17 tháng 7, 2017

HIẾN CHƯƠNG 08 (零八宪章LINH BÁT HIẾN CHƯƠNG)
Ngày hôm nay chúng ta là nước duy nhất, trong các quốc gia quan trọng, vẫn còn sa lầy trong vũng bùn của nền độc tài chính trị. Hệ thống chính trị của chúng ta tiếp tục gây ra những thảm hoạ nhân quyền và khủng hoảng xã hội, vì thế không chỉ bóp nghẹt sự phát triển của chính Trung Quốc mà còn ngăn chặn sự tiến bộ của cả nền văn minh nhân loại. Phải thay đổi tình thế, thực sự là phải thay đổi. Dân chủ hoá nền chính trị Trung Quốc là công việc không thể trì hoãn được nữa.
Lưu Hiểu Ba, một trong những tác giả của Linh Bát Hiến Chương và  Giải Nobel hoà bình tặng Lưu HIểu Ba

I. Lời nói đầu
Một trăm năm đã trôi qua kể từ ngày bản Hiến pháp đầu tiên của Trung Quốc được chấp bút. Năm 2008 cũng đánh dấu dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày công bố bản Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ quát của Liên Hiệp Quốc, kỷ niệm lần thứ 13 ngày xuất hiện Bức tường Dân chủ ở Bắc Kinh và kỷ niệm lần thứ 10 ngày Trung Quốc ký kết bản Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Chúng ta sắp kỷ niệm lần thứ 20 vụ thảm sát các sinh viên ủng hộ dân chủ biểu tình ở Thiên An Môn. Nhân dân Trung Quốc, những người đã trải qua các thảm hoạ về nhân quyền và biết bao cuộc đấu tranh suốt các năm tháng đó, bây giờ nhiều người đã nhận thức rõ rằng tự do, bình đẳng và nhân quyền là những giá trị phổ quát của nhân loại và chế độ dân chủ với một chính phủ hợp hiến là khuôn khổ căn bản để bảo vệ những giá trị này.
Xa rời những giá trị đó, cách tiếp cận đối với chính sách “hiện đại hoá” của chính phủ Trung Quốc đã chứng tỏ là một thảm hoạ. Chính phủ đã tước đoạt các quyền của người dân, chà đạp phẩm giá của họ và làm băng hoại mối quan hệ bình thường giữa người với người. Chúng tôi xin hỏi: Trong thế kỷ XXI nước Trung Hoa sẽ đi về đâu? Đất nước tiếp tục “hiện đại hoá” dưới sự lãnh đạo của chính quyền độc tài hay sẽ đón nhận những giá trị nhân quyền phổ quát, sẽ nhập vào dòng chủ lưu của những dân tộc văn minh và xây dựng chế độ dân chủ? Đấy là những câu hỏi không thể nào bỏ qua được.
Cú giáng bất ngờ của phương Tây lên Trung Quốc trong thế kỷ XIX đã lột trần hệ thống độc tài thối nát và đánh dấu bước khởi đầu của điều thường được gọi là “những thay đổi vĩ đại nhất trong mấy ngàn năm qua” của Trung Quốc. Tiếp theo đó là “phong trào tự lực cánh sinh”, nhưng đơn giản đấy chỉ là nhằm áp dụng công nghệ để đóng tàu chiến và chạy theo những mục tiêu vật chất của phương Tây mà thôi. Thất bại nhục nhã trong trận hải chiến trước Nhật Bản vào năm 1895 một lần nữa khẳng định tính lỗi thời của hệ thống cai trị ở Trung Quốc. Nỗ lực đầu tiên nhằm cải tạo nền chính trị theo hướng hiện đại đã diễn ra cùng với những cuộc cải cách vào mùa hè bất hạnh năm 1898, nhưng những cuộc cải cách này đã bị các lực lượng bảo thủ cực đoan trong triều đình Trung Hoa tiêu diệt một cách tàn nhẫn. Với cuộc cách mạng năm 1911, khởi đầu của nhà nước cộng hoà đầu tiên ở châu Á, hệ thống vương triều độc tài đã tồn tại hàng thế kỷ tưởng như cuối cùng đã đến hồi cáo chung. Nhưng xung đột xã hội bên trong và áp lực từ bên ngoài đã không cho chúng ta làm việc đó, Trung Quốc rơi vào tình trạng cát cứ của các sứ quân và nước cộng hoà mới trở thành một giấc mộng chóng qua.
Sự thất bại của cả “tự lực cánh sinh” lẫn cải cách chính trị đã buộc nhiều bậc tiền bối của chúng ta phải suy tư trăn trở với câu hỏi: phải chăng “căn bệnh văn hoá” là nguyên nhân đưa đất nước đến tình trạng khổ đau. Tâm trạng này đã tạo cơ hội, trong thời gian diễn ra Phong trào Ngũ Tứ hồi cuối thập niên 1910, cho cuộc đấu tranh vì “khoa học và dân chủ”. Nhưng nỗ lực này cũng đã bị nhấn chìm vì loạn sứ quân và cuộc xâm lăng của Nhật Bản (bắt đầu ở Mãn Châu vào năm 1931) đã dẫn đến cuộc khủng hoảng trên bình diện quốc gia.
Chiến thắng Nhật Bản vào năm 1945 đã tạo cho Trung Quốc thêm cơ hội nữa trên con đường tiến đến một nhà nước hiện đại, nhưng việc cộng sản đánh bại phe quốc gia trong cuộc nội chiến đã đẩy đất nước vào địa ngục của chủ nghĩa toàn trị.  Nuớc “Trung Hoa mới” xuất hiện vào năm 1949 tuyên bố rằng “nhân dân là chủ” nhưng trên thực tế đã lập ra một hệ thống trong đó Đảng nắm tất cả quyền lực. Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền kiểm soát tất cả các cơ quan nhà nước và tất cả các nguồn lực chính trị, kinh tế và xã hội và sử dụng các nguồn lực đó để tạo ra một loạt thảm hoạ về nhân quyền, trong đó có Chiến dịch chống hữu khuynh (1957), Đại nhảy vọt (1958-1960), Cách mạng Văn hoá (1966-1969), Thảm sát ngày 4 tháng 6 năm 1989 (ở quảng trường Thiên An Môn) và việc trù dập đang được tiến hành đối với các tôn giáo chưa được nhà nước cho phép hoạt động cũng như đàn áp phong trào Duy quyền Vận động [một phong trào với mục đích bảo vệ quyền công dân đã được công bố trong Hiến pháp Trung Quốc và đấu tranh cho nhân quyền đã được các công ước quốc tế mà chính phủ Trung Quốc ký kết, thừa nhận]. Suốt thời gian đó, nhân dân Trung Quốc đã phải trả giá quá đắt. Hàng chục triệu người chết, mấy thế hệ đã chứng kiến quyền tự do, hạnh phúc và nhân phẩm bị chà đạp một cách thô bạo.
Trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, chính sách “cải cách và mở cửa” của chính phủ đã giúp cho người dân Trung Quốc thoát khỏi cảnh nghèo đói triền miên và chế độ toàn trị của Mao Trạch Ðông và làm gia tăng đáng kể của cải và mức sống của nhiều người Trung Quốc cũng như đã khôi phục một phần quyền tự do hoạt động kinh tế và quyền lợi kinh tế. Xã hội dân sự bắt đầu phát triển và những lời kêu gọi đòi có thêm nhiều quyền hơn và nhiều tự do chính trị hơn cũng gia tăng nhanh chóng. Khi đi theo nền kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân, giới tinh hoa nắm quyền cũng bắt đầu chuyển dần từ hoàn toàn bác bỏ “các quyền” sang công nhận một phần các quyền đó.
