30 tháng 7, 2017

Nạn nhân của “Vụ án xét lại chống Đảng”: Vì lịch sử và công lý, chúng tôi lên tiếng


Những nhân vật trong vụ án. Photo courtesy Dân Luận
Chúng tôi, những nạn nhân còn sống và thân nhân những nạn nhân đã qua đời trong một vụ án không được xét xử cách nay vừa tròn 50 năm được gọi tắt là “Vụ án Xét lại chống Đảng”, một lần nữa phải lên tiếng vì sự thật và công lý, vì lương tâm và nghĩa vụ, vì một đất nước thượng tôn pháp luật.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ.

Năm 1956, tại Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất Nikita Khrushev đã đọc báo cáo quan trọng về chống tệ sùng bái cá nhân Stalin và chủ trương “cùng tồn tại trong hoà bình” giữa hai hệ thống cộng sản và tư bản. Đường lối mới đã được hầu hết các đoàn đại biểu tán đồng tại Đại hội các đảng cộng sản và công nhân quốc tế họp tại Moskva với 81 thành viên tham dự năm 1960.

Đoàn đại biểu Đảng Lao Động (Cộng sản) Việt Nam (viết tắt theo tên mới ĐCSVN) do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh cùng với Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và các ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh tham dự đã ký vào bản Tuyên bố chung Hội nghị trên. Đường lối mới này đã bị Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kịch liệt lên án, gọi là “Chủ nghĩa xét lại hiện đại”.

Sự thay đổi trong nhận định về quan hệ quốc tế đã phân hoá nội bộ một số đảng cộng sản. Trong ĐCSVN cũng xuất hiện hai luồng quan điểm khác nhau. Một bên ủng hộ “cùng tồn tại trong hoà bình”, phản đối sự rập khuôn đường lối giáo điều tả khuynh của ĐCSTQ, mở rộng dân chủ trong đảng cũng như trong xã hội, chủ trương hòa bình thống nhất đất nước, phát triển kinh tế đa thành phần.

Bên kia, theo đường lối của ĐCSTQ, chủ trương chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại”, duy trì xã hội chuyên chính phi dân chủ, đẩy mạnh cải cách xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế kinh tế thị trường, kiên định chủ trương thống nhất đất nước bằng bạo lực.

Cuộc đấu tranh trong nội bộ diễn ra âm thầm nhưng căng thẳng đã kết thúc bằng nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9 ĐCSVN họp năm 1963, đi ngược lại Tuyên bố chung Maskva 1960 đã được đoàn đại biểu Việt Nam long trọng ký kết. Nghị quyết 9 (phần đối ngoại), về thực chất là bản sao đường lối của ĐCSTQ đã khởi đầu cho cuộc trấn áp những đảng viên bất đồng chính kiến bị chụp mũ “chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Cần lưu ý là Chủ tịch Hồ Chí Minh không tham gia biểu quyết nghị quyết này.

Toàn văn Nghị quyết 9 được giữ trong tình trạng tuyệt mật, nhưng nội dung tinh thần được phổ biến cho các đảng viên và trí thức. Vì có quá nhiều tranh cãi nội bộ nên Đảng tuyên bố cho phép bảo lưu ý kiến khác biệt. Thái độ cởi mở này chỉ là biện pháp để phát hiện những người không tán thành.

Nhiều ý kiến bất đồng được biểu lộ công khai như những bài viết của các ông Hoàng Minh Chính - Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, ông Trần Minh Việt, phó Bí thư Thành ủy kiêm phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội. Những tâm thư của nhiều đảng viên lão thành gửi đến Bộ Chính trị, phản đối đường lối đối ngoại thân Trung Quốc, tranh luận về đường lối giải phóng miền Nam bằng bạo lực, nóng vội trong cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa và tất cả các ý kiến phát biểu trái chiều tại các cuộc học tập đều được thu thập để rồi trấn áp khốc liệt vào cuối năm 1967.

DIỄN BIẾN SỰ KIỆN.

ĐCSVN gọi tắt vụ án này là “Vụ Xét lại chống Đảng” diễn ra năm 1967, nhưng đến tháng 3 năm 1971 mới báo cáo Bộ Chính trị, tháng 1 năm 1972 mới đưa ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 (khóa III). Theo ông Nguyễn Trung Thành (vụ trưởng Vụ Bảo vệ đảng thuộc Ban tổ chức Trung ương) là người trực tiếp thi hành thì Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lê Đức Thọ nhân danh Bộ Chính trị chỉ đạo việc bắt giữ và giam cầm.

Chiến dịch khủng bố đã bắt đầu vào ngày 27 tháng 7 năm 1967 và kéo dài bằng các cuộc bắt bớ, giam cầm, quản chế nhiều năm các cán bộ trung cao cấp mà không hề xét xử hay tuyên án.

Những người bị giam cầm nhiều năm gồm có:

- Hoàng Minh Chính tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam, tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam, viện trưởng Viện Triết học.
- Đặng Kim Giang, thiếu tướng phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội, thứ trưởng Bộ Nông Trường.
- Vũ Đình Huỳnh bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vụ trưởng vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao, vụ trưởng Ban thanh tra Chính phủ .
- Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục 2 (Cục Tình báo quân đội).
- Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Quốc phòng.
- Đỗ Đức Kiên, đại tá cục trưởng Cục tác chiến.
- Hoàng Thế Dũng, tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
- Đinh Chân, nhà báo, Báo Quân đội Nhân Dân.
- Nguyễn Kiến Giang, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Quảng Bình, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
- Trần Minh Việt phó bí thư Thành ủy Hà Nội, phó Chủ tịch Ủy Ban Hành Chính thành phố Hà Nội. Vụ trưởng vụ Tài vụ Bộ Công nghiệp nhẹ.
- Phạm Viết phó tổng biên tập Báo Thời Mới (sau sáp nhập vào tờ Thủ đô Hà Nội thành tờ Hà Nội Mới).
- Nguyễn Thị Ngọc Lan, giảng viên tiếng Anh, Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, vợ ông Phạm Viết.
- Phạm Kỳ Vân phó tổng biên tập Tạp chí Học Tập.
- Trần Thư, tổng thư ký báo Quân Đội Nhân Dân.
- Hồng Sĩ, trung tá Công an, đặc trách công tác phản gián, Hải Phòng.
- Trần Châu nhà báo, Việt Nam Thông tấn xã.
- Lưu Động nhà báo, trưởng ban Nông nghiệp Báo Nhân Dân.
- Vũ Thư Hiên nhà báo, báo Ảnh Việt Nam, (con trai cả ông Vũ Đình Huỳnh, không đảng).
- Huy Vân, đạo diễn điện ảnh.
- Phan Thế Vấn, bác sĩ, nguyên cán bộ nội thành Hà Nội.
- Vũ Huy Cương biên kịch điện ảnh (không đảng).
- Nguyễn Gia Lộc, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
- Phùng Văn Mỹ, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
- Bùi Ngọc Tấn, nhà báo (không đảng).

