16 tháng 8, 2017


“Lò đã nóng và quyết tâm của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng” là tựa đề bài viết trên Tuần Việt Nam của tác giả Nhị Lê, được giới thiệu là “Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản”. Theo tôi, bài viết này nên đọc, cho những người muốn tìm hiểu những quyết tâm và ưu tiên chính trị của ông Trọng là gì.

TBT Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: internet

Dẫn:

“Có một dịp, vinh dự được trao đổi với Tổng Bí thư. Ông nói, cần phải giữ vững sự ổn định. Tôi thưa rằng, ổn định lúc này là phát triển, phát triển là đẳng cấp của ổn định, ổn định lúc này là phải hành động. Ông hỏi: Cụ thể như thế nào? Tôi thưa: Chúng ta cần lựa chọn một số việc mang tính chất đột phá, có khả năng làm rung động toàn bộ hệ thống: cải cách bộ máy và chống tham nhũng. Sao nữa? Phương châm là, đề cao dân chủ, cổ vũ đức trị và tôn vinh pháp trị. Đấy là cả một nghệ thuật chính trị. Và, để thực hiện nó, phải với bản lĩnh chính trị rất cao, một quyết tâm đến cùng, một lộ trình phù hợp và cổ vũ một lực lượng chính trị nhân dân đông đảo. Không có những điều đó, rất khó thành!”
Hết dẫn.

Vậy là công cuộc “cải cách bộ máy” và “đốt nóng lò” để tiêu diệt tham nhũng của ông Trọng bắt nguồn từ những ý kiến của tác giả Nhị Lê.

Tôi nghĩ rằng những gì tác giả đã viết ở đây đều là sự thật. Nếu xét lại những diễn tiến đã xảy ra gần đây, ta thấy hai vấn đề chính trị nổi cộm mà ông Trọng nói đi nói tới nhiều lần, ngay tại Quốc hội, hay trên báo chí, là các việc việc “kiểm soát quyền lực” và “diệt tham nhũng”.

Về ý kiến thứ nhứt của tác giả Nhị Lê: “ổn định là phải hành động”.

Trong suốt nhiệm kỳ lần một, ông Trọng vì lo “ném chuột sợ bể bình” hay “đánh tham nhũng là ta đánh vào ta”, nên đã không làm cái gì ra hồn.

Đất nước tuyệt đối “ổn định”, yên tĩnh - static - như mặt nước trong hồ.

Nhưng trên trường quốc tế, “ta tuyệt đối ổn định” trở thành việc “ta dậm chân tại chỗ”. Việt Nam đứng yên thì các nước tuần tự qua mặt thôi.

Chẳng có quốc gia nào phát triển bằng cái ổn định “static - tĩnh” hết cả. Vì vậy tác giả hô hào “hành động” là hợp lý. Vấn đề là “hành động” thế nào để phát triển ?

Ở bất kỳ quốc gia phát triển nào, sự “ổn định xã hội” luôn đến từ dao động tổng hợp “win-win” (dynamic) ở những thành tố trong xã hội.

Trong một xã hội tư bản phát triển, phe “chủ” luôn có khuynh hướng “bóc lột” lớp làm công. Phe này sử dụng tiền bạc để “bảo trợ” (lobbying) cho các vị dân cử để lớp người này ra những điều luật có lợi cho phía mình.

Để đối kháng, phe “thợ” thường xuyên chóng đối, “biểu tình”, gây sức ép trong xã hội để lớp cầm quyền để ý tới mình. 

Những đạo luật khác, ưu tiên bảo vệ quyền lợi cho phe lao động, như tăng lương bỗng, bảo hiểm an sinh xã hội… được ra đời.

Cái “ổn định” trong các xã hội phát triển tương tự như một người đi đường. Chân phải (tượng trưng cho giới làm chủ) tiến tới một bước thì chân trái (tượng trưng cho giới lao động) cũng tiến tới một bước.

Xã hội ngày càng tiến bộ, chân phải không tìm cách chặt bỏ chân trái. Chân trái cũng không làm “cách mạng vô sản” để tiêu diệt “chân phải”. Không phe nào chủ trương “tiêu diệt” phe nào.

Bên Mỹ, phe Cộng hòa (chân phải) lên vài nhiệm kỳ thì cũng bị phe Dân chủ (chân trái) kéo xuống. Hai phe cạnh tranh với nhau. Chân trái bước một bước thì chân phải cũng bước một bước. Bên Châu Âu cũng vậy. Đất nước ngày càng tiến bộ.

Nhưng tôi e rằng cái “hành động” mà tác giả cổ súy cho ông Trọng ở trong bài, chỉ làm cho đất nước càng “tụt hậu” nhanh hơn.

Theo tác giả, dẫn ý từ bài viết, “hành động” gồm hai phần. Một là “chống tham nhũng” và hai là “kiểm soát quyền lực.

Về hành động “chống tham nhũng”, thông điệp của ông Trọng đã thấy trên báo chí gần đây : “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy… Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được…”

Theo tác giả Nhị Lê, thông điệp đó “là sự kết tinh, thể hiện tầm nhìn, sự kiên định và cả tâm huyết của ông (Trọng). Cái Ngọn lửa Dân chủ, Đức trị và Pháp trị phải cháy lên trong cái lò ấy!”

Thì ra “lò” nóng lên là nhờ các “ngọn lửa” “dân chủ, đức trị và pháp trị”.

Điều ghi nhận đầu tiên trong những ý kiến của tác giả Nhị Lê, là các cụm từ “pháp quyền” hay “nhà nước pháp quyền” đã không còn sử dụng nữa. Điều này cũng đã thấy ở một số bài viết của học giả khác trong nước.

Đây là điều “mừng”, “cái đúng” đã được vinh danh.

Từ lâu tôi đã chỉ ra rằng các cụm từ “pháp quyền” và “nhà nước pháp quyền”, mà các học giả trong nước đã sử dụng để chuyển ngữ và nghĩa cho “the Rule of Law” và “l’Etat de Droit”, là hoàn toàn sai. Về cả hai mặt “ngữ” và nghĩa”.

Các nước có ngôn ngữ bắt nguồn từ nền tảng Hoa văn, như Trung Quốc, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật và VNCH (trước 75)... đều sử dụng “pháp trị” và “nhà nước pháp trị” để chuyển nghĩa “the Rule Of Law” và “l’Etat de Droit”.

VN trở lại “cái đúng”, từ nay không còn ai dị nghị.

Nhưng những cái sai, mâu thuẩn của tác giả Nhị Lê, trong bài viết, sẽ trình bày tuần tự dưới đây, sẽ làm cho “cái lò” không bao giờ “nóng” lên như mong đợi.

Thứ nhứt, “dân chủ” không thể, và không bao giờ, đi đôi với “đức trị”.

Cũng vậy, “pháp trị” không bao giờ dung thứ “đức trị”.

Như “nước với lửa”, như “dầu với nước”, những thứ từ bản chất đã đối kháng với nhau. Làm sao sử dụng chúng để “đốt lò” ?

Dân chủ là gì ?

Từ trong bài viết tác giả đã có nhận thức đúng về dân chủ : 

“Quyền lực không phải của riêng ai, của nhân dân, nhân dân trao cho những người làm công bộc của dân.”

Đúng vậy. Quyền lực của quốc gia, Hiến pháp đã qui định “thuộc về nhân dân”.

“Dân chủ” là thể thức để nhân dân “trao quyền lực quốc gia” cho những người “làm công bộc của dân”.

Ở các nước “bình thường”, dân chủ được thể hiện qua hình thức “tuyển cử”. Người dân nào thấy mình “có khả năng kinh bang tế thế” thì làm thủ tục “ra ứng cử”. Nhân dân lựa chọn người nào “có tài” thì bỏ phiếu bầu người đó. Mỗi lá phiếu tượng trưng cho “quyền lực” của mỗi người dân. Người “đắc cử” là người được người dân trao phó “quyền lực” để “lãnh đạo” (hay “đại diện”) quốc gia, hay vùng, miền, tỉnh, huyện…

Tính chính đáng của “quyền lực”, ở các nước bình thường, đến từ nền tảng “dân chủ”.

“Đạo đức” không phải là một tiêu chuẩn có qui ước, hay hiến định.

Các tiêu chuẩn về đạo đức thay đổi tùy xã hội, do khác biệt về văn hóa, tôn giáo.

Vì vậy “đạo đức” không là một yếu tố “không thể thiếu”, để khẳng định tính chính đáng của người nắm quyền lực.

Thứ hai, “pháp trị” không bao giờ đi chung với “đức trị”.

Nếu ta đọc lịch sử về sự chuyển biến các chế độ chính trị theo thời gian, ta thấy rằng chế độ “pháp trị” sinh ra từ sự đối kháng chế độ “đức trị”.

Pháp trị xuất hiện ở phương Tây như là một học thuyết trị quốc, do Platon khởi xướng (thế kỷ thứ tư trước CN). Phương Đông do Hàn phi tử khởi xướng (TK thứ ba trước CN). Ý nghĩa của “pháp trị” vào thời kỳ này là vua, hoàng đế, người chủ thượng… “dựa vào pháp luật mà trị nước”.

Lý thuyết này được khai sinh nhằm chống lại sự tự tiện của chủ trương “đức trị”. Theo đó ông vua là “luật”.

Ngày xưa, ông vua Louis XIV xứ Tây có câu nổi tiếng “l’Etat, c’est moi - quốc gia là tao !”. VN thời cận đại có (ông vua) Lê Duẩn có câu (nổi tiếng không kém) “luật pháp là tao - La loi c’est moi”.

Gặp vua hiền thì không nói làm chi. Gặp hôn quan bạo ngược (kiểu Lê Duẩn) thì dân tình khốn đốn. Hết đánh Pháp thì sang đánh Mỹ. Đánh Mỹ vừa xong thì đánh liền một lúc Trung cộng ở phương bắc và Campuchia ở phương tây. Có nước nào đánh liên tục 4 cuộc chiến, trong đó có 3 đại cường trên thế giới hay không ? Vinh quang đâu không thấy, chỉ thấy đất nước nát bét không còn chi lành lặn.

