Lưu Trọng Văn - Chuyện "nghèo" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý...
Gã muốn im lặng, nhưng thấy báo chí và dân mạng ầm ĩ quá chuyện “nghèo” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, rồi những lời trách móc con gái của nhạc sĩ bỏ rơi nhạc sĩ trong cảnh túng quẫn, già nua, rồi nhạc sĩ nói muốn chết quách cho rồi… gã đành phải lên tiếng.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý chính là người bế ẵm gã từ tay bà mụ Lê thị Thịnh, khi gã chào đời. Và ông chính là người hát câu hát ru gã đầu tiên. Gã luôn kính trọng ông. Khi về già, ông thường điện thoại cho gã: Văn ơi có đi chơi đâu khỏi Sài Gòn thì rủ chú đi với. Gã từng rủ ông đi ….phượt ở nhiều vùng quê. Đi với ông sướng lắm vì ăn theo sự ngưỡng mộ của dân quê với ông.Được nghe ông hát Dư Âm, Một khúc tâm tình, Tấm áo mẹ vá năm xưa, Mẹ ru con, Dáng đứng Bến Tre… Và được ngóng tai, tròn mắt thấy ông trổ tài tán các bà các cô tươi xinh.
Ông hơn đứt nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi ở đôi lúm đồng tiền duyên và ánh mắt đa tình. Ông càng hơn đứt nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi vốn nổi tiếng là đẹp trai ấy ở chỗ ông chả vướng bận chức tước gì với đảng đóm gì nên cũng chả việc gì phải gồng mình giữ kẽ đạo đức. Vậy thì ông yêu lung tung xòe và được các bà các cô tỏ tình xòe lung tung là do Trời… “đày” chứ đâu phải lỗi của ông. Chả là giai thoại đâu, trong giới nhạc ai chả biết cứ sau mỗi khúc….tâm tình, với… đi mô với… dáng đứng là một cuộc tình.
Khi ông 80 tuổi, gã hỏi, chú thế nào, còn chiến đấu được không? Ông cười rõ roi rói: Phụ thuộc đối tác còn nước nôi hay không.
Ông không hề giấu gã về các cuộc tình vụng trộm đẩu đâu. Nói chung đã là nhạc sĩ thì luôn đồng nghĩa với đa tình , luôn đồng nghĩa với ngoại…tình. Gã nói vậy, gã thách có bác nhạc sĩ nào dám tuyên bố rằng, thằng Văn mày đừng có đặt điều, tao đây không đa tình, không ngoại tình. He, he, gã nghĩ rồi, người có thể chửi gã là bố láo chắc chỉ có nhạc sĩ Lưu Hữu Phước mà thôi.
Các cuộc tình không để lại hậu quả, mà chỉ để lại các chiến quả thì các bác nhạc sĩ thường khoe. Và các bà vợ, con cái thường dễ dàng tha thứ cho các bác ấy vì lí do…lấy cảm hứng sáng tác.
Nhưng các cuộc tình không có chiến quả là bài hát để đời nào mà chỉ có hậu quả làm phức tạp và rắc rối các mối quan hệ gia đình thì các bà vợ và con cái của họ khó mà cho qua.
Nói gần nói xa là rứa.
Là rứa, xung khắc bố con chú Tý của gã.
Là rứa, bố muốn con hiểu bố, cảm thông với bố, chia sẻ gánh nặng cho bố, con không chịu, vậy thì: Con bị mang tiếng là bỏ rơi bố.
Gã chứng kiến Linh, con gái rượu của chú Tý, lo cho bố thế nào, chăm sóc từng miếng ăn, bước đi, giấc ngủ cho bố ra sao. Linh cứ nhắc đến bố là ứa nước mắt. Hôm ấy Linh bảo gã đến nhà Linh. Gã bất ngờ thấy một căn phòng rất đẹp nhìn ra vườn cây. Anh vào đi, chú ở trong ấy. Linh tỏ ra rất vui khi bố về ở với mình. Nhưng khi chỉ có gã và chú Tý, chú lại rơm rớm nước mắt. Chú bảo, con Linh nó thương chú nhưng nó không hiểu chú cháu à. Chú chỉ muốn ở đằng kia.
Và rồi chỉ ở vài hôm căn phòng đầy đủ tiện nghi và sự chăm sóc tận tình của con gái, cô con gái mà nhạc sĩ từng viết nên ca khúc tuyệt diệu, ru con, me ru con à ới ru hời, miệng con chúm chím…,ông nhạc sĩ bỏ đi.
Ông về lại cái mà ông gọi là ổ chuột nhưng với ông chính là tổ ấm của ông.
Chuyện bắt đầu từ vợ của chú- cô Lê, em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương qua Đức ở với Linh, khi đi cô nhờ cháu gái của cô cũng tên Thương chăm sóc cơm nước cho chú Tý. Và rồi, chuyện gì xảy ra…
Chú Tý có lần nói với gã, đó là lỗi do cô, sao cô lại bỏ chú qua Đức để chú ở một mình? Khi cô Lê cùng Linh từ Đức trở về, biết sự tình, cô đã im lặng và sống riêng với Linh cho đến khi cô qua đời. Gã biết cô tuy cứ cười cười nhưng trong lòng thì đớn đau lắm.
Thương là người phụ nữ mê thơ, âm nhạc và dân ca Quảng. Thương chăm sóc hết mình cho chú… Tý. Chú Tý nói với gã, chú đau yếu, bệnh tật, già nua, chú phải luôn biết ơn Thương và con gái của Thương đã hết mình chăm sóc chú. Đấy là cái tình và tình thương. Gia đình của Thương rất nghèo khó, con cái cũng nghèo khó…
Chú Tý có lần khóc với gã: người ta lo cho mình, thương mình làm sao mình bỏ người ta được cháu ơi!
Còn Linh nói với gã trong nước mắt: bao nhiêu tiền bố em cho người ta cả chứ có tiêu pha gì cho mình đâu. Làm sao một ông già có thể gánh cả gánh nặng như thế. Đã thế lại còn cháu của người ta nữa…Em làm sao có thể chấp nhận được điều ấy. Xót quá anh à. Xót đứt ruột anh à.
Gã đến nhà chú Tý thấy một thằng bé rất dễ thương, rất đẹp trai, đó là con trai của con gái của Thương, tức là cháu ngoại của Thương. Gã hỏi bố của bé là ai, chú Tý bảo, không biết. Chú ôm đứa bé, bế đứa bé, gã cảm nhận từng ánh mắt của chú thật kì lạ, cứ sáng rực lên. Chú bảo với gã, đi đâu một lúc nhớ thằng bé không chịu được.
Tình. Tình thương. Thế thôi. Bi kịch từ đó mà ra. Bi kịch của những người tử tế.
Bây giờ thì ai đó đã phần nào hiểu được và tha thứ cho người nhạc sĩ, cho con gái nhạc sĩ, cho cả gia đình người đàn bà lam lũ nhiều năm nay sống, chịu muôn tủi cực, chua xót miệng lưỡi thế gian hiện đang sống cùng nhạc sĩ.
Than!
Chú Tý nói với gã, chú gần đất xa trời rồi, chú cần gì cho chú nữa đâu cháu ơi, chú chỉ lo chú chết đi thì gia đình của Thương sẽ sống ra sao, thằng bé mà chú rất yêu nó, bao năm sống bên chú sẽ ra sao?
Than. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đâu có than cho ông. Ông hiểu đoạn cuối cuộc hành trình của mình ông chỉ còn vũ khí duy nhất là…than thôi. Ông đâu còn quyền lực và vũ khí nào khác nữa đâu.
Có lần gã hỏi ông, nếu một ngày nào đó chú ra đi, thì điều mong ước cuối cùng để lại là gì?
Ông khóc và bảo: Mọi người hãy hiểu cho chú và tha thứ cho chú.
Lúc này trong gã chỉ còn vang lên khúc ca ấy, dư âm của Dư âm:
Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ
Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ
Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn gió
Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời…
Và:
Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió
Đưa anh tới cõi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên nàng.
Lưu Trọng Văn
(FB Lưu Trọng Văn)
16 tháng 7, 2017
15 tháng 7, 2017
Câu chuyện này hay đây
Đại kỳ án thế kỷ kiện Nhà nước Việt Nam ra Tòa Trọng tài Quốc tế sắp diễn ra tại Paris
Phía Chính phủ Việt Nam đã trả 15 triệu Mỹ kim cho ông Bình, nhưng rất chậm, mãi đến năm 2014 mới xong. Ông Bình không đòi tiền lời từ năm 2005 đến 2014. Việt Nam xóa hình phạt tù của ông Bình và cho ông được trở lại Việt Nam.
Ông Trịnh Vĩnh Bình. |
Tóm tắt vụ án
Ông Trịnh Vĩnh Bình sinh 1947, vượt biên tới Hòa Lan năm 1976. Ông bán chả giò, và món ăn Việt rất thành công nên có biệt danh "Vua Chả Giò".
Năm 1986, Đại hội ĐCS VN lần VI, mở cửa kêu gọi Việt kiều về làm giàu cho quê hương. Năm 1987, ông Bình đem bốn triệu Mỹ kim về Việt Nam đầu tư. Ông mua đất để xây dựng nhà xưởng. Ở thời điểm này, Việt Nam chưa cho phép Việt kiều đứng tên nhà đất. Ông phải nhờ người thân ở Việt Nam đứng tên giúp.
Ông Bình mua 284 ha đất, mở hai cơ sở sản xuất, 11 căn nhà ở Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai và Sài Gòn nâng tổng số tài sản lên gấp gần 8 lần số vốn ban đầu. Ông Bình sở hữu khoảng trên 30 triệu Mỹ Kim tại Việt Nam.
Thấy tài sản của ông quá lớn, Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho công an bắt ông Bình, khởi tố hai tội: "Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai"; và "Đưa hối lộ".
