính quyền Bắc Kinh bảo kê cho họ giữ lấy quyền lực, làm thân phận chư hầu cho Trung Quốc. Chúng tôi phản đối điều đó. Nhưng mỗi một người, tùy theo vị trí mà có cách hành động. Và vì vậy, khi tôi ở trong đảng này, nhưng không bao giờ tôi hành động theo đường lối, chủ trương, chỉ thị của đảng do Nguyễn Phú Trọng thao túng cả. Chúng tôi vẫn chiến đấu, vẫn hành động với tư cách một đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam chưa bị tha hóa dưới sự thao túng của Nguyễn Phú Trọng.
VOA: Hiện nay số người có tư tưởng theo Đảng Lao động nguyên thủy của Hồ Chí Minh còn nhiều hay không, hay đa số đều đi theo Ðảng Cộng sản hiện nay của Nguyễn Phú Trọng rồi?
GS Tương Lai: Tôi không nghĩ như vậy. Đấy là ông nghĩ như vậy, chứ không phải là tôi nghĩ như vậy. Tôi nghĩ rằng trong cái đảng hiện nay có rất nhiều người phản đối sự thao túng của Nguyễn Phú Trọng. Và với tư cách là đảng viên, họ chiến đấu cho lý tưởng của Đảng Lao động Việt Nam khi họ tham gia, chứ họ không chịu sự thao túng của Nguyễn Phú Trọng.
Khi tôi tuyên bố vấn đề này, chính là tôi muốn rạch ròi cái vấn đề này ra.
VOA: Khi Giáo sư đưa ra tuyên bố này, trong mấy ngày qua, Giáo sư có gặp khó khăn gì từ phía đảng cầm quyền hiện nay không?
GS Tương Lai: Chắc chắn là người ta không đồng ý với tôi, và người ta cũng sẽ tìm cách khống chế, đàn áp. Cái đó tùy thuộc vào diễn biến của tình hình. Và tôi nghĩ hiện nay, chưa biết họ sẽ hành động như thế nào, nhưng đã dấn thân vào cuộc đấu tranh thì phải chấp nhận tất cả những gì có thể diễn ra.
VOA: Trong một bà viết ngày 21 tháng 8, Giáo sư có nói lý do tại sao Giáo sư nói chuyện, trả lời phỏng vấn báo đài nước ngoài. Xin hỏi Giáo sư rằng báo đài nước ngoài, trong đó có đài VOA của chúng tôi, hiện nay vẫn bị xem là báo đài của lực lượng thù địch phải không?
GS Tương Lai: Tôi không biết về phía nhà cầm quyền nghĩ như thế nào, nhưng cá nhân tôi không nghĩ đó là một lực lượng thù địch, thì tôi mới trả lời ông chứ. Nếu tôi nghĩ là lực lượng thù địch thì tôi trả lời ông làm gì. Nhưng mà vì trong cái chế độ toàn trị, phản dân chủ, trên các tờ báo chính thống của nhà nước, nó chỉ có một chiều, cho nên người ta không nghe được thông tin một cách khách quan và thông tin chính là một cái nguồn sống của con người.
Tôi không nghĩ tất cả các thông tin của các đài nước ngoài, trong đó kể cả đài [VOA] của các ông, đề nói lên sự thật cả đâu, cũng có nhiều cái, nhiều chỗ bịa xạo.
VOA: Nếu tư tưởng của Đảng Lao động Việt Nam của Hồ Chí Minh của ông sẽ trở nên chính thống, phổ biến trở lại ở đất nước Việt Nam, thì quan điểm của ông vẫn tiếp tục là chỉ có một đảng lãnh đạo – đó là Đảng Lao động Việt Nam thôi?
GS Tương Lai: Không. Bây giờ vấn đề đa nguyên, đa đảng mới được đặt ra. Những người trí thức như tôi hiểu rằng cái gì mà độc quyền, cái đó đi đến sai lầm. Muốn có dân chủ, phải có đối lập và phải có phản biện. Vì vậy đa nguyên và đa đảng là là một nhu cầu của cuộc sống. Chỉ có cái đảng toàn trị, họ sợ sự phản biện, họ sợ sự đối lập, cho nên họ bằng bạo lực, bằng lừa bịp để họ cấm đoán điều này.
Nhưng trong thực tế không phải như vậy. Chính ông Hồ Chí Minh, trước đây khi thành lập chính phủ liên hiệp kháng chiến sau năm 1946, sau Cách mạng tháng 8, thì đó là chính phủ đa đảng đấy chứ. Và chí ít sau đó cũng có 3 đảng, Đảng Lao động Việt Nam, Ðảng Dân chủ, và Đảng Xã hội Việt Nam, chính là do ông Hồ Chí Minh chủ động thúc đẩy việc thành lập, và tạo mọi điều kiện để thành lập. Ðảng Dân chủ là đảng của các nhà thông thương, các nhà kinh tế. Đảng Xã hội là đảng của các nhà trí thức.
VOA: Nếu Giáo sư có một đề nghị về cơ cấu của đảng để lãnh đạo đất nước, thì Giáo sư đề nghị như thế nào cho Ðảng Cộng sản hiện nay?
GS Tương Lai: Như tôi đã nói ngay từ đầu – sự vật nó vốn là đa nguyên. Một cấu trúc phải đa nguyên mới có thể phát triển. Vì thế tư tưởng đa đảng, đa nguyên bây giờ mới có, mà nó đã có từ lâu rồi. Mà nạn nhân đầu tiên – nói đầu tiên có lẽ cũng không phải hoàn toàn đúng, nhưng rõ nhất là ông Trần Xuân Bách, lúc bấy giờ là ủy viên bộ chính trị, bí thư trung ương đảng, là một người rất thông minh và tài năng. Tôi được tiếp xúc với ông nhiều lần, và tôi biết đấy là một người rất tâm huyết. Ngay khi ông vừa mới đề xướng ra ý này thì đã bị Nguyễn Văn Linh “dập nát đầu” ngay lập tức, và đuổi ra khỏi trung ương ngay, kỷ luật ngay. Thì đấy là cái tấm gương, một bài học để cho những người sau này, tuy rằng muốn có tư tưởng đó, cũng không dại gì bộc lộ tư tưởng sớm đâu, họ vẫn phải giữ gìn lại để khi có điều kiện, có thời cơ thì họ mới đề xuất điều này ra. Đấy là bài học lịch sử mà những người am hiểu thời cuộc đều biết cả. Không thể gói gọn một gói là tất cả những đảng viên của đảng cầm quyền hiện nay là đều vất đi, đều hư hỏng, nhất là những bộ phận cấp cao – nói như thế là không am hiểu tình hình.
VOA: Từ cái bài học mà Giáo sư phân tích cho đến nay thì, bây giờ dù muốn dù không, cũng không có thêm một hoặc hai đảng nào khác để có thể có tiếng nói đối lập với Ðảng Cộng sản hiện nay.
GS Tương Lai: Đấy là ông ngồi bên ngoài nhìn tình hình, thì ông nói như vậy. Và đấy là một sự nhầm lẫn rất lớn. Còn chúng tôi ở trong cuộc, ở trong nước, chúng tôi hiểu tình hình hơn các ông. Và chúng tôi hiểu rằng không phải ông Nguyễn Phú Trọng và những người phe cánh của ổng muốn làm gì thì làm đâu. Họ biết rất rõ, uy tín của họ đang lung lay. Nếu mà không có sự hà hơi tiếp sức của Bắc Kinh thì họ đã bị đổ vỡ từ lâu rồi. Cho nên những người đấu tranh để đòi hỏi dân chủ hóa, càng ngày càng thúc đẩy phong trào dân chủ hóa mạnh bao nhiêu, thì càng tạo điều kiện để thay đổi thế chế. Khi nói thay đổi thể chế, chúng tôi muốn nói thay đổi một cách hòa bình, chuyển hóa dần dần, để các tư tưởng bảo thủ, trì trệ một duy trì một chế độ toàn trị phản dân chủ dần dần phải thay đổi, và thay đổi vào đó là một chế độ dân chủ hơn. Đương nhiên dân chủ không thể một sớm một chiều mà có được. Dân chủ phải là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài với nhiều phương thức, nhiều hoạt động, nhiều lực lượng, nhiều sự phối hợp và tùy theo tình thế. Ví dụ, khi Obama trải thảm đỏ để Việt Nam có thể dứt bỏ mối quan hệ với Trung Quốc đi, thì Nguyễn Phú Trọng vẫn dùng chính sách đu dây, vẫn bám chặt lấy Trung Quốc. Và thời cơ đó qua đi rồi. Đến bây giờ ông Trump lên – tôi không bình luận về nước Mỹ, nhưng có một sự thật là ông Trump không phải là người quan tâm lắm về những vấn đề nhân quyền và vấn đề dân chủ ở nước các anh. Và ông ta là một doanh nhân, ông ta muốn cái gì phải có tiền đếm được, thì vấn đề này trở nên khó khăn. Thì đấy, có những thời cơ, nhưng biết đâu với một diễn biến nào đó, Bởi vì tình hình thế giới, tình hình chính trị của khu vực đang diễn biến rất khác thường. Chính những diễn biến khác thường ấy tạo nên những tiền đề mà những người dám đấu tranh và biết phương thức đấu tranh một cách ôn hòa. Đến một lúc nào đó, thì lượng sẽ đổi thành chất, và lúc bấy giờ nó có những đột biến, thì cái đó không ai lường trước được cả.
VOA: Cám ơn Giáo sư đã trả lời phỏng vấn của đài VOA.