“Pháp trị” hiện đại không còn mang ý nghĩa cũ từ hơn hai ngàn năm trước nữa. Nó được bổ túc bởi hai nền tảng (tương đồng) về xây dựng quốc gia : “the Rule of Law” và “l’Etat de Droit”. Theo đó, “pháp luật là tối thượng”. Từ người dân đến người lãnh đạo : “Làm cái gì cũng theo luật mà làm”. Bất kỳ ai, tư cách pháp nhân nào, đều “bình đẳng trước pháp luật”. Không một ai, kể cả người lãnh đạo tối cao của quốc gia, có thể đứng ngoài, hay đứng trên pháp luật.

Pháp trị luôn đi đôi với “dân chủ”. Không bao giờ “pháp trị” lại đi chung với “đức trị”.

Ông Lê Duẩn “luật pháp là tao”. Tất cả mọi quyền hành được thu về một mối. Điển hình cho chế độ quân quyền “đức trị”.

Trở lại việc “đốt nóng lò” của ông Trọng bằng các “cây củi” dân chủ, pháp trị và đức trị.

“Dân chủ” và “đức trị” như dầu với nước. “Đức trị” với “pháp trị” như nước với lửa. Làm sao chúng có thể “hòa lẫn” vào nhau ? Làm sao có thể đốt nóng lò, khi lửa vừa cháy lên thì tạt nước vô lò ?!

Thứ ba, tác giả Nhị Lê viết : “Suy cho cùng là, quyền lực phải gắn với trách nhiệm một cách dân chủ và kỷ luật, theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.” (hết dẫn).

Ý kiến của tác giả ở đoạn này thật là “hỗn mang”, không biết dựa vào đâu, nền tảng nào để mà đưa kỷ luật đảng vào đứng chung với “dân chủ”; đưa “kỷ luật đảng” lên trên “pháp luật của nhà nước” ?

Khi nói đến “pháp trị”, tức là “pháp luật là tối thượng”, thì làm sao “kỷ luật đảng” lại đứng chung, hay đứng trên “pháp luật quốc gia” ?

Tác giả tự mâu thuẩn, dẫn từ bài viết :

“càng hội nhập quốc tế, càng phải kiểm soát quyền lực, càng phải đề cao thượng tôn pháp luật. Không thể làm khác, nếu không muốn thất bại. Từ cơ chế kiểm soát thì sẽ có cơ chế phát hiện, cơ chế khắc trị… và trị thật nghiêm, không có ngoại lệ, không có vùng cấm. Nghĩa là dân chủ và pháp trị phải được thượng tôn!” (Hết dẫn).

Khi nói tới “pháp trị” thì đảng và đảng viên phải tuân thủ luật lệ nhà nước. Ngay trong Hiến pháp cũng đã qui định qui định như vậy.

“Pháp luật” phải được “thượng tôn”, thì làm gì có chỗ cho “kỷ luật đảng” ?

Thứ tư, tác giả đưa trường họp Trịnh Xuân Thanh.

Rõ ràng chuyện lùm xùm ngoại giao giữa VN và Đức về vấn đề bắt cóc TX Thanh nguyên nhân đến từ ông Nguyễn Phú Trọng.

TX Thanh bỏ trốn ra nước ngoài, làm đơn xin tị nạn ở Đức. Trong khoảng thời gian này TX Thanh có công bố một số tài liệu, về chính kiến cá nhân như tuyên bố bỏ đảng. Về chính trị, ông Thanh bạch hóa những tài liệu về cá nhân ông Trọng, ảnh hưởng tới uy tín chính trị của ông này.

Ông Trọng từ lâu có nói “TX Thanh không trốn được đâu”.

Ông Trọng vào đảng ủy trung ương của bộ công an, là điều chưa có tiền lệ trong lịch sử đảng cộng sản. Nhưng chuyện gì cũng có “nguyên nhân” của nó.

Báo chí (VOA) vừa đưa tin, Interpol cho biết họ không hề can dự vào việc truy lùng Trịnh Xuân Thanh, như cơ quan công an trong nước đã tuyên bố.

Nếu TX Thanh bị truy nã vì “tham nhũng”, chắc chắn Interpol sẽ vào cuộc. Vì đây là chính sách chung của các nước trên thế giới.

Tức là việc tố cáo TX Thanh về tội tham nhũng là không có căn cứ pháp lý.

Ông Trọng mọi cách phải bắt TX Thanh. Ông đã đặt “thù oán cá nhân” lên trên quyền lợi quốc gia. Cái gọi là “diệt trừ tham nhũng” chỉ là cái cớ.

Ông Trọng đã vận dụng “quyền lực của nhà nước”, “pháp luật của nhà nước” để phục vụ cho ý đồ cá nhân. Trong khi ông này không nắm “quyền lực nhà nước” theo hiến định.

Do nắm cả công an và quân đội, ông Trọng mới có “thẩm quyền” chỉ đạo những “mật thám” VN qua Đức “bắt cóc” TX Thanh.

Vấn đề “trả thù cá nhân” được ông Trọng nâng tầm trở thành “bí mật quốc gia”.

Như tất cả các điệp vụ bắt cóc, phá hoại... đã từng xảy ra trên thế giới, điệp vụ TX Thanh thuộc về phạm vi “bí mật quốc gia”.

Ngay cả Mỹ, TQ, Pháp, Nga, Đức, Do Thái…. tất cả đều có lần dính vào các vụ “bắt cóc”, hay các “điệp vụ tồi tệ” như “nghe lén” đối phương, hay bạn bè, đặt bom mìn, gài bẫy… trong lãnh thổ quốc gia bạn (hay đối phương). Các cơ quan “mật thám” của các nước bày ra không phải để “ngồi chơi”. Mục đích của chúng là để “bảo vệ quyền lợi quốc gia” trong vòng “bí mật”.

Điệp vụ Trịnh Xuân Thanh thành công. Mật thám VN đã bắt được ông Thanh và giải về nước. Nếu tất cả “thủ khẩu như bình”, “bí mật quốc gia” kiểu TQ, thì vụ bắt cóc không thể bị “quốc tế hóa” tồi tệ như vậy.

Chính quyền Đức không thể “tố cáo” VN “bắt cóc người trên nước Đức”, vì không có bằng chứng. VN có thể thủ tiêu ông Thanh để triệt đường điều tra, nếu phía Đức muốn làm lớn chuyện.

Ông Trọng muốn “bạch hóa” vụ TX Thanh trước công chúng để lấy lại uy tín qua câu nói: “TX Thanh không trốn được đâu”.

Dĩ nhiên, ông Tô Lâm, bộ trưởng bộ công an, vốn là người được Mỹ đánh giá là “có trí óc”, đã biết rằng đây là vấn đề “bí mật quốc gia”, không thể tiết lộ.

Nhưng ông Trọng đã “bật đèn xanh” để nhà báo Huy Đức bắn phát "súng lịnh”.

Nhà báo Huy Đức viết trên facebook cá nhân đại khái rằng TX Thanh đã bị bắt, sao báo chí không đăng tải tin tức.

Trả lời phỏng vấn báo chí, ông Tô Lâm cho biết là “không biết gì về vụ này”.

Ngày hôm sau bộ công an ra thông cáo cho biết TX Thanh đã về đầu thú.

Rõ ràng sau “phát súng lịnh” của Huy Đức, báo chí, bộ công an đã biết “ý” của ông Trọng.


Việc “bắt cóc” TX Thanh trở thành “xì căng đan” tầm mức “quốc tế”. VN đã vi phạm công pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền nước Đức.

TX Thanh, chuyện “cá nhân” của ông Trọng, trở thành chuyện “nội bộ” của quốc gia. Bây giờ trở thành “khủng hoảng quốc tế”, giữa Châu Âu và VN.

Quyền lợi của quốc gia VN trong vụ này chắc chắn sẽ bị thiệt hại nặng nề.

Trong một quốc gia “pháp trị”, pháp luật được tôn trọng, thì lý ra ông Trọng làm gì cũng phải theo luật mà làm. Ông Trọng làm “lộ bí mật quốc gia”, làm tổn hại đến uy tín quốc gia, thiệt hại quyền lợi của nhân dân, nhưng tình hình là ông này không chịu trách nhiệm trước pháp luật. Dầu vậy ông Trọng cũng muốn dùng Huy Đức như là “cái cầu chì” để bảo vệ bản thân, trước “kỷ luật” của đảng.

Lò nóng hay lò ướt, ta còn chờ tiến trình VN “xét xử” TX Thanh. Trước mắt là “trăm dâu dổ đầu tằm”. Chuyện bê bối của ông Trọng bây giờ đá sang bộ ngoại giao để gỡ rối.

Dầu thế nào thì người dân VN cũng phải trả nợ cho những hành vi ngu xuẩn của lãnh đạo.

Trương Nhân Tuấn

(FB Trương Nhân Tuấn)
tthno
NHỊ LÊ - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TẠP CHÍ CỘNG SẢN CẢNH BÁO :

 Trong Đảng nảy nòi nhiều 'sứ quân' thì nguy cơ khó còn là Đảng Cộng sản nữa


Nhà báo Nhị Lê - Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản đưa ra những phân tích tâm huyết vể cuộc chiến chống tham nhũng được xem là đến hồi quyết liệt nhất.

Đại hội lần thứ XII của đảng Cộng sản Việt Nam

Tại Phiên họp thứ 12 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tổ chức ngày 31/7, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu "lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy".

Điều đó khẳng định công tác phòng chống tham nhũng do Tổng Bí thư chỉ đạo đã đi vào giai đoạn khẩn trương nhất, gấp rút nhất. Vì vậy, tất cả các cơ quan có trách nhiệm trong công tác phòng chống tham nhũng phải cùng vào cuộc và không thể đứng ngoài được nữa.

Tổng Bí thư đã từng khẳng định “cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được và thế mới thành công”.