Năm 1998, Tòa án tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử sơ thẩm và tuyên phạt ông Bình 13 năm tù. Ông kháng án lên Tòa Phúc thẩm. Tòa Tối cao tại Sài Gòn xử giảm xuống 11 năm tù.
Ông Bình cùng các luật sư cãi về tội “Vi phạm các quy định quản lý và bảo vệ đất đai”: Không có quy định, hay điều luật nào cấm “nhờ người thân đứng tên giúp”. Tội thứ hai “Đưa hối lộ”: Cả Tòa tỉnh và cả Tòa Tối cao đều không đưa ra được bằng chứng ai là người nhận hối lộ.
Tuy vậy, ông Bình vẫn bị bị tống vào tù. Toàn bộ tài sản, bất động sản của ông tịch thu.
Ông Bình ra khỏi nhà tù sớm hơn hạn định và quyết định vượt biên lần hai bằng đường bộ, xuyên rừng Campuchia về lại Hòa Lan.
Cam kết Singapore
Tại Hòa Lan năm 2003, ông Bình đâm đơn kiện Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Stockholm, Thụy điển, đòi bồi thường 100 triệu USD vào năm 2005.
Ông Bình viện dẫn các quy định của Hiệp định “Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư” mà Việt Nam và Hòa Lan đã ký kết vào năm 1994. Phiên tòa Quốc tế ấn định vào tháng 12/2006 tại Stockholm , Thụy Điển.
Chính quyền Việt Nam ngửi thấy mùi thất bại nên chọn phương pháp dàn xếp ngoài tòa. Việt Nam thương lượng với ông Bình để ký một “Cam kết” tại Singapore vào tháng 9/2006.
Nội dung Cam kết Singapore
Về phía Nhà nước Việt Nam cam kết: 1) Bồi thường cho ông Trịnh Vĩnh Bình 15 triệu Mỹ kim. 2) Việt Nam trả lại ông Bình toàn bộ tài sản đã tịch thu, việc trao trả này phải hoàn tất chậm nhất vào cuối năm 2012. 3) Phía Việt Nam cho ông Trịnh Vĩnh Bình ra vào Việt Nam tự do, và xóa án cho ông.
Về phía ông Trịnh Vĩnh Bình phải: 1) Rút đơn kiện khỏi Tòa Quốc tế ở Stockholm, Thụy Điển. 2) Không được tiết lộ nội dung Cam kết Singapore với truyền thông.
Bản Cam kết này có sự chứng kiến của Trung tâm Trọng tài Thương mại Stockholm, Văn phòng Thừa phát, cùng luật sư của cả hai bên.
Hậu Cam kết Singapore
Phía ông Bình đã giữ im lặng; không tiết lộ nội dung “Cam kết” để giữ uy tín, thể diện cho chính quyền Việt Nam.
Phía Chính phủ Việt Nam đã trả 15 triệu Mỹ kim cho ông Bình, nhưng rất chậm, mãi đến năm 2014 mới xong. Ông Bình không đòi tiền lời từ năm 2005 đến 2014. Việt Nam xóa hình phạt tù của ông Bình và cho ông được trở lại Việt Nam. Tuy vậy, toàn bộ tài sản, bất động sản gồm: hai xưởng sản xuất với diện tích gần 40.000 m2; chín căn nhà và đất; đoàn xe vận tải 12 chiếc; căn nhà 86 m2 măt tiền trên diện tích đất hơn 2.000 m2 ở đường Trần Phú, Vũng Tàu cùng nhiều bất động sản ở các tỉnh thành khác thì chưa hoàn trả.
Lại đâm đơn kiện CHXHCN Việt Nam
Ông Bình xét thấy “Cam kết Singapore” bị phản bội. Ông Bình quyết định đâm đơn kiện Nhà nước Việt Nam ra Tòa Trọng tài Quốc tế The Hague tại Hòa Lan.
Ông Bình nộp đơn kiện vào tháng 1/2015. Đến ngày 30/4/2015, Tòa Quốc Tế đã chính thức thông báo đến Nhà nước Việt Nam về nội dung vụ kiện.
Bên nguyên đơn, ông Bình, quốc tịch Hòa Lan, đã mướn Tổ hợp luật Covington & Burling của Mỹ.
Bị đơn là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thuê hãng luật nổi tiếng của Pháp. Tin đồn rằng những luật sư trong hãng này đều là bạn học với Cù Huy Hà Vũ.
Mọi chuyện đã vỡ lở. Việt Nam đã ký kết rất nhiều Hiệp ước Thương mại và Đầu tư với Âu châu và Hòa Lan. Việt Nam không thể giấu giếm hay ém nhẹm.
Phiên xét xử dự kiến kéo dài mười ngày, bắt đầu từ 21 tháng 8 năm 2017. Ai thắng ai, hậu kỳ án và thi hành án sẽ là những là những đề tài vô tận cho các nhà bình loạn khai thác.
Báo Quân Đội Nhân Dân, Nhân Dân, cùng giàn báo chí quốc doanh chưa thấy lên tiếng tố cáo các “thế lực thù địch”, “bọn phản động” tiếp tay... phá hoại CHXHCN Việt Nam.
Thứ Năm ngày 13 tháng Bảy năm 2017
Trần Sông Hồng
TTHNO
THÂN PHẬN ĐÀN ÔNG
( Nhái bài thơ Hai sắc hoa tigon Của T.T.K.H)
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Tới tháng lĩnh lương mới hết hồn
Bạn rủ đi chơi, nào có dám
Tôi chờ người tới để ...giao lương
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Xấp tiền lương mỏng, hỏi lung tung:
Rằng lương sao có bao nhiêu đấy?
Chắc “diếm” bớt rồi, phải thế không?
Xấp tiền lương mỏng, hỏi lung tung:
Rằng lương sao có bao nhiêu đấy?
Chắc “diếm” bớt rồi, phải thế không?
Người ấy thường hay móc bóp tôi
Khảo tiền mỗi lúc bóp tôi vơi
Bảo rằng tôi móc còn hơn để…
“ghệ” móc tiền ông, mới khổ đời
Bảo rằng tôi móc còn hơn để…
“ghệ” móc tiền ông, mới khổ đời
Thuở ấy nào tôi đã biết gì:
Trẻ người, non dạ quá ngu si
Bao nhiêu tiền bạc, tôi “dâng” hết…
Chẳng giữ cho mình được…tí ti
Trẻ người, non dạ quá ngu si
Bao nhiêu tiền bạc, tôi “dâng” hết…
Chẳng giữ cho mình được…tí ti
Đâu biết tiền đưa bả tháng này
Là tiền dành dụm bấy lâu nay
Bao nhiêu tiền mặt, “người” chôm hết
Biết lấy gì vui với bạn đây?
Là tiền dành dụm bấy lâu nay
Bao nhiêu tiền mặt, “người” chôm hết
Biết lấy gì vui với bạn đây?
Từ đấy thu, rồi thu, lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
“Người kia” đã biết tôi vơi túi
“người ấy” cho nên vẫn hững hờ
“Người kia” đã biết tôi vơi túi
“người ấy” cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi…bên cạnh một người
Dữ như sư tử của lòng tôi
Và từng thu chết, từng thu chết
Vẫn sợ “vợ” hơn cả…sợ trời
Dữ như sư tử của lòng tôi
Và từng thu chết, từng thu chết
Vẫn sợ “vợ” hơn cả…sợ trời

Buồn quá, hôm nay xem lại túi
Chỉ còn tiền lẻ để…ăn xôi
Bao nhiêu tiền chẵn, người gom hết
Chỉ tặng cho tôi…một nụ cười
Bao nhiêu tiền chẵn, người gom hết
Chỉ tặng cho tôi…một nụ cười
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi.
Đưa tiền người giữ khỏi lôi thôi
Đến nay, tôi hiểu thì tôi đã…
Làm lỡ đời trai, muộn mất rồi
Đưa tiền người giữ khỏi lôi thôi
Đến nay, tôi hiểu thì tôi đã…
Làm lỡ đời trai, muộn mất rồi
Theo Blog Kim Dung
HAI SẮC HOA TIGON
T.T.KH
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”.
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
Huyền thoại về lối sống người Hà Nội
Ảnh: Nguyễn Hoàng Lâm. |
Nỗi buồn ở Kuala Lumpur
Chuyến công tác của tôi tới Kuala Lumpur đầu tiên vào năm 2006 gieo vào lòng tôi một nỗi buồn sâu thẳm. Là người sinh ra tại Hà Nội và yêu Hà Nội, chuyến đi, nói đúng hơn là vẻ đẹp của người và cảnh Kuala Lumpur, không lòng tự tôn dân tộc của tôi bị tổn thương nghiêm trọng. Nói nặng lời, đối với tôi, đó là một sự sỉ nhục âm thầm.
Giống như rất nhiều người dân Hà Nội hoặc ngạo mạn vô lối hoặc tăm tối u mê, tôi không thể ngờ được vẻ đẹp ấy. Tôi đã đi rất nhiều nơi trên thế giới, đã gặp đủ mọi loại người. Tôi biết Hà Nội còn xấu xí, bẩn thỉu và lộn xộn, tôi biết rằng người Hà Nội thô tục hơn nhiều so với người Mỹ, người Âu hay người Nhật.
Nhưng tôi, cũng như rất nhiều người khác vẫn tự ru ngủ với cái huyền thoại về nét thanh lịch của người Hà Nội qua câu ca dao "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".
Tự ru ngủ mặc dù không rõ từ bao giờ và tại sao Tràng An lại được cho là Hà Nội chứ không phải là một địa danh Trung Quốc. Người Hà Nội hay đổ cho dân nhà quê nhập cư cái tội bất lịch sự, nhưng chắc không ít người từng được những bà chủ cửa hàng “Hà Nội gốc” trong khu vực phố cổ chửi té tát vào mặt vì xem hàng mà không mua, bị họ gọi chồng con ra đe dọa hành hung vì nhỡ đỗ xe ngoài đường trước cửa hàng.