5 tháng 9, 2017

Không thể làm người mà không tự diễn biến

Có lẽ đã được Bắc Kinh cho biết trước về cuộc diễn tập bằng đạn thật của Hải Quân Trung Quốc cách bờ Đà Nẵng chỉ 75 hải lý vào đầu tháng 9, nên vào ngày 29/8/2017, tại Hội nghị Quân Ủy Trung ương, Tổng Bí Thư Đảng kiêm Bí Thư Quân Ủy Nguyễn Phú Trọng nghiêm trọng cảnh giác Quân Đội Nhân Dân: tuyệt đối không được để xảy ra “những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ”. Rõ ràng đây tiếp tục là mối lo âu hàng đầu của lãnh đạo, có ưu tiên cao hơn cả nhu cầu bảo vệ chủ quyền đất nước.
Sách: Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên hiện nay, do ông Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng 4T chủ biên.
Nhưng trước hết, bản thân có bằng tiến sĩ ngành Xây Dựng Đảng, ông Trọng dư biết “tự diễn biến, tự chuyển hóa” chỉ là tên mới cho một chiến thuật rất cũ trong mọi chế độ cộng sản. Tại Liên Xô nó từng có tên như “Trotskist”, “Chủ nghĩa Xét Lại”, “Diễn Biến Hòa Bình” …

Ở Trung Quốc nó còn có nhiều tên hơn nữa, lúc thì “Cực Đoan Cánh Tả”, lúc thì “Phản Động Cánh Hữu”, “Kiêu Căng Cộng Sản”, “Âm Mưu Bè Lũ Bốn Tên” … Tức các nhãn hiệu nghe rất nghiêm trọng nhưng không thực sự có bao nhiêu ý nghĩa. Chúng được các lãnh tụ thuộc phe mạnh đang nắm quyền tùy tiện dán lên các đồng chí thuộc phe đối thủ để tấn công toàn diện, tiêu diệt tận gốc, và xóa tên vĩnh viễn trong hàng ngũ đảng.

Thật vậy, phía mạnh cũng nhiều lúc buộc phải lấy một số quyết định đổi thay theo chiều ngược với các quan điểm cộng sản cốt lõi như kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền … Nhưng những thay đổi đó đều do “tinh thần cách mạng triệt để dẫn đến quyết định sáng suốt đổi mới”; còn các đổi thay tương tự do cánh thua chủ trương đều vì “đầu óc phản cách mạng đã có từ lâu, dần dần dẫn đến những hành động biến chất”.

Chỉ sau khi Liên Xô sụp đổ, định nghĩa về “tự diễn biến, tự chuyển hóa” mới được bồi thêm. Tại cốt lõi, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” chỉ đơn giản là hiện tượng một số người trong guồng máy cai trị từ từ nhận ra giới cầm quyền không thực tâm, không làm như lời nói, đầy gian xảo; Rồi những người đó tiến đến nhận thức, đây là một chế độ làm khổ nhân dân, dùng cả tính mạng nhân dân cho tham vọng riêng của vài lãnh tụ, thậm chí còn khủng bố nhân dân trường kỳ; Và từ đó những người này bật lên các suy nghĩ phải làm sao cho guồng máy yếu đi, mất bớt khả năng đày đọa nhân dân.

Đó là hiện tượng mà giới lãnh đạo độc tài nào cũng sợ. Đặc biệt giới lãnh đạo Việt Nam lại càng sợ hơn nữa sau ngày Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng điều oái oăm là đã có thời lãnh đạo đảng hết lời ca ngợi hiện tượng “tự diễn biến”.