Năm 1998 chính phủ Trung Quốc đã ký kết hai công ước nhân quyền quốc tế quan trọng, năm 2004 họ đã sửa đổi hiến pháp để thêm vào câu “tôn trọng và bảo vệ nhân quyền” và trong năm nay, 2008, họ đã hứa xúc tiến “kế hoạch hành động vì nhân quyền trên toàn quốc”. Đáng tiếc là, sự tiến triển mới chỉ nằm trên giấy mà thôi. Thực tế chính trị, ai cũng dễ dàng nhận ra, là Trung Quốc có rất nhiều luật nhưng lại không được cai trị bằng luật pháp; có một hiến pháp, nhưng không có chính phủ hợp hiến. Giới tinh hoa nắm quyền tiếp tục bám víu vào quyền lực độc đoán và chống lại mọi xu hướng cải cách chính trị.
Kết quả thật khôi hài là nạn tham nhũng của các quan chức địa phương, xói mòn chế độ pháp trị, nhân quyền yếu kém, đạo đức xã hội suy đồi, chủ nghĩa tư bản thân hữu, bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo gia tăng, phá huỷ môi trường tự nhiên cũng như môi trường nhân văn và lịch sử và một loạt xung đột xã hội khác, đặc biệt là trong thời gian gần đây, mâu thuẫn giữa cán bộ và nhân dân ngày càng thêm sâu sắc.
Trong khi những vụ xung đột và khủng hoảng đang ngày càng căng thẳng hơn lúc nào hết thì giới cầm quyền vẫn tiếp tục chà đạp và tước đoạt các quyền tự do, quyền sở hữu tài sản và quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân mà không sợ bị trừng phạt, thì chúng tôi đã nhận thấy những người hoàn toàn không có quyền hành gì – tức là những nhóm người dễ bị tổn thương, những người bị đàn áp và theo dõi, những người đã đã bị đối xử tàn tệ, thậm chí là bị tra tấn, những người không có con đường nào để biểu tình, không có toà án nào chịu nghe lời khẩn cầu của họ –  đã trở thành quyết liệt hơn và có khả năng tạo ra một cuộc xung đột đầy tai hoạ. Sự suy đồi của hệ thống hiện hành đã đạt đến điểm tới hạn, không thay đổi không xong.
II. Những nguyên tắc cơ bản của chúng tôi
Ðây là thời điểm lịch sử đối với Trung Quốc, tương lai của chúng ta đang bị đe doạ. Nhìn lại tiến trình hiện đại hoá chính trị trong một trăm năm qua hoặc hơn nữa, chúng tôi tái khẳng định và xác nhận những giá trị phổ quát căn bản sau đây:
Tự do. Tự do là cốt lõi của giá trị nhân bản phổ quát. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do cư trú và tự do bãi công, biểu tình và phản đối, bên cạnh những quyền tự do khác, là những hình thức của quyền tự do. Không có tự do, Trung Quốc sẽ chẳng bao giờ đến gần được những lý tưởng của thế giới văn minh.
Nhân quyền. Nhà nước không ban tặng cho ai quyền con người. Mọi người đều được sinh ra với những quyền bất khả tương nhượng về phẩm giá và tự do. Chính phủ sinh ra là để bảo vệ quyền con người cho các công dân của họ. Quyền lực nhà nước phải được nhân dân uỷ nhiệm. Thảm hoạ chính trị liên tục xảy ra trong lịch sử gần đây của Trung Quốc là hậu quả trực tiếp của việc coi thường quyền con người của chế độ.
Bình đẳng. Lòng trung thực, phẩm giá và tự do của tất cả mọi người – không phụ thuộc vào địa vị xã hội, nghề nghiệp, giới tính, điều kiện kinh tế, sắc tộc, màu da, tôn giáo, hay lập trường chính trị – đều giống nhau. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng về quyền xã hội, kinh tế, văn hoá, dân sự, chính trị, phải được bảo vệ.
Chế độ cộng hoà. Nền cộng hoà, chủ trương rằng quyền lực phải được phân chia cân xứng giữa các nhánh khác nhau của chính phủ và những quyền lợi cạnh tranh với nhau đều phải được đáp ứng, giống như lý tưởng chính trị truyền thống của Trung Hoa “Thiên hạ bình đẳng”. Nền cộng hoà cho phép các nhóm lợi ích, các tổ chức xã hội khác nhau, và những người với những sự khác biệt về văn hoá và tín ngưỡng, được thực thi chế độ tự quản dân chủ và thảo luận nhằm đạt được một giải pháp ôn hoà cho những vấn đề công cộng trên cở sở quyền tham gia một cách bình đẳng vào việc quản lý và cạnh tranh một cách ngay thẳng và tự do.
Chế độ dân chủ. Nguyên tắc căn bản của chế độ dân chủ là chủ quyền thuộc về nhân dân và nhân dân bầu ra chính phủ của mình. Chế độ dân chủ có những đặc điểm: (1) Quyền lực chính trị xuất phát từ nhân dân và tính chính danh của chế độ bắt nguồn từ nhân dân. (2) Quyền lực chính trị được thực hiện bằng những phương tiện do nhân dân lựa chọn. (3) Những người nắm giữ các chức vụ quan trọng trong tất cả các cấp của chính quyền đều được xác định thông qua các cuộc bầu cử cạnh tranh theo định kì. (4) Tôn trọng ý chí của đa số nhưng phẩm giá, quyền tự do và quyền con người căn bản của thiểu số cũng được bảo vệ. Tóm lại, dân chủ là phương tiện hiện đại để cho chính phủ trở thành thực sự là “của dân, do dân và vì dân”.
Hiến trị. Chế độ hiến trị là cai trị thông qua hệ thống pháp luật và những điều luật nhằm thực thi các nguyên tắc được minh định trong hiến pháp. Hiến trị nghĩa là bảo vệ tự do và quyền của các công dân và định rõ phạm vi quyền lực của chính phủ hợp pháp và qui định bộ máy quản lý cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu đó.
III. Những điều chúng tôi cổ vũ
Khắp nơi, chủ nghĩa toàn trị đang lâm vào tình trạng suy thoái toàn diện, Trung Quốc không phải là ngoại lệ, thời đại của các hoàng đế và lãnh chúa sắp qua rồi. Thời cơ để cho các công dân giành lấy quyền làm chủ đất nước đang ló dạng khắp nơi. Với Trung Quốc, muốn thoát khỏi tình thế khó khăn hiện nay chúng ta phải đoạn tuyệt với niềm tin theo lối toàn trị vào một “minh quân” hay một vị “quan thanh liêm” và hướng đến hệ thống tự do, dân chủ, và pháp trị, thúc đẩy ý thức của người công dân hiện đại, tức là những người coi quyền con người là nền tảng và tham gia là trách nhiệm. Vì vậy, là những công dân có trách nhiệm và tinh thần xây dựng, chúng tôi đưa ra những đề nghị về quản lý quốc gia, quyền công dân và phát triển xã hội như sau:
1. Một bản hiến pháp mới. Chúng ta phải viết lại bản hiến pháp hiện hành, bãi bỏ những điều khoản trái ngược với nguyên tắc là chủ quyền thuộc về nhân dân và biến bản hiến pháp thành một văn kiện thật sự bảo đảm quyền con người, uỷ quyền việc thực hiện quyền lực công và là nền tảng cho việc dân chủ hoá Trung Quốc. Hiến pháp phải là bộ luật cao nhất ở trong nước, không có cá nhân, phe nhóm hoặc đảng phái chính trị nào được phép vi phạm.
2. Phân chia quyền lực. Chúng ta phải xây dựng một nhà nước hiện đại, trong đó các quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp phải được phân chia. Chúng ta cần có một Ðạo luật Hành chính định rõ phạm vi trách nhiệm của chính phủ và ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực hành chánh. Chính phủ phải có trách nhiệm đối với người đóng thuế. Việc phân chia quyền lực giữa chính quyền địa phương và trung ương phải gắn với nguyên tắc quyền lực trung ương là những quyền được ghi một cách rõ ràng trong hiến pháp, tất cả các quyền lực khác thuộc về các chính quyền địa phương.
3. Dân chủ lập pháp. Thành viên của các cơ quan lập pháp tất cả các cấp phải được lựa chọn bằng bầu cử trực tiếp và dân chủ lập pháp phải tuân theo các nguyên tắc công bằng và vô tư.
4. Tư pháp độc lập. Tinh thần pháp trị phải đặt trên quyền lợi của bất cứ đảng phái chính trị nào, các thẩm phán phải là những người độc lập. Chúng ta cần thành lập toà án hiến pháp tối cao và lập ra những thủ tục để xem xét lại hiến pháp. Chúng ta phải bãi bỏ tất cả các ban nội chính hiện đang cho phép các quan chức cộng sản ở mọi cấp được quyết định các vụ án nhạy cảm về chính trị trước khi xét xử và bên ngoài tòa án, càng sớm càng tốt. Chúng ta phải dứt khoát cấm dùng các công sở vào mục đích cá nhân.
5. Kiểm soát công khai công chức nhà nước. Quân đội phải chịu trách nhiệm trước chính phủ, chứ không phải trước một đảng phái chính trị nào và phải có tính chuyên nghiệp hơn nữa. Quân nhân phải tuyên thệ trung thành với hiến pháp và phải là người không đảng phái. Phải cấm thành lập tổ chức đảng trong các lực lượng võ trang. Tất cả các quan chức nhà nước, trong đó có công an, phải phục vụ như những người không đảng phái và phải chấm dứt thói quen ưu tiên đảng viên của một đảng trong việc tuyển dụng công chức nhà nước.
6. Bảo đảm quyền con người. Phải có sự bảo đảm tuyệt đối quyền con người và tôn trọng phẩm giá của con người. Phải có Uỷ ban Nhân quyền, chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp cao nhất, để ngăn chặn chính phủ lạm dụng quyền lực công vào việc vi phạm nhân quyền. Nước Trung Hoa dân chủ và hợp hiến phải đặc biệt bảo đảm quyền tự do cá nhân của công dân. Không để người nào bị bắt bớ, giam cầm, buộc tội, thẩm vấn hoặc trừng phạt một cách bất hợp pháp. Hệ thống “Cải tạo lao động” phải bị bãi bỏ.
7. Bầu cử các quan chức nhà nước. Phải thiết lập một hệ thống bầu cử dân chủ phổ thông đầu phiếu trên cơ sở “mỗi người một lá phiếu”. Việc bầu cử trực tiếp những người đứng đầu các cơ quan hành chính các cấp ở các quận huyện, tỉnh, thành phố và toàn quốc phải được thực hiện một cách có hệ thống. Quyền tổ chức và tham gia các cuộc bầu cử tự do theo định kỳ của công dân là bất khả xâm phạm.
8. Bình đẳng giữa nông thôn và thành thị. Chế độ đăng ký hộ khẩu hai bậc phải bị bãi bỏ. Đây là chế độ có lợi cho cư dân thành thị và có hại đối với dân chúng ở nông thôn. Thay vào đó, chúng ta phải thiết lập một hệ thống cho phép mọi công dân đều có quyền hiến định như nhau và quyền tự do như nhau trong việc chọn nơi cư trú.
9. Tự do lập hội. Quyền lập hội của công dân phải được bảo đảm. Hệ thống đăng ký các tổ chức phi chính phủ với yêu cầu tổ chức đó “phải được nhà nước chấp thuận”, phải được thay thế bằng một hệ thống trong đó các tổ chức chỉ cần tự đăng ký là được. Việc thành lập các đảng phái chính trị phải được điều chỉnh bởi hiến pháp và pháp luật, có nghĩa là chúng ta phải bãi bỏ đặc quyền độc chiếm quyền lực của một đảng và bảo đảm cho nguyên tắc cạnh tranh tự do và công bằng giữa các chính đảng.
10. Tự do hội họp. Hiến pháp quy định rằng hội họp, biểu tình, phản đối và tự do bày tỏ tư tưởng một cách ôn hoà là những quyền cơ bản của công dân. Ðảng cầm quyền và chính phủ không được có những hành động can thiệp trái pháp luật hoặc gây ra những cản trở vi hiến.
11. Tự do thể hiện. Chúng ta phải làm cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và tự do học thuật trở thành các quyền tự do phổ quát và bằng cách đó bảo đảm rằng mọi công dân đều được thông tin và có thể thực hiện quyền giám sát chính trị của mình. Các quyền tự do này phải được bảo vệ bằng Luật báo chí, bãi bỏ tất cả các hạn chế chính trị đối với báo chí. Ðiều khoản trong Bộ luật Hình sự hiện hành liên quan tới “tội kích động nhằm phá hoại quyền lực nhà nước” phải bị bãi bỏ. Chúng ta phải chấm dứt thói quen coi ngôn từ là tội ác.
12. Tự do tôn giáo. Chúng ta phải bảo đảm cho quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng và tách tôn giáo ra khỏi nhà nước. Chính phủ không được phép can thiệp vào các hoạt động tôn giáo ôn hoà. Chúng ta phải huỷ bỏ mọi luật lệ, quy định hoặc qui tắc của địa phương nhằm hạn chế hoặc đàn áp quyền tự do tôn giáo của công dân. Chúng ta phải bãi bỏ chính sách đòi các tổ chức tôn giáo (và nơi thờ phụng của họ) phải được chính quyền chấp thuận trước và thay thế bằng một hệ thống, trong đó việc đăng ký là tự nguyện và nghiễm nhiên được thực hiện đối với những người muốn đăng ký.