Cá nhân tôi không ít lần chưng hửng khi định hỏi đường, nhưng vừa cất tiếng: "Chào bác, cho cháu hỏi...", người được hỏi đã quay mắt đi nơi khác và nói chuyện uốn tóc hay đi tập gym với bạn bè.
Không chỉ tự ru ngủ, chúng ta còn hợm hĩnh. Ừ, Hà Nội kém Paris, Tokyo, hay New York thì đương nhiên rồi nhưng so với Kuala Lumpur thì dứt khoát là không. Malaysia bất quá chỉ hơn Việt Nam đôi chút về kinh tế. Kuala Lumpur chắc chỉ hơn Hà Nội đôi chút về cơ sở hạ tầng, còn người dân thì chắc cũng như nhau, nếu không nói là còn kém chúng ta. Thế nhưng chuyến đi đã cho tôi một bài học nhớ đời.
Trước hết là đất nước Malaysia. Tôi không thấy có sự khác biệt đáng kể nào giữa Malaysia với Pháp, Anh hay Hoa Kỳ. Tôi đi ngang dọc đất nước từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha, rồi Hà Lan, rồi Anh, rồi Nhật này. Những xa lộ nườm nượp xe hơi không hề có giao cắt đồng mức. Những tòa nhà chọc trời ẩn sau tán lá xanh.
Rồi các trường đại học. Những giảng đường sạch sẽ bất kỳ trái tim sinh viên nào cũng phải run run xúc động. Tôi thầm so với những trường đại học nhếch nhác của chúng ta - nơi chỉ tòa nhà điều hành và mấy phòng làm việc là khang trang, còn các phòng học sơ sài và thư viện - bộ óc của trường đại học - nghèo nàn với mấy cuốn giáo trình cũ nát và thường đóng cửa sớm trước 4 giờ chiều để thủ thư kịp về đón con.
Nhưng lối sống của người Malaysia còn khiến tôi khâm phục hơn. Không hề có một ngôi nhà cơi nới hay xóm liều nào ở Kuala Lumpur. Không có một chiếc xe hơi nào vượt ẩu trên đường phố Kuala Lumpur. Không có người Mã Lai nào đái bậy hay vứt rác bên đường.
Ngồi trong xe, người bạn tôi, một công dân Malaysia gốc Trung Quốc, vô tình nhắc lại rằng năm 1957, khi Malaysia giành được độc lập, Kuala Lumpur không phải là một thành phố phát triển của Đông Nam Á. Anh nói rằng trong danh sách 4 thành phố phát triển nhất Đông Nam Á khi đó có Sài Gòn.
Ẩn dụ của chiếc đàn Gumboltz
Nhưng lối sống của người dân Kuala Lumpur có gì khác với lối sống của người dân Paris, hay dân New York? Có lẽ chẳng có gì khác, ngoài việc họ nói thứ tiếng khác, ăn các món ăn khác và có vài thứ đồ dùng hay trang phục khác - những thứ vừa không quan trọng lắm đối với lối sống vừa ngày càng bị xóa nhòa trong xu thế toàn cầu hóa văn hóa. Vậy người dân Kuala Lumpur có lối sống riêng hay không?
Câu hỏi khiến tôi nhớ đến một truyện ngắn rất thâm thúy của nhà văn Thụy Sĩ Otto Steiger. Quý ông nọ vào khách sạn, ngỏ ý muốn thuê phòng có két sắt để cất một cây đàn vĩ cầm. "Đây là chiếc Gumboltz" cuối cùng. Chủ khách sạn nói rằng không có két sắt to như vậy. "Rất tiếc, tôi đành phải tìm nơi khác. Tôi định ở chừng hai tháng".
Nghe vậy, giám đốc khách sạn vội vào thành phố thuê két sắt, còn ông khách và cây vĩ cầm lập tức trở nên nổi tiếng. Để được thưởng thức âm thanh của cây đàn Gumboltz, người ta tổ chức một bữa tiệc, mời ông khách và đề nghị mượn cây đàn để vị nhạc sĩ của thị trấn biểu diễn. "Cây đàn tốt lắm, nhưng âm thanh cũng không có gì đặc biệt" - ông nhạc sĩ nói.
"Dĩ nhiên - ông khách đáp - đây có phải đàn Xtrađivari đâu. Vấn đề là ở chỗ đàn Gumboltz chính cống không có điểm gì đặc biệt. Đó chính là đặc tính quý giá nhất của nó. Nếu như loại đàn này có một đặc điểm khác biệt nào đó thì người Ý đã làm giả được hàng trăm chiếc từ lâu rồi. Nhưng đàn Gumboltz thì không làm giả được".
Tôi nghĩ lối sống của các thành phố lớn cũng giống như cây đàn Gumboltz của Steiger. Vì thành phố là nơi hội tụ mọi xu hướng, mọi trào lưu, lối sống của dân cư thành phố phải là sự thể hiện những khế ước chung nhất của đời sống cộng đồng. Mặc dù các điều kiện khí hậu, văn hóa, tôn giáo có thể khiến lối sống của dân cư các thành phố trên thế giới khác nhau ít nhiều, lối sống lý tưởng của một thành phố phải là những nét chung chứ không phải là nét riêng.
Mặc dù chúng ta cần gìn giữ và quảng bá những nét độc đáo về văn hóa của các thành phố, nhưng điều quan trọng nhất trong lối sống của các đô thị lớn nói chung, của Hà Nội nói riêng, phải là không được có lối sống riêng.
Lối sống và những nhà quản lý
Lối sống của người Hà Nội đang bị xuống cấp nghiêm trọng, điều đó chẳng còn gì phải bàn cãi. Bản chất của sự xuống cấp đó không phải là ta đang đánh mất cái riêng trong lối sống của người Hà Nội xưa, mà là sự xa rời lối sống chung của các thành phố lớn. Ngày nay, lối sống của người Hà Nội có nhiều nét độc đáo nhất thế giới.
Chẳng hạn, chẳng có nơi nào người ta vứt rác, vứt xác chuột chết ra đường vô tư như chúng ta. Chẳng nơi nào người ta chửi nhau ngoài đường nhiều như chúng ta. Chẳng nơi nào người ta đục phá chung cư và chiếm đất công - kể cả đất trường học, chùa chiền, mồ mả hay công viên - một cách ngang nhiên như chúng ta. Danh sách này có thể kéo dài hàng chục trang báo.
Nhưng nguyên nhân ở đâu ra? Tôi xin trả lời ngay, đó là do lỗi của chính quyền. Lối sống, cũng như các thành tố khác của văn hóa, hình thành và gắn liền với một cộng đồng người. Tất cả các thành viên của cộng đồng, thông qua những hoạt động sống của mình, đều tham gia vào việc tạo nên lối sống. Tuy nhiên, các thành viên không có vai trò như nhau trong quá trình ấy.
Những thành viên có nhiều quyền lực hơn sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn đến lối sống. Nói cách khác, lối sống của Hà Nội phản ánh tình trạng quản lý thiển cận, manh mún, mang nặng tính tiểu nông hiện nay.
Để lý giải tình trạng ấy, tôi muốn nhắc lại luận điểm của nhà giáo dục học Marxist người Brazil Paulo Freire. Theo ông, tâm lý thông thường của những người bị trị khi đứng lên chống lại kẻ thống trị là được thay thế họ để thống trị, và như thế vẫn chỉ là nô lệ. Những hình thức thể hiện của tâm lý này có thể thấy khắp nơi.
Khi người nông dân bán đất ở ngoại thành trong cơn sốt đô thị hóa, họ thường dùng tiền mua sắm những đồ đạc giống đồ đạc của dân thành phố, xây những ngôi nhà hình ống giống nhà của người dân thành phố, mặc dù trên diện tích đất rộng rãi của mình, họ có thể chọn những kiểu nhà đẹp hơn và phù hợp hơn. Một ví dụ khác là người nông dân đi xe đạp thường thích đi vào dải đường dành cho xe cơ giới - lý do tâm lý sâu xa là muốn gia nhập vào tầng lớp trên.
Trong lĩnh vực chính trị, những người nông dân khi lật đổ kẻ thống trị và trở thành lãnh đạo thường vẫn mang đặc tính nông dân của mình vào việc quản lý. Hơn thế nữa, họ thường có xu hướng nhanh chóng bắt chước lối hưởng thụ đặc quyền của những kẻ từng thống trị mình. Một nhà lãnh đạo như vậy vẫn chưa thoát khỏi tâm lý của kẻ bị trị.
Một nhà cách mạng chân chính, theo Paulo Freire, phải hướng tới tự do chứ không phải quyền thống trị: khi quản lý, anh hay chị ta cần phải quản lý bằng những nguyên lý phổ quát chứ không phải dựa trên thói quen hay ý thích của mình.
Trở lại đề tài của chúng ta. Trước khi tự hào về lối sống thanh lịch của mình, Hà Nội và các thành phố của chúng ta cần phải được quản lý, lãnh đạo bằng những nguyên lý phổ quát, người dân Hà Nội và các thành phố Việt Nam cần phải sống như người dân của những thành phố văn minh khác.
Nhưng chính khi đó cũng là lúc chúng ta có thể tự hào về lối sống Hà Nội. Lối sống mà mọi người đều thấy mình trong đó - lối sống làm cho người Hà Nội, dù nói giọng Hà Nội, dù ăn phở Hà Nội hay gảy đàn bầu, vẫn gần gũi với tất cả mọi người trên thế giới.