Trả lời phỏng vấn Báo điện tử VTC News xung quanh vấn đề này, nhà báo Nhị Lê – Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản nói:

Đâu phải bây giờ, đối với chúng ta, tham nhũng mới được xem là vấn nạn lớn như vậy. Nghìn năm trước, ông cha ta nói đủ đầy rồi.

Hơn hai mươi năm trước, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nghiệm kỳ khóa VII, tháng 1/1994, chứ đâu phải chỉ tới hiện nay, Đảng ta đã cảnh báo cái nguy cơ đe dọa trực tiếp sự tồn vong của chế độ, của Đảng và là thủ phạm làm yếu hèn dân tộc và suy tàn đất nước ấy rồi. Tham nhũng được cảnh báo là “quốc nạn”.

- Quốc nạn thì không còn là nguy cơ, thưa ông?

Không dừng ở nguy cơ, mà hiện thời tham nhũng đã thành sự thật đau lòng và nguy cấp: Quốc nạn hiện thực. Nó len lỏi trên khắp các lĩnh vực, lan rộng các phương diện, chui vào khắp các cấp và ở hiện diện hoặc tàng hình ở đủ hạng người. Ai cũng thấy.

Và, trong rất nhiều lần, ở nhiều thời điểm, tôi đã cố gắng khắc sâu và cảnh báo hai nguy cơ của các bậc tiền nhân đối với một đảng cầm quyền: Một là, nguy cơ sai lầm về đường lối. Hai là, nguy cơ Đảng sa vào quan liêu, tham nhũng.

Vì, qua thực tiễn phát triển và những gì đã diễn ra trong hàng ngàn năm nay ở các thể chế; và nhìn hẹp trong gần 100 năm qua, và hôm nay, đối với các đảng cộng sản và công nhân, bài học được viết bằng máu về nguy cơ chết người khủng khiếp đó vẫn vẹn nguyên giá trị lịch sử.


Nhà báo Nhị Lê: "Tôi không thể hình dung ra được, trong Đảng lại xuất hiện bao nhiêu bè nhóm, đẳng cấp. Nói rộng ra, tôi không thể hình dung ra được một đất nước mà có tới cả hàng chục, thậm chí trăm “sứ quân” là các nhóm lợi ích". (Ảnh: Báo Đảng Cộng sản)

Trong quá trình phát triển của các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế, dù cầm quyền hay chưa cầm quyền, và đặc biệt khi đã cầm quyền rồi, thì cái nguy cơ vừa nói rất dễ xảy ra và đã xảy ra. Nếu không kịp thời ngăn chặn, không kịp thời khống chế và hóa giải, thì nguy cơ các Đảng đó trở nên hủ bại, rồi mất vai trò cầm quyền, nguy cơ tan vỡ là điều rất dễ dàng xảy ra.

Hiện nay, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không kiên quyết và hóa giải những nguy cơ, trực tiếp là nguy cơ tham nhũng nói trên thì vị thế, vai trò, trách nhiệm lịch sử cầm quyền của Đảng sẽ khó khăn, thậm chí bị đe dọa hết sức nghiêm khắc.

Trong đó, biểu hiện tinh vi nhất của tham nhũng là nguy cơ cát cứ hóa đường lối cách mạng của Đảng, hay nói cách khác, đó chính là vấn đề tham nhũng quyền lực chính trị.

Khi nói đến vấn đề lợi ích nhóm hay là các nhóm lợi ích trong Đảng chính là đang nói đến nguy cơ về sự phân liệt về chính trị trong Đảng, là nói đến nguy cơ phân liệt đẳng cấp về tổ chức, về cán bộ cảnh báo nguy cơ mất sự thống nhất về chính trị và tư tưởng ở ngay trong chính nội bộ Đảng, mà nhất là hiện nay chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế…

Cơ chế thị trường có nguy cơ tác họa tất cả. Khi đề cập đến điều này, C. Mác cũng đã tiên liệu: Khi các nhà chính trị liên kết với bọn tài phiệt tài chính thì nguy cơ sụp đổ của một nền chính trị, rất gần, thậm chí cận kề. Điều đó mới là đáng nói về tai họa tham nhũng, vào chính lúc này đây.

Tôi không thể hình dung ra được, trong Đảng lại xuất hiện bao nhiêu bè nhóm, đẳng cấp. Nói rộng ra, tôi không thể hình dung ra được một đất nước mà có tới cả hàng chục, thậm chí trăm “sứ quân” – “nhóm lợi ích”.

Cách đây 10 thế kỷ, trước thời kì Đại Cồ Việt, chỉ có 12 sứ quân mà đã làm loạn lạc và tan hoang đất nước rồi. Nguy hại hơn, ngay một số tổ chức Đảng đã bị biến thành “những bị khoai tây”. Các thành viên được tập hợp trong những “chiếc bị” này, mà điều này như tôi đã nói mấy năm trước, chỉ cần cắt cái đầu dây buộc chiếc bị đó ra thì bị khoai tây sẽ bị văng tung tóe, mỗi củ mỗi nơi.

Nhìn rộng ra, nguy cơ Đảng bị phân rã, chia cắt, cát cứ là hết sức nguy hiểm. Trong Đảng mà nảy nòi nhiều “sứ quân” thì nguy cơ khó còn là Đảng Cộng sản nữa; và khi đó, vai trò lãnh đạo, trọng trách lịch sử của Đảng sẽ bị tổn thương và đe dọa nghiêm trọng.

Hai điều đó sẽ dẫn đến vị thế, vai trò, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng đối với đất nước, đối với dân tộc có nguy cơ bị đe dọa; và, vị thế, sức mạnh của quốc gia bị xâm hại và vị thế dân tộc bị hạ thấp.

Đó là phương diện pháp lý và tính chính danh, chính pháp của Đảng, khi xem vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng hiện nay.

Về mặt đạo lý, nếu Đảng ta là “đứa con nòi” của nhân dân lao động, sống và trưởng thành trong lòng nhân dân, mà bị chia rẽ năm bè bảy mảng, không còn là một khối thống nhất nữa, thì dân tộc Việt Nam ra sao; và những đảng viên của Đảng liệu có còn xứng đáng là những “đứa con” của dòng giống Lạc Hồng nữa không?

“Quốc nhục” là Việt Nam bị tổn thương, “quốc sỉ” là Việt Nam bị xâm hại, liêm sỉ mỗi người Việt Nam có còn không? Lúc ấy, liệu có còn xứng đáng là nòi giống Việt Nam ta nữa hay không? Dân tộc bị nô lệ, mỗi người sẽ là vong quốc nô, sớm muộn là chuyện nhãn tiền.

Nếu thất bại về mặt pháp lý và cả đạo lý nữa, có lẽ lúc ấy không còn cơ hội để nói về sự nguy hiểm của nạn tham nhũng nữa.

- Có thể nói, thực trạng tham nhũng tràn lan hiện nay không phải mới chỉ xảy ra, mà đã âm ỉ, tích tụ trong cả một quá trình để hình thành nên các “nhóm lợi ích”. Vậy tại sao bây giờ chống tham nhũng mới được thực hiện một cách quyết liệt?

Tôi vừa nói rồi. Không phải đến bây giờ Đảng Cộng sản Việt Nam mới nhận thức được điều này. Từ rất lâu rồi, thậm chí khi trước Đảng ra đời cả ngàn ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Đảng - đã cảnh báo rất rõ điều đó.

 Một “con ruồi đậu trên đầu hổ”, ngồi ở cơ quan hoạch định chính sách, mà tham nhũng chính sách thì còn nguy hiểm hơn cả những nơi thực thi chính sách với chức vụ còn to hơn gấp mười.
Nhà báo Nhị Lê

Nếu nhớ lại, năm 1927, khi Người viết cuốn “Đường kách mệnh”, thì vấn đề đầu tiên Người nói chính là nói về tư cách của người làm cách mạng. Nhân đây, xin nhắc lại điều đó. Và, tháng 10 năm 2017 này, là năm kỷ niệm tròn 70 năm cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, thì cách nay 70 năm, ở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói rất rõ, cảnh báo về thói cục bộ, tư túng, hủ bại, tham nhũng, đạo vị và bao thói tệ khác cần kíp phải tẩy bỏ của cán bộ rồi.

Trở lại vấn đề hiện nay, trong suốt chặng đường 87 năm qua, kể từ khi Đảng ra đời, mà nhìn rộng hơn là trong suốt 90 năm qua kể từ khi Bác Hồ viết “Đường kách mệnh”, vấn đề chính trị bị cát cứ, chia rẽ luôn là vấn đề cực kỳ hệ trọng.

Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội cũng theo đó mà nảy lòi ra. Lịch sử của các đảng Cộng sản trên thế giới cũng luôn đối mặt với nguy cơ này. Sự rạn vỡ, chia rẽ về chính trị tất yếu sẽ dẫn đến sự tan vỡ về mặt tổ chức.

Nếu sự tan vỡ về mặt chính trị cộng với tan vỡ về tổ chức thì Đảng Cộng sản không còn là đảng nữa, và điều đó cũng đồng nghĩa với việc không còn vai trò lãnh đạo đất nước được nữa. Đất nước sẽ ra sao? Dân tộc sẽ ra sao? Chẳng cần nói thêm, cũng quá rõ. Đây là điều cực kỳ nguy hiểm. Sự quyết liệt hiện nay là ở đó!

Đó là yêu cầu của lịch sử, là mệnh lệnh của nhân dân đối với Đảng ta – “đứa con nòi của giai cấp lao động Việt Nam”! Và, nhân dân cũng tự nhận trách nhiệm về mình, đã đứng bên Đảng!

- Hiện nay trong dư luận cũng có ý kiến cho rằng cuộc chiến chống tham nhũng có thể sẽ có “tầm mức”. Quan điểm của ông thế nào?

Tại sao không phải là câu hỏi: Khi nào và chúng ta làm thế nào để có thể trị được tận gốc tham nhũng?

Ngay từ thế kỷ XV, nhà vua Lê Thánh Tông, một ông vua rất sáng suốt và tạo nên sự thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã có một câu nói mà tôi rất tâm đắc, đúng hơn đó là lời cảnh báo xương máu, ngay giữa buổi thịnh trị, rằng: Nếu có cái gì đó làm cho triều đình đổ vỡ, làm cho muôn dân bại hoại, thì đó chính là nạn tham quan lại nhũng. Bảy, tám thế kỷ qua, nhời ấy, tôi nghĩ, không bao giờ cũ.

Vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng luôn là vấn đề sinh tử, thành bại của muôn thời. Vì thế, cũng không thể hiểu được hiện nay, tại sao có ý kiến lại đặt ra cái gọi là “liều lượng” với tham nhũng và chống tham nhũng? Rồi chuyện, thế nào là “tầm mức”, thế nào là “mạnh tay”, thế nào là đủ, thế nào là “đến cùng”… khi nói về chống tham nhũng?

Những băn khoăn ấy của một số người hiện nay âu cũng là dễ hiểu thôi.

Tôi xin nói gọn ở đây về quyết tâm chống tham nhũng. Rằng, đã sợ tham nhũng và hệ lụy của nó thì không chống; và, khi đã chống tham nhũng thì quyết không sợ, tất nhiên tất cả những gì thuộc về nó, không bàn thêm.

Vấn đề không chỉ ở quyết tâm chống: không sợ sệt; đối tượng chống: rõ ràng, đúng, trúng; phương châm chống: kiên định, không dao động, nửa vời mà còn là ở nghệ thuật chống: bước đi phù hợp, hiệu quả và lực lượng chống: mạnh mẽ, kiên quyết, kiên tâm và đông đảo!... Không có sự lựa chọn nào khác, nếu không muốn rước họa và chuốc lấy thất bại. Sinh tử thì phải tử sinh. Không do dự, cầu toàn. Đó là tất yếu!

- Như nhiều người nói, tham nhũng có nhiều loại khác nhau, thậm chí công chức đi muộn về sớm cũng là tham nhũng thời gian. Theo ông, loại tham nhũng nào nguy hiểm nhất và cần phải chống quyết liệt đầu tiên?

Vấn đề hiện nay là, phải phân loại, để có biện pháp giải quyết sao cho phù hợp. Tham nhũng tiền bạc là tham nhũng ít. Tham nhũng về chức vụ, về chính sách thì mới là tham nhũng khủng khiếp. nhưng, tham nhũng về lòng tin sẽ đưa đất nước đến chỗ sụp đổ, thực sự là trọng tội, là thảm họa. Có những việc phải dùng dao bài thì ta phải dùng dao bài. Mổ trâu thì dùng dao bài, nhưng mổ chim sẻ thì phải dùng dao kim. Song hãy coi chừng, bởi chưa chắc mổ trâu đã quan trọng hơn mổ chim sẻ.

Một con chim sẻ (các cụ xưa gọi là bọn tiểu tước) mà “đậu cành cao”, mà tham nhũng, thì tác họa còn nguy hiểm hơn cả đàn con trâu nằm ở vũng bùn. Một “con ruồi đậu trên đầu hổ”, ngồi ở cơ quan hoạch định chính sách, mà tham nhũng chính sách thì còn nguy hiểm hơn cả những nơi thực thi chính sách với chức vụ còn to hơn gấp mười. Mỗi loại một đối sách phù hợp, cố nhiên là sức mạnh tổng hợp.

Cho nên, ở đây cần phải căn cứ vào tính chất của đối tượng, của vụ việc để từ đó có đối sách cho phù hợp. Tôi muốn nói là, người lãnh đạo Đảng ở các cấp cố nhiên là nhìn xa, trông rộng, tiên liệu và có đối sách sao cho phù hợp đã đành mà còn hành xử dứt khoát với tinh thần “quốc pháp bất vị thân” một cách dân chủ, minh bạch và đầy tính nhân văn.

- Ông nghĩ sao về những quan điểm cho rằng gốc rễ tham nhũng do thể chế?

Ai ai cũng đặt câu hỏi: Chúng ta phải làm gì để trị cho bằng được cái gốc đã đẻ ra tham nhũng? Không ít người đổ cho thể chế. Phải khẳng định ngay là, từ xưa tới nay, không có thời nào, không một thể chế nào dung nạp hay nhân nhượng với tham nhũng cả. Ở đây, không phải là thể chế đẻ ra tham nhũng. Tôi cam kết lại là, không có thể chế nào dung tha tham nhũng cả. Cái gì cũng đổ lỗi là do thể chế, tham nhũng cũng đổ lỗi là do thể chế, nói thế là chỉ thấy ngọn. Vậy thì cái gì? Lý luận hay đường lối, chính sách?

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, không thể sửa sai những lỗi lầm bằng thứ tư duy đã đẻ ra nó. Chống tham nhũng cũng vậy. Rộng hơn là đổi mới lý luận, cụ thể là chính sách, cũng vậy. Tiếp tục đổi mới không ngừng tư duy về tham nhũng và chống tham nhũng.

Vì tham nhũng giờ đây không chỉ có tham nhũng kinh tế, tiền bạc hữu hình, chức vụ và danh vị cụ thể, chính sách, chế độ cụ thể mà xâm hại cả tới những lãnh địa thiêng liêng vô hình: tham nhũng lòng tin, tham nhũng chính trị… biến ảo khôn lường.


Không thể dùng những người tham nhũng để đi chống tham nhũng được. Bộ máy chống tham nhũng phải được trao đủ quyền năng và được kiểm soát chặt chẽ và toàn diện quyền lực.
Nhà báo Nhị Lê

Rồi tham nhũng độc lập và tham nhũng tập đoàn, tham nhũng kinh tế đan cài, liên minh với tham nhũng chính trị, tham nhũng trong nước cấu kết với tham nhũng xuyên quốc gia, không quy mô, không giới hạ nào cả… Tất cả điều đó làm khuynh bại quốc gia, sụp đổ lòng tin và băng hoại dân tộc và làm tổn hại các quốc gia dân tộc khác.

- Rõ ràng, kinh nghiệm ở mọi lĩnh vực đều cho thấy "phòng tốt hơn chống". Vậy công tác "phòng" tham nhũng sẽ được thực hiện thế nào, thưa ông? 

Vì thế, việc cần kíp thiết lập vòng cương tỏa tổng hợp từ “Đức trị” tới “Pháp trị” và “Dân chủ hóa”, gồm 7 mặt chỉnh thể: Không nên tham nhũng - Không được tham nhũng - Không thể tham nhũng - Không cần tham nhũng - Không vùng cấm, không ngoại lệ xử lý tham nhũng - Không thể thoát khi tham nhũng – Không thể lợi dụng trong chống tham nhũng. Bảy mặt này phải giữ nghiêm.

Nói khái lược, đổi mới thể chế chống tham nhũng quốc nội và quốc tế theo hướng đó. Đó là lý luận, là quyết sách chính trị trước hết và đầu tiên.

Về lực lượng chính trị chống tham nhũng? Ai chống tham nhũng? Kẻ tham nhũng bòn rút xương máu nhân dân, đục khoét cốt tủy quốc gia. Cố nhiên, cả dân tộc, trước hết là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới ngọn cờ của Đảng, tất cả không trừ một ai, hễ có lương tri và cả bạn bè quốc tế. Thành bại là ở đây.

Tham nhũng đã lan rộng, leo cao, chui sâu… và tác họa khôn lường. Nên vấn đề rường cột cốt tử ở đây là, làm tốt yếu tố cán bộ. Thực tế cho thấy, do chính những cán bộ lợi dụng thể chế, tìm khe hở của thể chế để thực hiện mưu đồ của mình, nhằm tham nhũng, nên đột phá vào chỗ tung thâm này, mà tiếp tục đổi mới bộ máy chống tham nhũng.

Lựa chọn cán bộ có quyết tâm, có năng lực, có đạo đức là điều cực kỳ quan trọng, nếu không muốn nói đó là yếu tố quyết định việc thành bại. Người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền… phải Gương mẫu - Trung thực - Liêm sỉ và Kỷ luật trong đấu tranh chống tham nhũng. Ai không được tối thiểu như thế, thì nên từ chức.

Không thể dùng những người tham nhũng để đi chống tham nhũng được. Bộ máy chống tham nhũng phải được trao đủ quyền năng và được kiểm soát chặt chẽ và toàn diện quyền lực. Tất cả phải sống trong lòng nhân dân và chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân dân! Lưới giời nhân dân lồng lộng!

Đặc biệt, công cuộc chống tham nhũng hiện nay đã và đang nhận được sự ủng hộ của cả hệ thống chính trị, của toàn thể đồng bào ta và sự hợp tác chặt chẽ từ quốc tế. Đó là sức mạnh vô địch. Nhưng, phải cổ vũ, giữ niềm tin của nhân dân và bảo vệ vô điều kiện nhân dân.

Nên nhớ, được lòng dân, khi nhân dân ủng hộ thì vạn sự tất thành, được cả thiên hạ, nhất là trong cuộc đấu tranh sinh tử lúc này.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

LƯU THỦY

(VTC News)

15 tháng 8, 2017

Huy Đức - Chính trị & kỹ trị, cùng vấn đề của Trương Minh Tuấn


Chủ tịch một công ty nổi tiếng, trực thuộc một bộ, hưu gần hai năm nay, nhận xét ngắn gọn về người mà lẽ ra ông phải chịu ơn vì từng ký 3 quyết định đề bạt, bổ nhiệm ông, "Súc vật". Một thành viên nội các nhiệm kỳ trước, đang giữ một vị trí cao hơn trong nhiệm kỳ này, trong một lần bi phẫn, nói với bạn tâm giao, "Đôi khi tôi phải làm những việc không phải của một con người". Nhiều đại biểu dự Đại hội XII ngạc nhiên vì nhận được những khoản thu nhập bất ngờ. Có những lá phiếu đã được quy đổi thành tiền bên hành lang của nơi mà các đảng viên trung thành vẫn coi là "đền thiêng của Đảng".