… và nhiều người khác không phải đảng viên cũng bị đảng Cộng sản Việt Nam trấn áp với nhiều mức độ khác nhau.

Những cán bộ cấp cao không bị bắt nhưng bị khai trừ Đảng là:

- Ung Văn Khiêm bộ trưởng bộ Ngoại giao.
- Bùi Công Trừng chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
- Nguyễn Văn Vịnh thứ trưởng bộ Quốc phòng.
- Lê Liêm thứ trưởng bộ Văn hóa.
- Minh Tranh, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.

Một số người đang học tập, công tác ở Liên Xô đã ở lại tỵ nạn như:

- Lê Vinh Quốc đại tá Chính ủy sư đoàn 308
- Nguyễn Minh Cần phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội
- Đỗ Văn Doãn tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.

Nhiều người không bị bắt giam đã bị đày ải, trù dập như các ông:

- Minh Tranh phó giám đốc Nhà Xuất bản Sự Thật,
- Các nhà báo Đặng Đình Cẩn, Mai Hiến, Trần Đĩnh, Mai Luân 

… Và rất nhiều người khác nữa.

Trong cuộc trấn áp được mở rộng, bất kỳ người nào có quan điểm ít nhiều khác với đường lối của đảng, đều bị quy kết là “xét lại” và bị trừng phạt với những mức độ khác nhau.

Sự trừng phạt nặng nề còn tiếp diễn vào cuối thập niên 90 đối với ông Nguyễn Trung Thành, người trực tiếp thụ lý vụ này khi ông cùng ông Lê Hồng Hà (Chánh văn phòng Bộ Công an) viết kiến nghị đề nghị Bộ Chính trị xem xét giải oan cho các nạn nhân.

NHỮNG NĂM THÁNG TÙ ĐẦY OAN ỨC VÀ HỆ LỤY

Người được coi là “đầu vụ” là ông Hoàng Minh Chính. Ông bị qui tội vì đã gửi cho hội nghị Trung ương hai bản kiến nghị, bản thứ nhất phê phán Bộ Chính trị đã từ bỏ nguyên tắc đồng thuận với bản Tuyên bố Moskva 1960, bản thứ hai phê phán đường lối quốc tế sai trái của Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc. Lần đầu, ông bị bắt tù 6 năm rồi quản chế tại gia. Lần thứ hai ông bị bắt giam từ 1981 đến 1987. Lần thứ ba từ 1995 đến 1996. Tổng cộng ông bị 12 năm tù giam và 8 năm quản chế. Là một sĩ quan thương binh, trong thời gian đó, ông phải chịu nhục hình và những hành vi xúc phạm nhân phẩm.

Các ông Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh bị qui là hai người trong “ba kẻ đầu vụ”. Cả hai cùng với ông Trần Minh Việt,… bị giam 6 năm và chịu thêm 3 năm lưu đầy biệt xứ, ở những địa phương khác nhau. Khi bị bắt, họ bị giam tại xà lim Hỏa Lò, bị cùm chân và trong phòng giam không có ánh sáng. Nơi giam cầm các ông trong nhiều năm đều là các khu biệt giam, không được giao tiếp với bất kỳ ai.

Ông Đặng Kim Giang cũng bị bắt lần thứ hai năm 1981, trên đường đi đến khu biệt giam ở Nam Định thì lên cơn nhồi máu cơ tim phải đưa thẳng vào bệnh viện công an và bị giam giữ tại đây cho đến khi bệnh tình nguy kịch, trả về nhà một thời gian thì mất.

Người bị giam lâu thứ hai là ông Vũ Thư Hiên, với 9 năm giam liên tục trong các nhà tù và trại tập trung, có những năm bị giam chung với tù hình sự.

Ông Phạm Viết, năm 1967 đang nghỉ công tác dài hạn để điều trị bệnh tim thì bị bắt, giam vào xà lim Hỏa Lò. Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, vợ ông Viết người từng bị bắt 3 lần khi hoạt động nội thành Hà nội trong kháng chiến chống Pháp, là người phụ nữ duy nhất trong vụ này đã bị tù 2 năm rưỡi vì tội không giao nộp bản luận văn phó tiến sĩ “Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam” của ông Trần Minh Việt viết tại trường đảng Liên Xô. Bản này lúc đó bị vu cho là “bản cương lĩnh chính trị của tổ chức chống Đảng.”

Thương tâm nhất trong vụ này là ông Phạm Kỳ Vân, phó tổng biên tập tạp chí Học Tập. Ông Kỳ Vân bị bắt khi đang điều trị sơ gan cổ chướng, bệnh tình trở nên trầm trọng, ông được tha về để chết. Vợ ông bị chết đuối, con gái đi Thanh niên Xung phong hy sinh trên đường Trường Sơn, con gái khác chết khi sinh nở. Người con trai út tuyệt vọng treo cổ tự vẫn. Cả gia đình không một người nào còn sống.

Còn rất nhiều người khác bị trấn áp theo nhiều cách khác nhau mà chúng tôi không thể kể ra hết: bị quản thúc với những cấm đoán ngặt nghèo, bị đưa đi cải tạo lao động, bị tước quyền công dân, tước bỏ các chính sách đãi ngộ. Họ bị đuổi khỏi cơ quan, đơn vị công tác và còn bị cấm họ làm cả những nghề kiếm sống thông thường như sửa chữa máy thu thanh, làm việc trong các cơ sở in ấn, sửa chữa đồng hồ, kể cả chữa xe đạp hay cắt tóc.

Ban tổ chức Trung ương còn có chủ trương phân biệt đối xử với con em, gia đình những người bị đàn áp: không được kết nạp vào đảng, không được đề bạt lên vị trí quản lý, không được học các trường đại học được coi là quan trọng, ngoài các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thư viện…, không được cử đi công tác học tập nước ngoài, không được phân công về công tác tại Hà Nội và làm việc tại các bộ ngành trung ương, cơ quan quan trọng.