Ngô Tự Lập
(An Ninh Thế Giới)
11 tháng 7, 2017
Tổng cục II và vụ án Trịnh Vĩnh Bình
Đàn Chim Việt: Vụ án Trịnh Vĩnh Bình lại tiếp tục được khởi động trở lại tại Tòa án Quốc tế vào ngày 21 tháng 8 tới đây tại Paris hứa hẹn nhiều kịch tính, Dân Luận xin được giới thiệu tới bạn đọc một bài viết cách đây đã 12 năm được phổ biến trên trang Đàn Chim Việt để mọi người có thêm một góc nhìn về vai trò của Tổng cục II trong vụ án Kinh Tế này, từ vụ kiện 100,000,000 USD năm xưa giờ đã lên tới 1 tỉ USD, theo ông Trịnh Vĩnh Bình, vụ án này nếu thắng, có thể nó sẽ trở thành một tiền lệ cho các vụ án của hàng trăm ngàn người tù cải tạo bị bắt oan sai, bị lừa dối đi tập trung 10 ngày biến thành hàng chục năm tù trong các trại cải tạo khắc nghiệt.
Doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình.
Gần đây [2005], việc ông Trịnh Vĩnh Bình thưa kiện Chính phủ Việt Nam ra một Tòa án Quốc tế đã làm xôn xao dư luận ở Hải ngoại. Vụ kiện này là một vụ án chưa từng có trong lịch sử Việt Nam và có rất nhiều ý nghĩa khác nhau, đặc biệt là số tiền bồi thường quá lớn đối với một đất nước nghèo khó như Việt Nam:
100,000,000 USD.
Thật ra, trong những cuộc họp giao ban của khối an ninh vào khoảng cuối năm 2002 thì người ta đã phổ biến thông tin rằng ông Trịnh Vĩnh Bình đang tìm cách thưa kiện Chính phủ Việt Nam rồi. Song, vì thái độ vô trách nhiệm, coi thường pháp luật, coi thường dư luận quốc tế, cộng với sự chủ quan, lúng túng của bộ máy an ninh, của lãnh đạo cộng sản nên họ đã để sự việc diễn biến đến nghiêm trọng như ngày hôm nay. Tuy nhiên, điều đáng buồn là dư luận trong nước lại rất ít người biết đến vụ việc này, do sự chỉ đạo bưng bít thông tin của Ban Tư tưởng Văn hóa, Ðảng Cộng Sản Việt Nam, mới chỉ có hai, ba tờ báo là “dám” nhắc đến vụ án này một cách “qua quít”, sao chép giống hệt nhau, cùng với mấy ông luật sư trả lời một cách “không có đầu, không có cuối”.
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam, mà tất nhiên là do Ðảng Cộng Sản cầm quyền lãnh đạo, đã rất lo ngại vụ việc này bị phanh phui như một vụ án nghiêm trọng và đặc biệt điển hình để tố cáo chế độ cộng sản ở nhiều mặt khác nhau. Với Quốc tế và giới doanh nhân (xin nhấn mạnh ở đây là giới doanh nhân nói chung, ở cả trong và ngoài nước chứ không riêng gì Việt kiều hay doanh nghiệp nước ngoài như một số bài báo nêu ra, vì ở Việt Nam chưa hề có “một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp” như lời mời gọi của giới lãnh đạo cộng sản vẫn hô hào, bất kể doanh nghiệp nào không phải là doanh nghiệp nhà nước (là “con bò sữa”, là chỗ làm tiền và rửa tiền của Mafia cộng sản) đều gặp phải rất nhiều rắc rối do chính quyền gây ra) đây là một vụ án điển hình nhất được tố cáo và sẽ đưa ra xét xử công khai trước Quốc tế, sẽ là một bằng chứng sống động nhất cho Thế giới biết đến sự cưỡng bức trắng trợn, sự bất chấp luật pháp, vi phạm nhân quyền của bộ máy an ninh cộng sản, chính quyền cộng sản. Ðặc biệt đây là một sự kiện hi hữu, không thể lý giải được: Một tội phạm đào thoát đang chịu hình phạt bị kết án 11 năm tù - có nghĩa là một kẻ đang bị một chính phủ truy nã - lại dám công khai đứng ra kiện chính phủ đó trước Tòa án Quốc tế. Nhưng quan trọng hơn là đối với số đông quần chúng nhân dân, chính quyền cộng sản đang rất lo sợ dư luận nhân dân sẽ biết rõ sự việc này, và đặc biệt nếu chính phủ Việt Nam sẽ bị xử thua ở phiên tòa năm sau thì vụ án này sẽ gây ra một sự bất bình lớn trong dân chúng, nếu toàn bộ sự thật được phơi bày có thể sẽ gây ra một làn sóng phản ứng mạnh mẽ mà sẽ khó đoán trước được hậu quả như thế nào.
Sau khi đã đọc và nghe kỹ hầu hết các bài viết và phỏng vấn ở Hải ngoại có liên quan đến vụ án, tôi xin gửi đến quý độc giả (thính giả) và đặc biệt là ông Trịnh Vĩnh Bình thêm một số chi tiết mà tôi khẳng định là yếu tố quyết định vụ án. Với cương vị là một người trong cuộc, tôi xin đảm bảo rằng những thông tin mình đưa ra là chính xác 100% (điều này hy vọng sẽ được ông Trịnh Vĩnh Bình xác nhận), đồng thời cũng cung cấp thêm một số thông tin mà có thể do ở một góc độ khác ông Trịnh Vĩnh Bình không được biết, hoặc vì một vài lí do nào đó mà ông Trịnh Vĩnh Bình đã không tiết lộ, với mục đích làm rõ hơn những ẩn khuất trong vụ án này và để dư luận trong ngoài nước sẽ được biết đến, quan tâm đến vụ án này hơn nữa; qua đó quần chúng nhân dân, đồng bào Việt Nam ở Hải ngoại và trong nước sẽ cùng lên tiếng tố cáo những bất công, bưng bít, vi phạm pháp luật, vi phạm nhân quyền của chế độ Cộng Sản Việt Nam.
Cần trở lại vụ án Công ty cổ phần Bình Châu (cũng gọi là vụ án Bình - Hà Lan) ở những năm 1998-1999, đã được báo chí Việt Nam viết đến rất nhiều, cũng không ít bài báo viết có sự phân tích, mổ xẻ về tính pháp lý của vụ án, bênh vực “bị cáo” Trịnh Vĩnh Bình. Do có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau nên vụ án được dư luận trong nước quan tâm nhiều. Thế nhưng, sự quan tâm đấy cũng chỉ đơn thuần coi như một vụ án kinh tế, có “dính dáng” đến Việt kiều, đến đầu tư nước ngoài. Rất ít ai được biết đến vụ án là đã có những yếu tố chính trị, thậm chí cái yếu tố ấy đã có tính quyết định toàn bộ vụ án. Về nội dung này tôi không nghĩ là ông Trịnh Vĩnh Bình đã không hề biết gì. Gần đây, khi trả lời phỏng vấn báo chí ông Trịnh Vĩnh Bình cũng đã không cung cấp thêm thông tin gì mới hơn, có thể ông cần phải giữ thái độ thận trọng cần thiết, cũng có thể ông chưa được biết chính xác. Tôi xin công khai chi tiết này dưới đây, để độc giả có thể hiểu được bản chất của sự việc và qua đó các bên liên quan sẽ tìm ra những phương pháp hành sử tốt nhất trong những công việc tiếp theo của vụ án mà ông Trịnh Vĩnh Bình đang theo kiện chính phủ Việt Nam.
Những nguyên nhân chính mà ông Trịnh Vĩnh Bình đưa ra (cũng đã được ông Trọng Kim, chủ bút tờ báo Ngày Nay ở Houston, Texas - Hoa Kỳ cho biết thêm) là do ông Bình đã có một sự đối đầu với cơ quan công an tỉnh Bà rịa - Vũng tàu, cụ thể là ông Ngô Chí Ðan, trưởng phòng an ninh điều tra (PA24) và ông Phạm Văn Phương - anh vợ ông Ngô Chí Ðan - chức danh phó Tổng giám đốc công ty liên doanh Vicarent.
Sự việc này cần phải diễn giải chi tiết thêm thì độc giả mới có thể hình dung được. Tại địa phương tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì gần như ai ai cũng đều biết đến ông Ngô Chí Ðan, với cương vị trưởng phòng an ninh điều tra, phó thủ trưởng cơ quan điều tra liên tục mười mấy năm liền, và là một con người khét tiếng với các vụ án quan trọng. Thế nhưng còn nổi tiếng và “tài ba” hơn nhiều lại chính là ông Phạm Văn Phương, anh vợ của Ngô Chí Ðan, với những quan hệ mà những người dân thường chỉ nghe thấy thôi cũng đã phải “rùng mình”, từ Tổng bí thư (xin nói rõ là Tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải bí thư xã, bí thư huyện nhé) đến Thủ tướng, phó Thủ tướng Chính phủ, còn cỡ như Bộ trưởng, Thứ trưởng thì ông Phương có thể quen biết vài chục vị. Chỉ qua việc ông ta đã từng hạ “nốc ao” cả Chủ tịch tỉnh và đưa một vị khác lên thay chức chủ tịch tỉnh, rồi vào ủy viên Trung ương Ðảng Cộng Sản là đủ biết uy lực của ông Phương lớn đến thế nào (riêng sự việc này tôi xin gửi thông tin đến độc giả ở một bài viết khác). Thế nhưng, sau này chính anh em ông Ngô Chí Ðan và Phạm Văn Phương cũng lại phải ra hầu Tòa trong một vụ án khác, mà ông Ngô Chí Ðan đã bị kỷ luật, tước danh hiệu công an, Phạm Văn Phương thì chịu bản án 27 năm tù giam. Thật ra, trong vụ án đó anh em ông Phương, ông Ðan cũng chỉ là con mồi của bộ máy an ninh cộng sản, con mồi của chính cái bẫy mà mình đã giăng ra, và tôi cũng xin khẳng định rằng vụ án đó cũng lại chính là hệ lụy của vụ án Trịnh Vĩnh Bình mà chúng ta đang nói đến hôm nay, vì lí do đó tôi lại phải xin hẹn với độc giả trong một bài viết khác sẽ được nói rõ thêm về vụ án này (độc giả ở Hải ngoại có thể tìm xem về “vụ án Phương Vicarent” trên các trang pháp luật của các báo điện tử tại Việt Nam, còn ở Việt Nam thì chắc là ai cũng đều biết đến vụ án ấy cả). Vì xã hội Việt Nam đã hoàn toàn bị Ðảng cộng sản cưỡng bức thông tin, bưng bít thông tin; chế độ Ðảng trị độc tài can thiệp vào tất cả bê bối kinh tế và chính trị nhằm che dấu tội lỗi của mình, lo sợ sự phản ứng giận dữ của quần chúng, nhằm đảm bảo sự độc tài thống trị của mình, nên người dân không được biết về thế lực thật sự của ông Phạm Văn Phương cùng những hành động tội lỗi của ông ta mà thật ra “tập đoàn Mafia Năm Cam” so ra với ông Phương cũng chỉ bằng hạt cát.