13. Giáo dục công dân. Trong các nhà trường, chúng ta phải bãi bỏ việc học và thi các môn chính trị chỉ có mục đích là truyền bá hệ tư tưởng của nhà nước và nhồi sọ sự ủng hộ quyền cai trị độc đảng. Chúng ta phải thay thế các môn đó bằng môn giáo dục công dân nhằm thúc đẩy các giá trị phổ quát và quyền công dân, nuôi dưỡng ý thức công dân và khuyến khích những đức tính có ích cho xã hội.
14. Bảo vệ tài sản tư nhân. Chúng ta phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và thúc đẩy hệ thống kinh tế thị trường tự do và công bằng. Chúng ta phải bãi bỏ độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp và bảo đảm quyền tự do thành lập doanh nghiệp mới. Chúng ta phải thành lập uỷ ban quản lý tài sản nhà nước, chịu trách nhiệm báo cáo trước quốc hội, uỷ ban này sẽ giám sát để cho việc chuyển các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sang cho tư nhân quản lý diễn ra trong trật tự, cạnh tranh và công bằng. Chúng ta phải lập ra chính sách cải cách ruộng đất nhằm thúc đẩy quyền tư hữu đất đai, bảo đảm quyền mua bán đất và để giá trị thật của tài sản tư nhân được phản ánh một cách phù hợp trên thị trường.
15. Cải cách tài chính và thuế khoá. Chúng ta phải thiết lập một hệ thống tài chính công có trách nhiệm giải trình và được quản lý một cách dân chủ nhằm vệ quyền lợi của người đóng thuế và hoạt động thông qua các thủ tục hợp pháp. Chúng ta cần một hệ thống, theo đó, tất cả các thu nhập công thuộc về một cấp chính quyền nào đó – trung ương, tỉnh thành, quận huyện hoặc địa phương – được kiểm soát ở cấp đó. Chúng ta cần cải cách thuế khoá một cách toàn diện nhằm bãi bỏ tất cả các khoản thuế bất công, đơn giản hoá hệ thống thuế khoá và phân chia gánh nặng thuế khoá một cách công bằng. Quan chức chính phủ không được tăng thuế hoặc đặt ra những loại thuế mới, nếu chưa có những cuộc thảo luận công khai và được quốc hội dân chủ chấp thuận. Chúng ta phải cải cách chính sách về quyền sở hữu nhằm khuyến khích sự cạnh tranh giữa những người hoạt động khác nhau trên thương trường.
16. An sinh xã hội. Chúng ta phải thiết lập một hệ thống an sinh xã hội công bằng và phù hợp cho tất cả các công dân và bảo đảm mọi người đều được học hành, chăm sóc sức khoẻ, lương hưu và việc làm ở mức tối thiểu.
17. Bảo vệ môi trường. Chúng ta cần bảo vệ môi trường thiên nhiên và khuyến khích phát triển bền vững và có trách nhiệm đối với các thế hệ sau cũng như toàn nhân loại. Ðiều này có nghĩa là đòi hỏi nhà nước và quan chức các cấp không chỉ làm những gì họ phải làm để đạt được những mục tiêu này mà còn chịu sự giám sát và tham gia của các tổ chức phi chính phủ.
18. Cộng hoà liên bang. Nước Trung Hoa dân chủ phải tìm cách hành động như một cường quốc quan trọng có trách nhiệm nhằm góp phần thúc đẩy hoà bình và phát triển ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bằng cách tiếp xúc với những quốc gia khác trong tinh thần bình đẳng và thẳng thắn. Tại Hồng Công và Macao, chúng ta phải ủng hộ những quyền tự do đã có sẵn ở đó. Về vấn đề Ðài Loan, chúng ta phải tuyên bố cam kết với những nguyên tắc tự do dân chủ, và sau đó, thương lượng như những thực thể bình đẳng và sẵn sàng thoả hiệp để tìm một công thức cho sự nghiệp thống nhất một cách hoà bình. Chúng ta phải giải quyết các bất đồng trong các khu vực dân tộc thiểu số ở Trung Quốc với một tinh thần cởi mở, tìm cách đạt được một khuôn khổ khả dĩ để cho tất cả các nhóm thiểu số và tổ chức tôn giáo đều có thể phát triển được. Chúng ta phải nhắm vào mục tiêu tối hậu là thành lập một liên bang các cộng đồng dân chủ ở Trung Quốc.
19. Sự thật trong hoà giải. Chúng ta phải phục hồi thanh danh cho tất cả mọi người, kể cả thân nhân của họ, tức là những người đã bị bôi nhọ trong các chiến dịch đàn áp chính trị trong quá khứ hoặc là những người bị gán cho là tội phạm vì tư tưởng, lời nói hoặc niềm tin của họ. Nhà nước phải bồi thường cho những người này. Tất cả các chính trị phạm và tù nhân lương tâm phải được trả tự do. Phải thành lập Uỷ ban Ðiều tra Sự thật với nhiệm vụ tìm kiếm sự thật về những hành động bất công và tàn bạo trong quá khứ, xác định trách nhiệm, duy trì công lý và trên cơ sở này, tìm kiếm sự hoà giải xã hội.
Trung Quốc là một quốc gia quan trọng trên thế giới, là một trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, phải đóng góp vào nền hoà bình của nhân loại và tiến bộ về nhân quyền.
Nhưng đáng tiếc là, ngày hôm nay chúng ta là nước duy nhất, trong các quốc gia quan trọng, vẫn còn sa lầy trong vũng bùn của nền độc tài chính trị. Hệ thống chính trị của chúng ta tiếp tục gây ra những thảm hoạ nhân quyền và khủng hoảng xã hội, vì thế không chỉ bóp nghẹt sự phát triển của chính Trung Quốc mà còn ngăn chặn sự tiến bộ của cả nền văn minh nhân loại. Phải thay đổi tình thế, thực sự là phải thay đổi. Dân chủ hoá nền chính trị Trung Quốc là công việc không thể trì hoãn được nữa.
Vì thế, chúng tôi mạo muội biến tinh thần công dân thành hành động bằng cách công bố Hiến chương 08 này. Chúng tôi hy vọng rằng đồng bào của chúng ta, những người cùng có nhận thức tương tự về cuộc khủng hoảng, về tinh thần trách nhiệm và sứ mệnh, dù họ đang nằm trong hay ngoài chính quyền, không phân biệt địa vị xã hội, sẽ gạt sang một bên những khác biệt nhỏ để cùng nắm lấy những mục tiêu to lớn của phong trào công dân này. Cùng nhau, chúng ta có thể làm việc vì những thay đổi quan trọng trong xã hội Trung Quốc và nhanh chóng thành lập được một đất nước tự do, dân chủ và hợp hiến. Chúng ta có thể biến những mục tiêu và lý tưởng mà nhân dân ta đã không ngừng tìm kiếm suốt hơn một trăm năm qua thành hiện thực và có thể mang lại một chương rực rỡ mới cho nền văn minh Trung Hoa.
Phạm Nguyên Trường dịch qua bản Anh văn
(ảnh : Giải Nobel hoà bình tặng Lưu HIểu Ba)
Nguồn bản dịch: 