Hàng trăm lá đơn khiếu oan, về thực chất là những thư tố cáo đã được gửi tới các cơ quan công quyền cao nhất của nhà nước và đảng cộng sản trong suốt 50 năm qua, yêu cầu xét xử trước một phiên tòa công minh, đòi công khai vụ việc trước dư luận, bồi thường cho những thiệt hại về vật chất, tổn thương về tinh thần, phục hồi danh dự cho các nạn nhân… Tất cả những đòi hỏi chính đáng ấy chỉ được trả lời bằng sự im lặng.

NHẬN ĐỊNH CỦA NHỮNG NẠN NHÂN CÒN SỐNG VÀ THẾ HỆ KẾ TIẾP.

50 năm đã trôi qua kể từ khi những nạn nhân đầu tiên của vụ “xét lại chống Đảng” bị bắt ngày 27 tháng 7 năm 1967. Các ông Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang và nhiều người khác đã qua đời, mang theo đau thương và uất hận. Những người gây ra tấn thảm kịch lớn nhất trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam – Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Trường Chinh… cũng đã chết.

Liên Xô, và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã tan rã. Trung Quốc và Việt Nam tuy danh xưng là xã hội chủ nghĩa nhưng trong thực tế đang đương đầu với các thách thức của giai đoạn tư bản bán khai, trước mọi tệ nạn như hối mại quyền thế, tham nhũng, lạm dụng luật pháp, chênh lệch giàu nghèo, vi phạm quyền dân chủ,… chưa từng có.

Vụ “Xét lại chống Đảng” cũng như nhiều vụ án oan đã xảy ra trong quá khứ như: Cải cách ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, Cải tạo tư bản tư doanh, Hợp tác hóa, tập trung cải tạo những người tham gia quân lực và chính quyền Việt Nam Cộng hòa… chưa được các thế hệ cầm quyền kế tiếp chính thức sửa sai và nghiễm nhiên cho rằng việc xử lý trước đây là đúng.

50 năm là một thời gian quá dài cho những oan ức và bất công. Khi sự kiện này xảy ra, những người cầm quyền hiện nay còn quá trẻ, thậm chí có người còn chưa ra đời, hiển nhiên không phải là thủ phạm nhưng họ không thể phủi tay cho rằng mình không có trách nhiệm giải quyết những vụ việc xảy ra trong quá khứ. Là chính quyền kế thừa, họ phải có trách nhiệm với những việc còn tồn tại theo đúng pháp luật, sòng phẳng với lịch sử. Đó là điều phải làm nếu họ còn có ý muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền và lấy lại niềm tin của nhân dân.

Bà Nguyễn Thị Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang, bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân ông Hoàng Minh Chính, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết, người phụ nữ duy nhất bị tù trong vụ này, ông Vũ Thư Hiên, ông Phan Thế Vấn và nhiều nhân chứng khác còn sống trong vụ này hiện đều đã ở tuổi gần đất xa trời. Những nhân chứng cuối cùng rồi cũng sẽ không còn, nhưng ký ức về vụ trấn áp sẽ còn sống mãi với thời gian.

Lịch sử không thể bị tẩy xoá.

Con cháu những nạn nhân đó dù chỉ là những đứa trẻ khi cha anh bị bắt, chẳng biết “xét lại” là gì, nhưng cũng nếm đủ những khổ cực của cuộc trấn áp tàn bạo nhắm vào thành viên gia đình những người không chịu cúi đầu. Đến nay, họ cũng đã về già nhưng mãi mãi không thể nào quên được những năm tháng đau thương ấy.

Cho tới nay chúng tôi vẫn còn như thấy trước mắt hình ảnh tướng Đặng Kim Giang, chỉ huy hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, nằm trong chiếc quan tài hở hoác dưới ngôi nhà tranh dột nát ở ngõ Chùa Liên Phái. Bà vợ ông vừa khóc vừa giã gạch non trộn với cơm nếp, trát kín những kẽ hở của chiếc quan tài ấy.

Chúng tôi không thể quên hình ảnh ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên Bí thư của chủ tịch Hồ Chí Minh, thành viên Việt Nam Cách mạng Đồng chí hội từ năm 1925, trước khi ĐCSVN ra đời, bị công an dùng dây thừng trói giật cánh khuỷu khi còng sắt bập vào cổ tay ứa máu mà không vừa. Khi đó ông đã về hưu được vài năm.

Chúng tôi không thể quên nấm mồ của ông Phạm Viết, nằm cô quạnh trên sườn đồi heo hút ở cạnh nhà tù Phú Sơn, Thái Nguyên. Ông là người sỹ quan thương binh đã chiến đấu nhiều năm quên mình trong nội thành Hà Nội. Ở tuổi 44, ông lìa đời mà không được có một người thân bên cạnh dù vợ con đã khẩn thiết yêu cầu được chăm sóc ông những ngày cuối đời.

Chúng tôi mãi mãi không thể quên những gì đã thấy, đã biết, đã ghi nhớ.

Và nhân đây chúng tôi cũng muốn gửi tới rất nhiều người đã đồng cảm và giúp đỡ chúng tôi trong suốt nửa thế kỷ qua lời cảm ơn chân thành. Sự chia sẻ trong tình người dù âm thầm hay công khai đã giúp chúng tôi có thêm nghị lực sống.

Bản lên tiếng này cũng là một nén hương muộn cho những nạn nhân đã khuất. Nhưng máu thịt của họ, tinh thần của họ vẫn còn đây, trong chúng tôi.

Chúng tôi cũng gửi bản lên tiếng này tới các vị đứng đầu Đảng và Nhà nước để nói rằng những thế hệ nối tiếp của các nạn nhân trong “vụ Xét lại chống Đảng” sẽ còn tiếp tục lên tiếng cho tới khi vụ này được công khai trước toàn dân, cho tới khi lẽ công bằng được lập lại cho những nạn nhân còn sống và đã khuất.

Trước sau, lịch sử sẽ phán xét một cách công bằng.

Hà Nội, ngày 27.7.2017

Dưới đây là danh sách những nạn nhân còn sống và gia đình cũng như thân nhân các nạn nhân đã khuất cùng ký tên vào bản lên tiếng này. Danh sách này còn kéo dài do không có điều kiện liên hệ trực tiếp.

- Bà Nguyễn Thị Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang và gia đình.
- Bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân ông Hoàng Minh Chính và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết và gia đình
- Bà Đinh Thị Bích Đào, phu nhân ông Phùng Văn Mỹ và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Oanh, phu nhân ông Lưu Động (tên thật là Nguyễn Xuân Canh) và gia đình.
- Ông Vũ Thư Hiên, con trai ông Vũ Đình Huỳnh và gia đình.
- Ông Phan Thế Vấn và gia đình.
- Ông Trần Đĩnh và gia đình
- Ông Trần Việt Trung, con trai ông Trần Châu và gia đình.
- Bà Minh Sơn, con gái ông Trần Minh Việt và gia đình
- Nguyễn Thị Giáng Hương, con gái ông Trần Thư và gia đình.