Quay trở lại vụ án của ông Trịnh Vĩnh Bình, thật không may cho ông Trịnh Vĩnh Bình là: Thời điểm mà ông Trịnh Vĩnh Bình vào Việt Nam đầu tư là thời điểm mà ông Phạm Văn Phương và vây cánh của ông ta đang rất mạnh. Tất cả các doanh nghiệp vào đầu tư tại Bà Rịa - Vũng Tàu đều phải nhờ vả hoặc đến “ra mắt” ông Phương, phải chịu sự điều khiển của ông ta, hoặc ít ra cũng phải “cống nộp” tiền bạc cho ông ta. Ông Trịnh Vĩnh Bình vì là người ở Hà Lan đến, cộng thêm sự tự tin là về đầu tư trên quê hương mình nên đã không sớm có sự hiểu biết đó. Nguyên nhân mà ông Trịnh Vĩnh Bình hiểu ra rằng sự khó chịu và đối đầu với ông Phạm Văn Phương đã gây ra cho ông bao nhiêu khó khăn, vất vả sau này, từ đổ vỡ trong kinh doanh, rồi tù tội, trắng tay về kinh tế, rồi phải đào thoát, tính mạng nguy hiểm đến thế nào, và cuối cùng là vụ kiện chính phủ Việt Nam mà ngày hôm nay ông đang theo đuổi. Về xuất phát cơ bản thì đúng là như vậy, nhưng sự thật đằng sau đó có ý nghĩa quyết định vụ án đấy là lí do chính trị, bàn tay của Tổng cục II, Bộ quốc phòng.
Ngay sau khi ông Phương và bè cánh của ông Phương đã lên một “kế hoạch” hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình, người ta chưa hề nghĩ đến sẽ có một hậu quả xấu như thế (tôi chắc là ngay cả chính ông Phương cũng chưa định liệu trước được một hậu quả như vậy.) Bởi vì bản chất của Phương chỉ là một kẻ giang hồ, mượn oai thế và uy lực để bức hiếp kẻ yếu, tống tiền, trục lợi. Về con đường “quan lộ”, với cái gốc là lái xe, không một mảnh bằng cấp, không trình độ ngoại ngữ, Phương không thể “mảy may” nghĩ tới. Và Phương cũng không nghĩ ra được rằng con mồi của mình (ông Trịnh Vĩnh Bình) lại liên quan đến các yếu tố chính trị cơ hội khác. Ngô Chí Ðan, dù là trưởng phòng an ninh điều tra, phòng có uy quyền nhất trong lực lượng công an cộng sản (cơ quan điều tra là cơ quan duy nhất được phép ra lệnh triệu tập và bắt người), là cơ quan theo dõi mọi hoạt động an ninh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, thế nhưng Ngô Chí Ðan cũng không hề có thông tin và âm mưu hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình là có liên quan đến các yếu tố chính trị (ngoài việc biết ông Trịnh Vĩnh Bình là thành viên Ðảng dân chủ tự do Hà Lan). Việc Phương và Ðan mưu hại thật ra cũng chỉ là một màn kịch tống tiền, Phương và Ðan chưa nghĩ ra được Trịnh Vĩnh Bình sẽ trở thành một miếng mồi thơm hơn để có thể trục lợi những âm mưu khác, Phương và Ðan cũng không thể nghĩ ra rằng việc hãm hại Trịnh Vĩnh Bình có thể để lại một hệ lụy khôn lường (cho chính cả bản thân mình và cho cả chính phủ Việt Nam) đến ngày hôm nay.
Mọi việc không chỉ đơn giản như vậy. Chắc rằng, tất cả những người có một chút am hiểu về bộ máy an ninh của cộng sản đều biết rằng: Mọi công dân nước ngoài khi vào hoạt động, làm ăn tại Việt Nam cũng đều bị một sự giám sát vô hình của cơ quan an ninh cộng sản. Ðặc biệt như trường hợp của ông Trịnh Vĩnh Bình, một thành viên của Ðảng dân chủ tự do Hà Lan, ngoài các bộ phận nghiệp vụ của Bộ công an ra thì không thể nào Tổng cục II - Bộ quốc phòng lại có thể “quên” được. Do vậy, giai đoạn mà mạng lưới Mafia của Phạm Văn Phương đang tìm cách hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình ở thời điểm quan trọng, quyết định nhất thì chính là lúc lộ diện vai trò của Tổng cục II. Lúc đó, Phương và Ðan đều có phần lúng túng (dù là không bất ngờ) vì kế hoạch của mình có thể bị bại lộ hoặc phải thay đổi, lúc này bọn chúng phải tính đến việc phải phối hợp với Tổng cục II để hướng sự việc sang một chiều hướng khác. Do phối hợp với Tổng cục II nên nhiều yếu tố mới đã xuất hiện, từ đó sự việc trở nên phức tạp và ngoài tầm kiểm soát của Phương - Ðan, nhưng cũng lại mở ra một âm mưu mới táo bạo hơn, có lợi hơn cho Phương - Ðan (âm mưu hạ bệ ông Nguyễn Trọng Minh, chủ tịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sau vụ án này.)
Ðây là yếu tố quyết định của vụ án này, và cũng chính từ Tổng cục II đã phát ra nhiều thông tin đặc biệt rất bất lợi đến ông Trịnh Vĩnh Bình (đến bây giờ cũng khó khẳng định được những thông tin này là thật hay “dỏm” như những thông tin mà Tổng cục II đưa ra về ông Võ Nguyên Giáp và các lãnh đạo cao cấp khác ?) Những diễn biến dưới đây , tôi cũng xin để trả lời cho nguyên nhân tại sao mà ông Trọng Kim, chủ bút tờ báo Ngày Nay ở Houston, Texas - Hoa Kỳ, không biết được tại sao mà ngay cả khi đã có bút phê của thủ tướng chính phủ Việt Nam - Phan Văn Khải - rồi mà bên Bộ công an họ vẫn ra lệnh khởi tố, bắt giam ông Trịnh Vĩnh Bình (xin xem thêm trong phỏng vấn ngày 15/5/2005 của Ðài RFA, BBC hoặc các trang Web: www.ykien.net, www.doi-thoai. com, www.danchimviet. com ...) Và qua đây tôi cũng xin làm rõ một số chữ viết tắt (mà theo tôi là không cần thiết), và một số điều chưa rõ trong “Thư gửi đồng bào cả nước” của tác giả Nguyễn Thiện Tâm đăng trên rất nhiều báo chí Hải ngoại thời gian gần đây, ở phần nói về vụ án của ông Trịnh Vĩnh Bình (xin đọc trên trang Web: www.vnn-news. com ra ngày 18/5/2005). Việc này ông Trọng Kim cho rằng: Là do thế lực và vây cánh của thứ trưởng Bộ công an - Nguyễn Khánh Toàn - quá mạnh. Thực chất, không phải là như vậy, mặc dù tôi cũng khẳng định rằng ông Phương - Ðan có quan hệ rất thân thiết với ông Nguyễn Khánh Toàn (thậm chí việc ông Nguyễn Khánh Toàn mất ghế Bộ trưởng công an sau này cũng do vụ án “Phương Vicarent” mà liên lụy), thế nhưng lúc đấy ông Lê Minh Hương là Bộ trưởng - Ủy viên Bộ chính trị, quyền lực rất mạnh nếu muốn làm cũng không thể làm được gì, đấy chính bởi vì đã có bàn tay của Tổng cục II - Bộ quốc phòng dính vào, thậm chí là quyết định toàn bộ vụ án.