Thật vậy, khi chưa nắm được quyền tại miền Bắc trong thời chống Pháp và lúc chưa nắm được miền Nam trong thời chống Mỹ, hễ có cá nhân trí thức nào đang sống trong lòng “địch” mà bỗng chuyển đổi tư tưởng, chống lại chính quyền, đảng tặng ngay danh hiệu mỹ miều là người “giác ngộ cách mạng”, rồi bồi thêm hàng loạt các nhãn khác như “thành phần dân tộc cấp tiến”, “trí thức yêu nước”…

Điểu khó nuốt cho đảng là đang có rất nhiều người so sánh chế độ hiện nay với các chế độ trong quá khứ, so sánh với từng điểm cụ thể mà chính ông Hồ Chí Minh từng tố cáo chế độ thực dân Pháp. Họ đều thấy nhà nước hiện nay tệ hại hơn rất nhiều lần về mọi mặt so với nhà nước thực dân. Và nếu so với chính quyền VNCH thì lại càng tệ hại hơn nữa. Vì vậy, lấy lý do gì để lên án những người “tự diễn biến, tự chuyển hóa” muốn chấm dứt các bất công và thối rữa trong xã hội hiện nay, đặc biệt khi chính các lãnh tụ đảng thừa nhận “cán bộ ăn không từ một thứ gì”, “cán bộ vừa ăn vừa phá”?

Tại sao lại gọi họ là những người “tự diễn biến, tự chuyển hóa” chứ không phải những người “giác ngộ cách mạng”? Nếu những Lê Hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, … sinh ra vào thời nay thì họ có muốn tranh đấu để chấm dứt những oan sai hiện nay không? Họ có bị dán nhãn “tự diễn biến” không?

Điều khó nuốt thứ nhì cho đảng là thời đại internet đã cho phép người dân so sánh CHXHCNVN với các quốc gia khác trên thế giới. Ở tất cả các nước tiến bộ, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” là nhu cầu bức thiết của mọi ngành nghề, đặc biệt trong công nghệ cao, và mọi mặt đời sống. Tinh thần “tự diễn biến, tự chuyển hóa” được dạy cho các học sinh ngay từ cấp tiểu học và cao đến hàng lãnh đạo các công ty liên quốc gia. Mọi người được nhắc nhở, thúc đẩy, hãy vươn tới cái mới, xem đó là cơ hội, và liên tục chuyển hóa để không bị tụt lại phía sau.

Thực tế cho thấy các điều dạy dỗ đó đều ứng nghiệm chính xác. Các nước văn minh, tiến nhanh đều chuyển động trên nền tảng tự thúc bách để tự chuyển hóa liên tục. Và dù tự thúc đến như thế, họ vẫn luôn phập phồng sợ các hãng khác, các nước khác qua mặt.

Và thực tế cũng minh chứng luôn, một nước Việt Nam quyết tâm “không tự diễn biến, không tự chuyển hóa” đang ĐỨNG ở đâu. Rõ ràng cả nước Việt Nam đang ĐỨNG chứ nhất định không ĐI, mặc kệ thế giới, mặc kệ cả những nước Miến, Miên, Lào lần lượt qua mặt. Hệ quả là một đất nước tụt hậu vùn vụt, tan hoang mọi mặt, từ kinh tế đến chủ quyền, đạo đức xã hội, ung thư tham nhũng, loạn an toàn thực phẩm, nát giáo dục học đường, môi sinh đầy chất độc, … để rồi lãnh đạo chỉ còn khoe thành quả đã gởi được gần cả triệu công dân đi làm lao công cho thế giới, bao gồm cả Miên và Lào.

Tóm lại, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” là tiến trình RẤT BÌNH THƯỜNG và BẮT BUỘC PHẢI CÓ nơi mỗi con người.

Hơn thế nữa, những ai nhìn tình trạng đất nước hiện nay nếu vẫn không thấy mình cần “tự diễn biến, tự chuyển hóa” gấp rút, thì không những lương tâm họ đã chết, mà ngay cả tính người trong họ cũng chẳng còn bao nhiêu.

Vũ Thạch

Bà Trần Thanh Kiệm vợ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là ai?




ĐỌC ĐỂ BIẾT

                  