Ông Trương Minh Tuấn

Nhiệm kỳ này vẫn rơi rớt không ít thành viên tiến thân bằng những nấc thang được lắp đặt bởi các "nguyên lý" của hai nhiệm kỳ trước đó. Nhiều nhà báo "uống rượu" với Trương Minh Tuấn, ngơ ngác khi chứng kiến một kẻ thô lỗ, ăn không nên đọi, nói không nên lời; làm trưởng phòng bảo vệ ở một cơ quan báo chí đã là quá đáng, bỗng nhiên trở thành Bộ trưởng có quyền cấp thẻ, rút thẻ của mình. Trương Minh Tuấn nếu không vượt thẩm quyền, ký quyết định cho MobiFone đi vay 8.900 tỷ mua một cơ sở hạ tầng truyền hình trị giá tối đa là 300 tỷ, liệu có thể có tiền, có cái ghế UVTƯ, bộ trưởng? 

Đọc quy định mới của Bộ Chính trị về "tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ", nhận thấy các nhà lãnh đạo Đảng đang muốn chặn cái đà tha hóa đó của đội ngũ. Nhưng, cũng rất tiếc là những người tham mưu, ban hành quyết định này vẫn chưa nhìn thấy cái gốc của vấn đề và đặt các nỗ lực cải cách trên những nguyên lý chính trị căn bản nhất. 

Cho dù vẫn đang được vận hành với nhiều tính chất "đảng trị", nếu "công tác cán bộ" muốn khắc phục được các yếu tố gây tha hóa đội ngũ thì không chỉ ban hành các quy chế nội bộ mà còn phải thiết kế nền quản trị quốc gia theo hướng tách bạch hai chức năng chính trị & kỹ trị. Từ đó, đội ngũ cán bộ cả của Đảng lẫn Nhà nước không thể chỉ được phân chia theo thứ bậc (cấp ban bí thư quản lý, cấp bộ chính trị quản lý...), mà phải tách bạch theo các ngạch trật: chính trị gia; viên chức bổ nhiệm (chính trị & tư pháp); viên chức hành chánh. 

Hệ thống chính trị, bao gồm chính trị trung ương và chính trị địa phương - nơi đưa ra các quyết sách - và, hệ thống hành chính - nơi kỹ thuật hóa bằng thủ tục để thực thi các quyết sách đó. Chính trị & kỹ trị là hai thực thể song hành nhưng càng ít lệ thuộc vào nhau càng tốt. Càng có một hệ thống hành chính (và cả tư pháp) ít chịu ảnh hưởng bởi chính trị, bởi tư duy và các chỉ tiêu nhiệm kỳ và một hệ thống chính trị không kiếm chác được từ sự nhũng nhiễu của hệ thống hành chánh thông qua việc áp đặt các thủ tục (như các giấy phép con...) thì nền quản trị quốc gia mới có thể hữu hiệu và giảm nguy cơ tham nhũng. 

Khác với giai đoạn 1960 đến đầu thập niên 1990, Chính phủ sau Hiến pháp 1992, bắt đầu xuất hiện các chính trị gia - thay vì các cán bộ được Đảng kêu gì làm nấy như các chính phủ thời "quan liêu, bao cấp". Cho dù đảng không phải là "tinh hoa của dân tộc" thì những nhà lãnh đạo trong các nội các từ 2006 trở về trước vẫn còn là những người tiêu biểu hơn trong Đảng.

Ngay từ cuối thập niên 1970s, khi dấu ấn cá nhân và đảng trị đang là phương thức điều hành tuyệt đối của quốc gia, rất ít khi có một nhà lãnh đạo địa phương nào được điều ra Hà Nội mà "vô danh tiểu tốt" như hiện nay. 

Những Võ Văn Kiệt, Chín Cần, Đoàn Duy Thành... đều là những nhà lãnh đạo nổi bật, có nhiều sáng kiến chính sách, trong các nền chính trị địa phương. Công tác cán bộ bắt đầu suy thoái khi sự lựa chọn lãnh đạo được quyết định bởi các "cha chú" và những người được cơ cấu vào Trung ương thường chỉ vì đứng đầu các "pháo đài huyện" như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Mỹ Hoa, Nguyễn Thị Xuân Mỹ... thay vì bằng những thành tích ở địa phương của họ (thậm chí Nguyễn Tấn Dũng khi được Lê Đức Anh chọn điều ra TƯ đang còn là đối tượng bị tố cáo ở Kiên Giang). 

Cần phải xác định, Đảng muốn cái gì phải là "trung ương tập quyền" để duy trì kỷ cương và tính thống nhất quốc gia, cái gì phải "phân quyền" để phát huy tính năng động và vai trò giám sát từ cơ sở. Nếu tuyệt đối tập quyền, nhân sự lãnh đạo địa phương vẫn tiếp tục được quyết định bởi BCT, BBT thì chính trị địa phương sẽ bị thui chột, ứng cử viên cho các vị trí lãnh đạo TƯ tiếp tục sẽ vẫn là những nhân vật giỏi chạy chọt, thay vì là các nhà lãnh đạo có nhiều thành tích.

Cần phải tách bạch ngay hai chức năng của bộ máy hành pháp: chức năng hành pháp chính trị - xây dựng chính sách, thiết kế quy định hành chính; chức năng hành chính công vụ (cấp phép; giám sát thực thi; giải quyết tranh chấp). Cần phải tăng cường tính kỹ trị cho cả chức năng xây dựng chính sách và thực thi công vụ. Đặc biệt là với chức năng xây dựng và thực thi các chính sách phát triển ngành kinh tế (chính sách thuế, chính sách trợ cấp, trợ giá, làm quy hoạch hoặc đầu tư các công trình trọng điểm quốc gia). 

Chức năng làm chính sách cần được giao cho một bộ phận với thành phần chủ yếu là những viên chức chính trị được bổ nhiệm. Họ là những người được lựa chọn bởi các bộ trưởng và có thể chỉ phục vụ cho nhiệm kỳ của vị bộ trưởng ấy. Trong các cơ quan tham mưu chính sách (có thể là các vụ) bao gồm cả những người có "biên chế" (họ là những người thông thạo kỹ thuật lập quy, có thể giúp các bộ trưởng, vụ trưởng biến một sáng kiến lập pháp, lập quy trở thành một dự thảo luật hay quy phạm hành chính). Chức năng thực thi hành chính công vụ được đảm nhiệm bởi các công chức hành chính chuyên nghiệp, tuyển dụng qua hình thức thi tuyển và chỉ làm theo quy định và thủ tục (tuyệt đối không sáng kiến). 

Nên trao cho người có quyền bổ nhiệm (Thủ tướng, chủ tịch UB) quyền chủ động lựa chọn nhân sự (các bộ trưởng, giám đốc sở và các chức danh tư pháp...). Cấp ủy chỉ cần giám sát thông qua lá phiếu của mình trong các cơ quan dân cử (phê chuẩn hay không phê chuẩn). Các chức danh tư pháp cũng thay vì tự đào tạo và chỉ được cung ứng bởi nguồn nội bộ cũng cần phải được lựa chọn từ những người có uy tín trong xã hội. Ví dụ: các thẩm phán có thể được chọn trong giới luật gia, luật sư, từ những người nổi tiếng liêm chính và có nhiều thành tựu về nghề nghiệp. 


Một người có thể trở thành chính trị gia bằng cách ra tranh cử vào các cơ quan lập pháp hoặc được tiến cử vào nội các nhưng trước đó không phải là những người có uy tín, có thể đến từ địa phương hay từ những hoạt động chính trị khác, được biết đến với những thành tích nổi bật. Nếu cấm chính trị gia có "tham vọng quyền lực"(chưa rõ nội hàm tham vọng được dùng trong Quy chế là gì) thì họ vẫn phải là những người có khát vọng sử dụng quyền lực mà họ đạt được để đưa đất nước đi lên. Họ phải chấp nhận một sự nghiệp có rủi ro (thất cử là về vườn). 

Những viên chức bổ nhiệm cũng phải là những người chí công, theo giúp một chính trị gia chủ yếu vì muốn biến một sáng kiến nào đó của mình thành chính sách, họ phải chấp nhận sự tham chính của mình là "không biên chế", "leaders" của mình thất cử là cắp cặp ra đi. Biên chế chỉ bao gồm những viên chức hành chánh, họ được đào tạo để làm việc mẫn cán và chuyên nghiệp; họ có thể chỉ cần "sáng cắp ô đi, tối cắp về". Nếu họ nổi hứng ra tranh cử hoặc được bổ nhiệm thì phải từ bỏ sự "êm đềm" của biên chế. 

Công tác cán bộ, trước hết, phải phân biệt được sự khác nhau giữa các ngạch, trật. Đừng nhầm lẫn chính trị với kỹ trị. Đừng đưa nhưng kẻ chỉ quen điếu đóm vào các vị trị của một chính trị gia. Và, đừng bắt những người có tố chất của chính trị gia phải mẫn cán, dò dẫm từng nấc thang hành chính.

Huy Đức

(FB Trương Huy San)

Trương Duy Nhất - Huy Đức


Trước khi tôi bị bắt, chỉ gặp Huy Đức mỗi hai lần.

Nói không biết thì không phải, là những thằng làm báo ít nhiều có tên tuổi, tôi với Huy Đức nghe nhau, biết nhau, đọc nhau. Tất nhiên rồi.
Chén rượu đầu tiên ngày ra tù, với Huy Đức. Phòng chờ sân bay Vinh, Nghệ An, 26/5/2015.
 Không phải thân. Dù nhiều, rất nhiều những thằng bạn thân, rất thân của tôi, cũng là bạn nó.

Sau khi ra tù, tôi đi với Huy Đức nhiều hơn.

Quí, cũng bởi cái tình nó dành cho mình. Mãn hạn tù, 26/5/2015, người đi đón tôi hôm đó, đúng ra phải là Phạm Xuân Nguyên. Vì một động tác kỹ thuật của thế lực... X nào đó, Phạm Xuân Nguyên không thể rời Hà Nội. Huy Đức đang có việc tại Nghệ An. Không hiểu run rủi sao, chợt nhớ ngày đó TDN ra tù. "PXN không đi được, tôi phải đón ông, không thể để ông khi ra tù không thấy thằng bạn nào. Tôi sợ ông cô độc, buồn". Sau này nghe nó kể vậy.