…………………

Nơi gửi :

Gửi tới mọi người Việt Nam và các ông, bà :

- Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam
- Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
- Ông Trần Đại Quang, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam,
- Ông Nguyến Xuân Phúc, Thủ tướng chính phủ nước CHXHCN Việt Nam

(Vấn Đề)

26 tháng 7, 2017

DƯ ÂM - NGUYỄN VĂN TÝ
LỜI CA KHÚC 
Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ 
Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ 
Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn sóng 
Yêu ai anh (em) nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa xôi. 

Anh yêu tiếng hát êm như lời nguyền đẹp bao ước mơ 
Anh như lầu vắng em như ánh trăng gieo (reo) muôn ý thơ 
Muốn nói cùng em, đôi lời trìu mến... 
Tim anh băng giá đang ngại ngùng câu năm tháng mong chờ. 

Hẹn em từ muôn kiếp trước, nhớ em mấy thuở bạc đầu 
Anh đã âu sầu vì đường tơ vương vấn 
Em để cung đàn đưa anh về đâu? 

Dư âm tiếng hát reo lên trong lòng anh bao nhớ nhung 
Đê mê lòng nhớ đêm qua giấc mơ môi em hé rung 
Anh muốn thành mây, nương nhờ làn gió 
Đưa anh tới cõi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên đàn. 




(Thethaovanhoa.vnĐã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày tình khúc Dư âm ra đời, ít ai biết ban đầu nó chỉ là một sáng tác “tính làm chơi bỏ túi” của anh bộ đội kháng chiến Nguyễn Văn Tý nhưng cuối cùng lọt ra ngoài rồi như gió bay đi “không còn cách nào chặn lại”.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý để lại cho đời rất nhiều ca khúc nổi tiếng nhưng Dư âm vẫn được xem là sáng tác đáng nhớ nhất của ông bởi nó được lồng bằng cảm xúc của một mối tình không thể cập bến.

Làm chơi mà thành thật
Năm 1949 nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là trưởng đoàn văn công của Sư đoàn 304 (tương đương tiểu đoàn trưởng) và cũng đang là một chàng trai cô đơn. Người vợ đầu tiên của ông đã mất 6 năm trước và nỗi buồn cũng ít nhiều vơi đi. Thấy vậy bạn bè giới thiệu với ông rất nhiều bạn gái nhưng rồi cũng chẳng tới đâu. “Hồi còn trẻ tôi trông được lắm, mặt mày sáng láng đầy đặn, hiền lành lại có hai má lúm đồng tiền. Nhiều nhà tướng số bảo tôi có số đào hoa, hấp dẫn phụ nữ. Nhưng thực tế lại đụng đâu hỏng đó. Có được tình yêu quả là khó vô cùng”, nhạc sĩ nói.
Một ngày đẹp trời, một người bạn thân rủ ông về nhà mình chơi ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Nhà ấy có 2 người con gái: người chị 22 tuổi và cô em mới vừa 16. Cốt ý của người bạn là muốn làm mai nhạc sĩ cho cô chị mà cũng vì thời ấy con gái đến tuổi 18 mới được phép nói đến chuyện lấy chồng vì vậy người chị 22 tuổi ra mắt còn cô em phải tránh mặt.
Buổi hôm ấy nói chuyện cũng chẳng tới đâu cho đến lúc cô em “bất thần xuất hiện, đến sau lưng chị, tì cằm vào ghế chị ngồi và nhìn tôi với đôi mắt đen tròn lay láy. Ôi! Đôi mắt kỳ diệu đã hút hồn khiến tôi sững sờ, đờ đẫn, rồi lặng im như người mất hồn”. Thấy anh chàng nhạc sĩ 26 tuổi Nguyễn Văn Tý bỗng nhiên đờ đẫn, cô chị quay lại và... đứng dậy bỏ đi. Cô em sợ quá, cũng đi luôn vào trong.
Lúc ấy nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý hiểu rằng mình đã dính phải tình yêu sét đánh và ông cũng tin cô gái 16 tuổi kia ít nhiều cũng có tình cảm với mình. Sau đó, bị gia đình cấm bén mảng vì cô em còn quá nhỏ, nhưng vì quá nhớ nhung nên anh vẫn đánh bạo ghé thăm, song chỉ được ngồi ngoài sân trò chuyện cùng với người bạn thân.
Một đêm trăng sáng, khi hai người bạn đang ngồi trò chuyện, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý một lần nữa rụng tim khi thấy cô em ra ngoài thềm ngồi hong tóc. Hong tóc xong cô ôm đàn ngồi hát khe khẽ. Đó là khoảnh khắc đã tạo nên câu hát: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ”…
Ít người biết rằng hình bóng cô gái là nỗi đau tiếp nối của một mối tình sâu nặng khác bị thất lạc vào giữa năm 1949 của nhạc sĩ. Và khi nhìn thấy cô, những cung bậc tình yêu xưa như thể tái sinh.
Tối hôm ấy ra về, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý mang nặng trong lòng sự tan vỡ. Về đến đơn vị, khi mọi người đã ngủ, ông thắp ngọn đèn dầu, ngồi trong tấm cót cuộn tròn, viết Dư âm, một mạch, không sửa chữ nào. Sau này nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý kể lại trong hồi ký "Trái tim tôi lúc đó tan nát lắm rồi. Không thế sao lại hạ bút viết câu "Tim anh băng giá đang ngại ngùng câu năm tháng mong chờ”. Bài hát sau đó được phổ biến khắp nơi và trở thành nhạc trong bộ phim Kiếp hoa ở vùng tạm chiếm Hà Nội.