4 tháng 9, 2017


Nguyễn Thanh Tuân
4-9-2017
Dẫn nhập
Cho đến thời điểm có bài viết này, Hội đồng Trọng tài được thành lập tại ICA chưa công bố phán quyết, và cũng do quy định Trọng tài xử kín, nên không bên nào, và không có ai, được phép công bố thông tin liên quan đến diễn biến phiên tòa và phán quyết của Trọng tài. Thông tin chính thức và đáng tin cậy về nội dung, diễn biến của vụ kiện cũng không nhiều. Vì vậy, bài viết này dựa trên những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau (một số tin chưa được kiểm chứng), qua những sàng lọc, tổng hợp và phân tích sơ bộ, để bình luận về các khả năng trên cơ sở suy luận logic cho Diễn biến và Dự báo về Kết quả (những nét chính của Phán quyết của Trọng Tài) của vụ án).Từ ngày 21/08 đến ngày 27/08/2017 vừa qua, Tòa án Trọng tài Quốc tế (ICA –International Court of Arbitration), một cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, bên cạnh Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), có trụ sở tại Paris, đã mở phiên xét xử vụ tranh chấp: Công dân Vương quốc Hà Lan (gốc Việt), ông Trịnh Vĩnh Bình, kiện Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vụ kiện liên quan đến việc Việt Nam vi phạm Thỏa thuận giữa hai bên tại Singapore năm 2006 về việc Việt Nam bồi thường bằng tiền và trả lại tài sản mà ông Trịnh Vĩnh Bình đã đầu tư theo quy định của Hiệp định Đầu tư Hà Lan – Việt Nam (10/3/1994) nhưng đã bị Chính phủ Việt Nam tịch thu trước đây.
Tóm tắt diễn biến
Ông Trịnh Vĩnh Bình – một Việt kiều có quốc tịch Hà Lan, cuối những năm 1980 đã đem theo tiền và vàng về Việt Nam đầu tư nhưng không đăng ký chính thức để thành lập doanh nghiệp theo Luật đầu tư nước ngoài (29/12/1987) của Việt Nam. Do ở thời điểm đó pháp luật chưa cho phép người nước ngoài (bao gồm cả Việt kiều có quốc tịch nước ngoài) đứng tên mua nhà và đứng tên nhận sang nhượng Quyền sử dụng đất, ông Bình đã nhờ người thân đứng tên giùm đất đai, nhà cửa và hai doanh nghiệp trong nước.
Cũng có nguồn tin (chưa được kiểm chứng) nói ông Bình được một số cán bộ lãnh đạo cao cấp động viên đem tiền, vàng về nước đầu tư và chính phủ Việt Nam cũng giúp đỡ riêng cho ông (không theo trình tự thủ tục luật định) trong việc làm thủ tục; và thậm chí cũng có tin nói ông Bình đã làm Giấy ủy quyền cho thân nhân ở Việt Nam đứng tên giùm đất đai nhà cửa ở Việt nam, và giấy này đã được “công chứng” (được chứng thực) bởi Đại sứ quán Việt Nam tại Paris (Nếu có thật thì việc chứng thực này cũng trái với quy định của pháp luật đất đai, đầu tư) … Công việc làm ăn của ông Bình sau đó đã gặt hái được nhiều thành công, phát triển nhanh chóng.
Thực tế, do chính quyền địa phương chỉ làm thủ tục giao đất cho người có hộ khẩu thường trú tại địa phương, và quy định từ thời đó là mỗi người chỉ được có một hộ khẩu thường trú, nhưng ông Bình đã nhờ bà con họ hàng cư trú (có hộ khẩu chính thức) ở một tỉnh phía Nam đến Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai làm thêm hộ khẩu thường trú tại các địa phương đó, từ đó xin giao đất, đứng tên nhận chuyển nhượng đất … giùm ông Bình tại các địa phương nói trên. Sự việc này trái pháp luật ở hai điểm (i) Vi phạm quy định về (một) hộ khẩu; và (ii) Vi phạm quy định theo Luật đất đai do đã nhờ người đứng tên nhận giùm Quyền sử dụng (sở hữu) đất đai.
Ngày 19/03/1994, Hà Lan và Việt Nam ký Hiệp định song phương về Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư lẫn nhau (sau đây gọi tắt là Hiệt định Việt Nam – Hà Lan). Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/02/1995, nhưng cũng có quy định rõ Hiệp định cũng có hiệu lực hồi tố (retroactive) đối với cả các khoản đầu tư của công dân hai nước, nếu có, đã được thực hiện từ sau ngày 30/04/1975, tức là ngay cả trước khi Hiệp định có hiệu lực (Điều 10). Cụ thể, theo Hiệp định:
Điều 1: Với mục đích của Hiệp định này:
(a) Thuật ngữ “Đầu tư” bao gồm mọi loại tài sản, đặc biệt nhưng không chỉ là:
(i) sở hữu động sản và bất động sản cũng như các quyền sở hữu khác đối với mọi loại tài sản;
(ii) các quyền phát sinh từ cổ phần, trái phiếu và các lợi ích khác của công ty và liên doanh;
(iii) chứng quyền về tiền, về tài sản khác hoặc về bất kỳ hoạt động nào có giá trị kinh tế;
(iv) các quyền trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, qui trình kỹ thuật, đặc quyền kế nghiệp và bí quyết công nghệ;
(v) những quyền được pháp luật đảm bảo gồm các quyền thăm dò, khai thác, chiết xuất, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên.
(b) Thuật ngữ “công dân” tùy theo mỗi Bên ký kết:
(i) Các thể nhân có quốc tịch của Bên ký kết đó;
(ii) các pháp nhân được thành lập theo luật của Bên ký kết;
(iii) các pháp nhân không được thành lập theo luật pháp của Bên ký kết, nhưng chịu sự kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi thể nhân quy định tại mục (i), hoặc bởi pháp nhân quy định tại mục (ii)
Điều 6: Không một Bên ký kết nào được thực hiện bất kỳ biện pháp nào để tước đoạt trực tiếp hoặc gián tiếp những đầu tư của các công dân của Bên ký kết kia, trừ khi được thực hiện với những điều kiện sau:
(a)        Các biện pháp được thực hiện vì lợi ích công cộng và theo thủ tục của Luật pháp;
(b)        Các biện pháp không có sự phân biệt đối xử hoặc trái với bất cứ cam kết nào mà Bên ký kết cam kết như những biện pháp có thể thực hiện;
(c)        Các biện pháp áp dụng phải được bồi thường công bằng. Việc bồi thường đó sẽ theo đúng giá trị thực tế của những đầu tư, bao gồm lãi với lãi suất thương mại thông thường cho đến ngày chi trả. Để có hiệu qủa cho người đòi bồi thường, khoản bồi thường sẽ được trả và chuyển không chậm trễ sang nước mà người đó xác định, và bằng đồng tiền của nước mà người đó là công dân hoặc bất kỳ đồng tiền tự do chuyển đổi nào mà người đó chấp thuận.