Trong chiếc xe tù bịt bùng ấy, tôi nhoài người hét lên gọi Huy Đức, và nhờ vậy vợ con mới biết được đó là chiếc xe chở vứt tôi trên quãng đường rừng hoang vu cách trại hơn 4 km.

Đấy là điều ngạc nhiên, bất ngờ. Nhờ Huy Đức, mới có được seri ảnh tuyệt kỳ về khoảnh khắc TDN với chiếc quần tù còn hàng chữ "phạm nhân" ngày ra trại.
 Hình ảnh đầu tiên khi ra khỏi trại tù của Trương Duy Nhất, với chiếc quần còn in chữ "phạm nhân", 26/5/2015. (ảnh: Huy Đức).
 Nó chuẩn bị sẵn một chai rượu quí (hình như ngâm sâm siếc chi đó). Hai thằng tương sạch trong phòng chờ sân bay Vinh, với hai bát mì tôm. Đó là chai rượu đầu tiên, với người bạn đầu tiên ngay sau khi tôi rời khỏi nhà tù.

Quí, và thật tình, ơn Huy Đức từ đó. Lão Phạm Xuân Nguyên mà tôi, và cả gia đình tôi luôn coi như một người anh thân thiết trong nhà, giả hôm ấy có mặt, chắc cũng không thể chộp được những khoảnh khắc có một không hai ấy.

Những ngày này, thấy Huy Đức bị đánh khiếp quá, nghĩ thương. Không hẳn những gì hắn viết mình cũng đồng ý. Thậm chí nhiều điều mình ủng hộ theo chiều ngược lại. Trí thức phản biện, phải trên tinh thần ấy.

Trước đây, tôi cũng chẳng từng bị đồn đoán là "tướng an ninh" đấy sao. Thậm chí vào tù rồi, vẫn bị coi là người của ông này, cánh nọ. Đến như anh Phan Nguyên ở Toronto (Canada) tiếp tôi năm 2011 cũng rụt rè, để rồi năm 2013 khi nghe tin tôi bị bắt mới "thương thằng Nhất quá".

Loại mình còn bị nghi vậy. Cỡ Huy Đức "ăn đòn" đến như những ngày qua, chưa phải điểm dừng. Vì thế, cực kỳ chia sẻ với nó. Dẫu biết rằng, cái thằng "Bên thắng cuộc" ấy hẳn thừa bản lĩnh.

Thiên hạ bảo Huy Đức phe này cánh nọ. Chẳng biết thực hư sao. Nhưng làm báo, tôi ghét lối ba phải, hàng giữa.

Có một thằng quan báo, luôn huênh hoang khoác lác về nghề rằng "làm báo như người đu dây vậy, phải biết giữ thăng bằng để khỏi ngã, ấy mới là nhà báo giỏi". Tôi khinh loại nhà báo ấy. Đấy là thứ làm báo cơ hội, lúc nghiêng bên này ngã bên kia chỉ để cố giữ thăng bằng cho chính bản thân mình.

Tại sao không cởi phăng áo, nhảy hẳn xuống đường, thẳng lưng mà bước ngửng đầu mà đi.

Không biết, Huy Đức đã khi nào "đu dây" chưa? Nhưng điều này thì rõ: nó không bán chữ cầu vinh, không đứng về phía bọn ăn tàn phá hoại, bán nước hại dân.

Trương Duy Nhất 

Nguyễn Thông - Bắt chước


Trong tiếng Việt, bắt chước có nghĩa là làm theo người khác một cách máy móc. Đó là hành vi lặp lại những thứ của người khác, sao chép thụ động, chả thể hiện được cái gì của riêng mình, ngoài "tài" bắt chước.

Trong thế giới tự nhiên, con khỉ được xem là vua bắt chước. Ai làm cái gì, nó cũng làm theo, nhưng dù giỏi mấy thì vẫn là trò khỉ. Con vẹt, con sáo cũng bắt chước được tiếng người, thậm chí rất giỏi. Lại nhớ hồi năm 1997 tôi đến thăm nhạc sĩ Phan Vân, tác giả bài hát nổi tiếng “Tình thương mến” thời kháng chiến chống Pháp, trò chuyện để viết một bài chân dung về ông đăng trên báo Thanh Niên, hai bác cháu đang rôm rả, chợt nghe ngoài cửa có tiếng rao mời “Ai bánh tiêu nào”. Tôi dừng chuyện ngó ra, bảo bác ơi có ai kêu cửa, ông Phan Vân cười, bảo con két kêu đó, nó nghe hoài người rao nên nó thuộc, bắt chước i xì.

Nhưng con vật bắt chước có giỏi mấy chăng nữa cũng chỉ xách dép cho người. Trên đời này, có những siêu bắt chước, khỉ hay vẹt phải gọi bằng cụ.

Lớp tôi thời sinh viên (72-76) có thằng (hồi ấy chúng tôi tinh gọi nhau thân mật bằng thằng) Xuân Ba, nó bắt chước giọng của các danh sĩ, yếu nhân thì thôi rồi. Giọng ai nó cũng bắt chước được, bất kể phát âm Bắc, Trung, Nam, như Xuân Diệu đọc thơ tình, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói chuyện cùng văn nghệ sĩ, cụ Hồ vui với thiếu nhi, thầy Hoàng Xuân Nhị dạy thơ bác Hồ rồi khóc… Cứ mỗi lần nó “hóa thân” là cả lũ lại há hốc mồm nghe rồi bò lăn ra cười. Chả hiểu sao nó không đi diễn kịch mà lại mò sang làm báo.

Nhưng cũng may nó không diễn kịch, chứ theo nghề này thì thua kịch sĩ Tiến Hợi chuyên đóng vai bác Hồ là cái chắc. Tiến Hợi của đoàn kịch nói Hà Nội cứ mỗi lần ra sân khấu là đám đông khán giả đứng dậy đồng loạt hô “muôn năm, muôn năm”. Tôi nhớ có lần xem Tiến Hợi diễn bác Hồ ở nhà hát lớn, lúc “bác” đau khổ phải ký lệnh xử bắn Trần Dụ Châu, nhiều người sụt sịt thương bác, có cả người nức nở nước mắt nước mũi dàn dụa.

Cỡ Xuân Ba, Tiến Hợi cứ nghĩ kịch trần rồi, ai ngờ bọn ấy lại xách dép cho những kịch sĩ làm chính trị. Giả dụ bắt chước là một chuyên môn có đẳng cấp thì đám làm chính trị phải phong là nghệ sĩ ưu tú bắt chước, nghệ sĩ nhân dân bắt chước, nghệ nhân bắt chước siêu hạng…

Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản được du nhập xứ này, người cộng sản càng ngày càng chứng tỏ năng khiếu bắt chước hiếm có. Họ đem về đủ thứ từ Liên Xô, Trung Quốc, dập khuôn y chang, cả tư tưởng quan điểm chính trị, cung cách tổ chức, đường lối kinh tế, phương pháp giáo dục, cách cai trị dân, thậm chí cả thói giả dối, sự tàn ác… Họ cũng ra vẻ ta đây có tinh thần độc lập tự chủ, thường phân trần “áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam” nhưng thực tế thì ngay cả bắt chước cũng không ra hồn. Nhiều thứ lắm, có kể suốt ngày cũng chả hết, tôi chỉ nêu ra một vài ví dụ.

Về mặt tổ chức bộ máy, khi các đàn anh Liên Xô, Trung Quốc tổ chức nhà nước song trùng đảng-chính phủ, thì ông em cũng ngoan ngoãn bê nguyên xi về. Từ bấy đến nay lúc nào dân Nam cũng được nghe cụm từ “đảng và nhà nước”, dưới sự lãnh đạo của đảng và nhà nước”, “ơn đảng ơn chính phủ”. Nhà nước có thứ gì thì đảng cũng có thứ ấy, mà thường to hơn, rườm rà hơn, tốn kém hơn, kể từ trụ sở, bộ máy, nhân lực, quyền hành, xài phí tiền bạc của dân không kể xiết. Rồi họ cũng bắt chước Xô-Trung lập ra các ban bệ, đoàn thể, hội này hội nọ, mặt trận tổ quốc, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, ban tuyên giáo, ban thi đua… trùng trùng lớp lớp xỉa ngoạm vào ngân sách. Hồi xưa họ làm cách mạng nói là để giải phóng nhân dân khỏi 3 tầng áp bức phong kiến – thực dân – phát xít thì ngay sau đó họ lại thiết lập ách cai trị (mà họ gọi mỹ từ là chính quyền nhân dân) không chỉ 3 tầng mà 4 – 5 tầng khiến dân nặng vai è cổ.

Về nguyên tắc phổ quát trên thế giới, các đảng chính trị được quyền hoạt động nhưng phải tự lo kinh phí, không được ăn vào tiền thuế của dân. Những nước dân chủ văn minh đều như thế cả. Nhưng các anh cả anh hai Xô-Trung đã đầu têu việc chiếm ngân sách cho hoạt động của đảng cầm quyền nên đàn em cũng bắt chước ngon lành, mà có phần trắng trợn hơn. Một hạt lúa làm ra, dân phải cắn chia làm 5 làm 7, nuôi đảng, nuôi nhà nước, nuôi đoàn thể, nuôi quốc phòng, nuôi tùm lum thứ, rồi mới đến nuôi bản thân mình. Nặng gánh như thế nhưng chưa bao giờ dân được công khai biết những thứ mình nuôi kia chiếm bao nhiêu phần trăm ngân sách, tức là chiếm bao nhiêu độ mặn trong giọt mồ hôi của mình. 

Bắt chước (phần 2)

Trong bài phần 1 tôi đã kể rằng các thế hệ cộng sản cầm quyền xứ này gần như bê nguyên xi bộ máy tổ chức của Liên Xô hoặc Trung Quốc về nước mình, cứ nhắm mắt nhắm mũi áp dụng, họ có gì thì mình có thế, chả cần xem nó có hợp hay không, nó hay dở thế nào. Cái tâm lý đàn em, nhược tiểu cũng một phần quyết định sự bắt chước này, ngại nhỡ ra các anh thấy khác, không hài lòng thì phiền. Vậy nên, anh có thế nào, em cứ sao chép tỉ mỉ cho đủ cho đúng, bao giờ anh sửa thì em lại sửa theo, anh bỏ thì em bỏ, anh giữ thì em giữ.