Dư âm là mãi mãi
Dư âm là một bài tình ca buồn đẹp nao lòng và số phận của những liên quan cũng buồn chẳng kém.
8 năm sau (1958), nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý gặp lại Hằng (cô gái 16 tuổi năm xưa) trên đường về đơn vị ở Vĩnh Yên. Lúc ấy Hằng cũng đi bộ đội và đã lấy chồng. Nhạc sĩ nhớ lại: “Một chiều đi đến Vĩnh Yên, trời chuẩn bị mưa, tôi ghé vào một doanh trại trên đồi trú mưa. Nhưng vừa nộp xong giấy tờ cho bảo vệ, tôi bỗng thấy một người trong trang phục quân đội chỉnh tề từ xa đi tới. Tôi vô cùng hoảng hốt khi nhận ra người đó chính là Hằng. Hình như cô ấy cũng nhận ra tôi nên dừng lại từ xa. Tôi vội vàng vào trạm bảo vệ xin lại giấy tờ, rồi như người mất hồn đi qua mặt cô, ra cổng và đi thật nhanh như chạy trốn. Kỳ thực trong thâm tâm tôi lúc ấy chỉ nghĩ rằng: Không muốn để ai hiểu lầm tôi mượn cớ để được gặp người mình yêu”.
Và cũng bởi lúc ấy, Dư âm… không được phép phổ biến. Năm 1953, người sáng tác ra nó bị phê bình, kiểm điểm và bị kỷ luật trong một đợt chỉnh huấn. Lúc này nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý vừa kết hôn với người vợ thứ hai, Nguyễn Thị Bạch Lệ (cưới năm 1952, bà là em gái của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương). Ông còn phải đi khắp nơi để nói chuyện “bài xích” chính bài hát mình sáng tác, cho nhiều người nghe. Sau này ông nhớ lại: “Tôi có đi, nhưng nói không được, vì nói tới đâu người ta lại cười đến đó”. Trong hồi ký viết tháng 2/1987 của mình ông viết: “Thực tế hồi đó lịch sử đã sang trang, nhưng phải nói thật, chủ yếu mới là về mặt chính trị. Còn văn học nghệ thuật, ai kiểm soát được những cái đầu còn mang nặng những tàn dư xưa”.
Năm 1988 khi đang ở Sài Gòn, một hôm nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý gặp một người bạn gái, “người đó đã nhìn tôi cũng với đôi mắt đen tròn” khiến ông nhớ lại đôi mắt của người con gái 38 năm về trước đã cho ông một Dư âm. Và một lần nữa, từ đôi mắt của một người con gái khác, ông viết bài hát Một ánh sao trời. Sau khi hoàn thành tác phẩm này, ông mang bản nhạc tặng cô gái và nói thật: “Đôi mắt em giống hệt đôi mắt của người đã cho tôi một Dư âm”. Người con gái ấy im lặng và ba hôm sau nhờ người đem trả lại bản nhạc với dòng chữ: “Để anh làm việc khác!”. “Nếu biết thế, thà tôi đừng nói ra điều ấy còn hơn”, nhạc sĩ ân hận. Bài hát ấy sau này được gọi tên khác là Dư âm 2.
Người con gái 16 tuổi ngày xưa giờ đã mất nhưng nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý “đến bây giờ và suốt đời có lẽ tôi vẫn yêu. Tôi không sao quên được đôi mắt và nụ cười của người con gái tuổi 16 ấy. Bây giờ tôi vẫn yêu là yêu cái dư âm đó thôi, chứ làm gì có cái thật để mà yêu. Mà cái dư âm thì còn mãi, yêu như thế cũng được và cũng tốt đấy chứ”.

Nguyên Minh
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

23 tháng 7, 2017

HÌNH ẢNH QUỐC VƯƠNG VIỆT NAM SANG THĂM QUỐC VƯƠNG CAMPUCHIA. CHỈ CÓ VUA CHÚA MỚI ĐƯỢC CHE LỌNG NHƯ THẾ NÀY


THÁNG 7 NĂM 2017

Vũ Ngọc Hoàng - Vấn đề quân đội làm kinh tế

 Vấn đề Quân đội làm kinh tế những ngày gần đây đang trở thành “điểm nóng”, được dư luận cả nước rất quan tâm, với nhiều ý kiến rất khác nhau, kể cả trong các tướng lĩnh, sĩ quan, cán bộ hưu trí và trong nhân dân. Không kể động cơ, thì ý kiến khác nhau ấy có thể xuất phát từ góc nhìn, từ quan niệm, quan điểm và cách tư duy khác nhau. Mặt khác, chứng tỏ chuyện Quân đội làm kinh tế đang là vấn đề quan trọng, cần có sự thống nhất về nhận thức trên cơ sở kết luận rõ ràng và khoa học của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Phần tôi chỉ xin góp vài ý kiến nhỏ để bạn đọc tham khảo.
Ông Vũ Ngọc Hoàng
             Trước tiên, cần phân biệt quan điểm “Kinh tế gắn với quốc phòng” và vấn đề “Quân đội làm kinh tế”. Đó là hai việc khác nhau, không thể và không nên đồng nhất. Kinh tế phải gắn với quốc phòng là rất đúng, nhiều nước (nếu không nói là tất cả) đều làm như thế. Nước ta, với vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử trước đây cũng như bây giờ, càng nhất thiết phải vậy, không được lơ là mất cảnh giác. Nhưng đó là việc mà cả hệ thống chính trị, tất cả các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và toàn dân phải quan tâm, cùng thực hiện. Từ việc quy hoạch bố trí lực lượng sản xuất trên địa bàn cả nước đến việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, không lệ thuộc nước nào, nhất là nước dễ gây nguy cơ cho ta, kể cả tài chính-tiền tệ, xuất nhập khẩu hàng hóa và các sản phẩm kỹ thuật đặc thù; phát triển các ngành, các cơ sở và hạ tầng lưỡng dụng về công nghiệp và kỹ thuật… Gắn kinh tế với quốc phòng là một phạm trù rộng, cần bàn chuyên đề riêng. Còn Quân đội làm kinh tế là việc khác, không phải là gắn kinh tế với quốc phòng.

Thế nào là “làm kinh tế” ? Thời xa xưa, hoạt động kinh tế của con người là tự cấp tự túc, sau đó mới có kinh tế hàng hóa và kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định thì có kinh tế thị trường. Trước đây, trong thời chiến tranh, nhiều đơn vị quân đội đã phải sản xuất để tự túc thêm lương thực, thực phẩm. Sau khi chấm dứt chiến tranh, quân đội đã được giao nhiệm vụ tham gia sản xuất khôi phục kinh tế. Trong hoàn cảnh cụ thể lúc ấy, tôi nghĩ đó là chủ trương cần thiết.  Đến nay, sau nhiều chục năm, tình hình đã có nhiều điểm khác trước, việc phải bàn kỹ lại vấn đề quân đội làm kinh tế cũng là cần thiết, sao cho tốt hơn đối với xây dựng quân đội, công việc quốc phòng và phát triển đất nước.