Rất ít khi có một vụ án kinh tế mà lại phức tạp như vụ án này. Cần phải nói rõ thêm, về vụ án này đã có mấy chục cá nhân liên quan được cơ quan công an thẩm vấn, điều tra. Trong số các bị cáo, ngoài ông Trịnh Vĩnh Bình là bị cáo chính, còn một nhân vật cũng được rất nhiều người biết đến, đấy chính là ông Lê Quang Luyện, tiến sĩ hóa học, đã từng là thư ký riêng của Chủ tịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; gia đình bà Hương, vợ ông Luyện, lại có quan hệ với bà phó chủ tịch nước Việt Nam lúc đó là Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Mạnh Cầm (lúc đó mới chỉ là Bộ trưởng Bộ ngoại giao). Từ đó đã nảy sinh ra rất nhiều mối quan hệ, nhiều sức ép từ nhiều phía. Bằng con đường ngoại giao, chính phủ Hà Lan đã có công hàm cho chính phủ Việt Nam. Thường vụ Bộ chính trị Việt Nam đã phải họp mở rộng bốn lần về vụ án này. Theo quan điểm ngoại giao, ông Phan Văn Khải và bà Nguyễn Thị Bình (đã từng là bộ trưởng ngoại giao và trưởng phái đoàn đàm phán của CPLTCHMN Việt Nam tại Paris) đề nghị đình chỉ vụ án và giải oan cho ông Trịnh Vĩnh Bình. Ngược lại, ý kiến của ông Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương và đặc biệt người tỏ ra quyết liệt, gay gắt nhất là ông Phạm Thế Duyệt (người mà tác giả Nguyễn Thiện Tâm viết tắt là PTD, còn ba người kia nữa là ông Châu Văn Mẫn - giám đốc công an tỉnh Bà rịa - Vũng tàu, Lê Văn Dỹ - bí thư tỉnh ủy, sau này bị khiển trách và đưa ra làm Phó Ban kinh tế Trung ương, và Phạm Văn Phương) là phải kiên quyết xử lý. Nhưng từng ý kiến của các vị Ủy viên Bộ chính trị ấy đều không có tính quyết định bằng các chứng cứ của Tổng cục II đưa ra, họ khẳng định rằng Trịnh Vĩnh Bình vào Việt Nam là để hoạt động gián điệp, núp dưới cái “vỏ” doanh nhân. Tổng cục II đã đưa ra hàng loạt những ghi chép theo dõi về các hoạt động của ông Trịnh Vĩnh Bình, một trong những mục tiêu của Trịnh Vĩnh Bình là mua chuộc các cán bộ cao cấp nhất, mà cụ thể Tổng cục II đưa ra dẫn chứng về một cuộc sắp đặt của ông Trịnh Vĩnh Bình tiếp xúc ông Phan Văn Khải, cũng như việc ông Trịnh Vĩnh Bình đã dùng tiền hối lộ (mà theo tổng cục II là để mua chuộc, khống chế) ông Nguyễn Trọng Minh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà rịa - Vũng tàu (sau này ông Minh cũng bị mất chức Chủ tịch vì vụ việc này) (người viết chỉ đưa ra các chi tiết theo các tài liệu có được, điều này chắc chắn ông Trịnh Vĩnh Bình là người biết rõ nhất và là đúng sai như thế nào ?) Về phía bà Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Mạnh Cầm cũng được Tổng cục II cho biết những mối quan hệ và tiếp xúc với gia đình ông Lê Quang Luyện, do vậy ông Khải, ông Cầm và bà Bình gần như “chết cứng”, không thể nói được gì nữa. Vậy là từ một âm mưu tống tiền rồi chuyển thành một vụ án kinh tế, một vụ án kinh tế lại được biến ra thành một vụ án chính trị. Bộ chính trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã phải trực tiếp chỉ đạo vụ án. Tuy nhiên, cả phía an ninh quân đội và công an đều cho rằng họ đã “bắt non” ông Trịnh Vĩnh Bình, vì vậy họ phải xử theo một vụ án kinh tế (chứ không phải là “hình sự hóa quan hệ kinh tế” như ông Trịnh Vĩnh Bình đã trả lời phỏng vấn báo chí). Vậy là việc ông Trịnh Vĩnh Bình bị kết án là việc không thể tránh khỏi và là một “vở kịch” đã được Tổng cục II viết sẵn rồi, các công việc thủ tục pháp lí tiếp theo chỉ còn mang tính chất hợp pháp hóa cho cái “vở kịch” đó thôi.
Nhưng sau khi ông Trịnh Vĩnh Bình đã bị kết án và bắt giam rồi thì lại xảy ra một “tấn tuồng” khá vụng về của cơ quan an ninh Việt Nam và “tấn tuồng” ấy đã để lại hậu quả đến hôm nay. Ðấy chính là việc “để thoát” ông Trịnh Vĩnh Bình, cần xem lại các báo chí Việt Nam viết về sự kiện đó, các báo đưa tin: “Trịnh Vĩnh Bình đã bỏ trốn khi cơ quan công an di lí từ Tân Sơn Nhất ra Nội Bài - Hà Nội” (đào thoát trên máy bay mới lạ chứ! Thật là một “trò hề” quá vụng về!) Việc này, gần đây tất cả các bài báo và trả lời phỏng vấn của ông Trịnh Vĩnh Bình đều không đề cập đến. Có thể vì lí do nào đó mà ông Trịnh Vĩnh Bình đã né tránh điều này, chỉ duy nhất hai lần ông Trịnh Vĩnh Bình và ông Trọng Kim nhắc đến sự việc này với từ “đào thoát” mà không nói gì thêm. Tôi chắc chắn rằng ông Trịnh Vĩnh Bình có thể viết sách bán được về cái vụ “đào thoát” của mình. Tôi cũng đề nghị ông Trịnh Vĩnh Bình cần công khai tất cả những chi tiết này, vì nó sẽ có lợi hơn cho ông. Theo một thông tin tuyệt mật được phía Bộ công an tiết lộ thì âm mưu đào thoát của ông Trịnh Vĩnh Bình lại là một kế hoạch được thỏa thuận ngầm của Tổng cục II. Rất may khi ông Trịnh Vĩnh Bình đã nghĩ là: “Sau một thời gian tôi được tại ngoại, tôi cảm thấy là có nguy cơ tôi sẽ bị bắt lại và đưa vào tù và có thể tôi sẽ bị chết. Do đó, với hoàn cảnh đó, tôi phải đào thoát khỏi Việt Nam.” Bởi vì, theo kế hoạch đó của Tổng cục II, việc họ bắt và xử ông là không có cơ sở, trái với luật pháp Quốc tế và Việt Nam. Do vậy, các Chính phủ và tổ chức Quốc tế sẽ can thiệp và nếu sự việc vỡ lở lúc đó sẽ dẫn đến những hậu quả lớn hơn trên trường Quốc tế. Vậy thì, cách tốt nhất là họ để ông “đào thoát” và sau đó sẽ tìm cách thủ tiêu ông, lúc đó sẽ chẳng có ai phải chịu trách nhiệm về vụ án của ông cũng như mạng sống của ông nữa. Nếu có một tổ chức điều tra Quốc tế nào đó có thể điều tra ra thì đấy cũng chỉ như một vụ án hình sự thanh toán lẫn nhau của các băng nhóm giang hồ mà thôi. Những linh tính đã mách bảo cho ông Trịnh Vĩnh Bình và cứu ông thoát khỏi cái chết trong tay của Tổng cục II. Phải chăng, đây là một trong những trường hợp may mắn khá hi hữu, hay là khi ông Trịnh Vĩnh Bình tiết lộ rõ mọi chuyện thì người ta sẽ lại được thấy thêm những bộ mặt phản trắc trong nội bộ Tổng cục II?
Từ vụ án này người ta lại thấy bản chất cực kỳ thâm độc của cơ quan An ninh cộng sản - Tổng cục II. Nhưng hơn tất cả là người ta nhận thấy sức mạnh ghê gớm của nó, nó có thể điều hành tất cả các vị trí, chức vụ cao nhất trong Ðảng, trong Chính phủ, kể cả các ủy viên Bộ chính trị. Nó có thể can thiệp vào mọi công việc và quyết định mọi sự việc theo ý mình. Sau vụ này cũng cần phải nói thêm là viên trung tá phụ trách Tổng cục II ở Bà Rịa - Vũng Tàu là Võ Minh Thắng (biệt hiệu là Thắng “què”) đã được phong quân hàm lên chức thượng tá.
Cuối cùng, điều gì cần rút ra sau vụ án này Dù ông Trịnh Vĩnh Bình có thắng hay thua trong vụ án này thì nhiều bài học rất xót xa cũng đã và sẽ được rút ra từ các bên, mà những nguyên nhân của nó lại chính xuất phát từ cơ quan an ninh - Tổng cục II, Bộ quốc phòng Việt Nam, một cơ quan đã gây ra quá nhiều vụ án, tai tiếng từ quá khứ và hiện tại rồi sẽ ảnh hưởng đến tương lai của cả dân tộc. Nhà nước Việt Nam thì bị tai tiếng, mất uy tín trên trường Quốc tế. Chính quyền Việt Nam thì bị mất đi một số cán bộ do bị họ chụp mũ, vu khống, cưỡng bức. Các cá nhân, các tổ chức, doanh nghiệp, những người không thể tự mình có thể đối phó với thế lực của họ thì bị tù đày, oan ức, sạt nghiệp và không ít người bị thủ tiêu, bức tử. Và điều gì nữa sẽ xảy ra nếu ông Trịnh Vĩnh Bình sẽ thắng kiện trong vụ kiện sắp tới (mà cá nhân tôi tin chắc rằng ông ta sẽ thắng kiện)? Ông Trịnh Vĩnh Bình cũng đã khẳng định rằng số tài sản ban đầu mà ông đầu tư vào Việt Nam chỉ tổng cộng trên dưới 4 triệu Mỹ kim; tất nhiên con số 100 triệu Mỹ kim của ông Bình và luật sư của ông đưa ra yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải bồi thường cũng phải rất có cơ sở, vậy số tiền chênh lệch lên đến 96 triệu đô la Mỹ, có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ gấp 24 lần giá trị ban đầu. Một trăm triệu đô la Mỹ, đâu phải là một khoản tiền nhỏ? Một khoản tiền rất lớn đối với mọi quốc gia, và đối với Việt Nam lại càng là một số tiền khổng lồ. Ở Việt Nam, với số tiền đó có thể xây dựng được hơn 200 trường học khang trang, hiện đại; khoảng 30 bệnh viện lớn. Số tiền đó có thể giúp cho khoảng 160,000 hộ gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. Và nếu chia đầu người 82 triệu dân Việt Nam phải gánh chịu thì già trẻ, lớn bé mỗi người đều phải đóng góp gần 20,000 đồng mới đủ để trả cho ông Trịnh Vĩnh Bình, chưa tính được án phí sẽ là bao nhiêu nữa.