16 tháng 7, 2017

Lưu Trọng Văn - Chuyện "nghèo" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý...

Gã muốn im lặng, nhưng thấy báo chí và dân mạng ầm ĩ quá chuyện “nghèo” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, rồi những lời trách móc con gái của nhạc sĩ bỏ rơi nhạc sĩ trong cảnh túng quẫn, già nua, rồi nhạc sĩ nói muốn chết quách cho rồi… gã đành phải lên tiếng.


Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý chính là người bế ẵm gã từ tay bà mụ Lê thị Thịnh, khi gã chào đời. Và ông chính là người hát câu hát ru gã đầu tiên. Gã luôn kính trọng ông. Khi về già, ông thường điện thoại cho gã: Văn ơi có đi chơi đâu khỏi Sài Gòn thì rủ chú đi với. Gã từng rủ ông đi ….phượt ở nhiều vùng quê. Đi với ông sướng lắm vì ăn theo sự ngưỡng mộ của dân quê với ông.Được nghe ông hát Dư Âm, Một khúc tâm tình, Tấm áo mẹ vá năm xưa, Mẹ ru con, Dáng đứng Bến Tre… Và được ngóng tai, tròn mắt thấy ông trổ tài tán các bà các cô tươi xinh.

Ông hơn đứt nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi ở đôi lúm đồng tiền duyên và ánh mắt đa tình. Ông càng hơn đứt nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi vốn nổi tiếng là đẹp trai ấy ở chỗ ông chả vướng bận chức tước gì với đảng đóm gì nên cũng chả việc gì phải gồng mình giữ kẽ đạo đức. Vậy thì ông yêu lung tung xòe và được các bà các cô tỏ tình xòe lung tung là do Trời… “đày” chứ đâu phải lỗi của ông. Chả là giai thoại đâu, trong giới nhạc ai chả biết cứ sau mỗi khúc….tâm tình, với… đi mô với… dáng đứng là một cuộc tình.

Khi ông 80 tuổi, gã hỏi, chú thế nào, còn chiến đấu được không? Ông cười rõ roi rói: Phụ thuộc đối tác còn nước nôi hay không.

Ông không hề giấu gã về các cuộc tình vụng trộm đẩu đâu. Nói chung đã là nhạc sĩ thì luôn đồng nghĩa với đa tình , luôn đồng nghĩa với ngoại…tình. Gã nói vậy, gã thách có bác nhạc sĩ nào dám tuyên bố rằng, thằng Văn mày đừng có đặt điều, tao đây không đa tình, không ngoại tình. He, he, gã nghĩ rồi, người có thể chửi gã là bố láo chắc chỉ có nhạc sĩ Lưu Hữu Phước mà thôi.

Các cuộc tình không để lại hậu quả, mà chỉ để lại các chiến quả thì các bác nhạc sĩ thường khoe. Và các bà vợ, con cái thường dễ dàng tha thứ cho các bác ấy vì lí do…lấy cảm hứng sáng tác.

Nhưng các cuộc tình không có chiến quả là bài hát để đời nào mà chỉ có hậu quả làm phức tạp và rắc rối các mối quan hệ gia đình thì các bà vợ và con cái của họ khó mà cho qua.

Nói gần nói xa là rứa.

Là rứa, xung khắc bố con chú Tý của gã.

Là rứa, bố muốn con hiểu bố, cảm thông với bố, chia sẻ gánh nặng cho bố, con không chịu, vậy thì: Con bị mang tiếng là bỏ rơi bố.

Gã chứng kiến Linh, con gái rượu của chú Tý, lo cho bố thế nào, chăm sóc từng miếng ăn, bước đi, giấc ngủ cho bố ra sao. Linh cứ nhắc đến bố là ứa nước mắt. Hôm ấy Linh bảo gã đến nhà Linh. Gã bất ngờ thấy một căn phòng rất đẹp nhìn ra vườn cây. Anh vào đi, chú ở trong ấy. Linh tỏ ra rất vui khi bố về ở với mình. Nhưng khi chỉ có gã và chú Tý, chú lại rơm rớm nước mắt. Chú bảo, con Linh nó thương chú nhưng nó không hiểu chú cháu à. Chú chỉ muốn ở đằng kia.

Và rồi chỉ ở vài hôm căn phòng đầy đủ tiện nghi và sự chăm sóc tận tình của con gái, cô con gái mà nhạc sĩ từng viết nên ca khúc tuyệt diệu, ru con, me ru con à ới ru hời, miệng con chúm chím…,ông nhạc sĩ bỏ đi.

Ông về lại cái mà ông gọi là ổ chuột nhưng với ông chính là tổ ấm của ông.

Chuyện bắt đầu từ vợ của chú- cô Lê, em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương qua Đức ở với Linh, khi đi cô nhờ cháu gái của cô cũng tên Thương chăm sóc cơm nước cho chú Tý. Và rồi, chuyện gì xảy ra…

Chú Tý có lần nói với gã, đó là lỗi do cô, sao cô lại bỏ chú qua Đức để chú ở một mình? Khi cô Lê cùng Linh từ Đức trở về, biết sự tình, cô đã im lặng và sống riêng với Linh cho đến khi cô qua đời. Gã biết cô tuy cứ cười cười nhưng trong lòng thì đớn đau lắm.

Thương là người phụ nữ mê thơ, âm nhạc và dân ca Quảng. Thương chăm sóc hết mình cho chú… Tý. Chú Tý nói với gã, chú đau yếu, bệnh tật, già nua, chú phải luôn biết ơn Thương và con gái của Thương đã hết mình chăm sóc chú. Đấy là cái tình và tình thương. Gia đình của Thương rất nghèo khó, con cái cũng nghèo khó…

Chú Tý có lần khóc với gã: người ta lo cho mình, thương mình làm sao mình bỏ người ta được cháu ơi!

Còn Linh nói với gã trong nước mắt: bao nhiêu tiền bố em cho người ta cả chứ có tiêu pha gì cho mình đâu. Làm sao một ông già có thể gánh cả gánh nặng như thế. Đã thế lại còn cháu của người ta nữa…Em làm sao có thể chấp nhận được điều ấy. Xót quá anh à. Xót đứt ruột anh à.

Gã đến nhà chú Tý thấy một thằng bé rất dễ thương, rất đẹp trai, đó là con trai của con gái của Thương, tức là cháu ngoại của Thương. Gã hỏi bố của bé là ai, chú Tý bảo, không biết. Chú ôm đứa bé, bế đứa bé, gã cảm nhận từng ánh mắt của chú thật kì lạ, cứ sáng rực lên. Chú bảo với gã, đi đâu một lúc nhớ thằng bé không chịu được.

Tình. Tình thương. Thế thôi. Bi kịch từ đó mà ra. Bi kịch của những người tử tế.

Bây giờ thì ai đó đã phần nào hiểu được và tha thứ cho người nhạc sĩ, cho con gái nhạc sĩ, cho cả gia đình người đàn bà lam lũ nhiều năm nay sống, chịu muôn tủi cực, chua xót miệng lưỡi thế gian hiện đang sống cùng nhạc sĩ.

Than!
Chú Tý nói với gã, chú gần đất xa trời rồi, chú cần gì cho chú nữa đâu cháu ơi, chú chỉ lo chú chết đi thì gia đình của Thương sẽ sống ra sao, thằng bé mà chú rất yêu nó, bao năm sống bên chú sẽ ra sao?

Than. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đâu có than cho ông. Ông hiểu đoạn cuối cuộc hành trình của mình ông chỉ còn vũ khí duy nhất là…than thôi. Ông đâu còn quyền lực và vũ khí nào khác nữa đâu.

Có lần gã hỏi ông, nếu một ngày nào đó chú ra đi, thì điều mong ước cuối cùng để lại là gì?

Ông khóc và bảo: Mọi người hãy hiểu cho chú và tha thứ cho chú.

Lúc này trong gã chỉ còn vang lên khúc ca ấy, dư âm của Dư âm:

Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ
Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ
Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn gió
Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời…

Và:

Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió
Đưa anh tới cõi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên nàng.