              Khái niệm “làm kinh tế” thời nay là khái niệm gắn với kinh tế thị trường, chứ không phải tự cấp tự túc như ngày xưa, với mục tiêu chủ yếu là tạo ra lợi nhuận, trong điều kiện và môi trường bình đẳng, không có độc quyền doanh nghiệp. “Làm kinh tế” ngày nay là hoạt động kinh doanh, theo các quy luật đầy đủ của thị trường, do yêu cầu của thị trường, trên cơ sở luật pháp quy định, thực hiện đầy đủ các loại thuế cho nhà nước, tự cân đối tài chính và tự trả lương.

             Quân đội ta là đội quân để chiến đấu và công tác, không phải đội quân kinh doanh. Nhiệm vụ chính của Quân đội là chăm lo, chuyên trách công việc quốc phòng, bảo vệ Tổ Quốc, kể cả cho trước mắt và lâu dài – một trong hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của đất nước. Với nhiệm vụ ấy, công việc của Quân đội đã hết sức quan trọng và nặng nề, nhất là trong điều kiện và tình hình mới, với những tiến bộ vượt bậc và thần kỳ của khoa học-kỹ thuật quân sự, với tình hình phức tạp về Biển Đông – hải đảo và biên giới. Cần tạo điều kiện để Quân đội tập trung cao về thời gian, tư duy và sức lực, cho công việc xây dựng lực lượng tinh nhuệ có năng lực chiến đấu cao và chiến lược bảo vệ Tổ Quốc. Không nên giao thêm cho Quân đội nhiệm vụ làm kinh tế nhằm tạo ra lợi nhuận. Đó là công việc của các ngành và các thành phần kinh tế. Ấy là chưa kể việc “làm kinh tế” khi có sai lầm khuyết điểm (thực tế cho thấy đã không tránh khỏi) thì lợi bất cập hại, ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Quân đội và ảnh hưởng đến đất nước, gây phân tâm trong nội bộ và suy giảm lòng tin của nhân dân. Đó là những giá trị cao đẹp mà anh bộ đội cụ Hồ đã tạo dựng được bằng nhiều công đức và máu xương, không thể hạch toán bằng tiền. Lòng tin của nhân dân mới là sức mạnh bền vững và nền tảng quan trọng nhất để bảo vệ Tổ Quốc. Trong lịch sử nước ta kể từ đầu công nguyên đã có vài lần ta thua quân xâm lược vì lòng dân phân tâm, ly tán, dẫn đến mất nước một thời gian dài và sau đó phải tốn nhiều máu xương mới giành lại được nền độc lập.

            Nhiều người, trong đó có tôi, nghĩ và tin rằng, khi không phải làm kinh tế thì quân đội ta sẽ mạnh hơn, chuyên tâm nhiều hơn cho công việc quốc phòng, không bị phân tâm bởi sự phức tạp của các quan hệ thị trường. Ngày trước, thời chiến tranh vệ quốc, quân đội không làm kinh tế như bây giờ, và ngày ấy quân đội ta rất mạnh, lừng danh thiên hạ, đã tạo nên nhiều kỳ tích để các thế hệ hôm nay và mai sau cảm phục và tự hào, dù khi ấy ta nghèo hơn rất nhiều so với ngày nay. Theo chỗ tôi biết, các quân đội mạnh của nhiều nước đều không làm kinh tế. Quân đội Trung Quốc trước đây có làm kinh tế, nay đã bỏ, đã cấm, nhằm tập trung cho việc xây dựng một quân đội mạnh để phục vụ cho các ý đồ chiến lược mới của họ.

            Còn một số công việc cần quân đội thực hiện ở hải đảo, biên giới, sản xuất giúp dân, sản xuất quân dụng, vũ khí, tạo các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật đặc thù cho quốc phòng, hậu cần quân đội…thì đó chủ yếu vẫn là công việc có tính chất và ý nghĩa quốc phòng, chứ không phải là làm kinh tế để tìm kiếm lợi nhuận. Có ý kiến gọi các loại công việc đó là “kinh tế quốc phòng”. Gọi vậy cũng không sao, coi như tạm mượn cụm từ đó, mặc dù khoa học không có phân ngành như vậy (mà chỉ có kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp…). Tôi nghĩ, về bản chất thì đó vẫn là việc quốc phòng, loại công việc rất cần thiết để bảo vệ tổ quốc, tạo ra các giá trị văn hóa trong mối quan hệ máu thịt quân-dân, chứ không phải là để kiếm tiền. Việc tận dụng những năng lực-kỹ thuật sẵn có của quân đội trong điều kiện hòa bình chưa sử dụng đến thì mục đích chính vẫn là tạo thêm điều kiện để phục vụ quốc phòng, chứ không phải mục tiêu chính là kinh doanh. Không nên giao thêm nhiệm vụ cho những người cầm súng phải đi buôn, phải quản lý đất đai và kinh doanh bất động sản...
Cổng vào sân golf Tân Sơn Nhất do quân đội cho thuê đất quốc phòng

           Vừa qua, sau ý kiến của hai thượng tướng thứ trưởng Bộ quốc phòng là Lê Chiêm và Nguyễn Chí Vịnh, không biết có đúng hay không nhưng nhiều người nghĩ rằng Đảng ủy Quân sự TW đã có chủ trương phù hợp về việc quân đội không làm kinh tế (đơn thuần) để tìm kiếm lợi nhuận, đồng thời được biết ý kiến và thái độ đúng đắn của Đảng ủy Quân sự TW và Bộ Quốc phòng đối với vấn đề sân golf và sân bay Tân Sơn Nhất, nhiều cán bộ đảng viên và nhân dân phấn khởi, hoan nghênh Ban lãnh đạo Quân đội hiện nay. Nhưng đồng thời lập tức lại nghe các ý kiến nói theo hướng khác, cũng từ phía tướng lĩnh đương chức. Chúng tôi nghĩ rằng, có ý kiến khác nhau trong quá trình thảo luận dân chủ là việc rất bình thường, chỉ lo là có sự không thống nhất trong sĩ quan cao cấp của Quân đội ta vì một lý do nào đó không phải do nhận thức khác nhau.

           Với các lẽ nêu trên, tôi hoàn toàn ủng hộ quan điểm “quân đội không làm kinh tế”! Và tất nhiên tôi hiểu mọi sự chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác đều có quá trình và bước đi, mặc dù phải chủ động và tích cực. Trong quá trình đó, một số doanh nghiệp của quân đội đang làm kinh tế hiệu quả cao cần được tiếp tục phát huy tốt năng lực bất kể thuộc bộ nào quản lý. Khi nói về quân đội làm kinh tế, tôi hiểu đây là nói chung cho lực lượng vũ trang chứ không phải chỉ riêng cho quân đội.