Điều 9:
  1. Tranh chấp giữa một Bên ký kết với công dân của Bên ký kết kia liên quan tới đầu tư của công dân của Bên ký kết kia trên lãnh thổ của Bên ký kết đó, thì nếu có thể sẽ được giải quyết bằng hòa giải.
  2. Nếu vụ tranh chấp đó không được giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều này, trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày một Bên tranh chấp đề nghị giải quyết bằng hòa giải thì theo yêu cầu của công dân liên quan, vụ tranh chấp sẽ được đưa ra Tòa án trọng tài Ad-hoc được thành lập theo thỏa thuận đặc biệt hoặc theo Qui tắc Trọng tài của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế.
  3. Trong trường hợp các bên ký kết tham gia Công ước giải quyết các tranh chấp về đầu tư giữa Nhà nước với công dân của Nhà nước kia ký ngày 18/03/1965 tại Washington, thì những tranh chấp nêu tại khoản 1 Điều này, theo yêu cầu của công dân có liên quan sẽ được đưa ra Trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp về đầu tư để giải quyết bằng hòa giải hay trọng tài theo Công ước đó.
  4. Mỗi Bên ký kết theo đây chấp thuận vô điều kiện về việc đưa các tranh chấp ra xét xử ở Trọng tài quốc tế theo các quy định tại Điều này.
Năm 1996, chính quyền tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã bắt giữ ông Trịnh Vĩnh Bình với nhiều cáo buộc hình sự, trong đó có các tội danh “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”, “Trốn thuế” và tội “Đưa hối lộ” theo quy định của Bộ Luật Hình sự Việt Nam 1985 (sửa đổi bổ sung năm 1989). Theo báo Công an Nhân dânngày 06/06/2005, cho tới khi bị cơ quan an ninh điều tra Bà Rịa – Vũng Tàu bắt giữ, ông Bình đã nắm trong tay 11 căn nhà, 114 nền nhà và 2.847.745 m2 đất. Với những tội danh nói trên, ông Bình đã bị kết án 11 năm tù (bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật), bị tịch thu tài sản là nhà, đất do người khác đứng tên giùm, và một số tài sản là động sản, tiền mặt, đồ cổ…
Xung quanh việc bắt giam, truy tố và xét xử ông Trịnh Vĩnh Bĩnh, nội bộ Việt Nam khi đó cũng không thống nhất. Thanh Niên là tờ báo công khai không đồng tình với việc bắt giam, truy tố, xét xử và kết án ông Bình. Giáo sư Nguyễn Vi Khải – thành viên Ban nghiên cứu, cố vấn Thủ tướng Phan Văn Khải khi đó, hiện là Viện phó Viện Nghiên cứu các vấn đề phát triển (VIDS) cho biết, Ban nghiên cứu của ông đã có ý kiến, kiến nghị tới Thủ tướng Phan Văn Khải về sự việc của ông Trịnh Vĩnh Bình, nhằm tránh ảnh hưởng xấu đến hình ảnh, môi trường đầu tư tại Việt Nam, đánh mất cơ hội hội nhập quốc tế. “Thủ tướng có văn bản gửi xuống cho các ngành an ninh, Bộ trưởng công an lúc đó là ông Lê Minh Hương, để xem xét sự việc và tìm nguyên nhân giải quyết theo luật pháp. Khoảng hai lần Thủ tướng yêu cầu Bộ Công An giải trình.”
Tuy có ý kiến của Thủ tướng và sự lên tiếng của nhiều quan chức cấp cao trong bộ máy khi đó, như Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đưa vụ việc ra Quốc hội, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, nhưng phía Cơ quan Điều tra – công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các Cơ quan Tư pháp (Điều tra, Truy tố, Xét xử) vẫn đã xử lý vụ việc theo hướng hình sự, tuyên ông Trịnh Vĩnh Bình phạm tội, phải chịu mức án 11 năm tù và tịch thu toàn bộ tài sản sau 2 lần xét xử (xét sơ thẩm tại Tòa án Nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu và xét xử phúc thẩm bởi Tòa án Nhân dân Tối cao).
Sau khi ông Bình bị bắt giam và bị kết án, một số cán bộ thi hành án ở địa phương đã bị truy tố, chịu án tù, do đã có vi phạm pháp luật trong khâu bán đấu giá tài sản bị tịch thu không đúng quy định của pháp luật, làm thiệt hại cho ông Bình và cho ngân sách Nhà nước.
Năm 2000, ông Trịnh Vĩnh Bình rời khỏi Việt Nam (có tin nói ông bỏ trốn qua đường Campuchia), trở về Hà Lan và năm 2003 tiến hành khởi kiện Chính phủ Việt Nam theo quy định tại (khoản 4) Điều 9 của Hiệp định Việt Nam- Hà Lan, tại Trung tâm Quốc tế Giải quyết các Tranh chấp về Đầu tư (ICSID) – Stockholm (Thụy Điển), với sự giúp đỡ của hãng luật Covington Burling của Mỹ. Theo đơn kiện khi đó, ông Bình yêu cầu phía Việt Nam phải bồi thường số tiền hơn 100 triệu USD.
Sau đó, vào năm 2006, ông Bình và Chính phủ Việt Nam đạt được thoả thuận bên ngoài Toà Trọng tài ICSID, ký tại Singapore (sau đây gọi tắt là “Thỏa thuận 2006”). Theo một số nguồn tin, nội dung của Thỏa thuận 2006 có quy định: Chính phủ Việt Nam chấp thuận miễn chấp hành hình phạt tù cho ông Bình, bồi thường 15 triệu USD, “trả lại tài sản” cho ông Bình, và cho phép ông trở lại Việt Nam để tiếp tục đầu tư. Đổi lại, ông Bình rút đơn kiện khỏi Tòa Trọng tài ICSID và không tiết lộ nội dung Thỏa thuận 2006.
Về nội dung cụ thể của việc “Trả lại tài sản” trong Thỏa thuận 2006, hiện có nhiều nguồn tin (chưa được kiểm chứng) khác nhau về vấn đề này: (1) “Trả lại TOÀN BỘ TÀI SẢN”; (ii) “Trả lại TÀI SẢN MỘT CÁCH HỢP LÝ” (Theo Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan); và (iii) “Trả lại (các) TÀI SẢN HỢP PHÁP” (Theo Giáo sư Nguyễn Đình Cống).
Theo tin từ báo Thanh Niên, phía Việt Nam đã miễn chấp hành hình phạt tù có hời hạn (11 năm) cho ông Trịnh Vĩnh Bình (Bản án Hình sự vẫn có hiệu lực, không bị hủy, không có ai không tuyên vô tội hay xóa tội, chỉ là miễn chấp hành – không phải ngồi tù). Về số tiền 15 triệu USD bồi thường cho ông Bình theo Thỏa thuận 2006, có tin nói là phía Việt Nam đã trả xong, dù chậm trễ vì mãi đến năm 2014 mới trả hết và ông Bình cũng không đòi tiền lãi từ năm 2006 đến 2014.Tuy nhiên, cho tới nay (9/2017) ông Bình vẫn chưa được nhận lại tài sản theo Thỏa thuận 2006.