Điều rất dễ thấy, về tổ chức đảng, khi Liên Xô quy định tên gọi người đứng đầu đảng là tổng bí thư thì VN cũng có tổng bí thư, lúc Liên Xô đổi thành bí thư thứ nhất thì đảng VN cũng bí thư thứ nhất, Liên Xô chán thứ nhất thứ nhì lại quay về tổng bí thư, VN cũng chán, cũng lại tổng bí thư. Về chính phủ, anh cả gọi là Hội đồng bộ trưởng thì VN cũng Hội đồng bộ trưởng, người đứng đầu hội đồng ấy Liên Xô có chức danh chủ tịch thì ta cũng chẳng kém, cũng chức danh chủ tịch. Liên Xô chán, đổi thành chính phủ, lập thủ tướng, VN vội đổi ngay thành chính phủ, đứng đầu là thủ tướng. Ông Phạm Văn Đồng trong 31 năm đứng đầu chính phủ hết làm thủ tướng lại làm chủ tịch hội đồng bộ trưởng, quanh đi quẩn lại vẫn chỉ một ghế. Dường như Liên Xô có thứ gì thì các vị nhà ta phải nhanh nhảu có ngay thứ đó, chẳng cần biết điều kiện, hoàn cảnh của gấu Nga khác ta rất nhiều.

Buồn cười nhất là đổi tên nước. Sau cuộc cách mạng tháng 8.1945, nước ta được đổi tên thành Việt Nam dân chủ cộng hòa, quốc hiệu là Việt Nam. Suốt bao năm trường lao động và chiến đấu, cái tên ấy đã gắn bó với nhiều thế hệ, kể từ cụ Hồ tới về sau. Vừa chấm dứt cuộc chiến tranh để thống nhất đất nước năm 1975, những người cộng sản vội nghĩ ngay đến việc đổi tên nước. Họ cho rằng sau khi đánh thắng hai đế quốc to thì không còn gì cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của họ, thậm chí có vị lãnh đạo còn lạc quan cho rằng chủ nghĩa xã hội đã về đến tận ngõ rồi. Tại kỳ họp quốc hội thống nhất đầu tiên đầu tháng 7.1976, dưới áp lực của đảng cầm quyền, quốc hội đã nhanh nhảu ra nghị quyết đổi ngay tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Anh cả Liên Xô đã mang tên cộng hòa xã hội chủ nghĩa lâu rồi, giờ ta mới đặt vậy là khí muộn. Không ít nhà lãnh đạo cộng sản VN thời điểm ấy mang tâm lý Liên Xô số 1, VN số 2, kiêu ngạo tự đắc trên có Liên Xô, dưới có VN, anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta. Tôi còn nhớ thời mới “giải phóng” có những tờ báo (hồi ấy chỉ có báo quốc doanh) vênh vang khoe tiềm lực quân sự của VN đứng trong top 5 thế giới bởi vừa thu được vô số máy bay, tàu chiến, pháo, đạn dược, khí cụ chiến tranh hiện đại từ quân đội VN cộng hòa (mà họ gọi là ngụy). VN chính thức trở thành căn cứ vững chắc của chủ nghĩa xã hội ở phương đông, kể từ cái tên nước.

Cũng xin nhớ rằng chỉ có mấy anh phổi bò xứ ta mới huếnh thế chứ nhìn ra những nước cùng phe, họ rất thận trọng đặt tên gọi quốc gia. Cuba, Ba Lan… chỉ gọi ngắn gọn là Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Cuba; Lào và Triều Tiên thì Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc thì Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đám mấy nước này cũng chủ trương tiến lên chủ nghĩa xã hội nhưng dè dặt, cẩn thận từ cái tên. Chỉ có ông vua bắt chước ở VN là nhanh nhảu, khiến anh cả Liên Xô hết sức hài lòng. Tuy nhiên, thiện cảm cũng chả kéo dài được bao lâu.

Về kinh tế, có dịp nói thêm chút ít về cái gọi là chủ nghĩa xã hội. Những năm sau 1975 kinh tế càng ngày càng xuống dốc, bết bát thê thảm. Một nước sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp mà ruộng đồng hoang hóa, nông dân tha phương cầu thực, hợp tác xã trở thành thứ tai họa triệt tiêu sức sản xuất. Một số nơi như Vĩnh Phúc, Hải Phòng phải xé rào, khoán hộ, chia ruộng đất khoán sản phẩm cho nông dân. Những nơi khoán được thì dân ấm no trở lại, đẩy lui đói nghèo, cuộc sống sinh sắc hơn, thay da đổi thịt. Những nơi vẫn bám vào duy trì hợp tác xã đi lên chủ nghĩa xã hội thì “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” đến bờ vực. Trong hồi ký “Làm người là khó”, ông Đoàn Duy Thành (chủ tịch, rồi bí thư Thành ủy Hải Phòng, sau là Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, tức Phó thủ tướng) kể lại trung ương phân vân, tranh luận dữ lắm. Sau khi nghe báo cáo rằng nông dân làm khoán thì được ấm no hạnh phúc, nông dân làm theo hợp tác xã thì ngày càng chết đói, ly hương, chính ông Lê Duẩn và nhiều ông trong Bộ Chính trị như Trường Chinh, Lê Thanh Nghị, Phạm Văn Đồng, Trần Quốc Hoàn… cũng lo lắng nhưng lại bày tỏ “nếu khoán, chia đất cho nông dân thì để mất chủ nghĩa xã hội à”. Đối với họ, chủ nghĩa xã hội mới là thứ họ cần chứ ấm no hạnh phúc của dân chả là quái gì cả.

Về giáo dục, xứ này dưới thời thuộc Pháp đã được người Pháp xây dựng một nền giáo dục hiện đại tương đối hoàn chỉnh, đào tạo nhân tài, giáo dục chất lượng cao. Khi người cộng sản cướp được chính quyền, họ xây dựng nền giáo dục mới, lấy mẫu hình Liên Xô làm chuẩn. Hồi tôi học phổ thông, giáo viên chấm điểm cũng bắt chước Liên Xô theo thang điểm 5, chương trình cũng copy hệt của Liên Xô, trong khi rất nhiều thứ rất ưu điểm mà chúng ta từng có lại bị gạt bỏ, ví dụ dạy ngoại ngữ như một ngôn ngữ bắt buộc.

Suốt những năm 60-80 mà tôi chứng kiến, cấu trúc hành chính, tổ chức làng xã, huyện thị, tỉnh thành cũng được những người cầm quyền bắt chước theo tổ chức của Liên Xô, Trung Quốc. Ở thành phố không có quận, phường mà là khu, tiểu khu (chẳng hạn Hà Nội có 4 khu: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng; Hải Phòng có 3 khu Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền) bởi hai anh lớn cấu trúc thế thì mình cũng phải thế, mặc dù cách tổ chức quận, phường của người Pháp đã hết sức hợp lý, khoa học. Sau năm 1976, không thể cưỡng lại sự chính xác “cũ” ấy, họ (nhà cai trị) đã phải chấp nhận đơn vị hành chính như cũ, dư luận cười bảo đó là “đổi mới như cũ”.

Nông thôn cũng vậy, có một thời thấy Trung Quốc “thay trời chuyển đất, sắp xếp lại giang sơn”, tổ chức công xã nhân dân hoành tráng, các vị nhà ta cũng hào hứng lắm. Họ cho rằng hợp tác xã nông nghiệp vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa thể sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa nên cũng có ý định xây dựng công xã như Trung Quốc. Tôi còn nhớ ở huyện Kiến Thụy (Hải Phòng) quê tôi, một vài xã đã được thí điểm mô hình công xã hồi giữa những năm 70, trong đó có xã Minh Tân ven sông Đa Độ. Cũng may mà công xã chết yểu bởi chính hợp tác xã còn chả tồn tại nổi thì nó làm sao sống được. Thời những năm 80, cả nước chỉ còn 500 huyện, là 500 pháo đài vững chắc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình bên Liên Xô, mà huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) hoặc xã Định Công (ở huyện Yên Định, Thanh Hóa) được coi là điển hình. Bây giờ cứ ai nhắc lại những điển hình bắt chước tiêu biểu cho nghèo đói và duy ý chí ấy, người nghe vẫn sởn gai ốc.

Một trường hợp bắt chước gây nên đại bi kịch là cải cách ruộng đất. Cuộc “cách mạng long trời lở đất” ấy đã được nhập nguyên xi từ Trung Quốc và Liên Xô. Sau này cũng có những người phân trần rằng trung ương không muốn nhưng Trung Quốc và Liên Xô cứ ép phải làm. Ông Hoàng Tùng (nguyên Bí thư Trung ương đảng, tổng biên tập báo Nhân Dân, một người rất gần gũi thân cận cụ Hồ, có những điều tâm sự cụ không nói với bất kỳ ai, trừ với ông Tùng) kể rằng cũng có cán bộ lãnh đạo không muốn tiến hành cải cách nhưng số đông thuận theo Trung Quốc bởi không làm thì họ… cắt viện trợ. Vậy mà cứ nói độc lập tự chủ, tình hữu nghị quốc tế vô sản trong sáng. Bê nguyên thứ của nợ cải cách ruộng đất về, chủ nhà đã phải trả cái giá quá đắt, tới bây giờ sau gần 2/3 thế kỷ vẫn chưa dứt được hội chứng cuộc đấu tố tàn hại lẫn nhau. 

(còn tiếp)

Nguyễn Thông

(FB Nguyễn Thông)

Trịnh Xuân Thanh : Củi khô hay tươi?