           Đà Nẵng tháng 7.2017

          Vũ Ngọc Hoàng


22 tháng 7, 2017

Phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Bình, người đang kiện CPVN
Nguyễn Hoàng Mơ (NHM) xin kính chào quý độc giả!
Kính thưa quý độc giả. Muốn kiện (.....) Việt Nam lên Toà Án Trọng Tài Quốc Tế, người đi kiện phải chuẩn bị một số tiền rất lớn để trang trải kinh phí cho Văn Phòng Luật Sư và phí thủ tục Toà Án Trọng Tài Quốc Tế, cũng như những phí tổn khác cho vụ kiện. Đó là một trở ngại cho những nạn nhân (........) khi muốn kiện (....) lên Toà Án Trọng Tài Quốc Tế. Vì khó khăn đầu tiên là lấy tiền đâu để trả các chi phí này!

Ông Trịnh Vĩnh Bình, người thứ hai từ trái sang phải
Để trả lời cho thắc mắc này, chúng tôi đã phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Bình - người đang xúc tiến vụ kiện - có thể cung cấp các thông tin, dựa theo kinh nghiệm và sự hiểu biết của ông trong việc này. Xin mời quý độc giả theo dõi cuộc phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Bình về việc giải quyết vấn nạn này.

Xin chào ông Trịnh Vĩnh Bình!

NHM: Trong cuộc phỏng vấn Phần 2, ông có nói về tiền phí cho Văn phòng Luật sư và Toà Án, cũng như về việc thuận lợi của sự xuất hiện Third Party Funders (TPF) for Arbitration Litigation. Ông có thể giải thích chi tiết hơn về việc này, không ạ?

Trịnh Vĩnh Bình: Dạ được! Tôi sẽ cố gắng giải thích rõ ràng theo kinh nghiệm và sự hiểu biết của tôi.

NHM: Trước hết, xin ông cho biết sự khác biệt giữa Chia quyền lợi "Contingency" và Không chia quyền lợi như thế nào?

Trịnh Vĩnh Bình: Để có thể kiện trước Toà Án, bao giờ mình cũng cần có luật sư giúp mình và đại diện mình, cũng như bảo vệ mình để tranh cãi trước Toà Án. Và muốn có Luật sư thì mình phải thuê. Trong việc thuê Luật sư có hai cách:

- Một là, thuê theo kiểu “Chia quyền lợi”/Contingency;

- Hai là, thuê theo kiểu “Không chia quyền lợi”/Trả giờ.

1. Thuê theo kiểu “Chia quyền lợi” có nghĩa là về phía mình, mình chỉ trả tiền phí luật sư ở mức tượng trưng và giới hạn ở một con số mà cả 2 (hai) bên đồng ý. Lấy ví dụ 200.000 USD cho cả vụ kiện. Số tiền này sẽ được chia ra thành nhiều lần để trả tùy theo thoả thuận giữa hai bên. Và về phía luật sư, mình cũng sẽ cần thương lượng với họ là sẽ phải chia cho họ số tiền mình được bồi thường, khi thắng kiện là bao nhiêu phần trăm (%). Kiểu “Chia quyền lợi” này được gọi là "Contingency".

2. Thuê theo kiểu “Không chia quyền lợi”/Trả giờ. Có nghĩa là mình thuê Văn Phòng Luật Sư làm cho vụ kiện của mình giờ nào thì mình trả tiền giờ đó.
Ông Trịnh Vĩnh Bình. Ảnh: internet

NHM: Giữa hai kiểu thuê: một là “Chia quyền lợi”, hai là “Không chia quyền lợi”. Theo ông, kiểu thuê nào có lợi hơn ạ?

Trịnh Vĩnh Bình: Đây là một câu hỏi lí thú! Muốn có câu trả lời chính xác, chúng ta cần phải đem hai (2) trường hợp này bỏ lên bàn cân để xem xét. Và tuỳ theo từng vụ án để chọn kiểu thuê nào.

Theo sự hiểu biết của tôi thì việc chọn kiểu thuê “Chia quyền lợi” thường tốt hơn, nhất là trong những vụ án với một số tiền bồi thường rất lớn.

Chọn kiểu thuê “Chia quyền lợi” sẽ khuyến khích Văn Phòng Luật Sư phải cố gắng hết sức để đi đến thành công. Vì nếu thua kiện, họ cũng sẽ bị thiệt hại. Thông thường, phía mình cần cố gắng đưa ra điều kiện ăn chia vớiVăn Phòng Luật Sư. Nhưng phía Luật Sư thì còn tùy thuộc vào hồ sơ vụ án mạnh hay yếu và phần nhận được từ cái bánh (tài sản tranh chấp) lớn hoặc nhỏ để họ quyết định có chấp nhận kiểu thuê “Chia quyền Lợi” hay không!

Nhưng nếu chính mình có đủ tiền, hoặc quỹ đầu tư Third Party Funders (TPF) for Arbitration Litigation sẵn sàng trả thì chọn kiểu “Không Chia quyền lợi”, có nghĩa là “Thuê trả giờ” vẫn được thôi.

NHM: Nếu thắng kiện thì tiền phí tổn cho vụ kiện khoảng 1,5 triệu USD (cho trường hợp Chia quyền lợi) hoặc khoảng 6 triệu USD (cho trường hợp Không chia quyền lợi) - "như bài Phỏng vấn Phần 2 đã đề cập đến" - có lấy lại được không, thưa ông?

Trịnh Vĩnh Bình: Thường thì nếu thắng kiện, bên phía thắng kiện sẽ nộp lên Toà Án Quốc Tế (Tribunals) bảng kê khai tất cả tiền phí tổn cho vụ kiện, trong đó có tiền phí cho Luật Sư. Sau đó, Toà Án Quốc Tế sẽ buộc bên thua kiện chi trả các tiền phí tổn này.

NHM: Thưa ông! Tại sao lại cần nhờ đến Third Party Funders (TPF) for Arbitration Litigation?

 Trịnh Vĩnh Bình: Muốn kiện thì phải thuê Luật Sư và trả chi phí cho toàn bộ vụ án đang đeo đuổi. Cho nên rất cần tiền và cần nhiều tiền, nhưng mình lại không có nhiều tiền. Vậy lấy tiền ở đâu để đi kiện?

Để giải quyết khó khăn này thì đã có các cơ sở có tên Third Party Funders (TPF) for Arbitration Litigation, bỏ tiền hợp tác với mình, lo cho vụ kiện. 