Thật là khủng khiếp. Thật là đáng căm giận! Số tiền đó ai sẽ phải trả? Chính phủ Việt Nam ư? Chẳng có Ngân sách quốc gia nào cả, đấy chính là tài sản của nhân dân Việt Nam đó. Tất cả một đồng bạc nào của đất nước Việt Nam cũng đều do nhân dân lao động làm ra và đóng góp cả. Hết vụ kiện của ông Letard kiện Liên đoàn bóng đá Việt Nam số tiền 197,000 Mỹ kim, rồi lại đến vụ hãng hàng không quốc gia Việt Nam Airline bị kiện bồi thường khoảng 5 triệu đô la Mỹ, rồi lại đến vụ kiện của ông Trịnh Vĩnh Bình sắp tới đây. Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam sẽ lấy đâu ra tiền để bồi thường những khoản tiền đấy (dù chỉ là chi phí theo hầu kiện và án phí)? Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam làm gì có “của hồi môn” nào để lại mà tự gánh chịu thiệt hại? Tất nhiên những đồng tiền ấy là của NHÂN DÂN rồi! Thế thì, ai cho phép Ðảng Cộng Sản Việt Nam được tự ý sử dụng những đồng tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân như vậy? Ai cho phép Ðảng Cộng Sản Việt Nam dùng mồ hôi của người lao động để đóng cái khoản “tiền ngu” cho mình như thế? Tại sao báo chí Việt Nam và những ông luật gia, luật sư lại chỉ nói đến việc ấy một cách vô cảm, vô trách nhiệm như là một “bài học kinh nghiệm”? Nhân dân Việt Nam đâu có cần và đâu có làm ra những “bài học kinh nghiệm” đó ?
Hay phải chăng những đồng tiền đó không phải là mồ hôi, nước mắt của nhân Việt Nam? Hoàn toàn không thể như vậy được, chẳng qua là do người dân không được biết sự thật đó thôi. Nhân dân Việt Nam cần phải biết sự thật! Những nhà hoạt động dân chủ, những người có khả năng và phương tiện để tuyên truyền đến dân chúng, cùng tất cả những người dân yêu nước Việt Nam, phải vạch rõ những sự thật này cho mỗi người dân trong nước được biết đến. Trách nhiệm là của tất cả mọi người, nếu chúng ta không muốn nhìn thấy bất công, nếu chúng ta không muốn đất nước và nhân dân phải chịu thiệt hại, nếu chúng ta không muốn lại tái diễn những sự kiện tương tự, chúng ta phải có trách nhiệm thông báo và giải thích rõ những sự kiện này đến mỗi người dân lao động Việt Nam? Tại sao các tổ chức đối lập ở Hải ngoại không lên tiếng đấu tranh với Chính phủ Việt Nam về những sự kiện này? Phải chăng là họ không cảm thấy thương xót cho tài sản, mồ hôi nước mắt của đồng bào mình đã bị Nhà nước cộng sản xâm phạm? Tại sao những nhà hoạt động dân chủ trong và ngoài nước không lên tiếng đấu tranh với một sự việc quá rõ ràng và không thể bưng bít được (so với vụ án Tổng cục II mà lâu nay vẫn tốn nhiều giấy mực nói đến)? Phải chăng các nhà hoạt động dân chủ cho rằng vụ việc này không liên quan đến đấu tranh dân chủ, không thiệt hại đến đồng bào và cá nhân mình? Còn chờ gì nữa? Ðã đến lúc cần phải tự cảnh tỉnh và tự vấn mình!!
Bài viết này tôi cũng xin gửi đến toàn thể đồng bào Việt Nam ở trong nước và Hải ngoại để chúng ta được biết thêm sự thật đằng sau bức màn đen tối của chế độ cộng sản Việt Nam. Tôi xin nhờ đến các cơ quan đài, báo Việt Nam ở Hải ngoại và đài, báo quốc tế có quan tâm đến sự việc này giúp tôi chuyển bài viết này đến đồng bào Việt Nam ở trong nước và trên khắp Thế giới. Tôi cũng rất mong sẽ nhận được những ý kiến của ông Trịnh Vĩnh Bình để khẳng định thêm tính trung thực về những tư liệu mà tôi đưa ra, đồng thời cũng rất mong muốn rằng ông Trịnh Vĩnh Bình sẽ cho các cơ quan báo chí và đồng bào Việt Nam được biết thêm những chi tiết về cuộc “đào thoát” của mình, cùng những thủ đoạn đen tối của cơ quan an ninh cộng sản đã áp dụng đối với ông. Tôi cũng sẽ xin cung cấp thêm những thông tin riêng mà mình đang có liên quan đến vụ án mà ông đang theo đuổi, nếu ông thấy cần thiết.
Xin hẹn trở lại với độc giả ở một bài viết sau, nói về hậu quả của vụ án Bình Châu (Trịnh Vĩnh Bình) đã để lại cho gia đình ông Phạm Văn Phương và Ngô Chí Ðan, cũng chính là một vụ bê bối chính trị trong bộ máy cộng sản được ém nhẹm, ngụy trang dưới cái vỏ “kinh tế” để lừa bịp che mắt nhân dân.
Bà Rịa-Vũng Tàu ngày 25/5/2005
Trần Quốc Hoàn

Doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình. |
Gần đây [2005], việc ông Trịnh Vĩnh Bình thưa kiện Chính phủ Việt Nam ra một Tòa án Quốc tế đã làm xôn xao dư luận ở Hải ngoại. Vụ kiện này là một vụ án chưa từng có trong lịch sử Việt Nam và có rất nhiều ý nghĩa khác nhau, đặc biệt là số tiền bồi thường quá lớn đối với một đất nước nghèo khó như Việt Nam:
100,000,000 USD.
Thật ra, trong những cuộc họp giao ban của khối an ninh vào khoảng cuối năm 2002 thì người ta đã phổ biến thông tin rằng ông Trịnh Vĩnh Bình đang tìm cách thưa kiện Chính phủ Việt Nam rồi. Song, vì thái độ vô trách nhiệm, coi thường pháp luật, coi thường dư luận quốc tế, cộng với sự chủ quan, lúng túng của bộ máy an ninh, của lãnh đạo cộng sản nên họ đã để sự việc diễn biến đến nghiêm trọng như ngày hôm nay. Tuy nhiên, điều đáng buồn là dư luận trong nước lại rất ít người biết đến vụ việc này, do sự chỉ đạo bưng bít thông tin của Ban Tư tưởng Văn hóa, Ðảng Cộng Sản Việt Nam, mới chỉ có hai, ba tờ báo là “dám” nhắc đến vụ án này một cách “qua quít”, sao chép giống hệt nhau, cùng với mấy ông luật sư trả lời một cách “không có đầu, không có cuối”.
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam, mà tất nhiên là do Ðảng Cộng Sản cầm quyền lãnh đạo, đã rất lo ngại vụ việc này bị phanh phui như một vụ án nghiêm trọng và đặc biệt điển hình để tố cáo chế độ cộng sản ở nhiều mặt khác nhau. Với Quốc tế và giới doanh nhân (xin nhấn mạnh ở đây là giới doanh nhân nói chung, ở cả trong và ngoài nước chứ không riêng gì Việt kiều hay doanh nghiệp nước ngoài như một số bài báo nêu ra, vì ở Việt Nam chưa hề có “một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp” như lời mời gọi của giới lãnh đạo cộng sản vẫn hô hào, bất kể doanh nghiệp nào không phải là doanh nghiệp nhà nước (là “con bò sữa”, là chỗ làm tiền và rửa tiền của Mafia cộng sản) đều gặp phải rất nhiều rắc rối do chính quyền gây ra) đây là một vụ án điển hình nhất được tố cáo và sẽ đưa ra xét xử công khai trước Quốc tế, sẽ là một bằng chứng sống động nhất cho Thế giới biết đến sự cưỡng bức trắng trợn, sự bất chấp luật pháp, vi phạm nhân quyền của bộ máy an ninh cộng sản, chính quyền cộng sản. Ðặc biệt đây là một sự kiện hi hữu, không thể lý giải được: Một tội phạm đào thoát đang chịu hình phạt bị kết án 11 năm tù - có nghĩa là một kẻ đang bị một chính phủ truy nã - lại dám công khai đứng ra kiện chính phủ đó trước Tòa án Quốc tế. Nhưng quan trọng hơn là đối với số đông quần chúng nhân dân, chính quyền cộng sản đang rất lo sợ dư luận nhân dân sẽ biết rõ sự việc này, và đặc biệt nếu chính phủ Việt Nam sẽ bị xử thua ở phiên tòa năm sau thì vụ án này sẽ gây ra một sự bất bình lớn trong dân chúng, nếu toàn bộ sự thật được phơi bày có thể sẽ gây ra một làn sóng phản ứng mạnh mẽ mà sẽ khó đoán trước được hậu quả như thế nào.
Sau khi đã đọc và nghe kỹ hầu hết các bài viết và phỏng vấn ở Hải ngoại có liên quan đến vụ án, tôi xin gửi đến quý độc giả (thính giả) và đặc biệt là ông Trịnh Vĩnh Bình thêm một số chi tiết mà tôi khẳng định là yếu tố quyết định vụ án. Với cương vị là một người trong cuộc, tôi xin đảm bảo rằng những thông tin mình đưa ra là chính xác 100% (điều này hy vọng sẽ được ông Trịnh Vĩnh Bình xác nhận), đồng thời cũng cung cấp thêm một số thông tin mà có thể do ở một góc độ khác ông Trịnh Vĩnh Bình không được biết, hoặc vì một vài lí do nào đó mà ông Trịnh Vĩnh Bình đã không tiết lộ, với mục đích làm rõ hơn những ẩn khuất trong vụ án này và để dư luận trong ngoài nước sẽ được biết đến, quan tâm đến vụ án này hơn nữa; qua đó quần chúng nhân dân, đồng bào Việt Nam ở Hải ngoại và trong nước sẽ cùng lên tiếng tố cáo những bất công, bưng bít, vi phạm pháp luật, vi phạm nhân quyền của chế độ Cộng Sản Việt Nam.