Hôm 31/7/2017, TBT Nguyễn Phú Trọng, nhân vật số 1 trong “Tứ trụ Triều đình”, trong buổi họp bàn về phòng chống tham nhũng, đã phát biểu một câu rất hợp với lô gích nhà bếp: “Lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy”. Lô gích này dường như ai cũng biết, thế nhưng được một ông tổng bí thư Đảng CSVN nói ra, khiến nhiều người ngơ ngác không hiểu ông Trọng muốn nói chuyện gì?

Ý của ông Trọng thật ra chẳng có gì khó hiểu, ông chỉ muốn nói đến việc phòng, chống tham nhũng dưới thời CS, đã trở thành phòng trào, xu thế của cả xã hội. Ông phát biểu như sau: “Khi tiếp xúc cử tri, tôi hay nói: Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được, thế mới là thành công”.

Ví von như thế thì cán bộ đảng viên nào của chế độ CS Hà Nội không cảm thấy lo lắng? Tại sao? Có gì khó hiểu đâu. Chẳng qua cách đây không lâu, thời ông Trọng mới thâu tóm trọn quyền hành vào trong tay, ông đã tuyên bố: “Chống tham nhũng là ta tự đánh ta”. Rồi sau đó ít lâu ông lại phán tiếp: “Đập chuột nhưng không được làm vỡ bình”.

Dưới chế độ CS mấy chục năm qua, từ lúc mở cửa giao thương với thế giới tự do, theo chế độ kinh tế thị trường (định bốn phương, theo tám hướng xã hội chủ nghĩa) quay mòng mòng như con bông vụ, tham nhũng đã trở thành bệnh dịch từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Từ anh cảnh sát giao thông, chị chủ tịch UBND phường, quận, huyện, tỉnh đến cán bộ, đảng viên trung ương đảng, thanh tra, giám đốc nhà băng, Ủy viên Bộ Chính trị…, ai là người không tham nhũng, ăn hối lộ, rút ruột công trình?

Thế thì ai dám tự nhận mình không phải là củi, là chuột? Không là chuột cống, chuột chù thì cũng là chuột đồng, chuột nhắt…, không là củi khô thì cũng là củi ẩm, củi ướt hoặc tệ hơn nữa là củi mục…, tất cả chỉ tùy thuộc vào mình nằm trong đống củi nào, loại chuột nào theo sự nhận định, phân loại của ông Trọng. Mà nếu ta tự đánh ta thì ai cũng thành chuột, thành củi, như thế làm sao tránh khỏi vỡ bình?

Từ phát biểu trên, “liên hệ” đến chuyện Trịnh Xuân Thanh mới thấy lời của ông Trọng thật đúng quá sức. Không ai có thể đứng ngoài được, kể cả cơ quan tình báo cũng phải vào cuộc, âm thầm tính toán, vạch kế hoạch rồi mạo hiểm vượt cả chục ngàn cây số tìm cho ra khúc củi tươi nằm tuốt ở bên Tiergarten, Berlin, thủ đô nước CHLB Đức, đem về quăng vào lò trước.

Khúc củi tươi này thật ra chẳng quá to để ông Trọng phải bận tâm, nhưng không có nó làm thuốc mồi thì không thể đốt tiếp các khúc củi khác. Có đốt được khúc củi tươi này, ông Trọng mới có thể tiếp tục đốt những khúc củi chưa là củi vì còn đang là cây cổ thụ, cành lá xum xuê, mới bị ông “đốn” cách đây ít lâu, chỉ hơn một năm, nằm chơ vơ, lạc lõng ngoài sân (sau) cung đình.

Đó chính là khúc củi có tên Ba X. Khúc củi này chẳng những còn tươi (rói) lại quá to, không thể đút vào cái lò tôn thùng phuy chật hẹp của ông Trọng. Ông Trọng phải cho đàn em cưa, chặt nó ra thành nhiều khúc rồi phơi nắng, tối thiểu cũng vài con trăng lẻ, xong mới cho vào lò được. Tiếc thay, đàn em, bộ hạ ông làm không tới nơi, tới chốn, mãi vẫn không cưa, chặt được những cành là xum xuê của Ba X như Đinh La Thăng, Bình “ruồi”…

Ông Trọng sốt ruột cũng phải thôi. Tình thế đã gấp rút lắm rồi, quỹ thời gian của ông khá eo hẹp, theo lời hứa, sang năm ông phải từ bỏ nhiệm vụ cái lò, đốc thúc mọi người châm thêm củi để về quê nghiên cứu kinh điển Mác-Lênin, dạy học sinh mẫu giáo lý luận. Đợt chống tham nhũng của ông không chín vì củi tươi thì ông còn mặt mũi nào nhìn đồng bào, đồng hương, đồng chí, đồng ruộng, đồng hồ…?

Đức là xứ lạnh cầm canh – lạnh đến độ mùa đông ra ngoài đường hơi thở trắng xóa như nhả khói, (nghe nói) đàn ông khi ra đường mà đi tiểu thì phải bẻ một cái, mới cài nút, đóng dây kéo quần lại được, chẳng biết có thật không, vì hiếm thấy người dân Đức đi tiểu ngoài đường tá lả, vô tội vạ như ở Việt Nam – cho nên khúc củi tươi Trịnh Xuân Thanh trôi sông, lạc chợ, dạt vòm tới Berlin, đã qua rồi một mùa thu vẫn tươi rói với những hình ảnh chụp ở công viên Tiergarten thơ mộng lá vàng rơi nhẹ theo bước chân chàng.

Điều đó khiến ông Trọng gai mắt, xốn xang. Không đem được khúc củi này về quăng vào lò, ông sẽ ăn không ngon, ngủ không yên, áp huyết tăng cao, tai biến mạch máu não hay nhồi máu cơ tim, “đang sống phải chuyển sang từ trần” thì đất nước lại mất đi một nhà lãnh đạo lý luận cực giỏi, lại cực kỳ liêm chính, chí công vô tư.

Hơn thế nữa, khúc củi này có cháy, đám thuộc hạ của ông mới có thêm can đảm nhảy vào cưa, chặt khúc củi chính, khúc củi mà ông quyết tâm đốt cho bằng được trước khi từ bỏ nhiệm vụ Cai Lò. Mà cái đám thuộc hạ này chúng cũng chẳng trung thành gì với ông cho cam. Chúng chỉ sợ ông xếp chúng vào thành phần “củi tươi” rồi lại bị quăng vào lò lúc nào không biết. Không cẩn thận, đề phòng lúc đang chăm chú đẩy củi vào lò, ông cũng có thể bị chúng đạp một cái, té vào trong lò thì thật là Ô hô! Ai tai!

Lò quả thật đang nóng, nóng hơn lòng ông Trọng, nên khi khúc củi tươi Trịnh Xuân Thanh bị quăng vào lò, lửa bùng lên, cháy dữ dội, cháy đến muốn nổ tung cả lò. Hơi nóng từ lò thổi ra lan đi quá xa, qua tới Đức rồi dội ngược trở về khiến ông Trọng cũng như 3 nhân vật phụ quạt lò là Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang, Nguyễn Thị Kim Ngân, chịu không nổi hơi nóng của lò phải lặn xuống nước, mất tăm hơi.

Sự hào hứng, hí hửng, hả hê, hớn hở, hân hoan của ông Trọng lúc đầu khi đem được khúc củi Trịnh Xuân Thanh trở về, dường như đã tắt ngúm. Lò vẫn đang cháy phừng phừng nhưng đã cạn nước, ông Trọng lẫn 3 kẻ phụ lò, châm củi là Phúc, Quang, Ngân biến mất, bỏ lại đám thuộc hạ ngơ ngác nhìn nhau, không biết phải đối phó ra sao, chỉ loay hoay tìm cách châm thêm nước vào nồi hạ hỏa cho lò.

Nhìn lại lịch sử Đảng CSVN, mỗi khi có những biến động mang tầm vóc quốc gia, ảnh hưởng đến bang giao quốc tế hay khủng hoảng niềm tin ở người dân… thì lãnh đạo đất nước tự nhiên biến mất. Từ chuyện giàn khoan HD-981, vụ Formosa, thủy điện Hố Hô xả lũ, hay như vụ bắt giữ cán bộ, CSCĐ ở Đồng Tâm, Mỹ Đức… dễ dàng nhận ra chuyện im lặng tuyệt đối của Tứ trụ Triều đình trong vụ Xuân Thanh là chuyện đương nhiên, đừng thắc mắc làm chi.

Ăn tìm đến, đánh tìm đi. Sự bốc hơi của ông Trọng và Phúc, Quang, Ngân trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh chẳng có gì là lạ. Chỉ tội cho Lê Thị Thu Hằng, phát ngôn viên Bộ Ngoai giao phải đưa mặt chịu đấm, hụ hợ lên tiếng “lấy làm tiếc vì phát biểu của bộ ngoại giao Đức”.

Không một lời tuyên bố chính kiến, không một câu nói chia sẻ tâm trạng, hay một phát biểu đồng cảm với người dân hoặc an ủi nạn nhân… Lãnh đạo chế độ CS từ tổng bí thư, thủ tướng đến chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, mỗi khi có quốc biến luôn chủ trương “im lặng là vàng”!

Trở lại chuyện củi. Cách chức Hồ Thị Kim Thoa, bắt Trịnh Xuân Thanh, cho Trầm Bê “nhập kho” 4 tháng, dư luận phỏng đoán, khúc củi tươi sắp tới sẽ là Bình “ruồi” (cựu thống đốc ngân hàng thời Ba X), sau đó còn ai nữa, Liệu Đinh La Thăng có trở thành củi để ông Trọng đốt?

Không thể biết trước chuyện gì sẽ xảy ra trong chính trường Việt Nam, nhưng việc truy tìm khúc củi tươi Trịnh Xuân Thanh đem về, quăng vào lò, đã bị phản ứng ngược (dân chơi bi-da gọi là ép-phê ngược), có thể gây phỏng nặng cho những kẻ nhiệt tình, dốc sức hành động theo chỉ đạo của ông Trọng. Ngay cả ông Trọng cũng có thể bị phỏng mặt hay cháy đít, dù ông đã lặn sâu xuống dưới nước mấy ngày qua.

Thạch Đạt Lang
TTHNO