Tháng 01/2015, ông Trịnh Vĩnh Bình tái khởi kiện Chính phủ Việt Nam tại Tóa án Trọng tài quốc tế (ICA) Paris, với lý do chính phủ Việt Nam “Không thực hiện đúng Cam kết trong Thỏa thuận 2006” và đòi chính phủ Việt Nam bồi thường ít nhất 1,25 tỷ USD (không thấy nói đến việc đòi Việt Nam phải trả lại tài sản đã tịch thu của ông).
Ngày 21/08/2017, phiên xử đầu tiên của vụ kiện diễn ra tại Paris. Giáo sư Nguyễn Vi Khải, nguyên thành viên Ban nghiên cứu, cố vấn Thủ tướng Phan Văn Khải, hiện là Viện phó Viện Nghiên cứu các vấn đề phát triển (VIDS) dự đoán, tuy kết quả thắng cuộc của ông Trịnh Vĩnh Bình là “mong manh”, nhưng vẫn có “hệ lụy nguy hiểm” đối với Việt Nam.
Như vậy, nhiều khả năng là Trọng tài sẽ sẽ tập trung xem xét đơn kiện và lập luận của hai đội luật sư của hai Bên, để quyết định hai vấn đề: (1) Chính phủ Việt nam có phải bồi thường tiền cho ông Bình hay không?”; và (2) Nếu câu trả lời là “Có”, thì sẽ là bồi thường bao nhiêu, và xác định trên cơ sở nào?
Những vấn đề pháp lý trong vụ kiện 2017
  1. Tòa sẽ xử tranh chấp nào?
Tranh chấp được xét xử sẽ (được coi) là một Tranh chấp Thương mại, và do Việt Nam đã tự nguyện từ bỏ Quyền Miễn trừ quốc gia khi tham gia Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Hà Lan và khi ký Thỏa thuận 2006, nên vụ việc có thể đã được giải quyết theo các nguyên tắc của Tư pháp quốc tế.
Trên cơ sở so sánh, đối chiều và kết quả sàng lọc các nguồn thông tin của chúng tôi: Cũng giống như yêu cầu trong vụ kiện lần đầu, khi ông Bình kiện Chính phủ Việt Nam ra Trung tâm Quốc tế Giải quyết các Tranh chấp về Đầu tư (ICSID) năm 2005 để đòi bồi thường 100 triệu USD, lần này ông Trịnh Vĩnh Bình cũng đã kiện Chính phủ Việt nam, để đòi phía Việt Nam phải bồi thường thiệt hại 1,25 tỷ USD, vì đã “Vi phạm Thỏa thuận 2006”, qua việc không thực hiện đầy đủ nội dung Thỏa thuận, chứ ông KHÔNG ĐÒI TÀI SẢN BỊ TỊCH THU theo quy định của Hiệp định Việt Nam- Hà Lan.
Đây có thể là chiến lược khá khôn ngoan của nhóm luật sư của ông Bình, nhằm mục đích tránh tối đa việc đụng chạm đến vấn đề Tính hợp pháp của việc “đầu tư” và của “Tài sản thu được từ đầu tư”, tránh sa đà vào việc viện dẫn, áp dụng quy định của Pháp luật của Việt Nam về Ủy quyền/Ủy thác đầu tư và Đầu tư nước ngoài (tránh bị cáo buộc đã “đầu tư chui”). Khi chọn chiến lược tranh tụng như vậy, có thể họ đã nhằm đến việc vận dụng quy định về bồi thường do vi phạm hợp đồng theo Luật điều chỉnh mà chúng tôi sẽ bàn dưới đây.
Như vậy, theo nguyên tắc “Kiện gì, xử nấy”, Trọng tài Quốc tế ICA (Paris) chắc là đã chỉ xem xét, và sẽ ra phán quyết cho, tranh chấp “Vi phạm Thỏa thuận 2006, và yêu cầu yêu cầu bồi thường 1,25 tỷ USD” của Nguyên đơn.
2. Thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài đang xét xử vụ kiện tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Paris:
Theo nguyên tắc chung về xét xử tranh chấp bằng con đường Trọng tài, Trọng tài chỉ có thẩm quyền xử tranh chấp khi, và chỉ khi, các bên tranh chấp trước đó đã cùng thỏa thuận chọn một trung tâm Trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp giữa họ. Trong vụ kiện Trịnh Vĩnh Bình chống lại Chính phủ Việt Nam, một Hội đồng Trọng tài đã được thành lập theo Quy tắc Trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Paris để xét xử tranh chấp. Điều đó đã chứng tỏ các Bên tham gia Thỏa thuận 2006 đã cùng nhất trí đưa tranh chấp ra giải quyết tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Paris, và điều đó cũng có nghĩa là Hội đồng Trọng tài đang xét xử vụ kiện hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
  1. Luật áp dụng để điều chỉnh Thỏa thuận 2006 và cũng dùng để xét xử vụ kiện:
(a)    Khả năng áp dụng LUẬT Ở NƠI KÝ KẾT HỢP ĐỒNG, hoặc LUẬT Ở NƠI CÓ TÀI SẢN:
Nếu các Bên đã không có thỏa thuận gì về Luật được áp dụng để giải thích và thực hiện Thỏa thuận 2006, thì Luật áp dụng để giải thích và thực hiện Thỏa thuận 2006 sẽ được xác định qua một trong các nguyên tắc thông dụng trong Tư pháp quốc tế: (i) Luật ở nơi ký kết Hợp đồng (thỏa thuận) – “Lex Loci Contractus”, hoặc (ii) Luật của nơi có tài sản – “Lex Loci Proprietas”. Tuy nhiên, dù Trọng tài có quyết định áp dụng nguyên tắc chọn Luật, đặc biệt là Luật về Hợp đồng, của Singapore – nơi ký kết hợp đồng để giải quyết tranh chấp, thì cũng rất khó tránh việc phải dẫn chiếu đến, và áp dụng, Luật của nơi có tài sản, tức là Luật của Việt Nam.
(b)    Khả năng áp dụng quy định của Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư Việt Nam – Hà Lan 1994:
Bất kể việc ông Bình đã rút đơn khởi kiện Chính phủ Việt Nam tại Trung Tâm Trọng tài ICSIS ở Stockholm (Thụy Điển) sau khi hai Bên ký Thỏa thuận 2006, có rất nhiều khả năng là Hội đồng Trọng tài vẫn sẽ phải dẫn chiếu đến Hiệp định giữa Hà Lan và Việt Nam (1994) như một nguồn để xác định tài sản tranh chấp theo Thỏa thuận 2006.
Như vậy, theo Hiệp định, ông Bình được cho là đã đầu tư vào Việt Nam với tư cách thể nhân (công dân) Hà Lan, chứ không nhân danh chủ một Công ty (pháp nhân) Hà Lan đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời, do sự không rõ ràng của điểm (iii) mục (b) của Điều 1, hai pháp nhân (công ty) được thành lập theo luật Việt Nam và đứng tên bởi người nhà của ông Bình, chịu sự kiểm soát của ông Bình, tại Việt Nam hiện không rõ là có được coi là “công dân” Hà Lan theo Hiệp định, từ đó đất đai, tài sản do hai công ty này sở hữu có được bảo hộ theo Hiệp định, hay không?
Ngoài ra, Điểu 1 và toàn bộ nội dung của Hiệp định cũng KHÔNG ghi rõ là sự đầu tư của công dân của một Bên vào Bên kia có phải tuân thủ pháp luật tương ứng của Bên nhận đầu tư, chẳng hạn quy định về đầu tư, hay không. Chẳng hạn, nếu công dân Việt Nam đầu tư ở Hà Lan bằng cách mua đất đai, lập trang trại, mua máy móc, thiết bị và thuê nhân công để đầu tư … trồng cây cần sa, một chất gây nghiện, thì nhà đầu tư có bị xử lý hình sự, và tài sản và kết quả đầu tư đó có bị tịch thu hay không? Thực tế cho thấy kiểu “đầu tư” vi phạm pháp luật nước chủ nhà, thì thường không được pháp luật bảo hộ và sẽ bị xử lý.