Lưu Trọng Văn

(FB Lưu Trọng Văn)

15 tháng 7, 2017

Câu chuyện này hay đây

Đại kỳ án thế kỷ kiện Nhà nước Việt Nam ra Tòa Trọng tài Quốc tế sắp diễn ra tại Paris

Phía Chính phủ Việt Nam đã trả 15 triệu Mỹ kim cho ông Bình, nhưng rất chậm, mãi đến năm 2014 mới xong. Ông Bình không đòi tiền lời từ năm 2005 đến 2014. Việt Nam xóa hình phạt tù của ông Bình và cho ông được trở lại Việt Nam. 
Ông Trịnh Vĩnh Bình.
Tóm tắt vụ án

Ông Trịnh Vĩnh Bình sinh 1947, vượt biên tới Hòa Lan năm 1976. Ông bán chả giò, và món ăn Việt rất thành công nên có biệt danh "Vua Chả Giò".
Năm 1986, Đại hội ĐCS VN lần VI, mở cửa kêu gọi Việt kiều về làm giàu cho quê hương. Năm 1987, ông Bình đem bốn triệu Mỹ kim về Việt Nam đầu tư. Ông mua đất để xây dựng nhà xưởng. Ở thời điểm này, Việt Nam chưa cho phép Việt kiều đứng tên nhà đất. Ông phải nhờ người thân ở Việt Nam đứng tên giúp.
Ông Bình mua 284 ha đất, mở hai cơ sở sản xuất, 11 căn nhà ở Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai và Sài Gòn nâng tổng số tài sản lên gấp gần 8 lần số vốn ban đầu. Ông Bình sở hữu khoảng trên 30 triệu Mỹ Kim tại Việt Nam.
Thấy tài sản của ông quá lớn, Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho công an bắt ông Bình, khởi tố hai tội: "Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai"; và "Đưa hối lộ".
Năm 1998, Tòa án tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử sơ thẩm và tuyên phạt ông Bình 13 năm tù. Ông kháng án lên Tòa Phúc thẩm. Tòa Tối cao tại Sài Gòn xử giảm xuống 11 năm tù.
Ông Bình cùng các luật sư cãi về tội “Vi phạm các quy định quản lý và bảo vệ đất đai”: Không có quy định, hay điều luật nào cấm “nhờ người thân đứng tên giúp”. Tội thứ hai “Đưa hối lộ”: Cả Tòa tỉnh và cả Tòa Tối cao đều không đưa ra được bằng chứng ai là người nhận hối lộ.
Tuy vậy, ông Bình vẫn bị bị tống vào tù. Toàn bộ tài sản, bất động sản của ông tịch thu.
Ông Bình ra khỏi nhà tù sớm hơn hạn định và quyết định vượt biên lần hai bằng đường bộ, xuyên rừng Campuchia về lại Hòa Lan.

Cam kết Singapore

Tại Hòa Lan năm 2003, ông Bình đâm đơn kiện Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Stockholm, Thụy điển, đòi bồi thường 100 triệu USD vào năm 2005.
Ông Bình viện dẫn các quy định của Hiệp định “Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư” mà Việt Nam và Hòa Lan đã ký kết vào năm 1994. Phiên tòa Quốc tế ấn định vào tháng 12/2006 tại Stockholm , Thụy Điển.
Chính quyền Việt Nam ngửi thấy mùi thất bại nên chọn phương pháp dàn xếp ngoài tòa. Việt Nam thương lượng với ông Bình để ký một “Cam kết” tại Singapore vào tháng 9/2006.

Nội dung Cam kết Singapore

Về phía Nhà nước Việt Nam cam kết: 1) Bồi thường cho ông Trịnh Vĩnh Bình 15 triệu Mỹ kim. 2) Việt Nam trả lại ông Bình toàn bộ tài sản đã tịch thu, việc trao trả này phải hoàn tất chậm nhất vào cuối năm 2012. 3) Phía Việt Nam cho ông Trịnh Vĩnh Bình ra vào Việt Nam tự do, và xóa án cho ông.
Về phía ông Trịnh Vĩnh Bình phải: 1) Rút đơn kiện khỏi Tòa Quốc tế ở Stockholm, Thụy Điển. 2) Không được tiết lộ nội dung Cam kết Singapore với truyền thông.
Bản Cam kết này có sự chứng kiến của Trung tâm Trọng tài Thương mại Stockholm, Văn phòng Thừa phát, cùng luật sư của cả hai bên.

Hậu Cam kết Singapore

Phía ông Bình đã giữ im lặng; không tiết lộ nội dung “Cam kết” để giữ uy tín, thể diện cho chính quyền Việt Nam.
Phía Chính phủ Việt Nam đã trả 15 triệu Mỹ kim cho ông Bình, nhưng rất chậm, mãi đến năm 2014 mới xong. Ông Bình không đòi tiền lời từ năm 2005 đến 2014. Việt Nam xóa hình phạt tù của ông Bình và cho ông được trở lại Việt Nam. Tuy vậy, toàn bộ tài sản, bất động sản gồm: hai xưởng sản xuất với diện tích gần 40.000 m2; chín căn nhà và đất; đoàn xe vận tải 12 chiếc; căn nhà 86 m2 măt tiền trên diện tích đất hơn 2.000 m2 ở đường Trần Phú, Vũng Tàu cùng nhiều bất động sản ở các tỉnh thành khác thì chưa hoàn trả.

Lại đâm đơn kiện CHXHCN Việt Nam

Ông Bình xét thấy “Cam kết Singapore” bị phản bội. Ông Bình quyết định đâm đơn kiện Nhà nước Việt Nam ra Tòa Trọng tài Quốc tế The Hague tại Hòa Lan.
Ông Bình nộp đơn kiện vào tháng 1/2015. Đến ngày 30/4/2015, Tòa Quốc Tế đã chính thức thông báo đến Nhà nước Việt Nam về nội dung vụ kiện.
Bên nguyên đơn, ông Bình, quốc tịch Hòa Lan, đã mướn Tổ hợp luật Covington & Burling của Mỹ.
Bị đơn là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thuê hãng luật nổi tiếng của Pháp. Tin đồn rằng những luật sư trong hãng này đều là bạn học với Cù Huy Hà Vũ.
Mọi chuyện đã vỡ lở. Việt Nam đã ký kết rất nhiều Hiệp ước Thương mại và Đầu tư với Âu châu và Hòa Lan. Việt Nam không thể giấu giếm hay ém nhẹm.
Phiên xét xử dự kiến kéo dài mười ngày, bắt đầu từ 21 tháng 8 năm 2017. Ai thắng ai, hậu kỳ án và thi hành án sẽ là những là những đề tài vô tận cho các nhà bình loạn khai thác.
Báo Quân Đội Nhân Dân, Nhân Dân, cùng giàn báo chí quốc doanh chưa thấy lên tiếng tố cáo các “thế lực thù địch”, “bọn phản động” tiếp tay... phá hoại CHXHCN Việt Nam.

Thứ Năm ngày 13 tháng Bảy năm 2017

Trần Sông Hồng
TTHNO


THÂN PHẬN ĐÀN ÔNG
( Nhái bài thơ Hai sắc hoa tigon Của T.T.K.H)
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Tới tháng lĩnh lương mới hết hồn
Bạn rủ đi chơi, nào có dám
Tôi chờ người tới để ...giao lương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Xấp tiền lương mỏng, hỏi lung tung:
Rằng lương sao có bao nhiêu đấy?
Chắc “diếm” bớt rồi, phải thế không?
 