Nếu muốn biết rõ về TPF, xin quý độc giả xem các trang mạng - đã được giới thiệu - trong cuộc phỏng vấn phần 2: 

www.international-arbitration-attorney.com 
Khi Văn Phòng Luật Sư chấp nhận thụ lí vụ án của mình thì mình có thể cùnghọ thương lượng với các cơ sở này. Nếu các cơ sở này chấp nhận hợp tác với mình thì chính các cơ sở này sẽ bỏ ra toàn bộ số tiền cho cả vụ kiện. Nhờ vậy mà những người khởi kiện - không tự đủ sức để chi trả các phí tổn cho luật sư và toà án - có thể giải quyết được bài toán nan giải về tài chính.

NHM: Người thắng kiện có phải chia tiền được bồi thường cho Third Party Funders (TPF) for Arbitration Litigation không? Và nếu phải chia thì chia bao nhiêu phần trăm, thưa ông?

Trịnh Vĩnh Bình: Không ai bỏ vốn mà không muốn kiếm lời! Các cơ sở Third Party Funders (TPF) for Arbitration Litigation khi bỏ vốn, họ cũng muốn có lời. Cho nên khi mình nhờ các cơ sở này bỏ tiền giúp mình cho vụ kiện thì mình cũng có bổn phận phải chia tiền được bồi thường cho họ theo tỉ lệ do hai (2) bên thương lượng. Do đó, người sử dụng Third Party Funders (TPF) for Arbitration Litigation nên chọn từ 3 đến 5 TPF để thương lượng và tìm TPF nào có điều kiện tốt nhất cho mình để kí hợp đồng. Và cũng nên nhớ là TPF cũng sẽ chọn vụ án nào mà họ cảm thấy phần thắng cao.

................

http://www.tienbo.org/2017/07/phong-van-ong-trinh-vinh-binh-kien-nha.html

NHM: Nạn nhân nào (...) có thể đưa (...) ra Toà Án Quốc Tế, thưa ông?
Trịnh Vĩnh Bình: Trên nguyên tắc, có hai trường hợp:
I. Bất kể là ai, khi bị (...) ngược đãi, bắt bớ, giam cầm oan sai đều có thể kiện (....), căn cứ vào Công Ước Quốc Tế bảo vệ Nhân Quyền hoặc căn cứ vào Hiệp Định Đầu Tư Song Phương giữa 2 (hai) nước, “nếu có”;
II. Trường hợp bị tước đoạt tài sản đầu tư (điểm này áp dụng cho người có quốc tịch nước Ngoài) đầu tư vào Việt Nam mà giữa quốc gia của nhà đầu tư có kí Hiệp Định Bảo Vệ Đầu Tư (BIT) với Việt Nam thì có thể thuê Văn phòng Luật Sư – chuyên về tranh chấp quốc tế – đứng ra khởi kiện.
Tuy nhiên, để có thể kiện được (...) lên Toà án Trọng Tài Quốc Tế thì:
a. Điều kiện cốt lõi cho cả hai trường hợp I và II, ghi trên đây, là phải có một số tiền, đủ để trang trải cho vụ kiện hoặc có thể thương lượng với Văn Phòng Luật Sư dưới hai hình thức:
1.  Ăn chia sau khi thắng vụ kiện/Contingency;
2. Trả lương tính theo giờ của luật sư.
– Trong trường hợp 1, tiền tốn phí cho vụ kiện có thể từ 1 (một) đến 1,5 triệu (một triệu rưỡi) USD, bao gồm tiền trả cho Văn Phòng Luật Sư khoảng 250.000 USD (hai trăm năm chục ngàn) – chia làm nhiều kì – và tiền trả cho Toà án, cũng như các phí tổn khác.
– Còn trong trường hợp 2, tiền tốn phí cho vụ kiện sẽ từ 5-6 triệu USD (năm đến sáu triệu).
b. Cần có Văn Phòng Luật Sư giỏi về tranh tụng quốc tế. Thường thì bên Mỹ sẽ dễ tìm hơn và  cũng có nhiều Văn Phòng Luật Sư hơn các quốc gia khác. Tôi xin nhấn mạnh:  “CẦN CÓ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIỎI VỀ TRANH TỤNG QUỐC TẾ”!

Theo kinh nghiệm của tôi thì việc gặp gỡ hoặc làm đơn kêu cứu đến các chính quyền của các nước lớn và mạnh như Mỹ; Anh; Pháp; Đức hoặc các nước Châu Âu khác để trông chờ sự can thiệp của họ, cũng sẽ không đưa đến kết quả mong muốn. Vì chính quyền nào, đến chừng mức nào đó, cũng đặt quyền lợi của họ lên trên hết! Và đôi khi họ cũng sẽ chỉ sử dụng sự việc của mình như những lá bài để trao đổi giữa các chính quyền với nhau. Trái lại, nếu thuê một Văn Phòng Luật Sư thì sự việc lại khác. Văn Phòng Luật Sư sẽ làm việc hết sức có thể để mình được lợi nhất và làm theo ý mình: mình bảo họ đi thì họ đi, mình bảo họ đứng thì họ đứng vì mình thuê họ!
NHM: Nếu Nhà cầm quyền (...) thua kiện, nhưng lại không chịu thi hành phán quyết của Toà Án Trọng Tài Quốc Tế thì ông sẽ xử lí thế nào ạ?
Trịnh Vĩnh Bình: Theo tôi, chính Toà Án Quốc Tế sẽ có biện pháp đối với Nhà cầm quyền (...), nếu họ không chịu thi hành phán quyết của Toà Án Quốc Tế!
a. Toà Án Quốc Tế sẽ ra Lệnh phong toả tài khoản của Nhà cầm quyền, ở những quốc gia thành viên của quy chế UNCITRAL (The United Nations Commission on International Trade Law). Trước đây, đã có một vụ tài khoản của chính phủ Việt Nam bị Toà Án Quốc Tế phong toả hơn hai triệu Euro, sau khi Việt Nam thua kiện vụ Vietnam Airline mà không chịu chấp hành án lệnh.

b.  Nếu vẫn chưa đủ tiền thì Toà Án Quốc Tế sẽ ra Lệnh, như tịch thu máy bay, tầu bè của nước bị kiện v.v…và cũng sẽ có thể kê biên (tịch thu để phát mãi) Sứ Quán của họ ở nước ngoài.
........
http://phongtraogiaodan.org/2017/07/14/phong-van-ong-trinh-vinh-binh-ii/