Nếu việc đầu tư của công dân của một Bên vào Bên kia luôn phải tuân thủ pháp luật tương ứng của Bên nhận đầu tư, như một chuyện đương nhiên, thì việc công dân của một Bên “lách” luật, nhờ người khác đứng tên giùm để sở hữu tài sản, trái với quy định của Bên nhận đầu tư, thì việc “đầu tư lách luật” cũng như “tài sản” phát sinh tương ứng đương nhiên không thể được bảo hộ theo quy định của Hiệp định song phương.
(c)       Khả năng áp dụng Luật Việt Nam:
Khi cần xác định Việt Nam có phải trả lại tài sản, hay bồi thường cho ông Trịnh Vĩnh Bình hay không, và nếu có, là tải sản nào, thì theo nguyên tắc dùng Luật của quốc gia, nơi có tài sản (bất động sản) đang tranh chấp trong Tư pháp quốc tế, khả năng rất cao là Trọng tài sẽ buộc phải dẫn chiếu đến Luật Đất đai, Luật đầu tư nước ngoài và Luật dân sự Việt Nam để phân xử và quyết định: (i) hành vi của ông Bình có phải là hoạt động đầu tư hợp pháp hay không? (ii) việc nhờ người khác đứng tên giùm có phải là việc ủy quyền, hay ủy thác đầu tư hợp pháp hay không? và (iii) những tài sản nào của ông Bình thuộc diện sẽ được trả lại như kết quả hợp pháp của việc đầu tư?
(d)    Luật Hình thức (Luật tố tụng): Quy tắc Trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Paris sẽ được Hội đồng Trọng tài áp dụng cho quá trình xét xử vụ kiện, nếu các Bên đã không có thỏa thuận khác.
  1. Phía Việt Nam liệu có phải trả lại tài sản, hoặc bồi thường cho ông Bình hay không?
Theo Điều 6, Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Thương mại Đầu tư giữa Việt Nam-Hà Lan: “Không một Bên ký kết nào được thực hiện bất kỳ biện pháp nào để tước đoạt trực tiếp hoặc gián tiếp những đầu tư của các công dân bên kia”. Cũng có nhiều người cho rằng đây là cơ sở để cho rằng ông Trịnh Vĩnh Bình có nhiều khả năng sẽ thắng trong vụ kiện này.
Tuy nhiên, có rất nhiều khả năng là phía Việt Nam sẽ không còn cách nào tốt hơn là sẽ buộc phải bảo vệ quan điểm, rằng ông Trịnh Vĩnh Bình đã vi phạm pháp luật của Việt Nam về đầu tư nước ngoài (đầu tư chui), về quản lý đất đai (Luật đất đai), quy định về quản lý hộ khẩu, tiền tệ, ngân hàng (vận chuyển tiền tệ qua biên giới trái phép)… để Trọng tài xem xét.
Khả năng rất cao là Trọng tài sẽ không ra ra phán quyết để buộc Việt Nam phải trả lại tài sản (nào đó) cho Nguyên đơn Trịnh Vĩnh Bình, vì Nguyên đơn không yêu cầu trả lại tài sản như thế.
Vậy thì cũng có khả năng rất cao, là Trọng tài sẽ phán quyết buộc Việt Nam phải bồi thường, tuy nhiên cũng hầu như chắc chắn sẽ không phải là bồi thường đúng 1,25 tỷ USD như ông Bình đang đòi, mà sẽ là một con số khác, thấp hơn (rất?) nhiều, chỉ là giá trị của những tài sản được coi là hợp pháp, nếu Trọng tài chấp thuận dẫn chiếu đến nguyên tắc áp dụng Luật ở nơi có tài sản để phán quyết rằng Nguyên đơn Trịnh Vĩnh Bình cũng có lỗi vi phạm pháp luật Việt Nam, từ đó giảm thiểu mức bồi thường dành cho ông.
  1. Một số vấn đề cần lưu ý:
Thứ nhất, khi nộp đơn kiện, phía Nguyên đơn Trịnh Vĩnh Bình, nếu xét từ khía cạnh Hiệp định khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam – Hà Lan, sẽ có lợi thế khi viện dẫn Điều 6: “Không một Bên ký kết nào được thực hiện bất kỳ biện pháp nào để tước đoạt trực tiếp hoặc gián tiếp những đầu tư của các công dân bên kia”.
Tuy nhiên, trong cả hai lần kiện Chính phủ Việt Nam (2005 và 2017), Nguyên đơn Trịnh Vĩnh Bình đều không có yêu cầu đòi Chính phủ Việt Nam trả lại tài sản, mà chỉ yêu cầu bồi thường bằng tiền (100 triệu USD và 1,25 tỷ USD). Điều này vừa thể hiện sự khôn ngoan của Bên ông Bình, vừa cũng thể hiện điểm yếu của Nguyên đơn, khi họ muốn tránh bằng mọi giá việc xác định Tính Hợp Pháp của việc “đầu tư”, cũng như của “các tài sản bị tịch thu”.
Thứ hai, có thể sẽ có sự khác biệt trong quan điểm của hai Bên tranh chấp về vần đề “Ủy quyền/Đứng tên giùm”, buộc Trọng tài phải dẫn chiếu Luật Điều chỉnh để phân xử.
Theo luật pháp và tập quán ở các quốc gia có nền Kinh tế Thị trường đã phát triển (EU, Mỹ, Canada, Úc, Nhật…), việc một tổ chức, cá nhân giao một khoản tiền vốn cho một cá nhân hay tổ chức khác thay mình thực hiện việc đầu tư thông qua một Hợp đồng ủy quyền hay Hợp đồng Ủy thác đầu tư là chuyện rất bình thường. Thông qua các Hợp đồng như vậy, Nhà đầu tư không cần tiết lộ danh tính, nhưng vẫn được coi là chủ sỡ hữu hợp pháp của số tiền vốn và kết quả đầu tư.
Tại Việt Nam, ở thời điểm cuối những năm 1980, việc nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài 1987 vẫn còn rất khó khăn. Luật quy định phải có dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, phải thành lập công ty có vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh…, và tiền vốn hay tài sản khác dùng để góp vốn đầu tư được đưa vào một cách hợp pháp, thông qua ngân hàng, hoặc thủ tục nhập khẩu, thẩm định giá trị rất nghiêm ngặt… Nếu ông Bình đưa tiền và vàng vào Việt Nam theo các con đường khác, thì việc dùng tiền đó để đầu tư có thể bị coi là không hợp pháp.
Ngoài ra, việc giao đất, công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng có quy định riêng, không chấp nhận nhờ người khác “đứng tên giùm” trong Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, trong hồ sơ xin giao đất… Việc ông Bình nhờ bà con đứng tên giùm trong giấy tờ hồ sơ xin giao đất, nhận chuyển nhượng (mua) đất do ông Trịnh Vĩnh Bình và những người đứng tên giùm đã có nhiều hành vi vi phạm pháp luật, những hành vi đó sẽ phải được coi là “đầu tư chui”, đầu cơ thâu tóm đất đai…bất hợp pháp.