Người ấy thường hay móc bóp tôi
Khảo tiền mỗi lúc bóp tôi vơi
Bảo rằng tôi móc còn hơn để…
“ghệ” móc tiền ông, mới khổ đời
 http://znews-photo-td.zadn.vn/w660/Uploaded/jac_iik/2014_10_16/yeunhamsutuhadong.jpg
 
 
Thuở ấy nào tôi đã biết gì:
Trẻ người, non dạ quá ngu si
Bao nhiêu tiền bạc, tôi “dâng” hết…
Chẳng giữ cho mình được…tí ti
Đâu biết tiền đưa bả tháng này
Là tiền dành dụm bấy lâu nay
Bao nhiêu tiền mặt, “người” chôm hết
Biết lấy gì vui với bạn đây?
 
http://image.vtc.vn/resize/628x314/files/f1/2015/12/26/tuyet_chieu_doi_pho_voi_su_tu_ha_dong_cua_cac_duc_ong_chongjpg.jpg
 Từ đấy thu, rồi thu, lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
“Người kia” đã biết tôi vơi túi
“người ấy” cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi…bên cạnh một người
Dữ như sư tử của lòng tôi
Và từng thu chết, từng thu chết
Vẫn sợ “vợ” hơn cả…sợ trời
https://kimdunghn.files.wordpress.com/2017/07/aa5a3-sutuhadong.jpg?w=200&h=121
Buồn quá, hôm nay xem lại túi
Chỉ còn tiền lẻ để…ăn xôi
Bao nhiêu tiền chẵn, người gom hết
Chỉ tặng cho tôi…một nụ cười
http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/2014/ihay.thanhnien.com.vn/pictures201312/linh_san/_nb/phunu.jpg?width=600
 
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi.
Đưa tiền người giữ khỏi lôi thôi
Đến nay, tôi hiểu thì tôi đã…
Làm lỡ đời trai, muộn mất rồi
Theo Blog  Kim Dung

 HAI SẮC HOA TIGON

T.T.KH



Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn 
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn, 
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc, 
Tôi chờ người đến với yêu đương. 

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng 
Dải đường xa vút bóng chiều phong, 
Và phương trời thẳm mờ sương, cát, 
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng. 

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, 
Thở dài trong lúc thấy tôi vui, 
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ, 
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!” 

Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì 
Cánh hoa tan tác của sinh ly, 
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng 
Là chút lòng trong chẳng biến suy” 

Đâu biết lần đi một lỡ làng, 
Dưới trời đau khổ chết yêu đương. 
Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm, 
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường... 

Từ đấy, thu rồi, thu lại thu, 
Lòng tôi còn giá đến bao giờ 
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ... 
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ. 

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời 
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi, 
Mà từng thu chết, từng thu chết, 
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”. 

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết 
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa 
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ. 
Và đỏ như màu máu thắm pha! 

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi 
Một mùa thu trước rất xa xôi... 
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã, 
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi! 

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ, 
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu 
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng, 
Người ấy sang sông đứng ngóng đò. 

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng, 
Trời ơi! Người ấy có buồn không? 
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ 
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?






Huyền thoại về lối sống người Hà Nội

Ảnh: Nguyễn Hoàng Lâm.

Nỗi buồn ở Kuala Lumpur

Chuyến công tác của tôi tới Kuala Lumpur đầu tiên vào năm 2006 gieo vào lòng tôi một nỗi buồn sâu thẳm. Là người sinh ra tại Hà Nội và yêu Hà Nội, chuyến đi, nói đúng hơn là vẻ đẹp của người và cảnh Kuala Lumpur, không lòng tự tôn dân tộc của tôi bị tổn thương nghiêm trọng. Nói nặng lời, đối với tôi, đó là một sự sỉ nhục âm thầm.

Giống như rất nhiều người dân Hà Nội hoặc ngạo mạn vô lối hoặc tăm tối u mê, tôi không thể ngờ được vẻ đẹp ấy. Tôi đã đi rất nhiều nơi trên thế giới, đã gặp đủ mọi loại người. Tôi biết Hà Nội còn xấu xí, bẩn thỉu và lộn xộn, tôi biết rằng người Hà Nội thô tục hơn nhiều so với người Mỹ, người Âu hay người Nhật.

Nhưng tôi, cũng như rất nhiều người khác vẫn tự ru ngủ với cái huyền thoại về nét thanh lịch của người Hà Nội qua câu ca dao "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".

Tự ru ngủ mặc dù không rõ từ bao giờ và tại sao Tràng An lại được cho là Hà Nội chứ không phải là một địa danh Trung Quốc. Người Hà Nội hay đổ cho dân nhà quê nhập cư cái tội bất lịch sự, nhưng chắc không ít người từng được những bà chủ cửa hàng “Hà Nội gốc” trong khu vực phố cổ chửi té tát vào mặt vì xem hàng mà không mua, bị họ gọi chồng con ra đe dọa hành hung vì nhỡ đỗ xe ngoài đường trước cửa hàng.

Cá nhân tôi không ít lần chưng hửng khi định hỏi đường, nhưng vừa cất tiếng: "Chào bác, cho cháu hỏi...", người được hỏi đã quay mắt đi nơi khác và nói chuyện uốn tóc hay đi tập gym với bạn bè.

Không chỉ tự ru ngủ, chúng ta còn hợm hĩnh. Ừ, Hà Nội kém Paris, Tokyo, hay New York thì đương nhiên rồi nhưng so với Kuala Lumpur thì dứt khoát là không. Malaysia bất quá chỉ hơn Việt Nam đôi chút về kinh tế. Kuala Lumpur chắc chỉ hơn Hà Nội đôi chút về cơ sở hạ tầng, còn người dân thì chắc cũng như nhau, nếu không nói là còn kém chúng ta. Thế nhưng chuyến đi đã cho tôi một bài học nhớ đời.

Trước hết là đất nước Malaysia. Tôi không thấy có sự khác biệt đáng kể nào giữa Malaysia với Pháp, Anh hay Hoa Kỳ. Tôi đi ngang dọc đất nước từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha, rồi Hà Lan, rồi Anh, rồi Nhật này. Những xa lộ nườm nượp xe hơi không hề có giao cắt đồng mức. Những tòa nhà chọc trời ẩn sau tán lá xanh.

Rồi các trường đại học. Những giảng đường sạch sẽ bất kỳ trái tim sinh viên nào cũng phải run run xúc động. Tôi thầm so với những trường đại học nhếch nhác của chúng ta - nơi chỉ tòa nhà điều hành và mấy phòng làm việc là khang trang, còn các phòng học sơ sài và thư viện - bộ óc của trường đại học - nghèo nàn với mấy cuốn giáo trình cũ nát và thường đóng cửa sớm trước 4 giờ chiều để thủ thư kịp về đón con.
Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh Hồ hoàn kiếm
Nhưng lối sống của người Malaysia còn khiến tôi khâm phục hơn. Không hề có một ngôi nhà cơi nới hay xóm liều nào ở Kuala Lumpur. Không có một chiếc xe hơi nào vượt ẩu trên đường phố Kuala Lumpur. Không có người Mã Lai nào đái bậy hay vứt rác bên đường.

Ngồi trong xe, người bạn tôi, một công dân Malaysia gốc Trung Quốc, vô tình nhắc lại rằng năm 1957, khi Malaysia giành được độc lập, Kuala Lumpur không phải là một thành phố phát triển của Đông Nam Á. Anh nói rằng trong danh sách 4 thành phố phát triển nhất Đông Nam Á khi đó có Sài Gòn.

Ẩn dụ của chiếc đàn Gumboltz

Nhưng lối sống của người dân Kuala Lumpur có gì khác với lối sống của người dân Paris, hay dân New York? Có lẽ chẳng có gì khác, ngoài việc họ nói thứ tiếng khác, ăn các món ăn khác và có vài thứ đồ dùng hay trang phục khác - những thứ vừa không quan trọng lắm đối với lối sống vừa ngày càng bị xóa nhòa trong xu thế toàn cầu hóa văn hóa. Vậy người dân Kuala Lumpur có lối sống riêng hay không?

Câu hỏi khiến tôi nhớ đến một truyện ngắn rất thâm thúy của nhà văn Thụy Sĩ Otto Steiger. Quý ông nọ vào khách sạn, ngỏ ý muốn thuê phòng có két sắt để cất một cây đàn vĩ cầm. "Đây là chiếc Gumboltz" cuối cùng. Chủ khách sạn nói rằng không có két sắt to như vậy. "Rất tiếc, tôi đành phải tìm nơi khác. Tôi định ở chừng hai tháng".

Nghe vậy, giám đốc khách sạn vội vào thành phố thuê két sắt, còn ông khách và cây vĩ cầm lập tức trở nên nổi tiếng. Để được thưởng thức âm thanh của cây đàn Gumboltz, người ta tổ chức một bữa tiệc, mời ông khách và đề nghị mượn cây đàn để vị nhạc sĩ của thị trấn biểu diễn. "Cây đàn tốt lắm, nhưng âm thanh cũng không có gì đặc biệt" - ông nhạc sĩ nói.

"Dĩ nhiên - ông khách đáp - đây có phải đàn Xtrađivari đâu. Vấn đề là ở chỗ đàn Gumboltz chính cống không có điểm gì đặc biệt. Đó chính là đặc tính quý giá nhất của nó. Nếu như loại đàn này có một đặc điểm khác biệt nào đó thì người Ý đã làm giả được hàng trăm chiếc từ lâu rồi. Nhưng đàn Gumboltz thì không làm giả được".

Tôi nghĩ lối sống của các thành phố lớn cũng giống như cây đàn Gumboltz của Steiger. Vì thành phố là nơi hội tụ mọi xu hướng, mọi trào lưu, lối sống của dân cư thành phố phải là sự thể hiện những khế ước chung nhất của đời sống cộng đồng. Mặc dù các điều kiện khí hậu, văn hóa, tôn giáo có thể khiến lối sống của dân cư các thành phố trên thế giới khác nhau ít nhiều, lối sống lý tưởng của một thành phố phải là những nét chung chứ không phải là nét riêng.

Mặc dù chúng ta cần gìn giữ và quảng bá những nét độc đáo về văn hóa của các thành phố, nhưng điều quan trọng nhất trong lối sống của các đô thị lớn nói chung, của Hà Nội nói riêng, phải là không được có lối sống riêng.

Lối sống và những nhà quản lý

Lối sống của người Hà Nội đang bị xuống cấp nghiêm trọng, điều đó chẳng còn gì phải bàn cãi. Bản chất của sự xuống cấp đó không phải là ta đang đánh mất cái riêng trong lối sống của người Hà Nội xưa, mà là sự xa rời lối sống chung của các thành phố lớn. Ngày nay, lối sống của người Hà Nội có nhiều nét độc đáo nhất thế giới.

Chẳng hạn, chẳng có nơi nào người ta vứt rác, vứt xác chuột chết ra đường vô tư như chúng ta. Chẳng nơi nào người ta chửi nhau ngoài đường nhiều như chúng ta. Chẳng nơi nào người ta đục phá chung cư và chiếm đất công - kể cả đất trường học, chùa chiền, mồ mả hay công viên - một cách ngang nhiên như chúng ta. Danh sách này có thể kéo dài hàng chục trang báo.

Nhưng nguyên nhân ở đâu ra? Tôi xin trả lời ngay, đó là do lỗi của chính quyền. Lối sống, cũng như các thành tố khác của văn hóa, hình thành và gắn liền với một cộng đồng người. Tất cả các thành viên của cộng đồng, thông qua những hoạt động sống của mình, đều tham gia vào việc tạo nên lối sống. Tuy nhiên, các thành viên không có vai trò như nhau trong quá trình ấy.

Những thành viên có nhiều quyền lực hơn sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn đến lối sống. Nói cách khác, lối sống của Hà Nội phản ánh tình trạng quản lý thiển cận, manh mún, mang nặng tính tiểu nông hiện nay.

Để lý giải tình trạng ấy, tôi muốn nhắc lại luận điểm của nhà giáo dục học Marxist người Brazil Paulo Freire. Theo ông, tâm lý thông thường của những người bị trị khi đứng lên chống lại kẻ thống trị là được thay thế họ để thống trị, và như thế vẫn chỉ là nô lệ. Những hình thức thể hiện của tâm lý này có thể thấy khắp nơi.

Khi người nông dân bán đất ở ngoại thành trong cơn sốt đô thị hóa, họ thường dùng tiền mua sắm những đồ đạc giống đồ đạc của dân thành phố, xây những ngôi nhà hình ống giống nhà của người dân thành phố, mặc dù trên diện tích đất rộng rãi của mình, họ có thể chọn những kiểu nhà đẹp hơn và phù hợp hơn. Một ví dụ khác là người nông dân đi xe đạp thường thích đi vào dải đường dành cho xe cơ giới - lý do tâm lý sâu xa là muốn gia nhập vào tầng lớp trên.

Trong lĩnh vực chính trị, những người nông dân khi lật đổ kẻ thống trị và trở thành lãnh đạo thường vẫn mang đặc tính nông dân của mình vào việc quản lý. Hơn thế nữa, họ thường có xu hướng nhanh chóng bắt chước lối hưởng thụ đặc quyền của những kẻ từng thống trị mình. Một nhà lãnh đạo như vậy vẫn chưa thoát khỏi tâm lý của kẻ bị trị.

Một nhà cách mạng chân chính, theo Paulo Freire, phải hướng tới tự do chứ không phải quyền thống trị: khi quản lý, anh hay chị ta cần phải quản lý bằng những nguyên lý phổ quát chứ không phải dựa trên thói quen hay ý thích của mình.

Trở lại đề tài của chúng ta. Trước khi tự hào về lối sống thanh lịch của mình, Hà Nội và các thành phố của chúng ta cần phải được quản lý, lãnh đạo bằng những nguyên lý phổ quát, người dân Hà Nội và các thành phố Việt Nam cần phải sống như người dân của những thành phố văn minh khác.

Nhưng chính khi đó cũng là lúc chúng ta có thể tự hào về lối sống Hà Nội. Lối sống mà mọi người đều thấy mình trong đó - lối sống làm cho người Hà Nội, dù nói giọng Hà Nội, dù ăn phở Hà Nội hay gảy đàn bầu, vẫn gần gũi với tất cả mọi người trên thế giới.

Ngô Tự Lập

(An Ninh Thế Giới)