Thứ ba, cho tới nay, bản án Hình sự của Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam đối với ông Trịnh Vĩnh Bình vẫn còn nguyên hiệu lực, ở cả hai phần án phạt tù và xử lý (tịch thu) tài sản vi phạm pháp luật. Ông Bình mới chỉ được “Miễn chấp hành hình phạt tù”, chứ chưa được xóa án. Việc vẫn còn bản án Hình sự có hiệu lực đối với ông Bình sẽ là một cơ sở quan trọng để xem xét tính hợp pháp của việc “đầu tư” và của “các tài sản thu được từ đầu tư” của ông Bình, giống như khi cần xem xét tính hợp pháp của việc “đầu tư bằng cách… trồng cây cần sa” đã nói ở trên.
Cũng có dư luận cho rằng việc xét xử hình sự đối với ông Bình là “Hình sự hóa quan hệ kinh tế”, là “Vi phạm nhân quyền”… Nhưng chắc chắn là Trọng tài Quốc tế Paris khi xét xử vụ kiện này (Vi phạm Thỏa thuận 2006) như một vụ tranh chấp thương mại sẽ không thể (hay không có thẩm quyền) xem xét vụ kiện từ góc độ oan sai trong án hình sự, hay nhân quyền…
Thứ tư, về vấn đề bồi thường, điều này tùy thuộc vào việc dùng Luật nào để điều chỉnh Thỏa thuận 2006 và xét xử tranh chấp.
Thông thường thì Trọng tài quốc tế sẽ căn cứ thực tế diễn biến (nội dung) của vụ kiện, Luật điều chỉnh Hợp đồng, các lỗi vi phạm hợp đồng và thiệt hại phát sinh thực tế để quyết định: Ai phải bồi thường cho ai? Bồi thường bao nhiêu và dựa trên cơ sở nào?
Nếu là bồi thường theo Luật điều chỉnh mà sẽ được xác định theo nguyên tắc chọn Luật ở nơi ký kết Hợp đồng (Lex Loci Contractus), thì phải xem xét quy định về bồi thường theo Luật pháp của Singapore, nơi ký Thỏa thuận 2006. Nhìn chung, Luật Singapore, đặc biệt là Luật về Hợp đồng, chịu nhiều ảnh hưởng từ Luật của Anh và trường phái Thông Luật (Common Law). Xét về nguyên tắc, các thiệt hại của Bên bị vi phạm hợp đồng sẽ được Bên vi phạm bồi thường đầy đủ.
Tuy nhiên, Luật của Singapore cũng có quy định về các khoản (loại) bồi thường bổ sung khác, làm cho tổng giá trị bồi thường, trong những trường hợp cụ thể, cao hơn nhiều so với thiệt hại thực tế. Tài sản bị tịch thu của ông Bình ở thời điểm năm 2005, khi ông nộp đơn kiện Việt Nam ở Trọng tài Stockholm được xác định chỉ khoảng 30 triệu USD, và Việt Nam đã chấp nhận bồi thường cho ông 15 triệu USD cùng với “Trả lại tài sản”. Tuy nhiên, trong lần kiện này, nếu áp dụng Luật Singapore để xác định tổng giá trị bồi thường, nếu có, thì chúng tôi tin rằng con số đó có thể sẽ cao hơn, nhưng chắc là vẫn sẽ thấp con con số 1,25 tỷ USD.
Trong khi đó, nếu là bồi thường theo Luật mà sẽ được xác định theo nguyên tắc chọn Luật ở nơi có tài sản (Lex Loci Propietas), thì phải xem xét quy định về bồi thường theo Luật thương mại hiện hành của Việt Nam, tức sẽ căn cứ theo các yếu tố: (i) Có sự sự vi phạm Thỏa thuận, (ii) có thiệt hại là hậu quả trực tiếp từ sự vi phạm Thỏa thuận của một Bên, và (iii) Thiệt hại phải cụ thể, có thể tính toán được (bằng tiền).
Ngoài ra, nếu phía Việt Nam chưa thực hiện Thỏa thuận 2006 với lý do hai Bên chưa hợp tác được với nhau (hoặc do ông Bình từ chối hợp tác), để xác định được tính hợp pháp của tài sản sẽ được trả lại, thuộc một trong ba khả năng cho vấn đề nội hàm của thuật ngữ “tài sản” trong Thỏa thuận 2006 mà chúng tôi đã đề cập ở trên, thì để tránh bế tắc cho vụ kiện, rất có thể hai Bên vừa qua đã nhất trí bổ sung yêu cầu Hội đồng Trọng tài phân xử để xác định liên quan đến “các tài sản sẽ được trả lại”, Việt Nam, do không vi phạm Thỏa thuận 2006, sẽ không phải bồi thường cho ông Bình.
Nếu phía Việt Nam trước đây rõ ràng đã từ chối hợp tác với Ông Bình để xác định tài sản sẽ được trả lại, thì Việt Nam đã vi phạm Thỏa thuận 2006, và vì vậy sẽ phải bồi thường cho ông Bình theo Luật điều chỉnh Thỏa thuận đã được đề cập ở trên.
Lời kết
Hiện nay đã có những dấu hiệu cho thấy Chính phủ Việt Nam dường như đã sẵn sàng chấp nhận bồi thường một cách hợp lý, để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, nhưng cũng sẵn sàng “chơi tới cùng” nếu bị ép quá.
Theo tin từ Vietnamnet (30/8/2017), trong cuộc họp báo của Chính phủ, phần trả lời về vụ Trịnh Vĩnh Bình kiện chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Mai Tiến Dũng đã thông báo chính thức: “…quan điểm của Chính phủ, Thủ tướng là tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch cả với doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiện vụ việc này Toà án quốc tế đang xem xét. Theo các nguyên tắc về bảo hộ, khi có vấn đề tranh chấp vi phạm thoả thuận của một địa phương nào đó với nhà đầu tư nước ngoài thì họ không kiện địa phương mà kiện Chính phủ. Trong vụ này, Toà quốc tế đang xem xét, chúng ta cũng phải đợi thôi. Nhưng quan điểm của Thủ tướng là chúng ta tạo môi trường minh bạch, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư nước ngoài”.
Theo một nguồn tin khác: ngày 28/8/2017, bà Nguyễn Phương Trà, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trả lời gần 10 câu hỏi liên quan đến vụ kiện của ông Trịnh Vĩnh Bình: “Việt Nam luôn hoan nghênh và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tại Việt Nam. Mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. Những hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý theo đúng các quy định pháp luật”.
Theo thông lệ của hình thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tai, nhiều khả năng Hội đồng Trọng tài sẽ cần một thời gian để đưa ra một phán quyết bằng văn bản gửi trực tiếp cho các Bên, và cũng chưa có gì chắc chắn là nội dung phán quyết sẽ được công bố ra công chúng, do đặc điểm “giữ bí mật” của hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Vì vậy, rất có thể những thông tin chính thức về nội dung, diễn biến và kết quả (chi tiết) của vụ kiện này sẽ không bao giờ được công bố rộng rãi.
Tác giả Nguyễn Thanh Tuân là một Luật sư và Trọng tài viên đang hành nghề ở Tp. Hồ Chí Minh.