Cần trở lại vụ án Công ty cổ phần Bình Châu (cũng gọi là vụ án Bình - Hà Lan) ở những năm 1998-1999, đã được báo chí Việt Nam viết đến rất nhiều, cũng không ít bài báo viết có sự phân tích, mổ xẻ về tính pháp lý của vụ án, bênh vực “bị cáo” Trịnh Vĩnh Bình. Do có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau nên vụ án được dư luận trong nước quan tâm nhiều. Thế nhưng, sự quan tâm đấy cũng chỉ đơn thuần coi như một vụ án kinh tế, có “dính dáng” đến Việt kiều, đến đầu tư nước ngoài. Rất ít ai được biết đến vụ án là đã có những yếu tố chính trị, thậm chí cái yếu tố ấy đã có tính quyết định toàn bộ vụ án. Về nội dung này tôi không nghĩ là ông Trịnh Vĩnh Bình đã không hề biết gì. Gần đây, khi trả lời phỏng vấn báo chí ông Trịnh Vĩnh Bình cũng đã không cung cấp thêm thông tin gì mới hơn, có thể ông cần phải giữ thái độ thận trọng cần thiết, cũng có thể ông chưa được biết chính xác. Tôi xin công khai chi tiết này dưới đây, để độc giả có thể hiểu được bản chất của sự việc và qua đó các bên liên quan sẽ tìm ra những phương pháp hành sử tốt nhất trong những công việc tiếp theo của vụ án mà ông Trịnh Vĩnh Bình đang theo kiện chính phủ Việt Nam.
Những nguyên nhân chính mà ông Trịnh Vĩnh Bình đưa ra (cũng đã được ông Trọng Kim, chủ bút tờ báo Ngày Nay ở Houston, Texas - Hoa Kỳ cho biết thêm) là do ông Bình đã có một sự đối đầu với cơ quan công an tỉnh Bà rịa - Vũng tàu, cụ thể là ông Ngô Chí Ðan, trưởng phòng an ninh điều tra (PA24) và ông Phạm Văn Phương - anh vợ ông Ngô Chí Ðan - chức danh phó Tổng giám đốc công ty liên doanh Vicarent.
Sự việc này cần phải diễn giải chi tiết thêm thì độc giả mới có thể hình dung được. Tại địa phương tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì gần như ai ai cũng đều biết đến ông Ngô Chí Ðan, với cương vị trưởng phòng an ninh điều tra, phó thủ trưởng cơ quan điều tra liên tục mười mấy năm liền, và là một con người khét tiếng với các vụ án quan trọng. Thế nhưng còn nổi tiếng và “tài ba” hơn nhiều lại chính là ông Phạm Văn Phương, anh vợ của Ngô Chí Ðan, với những quan hệ mà những người dân thường chỉ nghe thấy thôi cũng đã phải “rùng mình”, từ Tổng bí thư (xin nói rõ là Tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải bí thư xã, bí thư huyện nhé) đến Thủ tướng, phó Thủ tướng Chính phủ, còn cỡ như Bộ trưởng, Thứ trưởng thì ông Phương có thể quen biết vài chục vị. Chỉ qua việc ông ta đã từng hạ “nốc ao” cả Chủ tịch tỉnh và đưa một vị khác lên thay chức chủ tịch tỉnh, rồi vào ủy viên Trung ương Ðảng Cộng Sản là đủ biết uy lực của ông Phương lớn đến thế nào (riêng sự việc này tôi xin gửi thông tin đến độc giả ở một bài viết khác). Thế nhưng, sau này chính anh em ông Ngô Chí Ðan và Phạm Văn Phương cũng lại phải ra hầu Tòa trong một vụ án khác, mà ông Ngô Chí Ðan đã bị kỷ luật, tước danh hiệu công an, Phạm Văn Phương thì chịu bản án 27 năm tù giam. Thật ra, trong vụ án đó anh em ông Phương, ông Ðan cũng chỉ là con mồi của bộ máy an ninh cộng sản, con mồi của chính cái bẫy mà mình đã giăng ra, và tôi cũng xin khẳng định rằng vụ án đó cũng lại chính là hệ lụy của vụ án Trịnh Vĩnh Bình mà chúng ta đang nói đến hôm nay, vì lí do đó tôi lại phải xin hẹn với độc giả trong một bài viết khác sẽ được nói rõ thêm về vụ án này (độc giả ở Hải ngoại có thể tìm xem về “vụ án Phương Vicarent” trên các trang pháp luật của các báo điện tử tại Việt Nam, còn ở Việt Nam thì chắc là ai cũng đều biết đến vụ án ấy cả). Vì xã hội Việt Nam đã hoàn toàn bị Ðảng cộng sản cưỡng bức thông tin, bưng bít thông tin; chế độ Ðảng trị độc tài can thiệp vào tất cả bê bối kinh tế và chính trị nhằm che dấu tội lỗi của mình, lo sợ sự phản ứng giận dữ của quần chúng, nhằm đảm bảo sự độc tài thống trị của mình, nên người dân không được biết về thế lực thật sự của ông Phạm Văn Phương cùng những hành động tội lỗi của ông ta mà thật ra “tập đoàn Mafia Năm Cam” so ra với ông Phương cũng chỉ bằng hạt cát.
Quay trở lại vụ án của ông Trịnh Vĩnh Bình, thật không may cho ông Trịnh Vĩnh Bình là: Thời điểm mà ông Trịnh Vĩnh Bình vào Việt Nam đầu tư là thời điểm mà ông Phạm Văn Phương và vây cánh của ông ta đang rất mạnh. Tất cả các doanh nghiệp vào đầu tư tại Bà Rịa - Vũng Tàu đều phải nhờ vả hoặc đến “ra mắt” ông Phương, phải chịu sự điều khiển của ông ta, hoặc ít ra cũng phải “cống nộp” tiền bạc cho ông ta. Ông Trịnh Vĩnh Bình vì là người ở Hà Lan đến, cộng thêm sự tự tin là về đầu tư trên quê hương mình nên đã không sớm có sự hiểu biết đó. Nguyên nhân mà ông Trịnh Vĩnh Bình hiểu ra rằng sự khó chịu và đối đầu với ông Phạm Văn Phương đã gây ra cho ông bao nhiêu khó khăn, vất vả sau này, từ đổ vỡ trong kinh doanh, rồi tù tội, trắng tay về kinh tế, rồi phải đào thoát, tính mạng nguy hiểm đến thế nào, và cuối cùng là vụ kiện chính phủ Việt Nam mà ngày hôm nay ông đang theo đuổi. Về xuất phát cơ bản thì đúng là như vậy, nhưng sự thật đằng sau đó có ý nghĩa quyết định vụ án đấy là lí do chính trị, bàn tay của Tổng cục II, Bộ quốc phòng.
Ngay sau khi ông Phương và bè cánh của ông Phương đã lên một “kế hoạch” hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình, người ta chưa hề nghĩ đến sẽ có một hậu quả xấu như thế (tôi chắc là ngay cả chính ông Phương cũng chưa định liệu trước được một hậu quả như vậy.) Bởi vì bản chất của Phương chỉ là một kẻ giang hồ, mượn oai thế và uy lực để bức hiếp kẻ yếu, tống tiền, trục lợi. Về con đường “quan lộ”, với cái gốc là lái xe, không một mảnh bằng cấp, không trình độ ngoại ngữ, Phương không thể “mảy may” nghĩ tới. Và Phương cũng không nghĩ ra được rằng con mồi của mình (ông Trịnh Vĩnh Bình) lại liên quan đến các yếu tố chính trị cơ hội khác. Ngô Chí Ðan, dù là trưởng phòng an ninh điều tra, phòng có uy quyền nhất trong lực lượng công an cộng sản (cơ quan điều tra là cơ quan duy nhất được phép ra lệnh triệu tập và bắt người), là cơ quan theo dõi mọi hoạt động an ninh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, thế nhưng Ngô Chí Ðan cũng không hề có thông tin và âm mưu hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình là có liên quan đến các yếu tố chính trị (ngoài việc biết ông Trịnh Vĩnh Bình là thành viên Ðảng dân chủ tự do Hà Lan). Việc Phương và Ðan mưu hại thật ra cũng chỉ là một màn kịch tống tiền, Phương và Ðan chưa nghĩ ra được Trịnh Vĩnh Bình sẽ trở thành một miếng mồi thơm hơn để có thể trục lợi những âm mưu khác, Phương và Ðan cũng không thể nghĩ ra rằng việc hãm hại Trịnh Vĩnh Bình có thể để lại một hệ lụy khôn lường (cho chính cả bản thân mình và cho cả chính phủ Việt Nam) đến ngày hôm nay.
Mọi việc không chỉ đơn giản như vậy. Chắc rằng, tất cả những người có một chút am hiểu về bộ máy an ninh của cộng sản đều biết rằng: Mọi công dân nước ngoài khi vào hoạt động, làm ăn tại Việt Nam cũng đều bị một sự giám sát vô hình của cơ quan an ninh cộng sản. Ðặc biệt như trường hợp của ông Trịnh Vĩnh Bình, một thành viên của Ðảng dân chủ tự do Hà Lan, ngoài các bộ phận nghiệp vụ của Bộ công an ra thì không thể nào Tổng cục II - Bộ quốc phòng lại có thể “quên” được. Do vậy, giai đoạn mà mạng lưới Mafia của Phạm Văn Phương đang tìm cách hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình ở thời điểm quan trọng, quyết định nhất thì chính là lúc lộ diện vai trò của Tổng cục II. Lúc đó, Phương và Ðan đều có phần lúng túng (dù là không bất ngờ) vì kế hoạch của mình có thể bị bại lộ hoặc phải thay đổi, lúc này bọn chúng phải tính đến việc phải phối hợp với Tổng cục II để hướng sự việc sang một chiều hướng khác. Do phối hợp với Tổng cục II nên nhiều yếu tố mới đã xuất hiện, từ đó sự việc trở nên phức tạp và ngoài tầm kiểm soát của Phương - Ðan, nhưng cũng lại mở ra một âm mưu mới táo bạo hơn, có lợi hơn cho Phương - Ðan (âm mưu hạ bệ ông Nguyễn Trọng Minh, chủ tịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sau vụ án này.)
Ðây là yếu tố quyết định của vụ án này, và cũng chính từ Tổng cục II đã phát ra nhiều thông tin đặc biệt rất bất lợi đến ông Trịnh Vĩnh Bình (đến bây giờ cũng khó khẳng định được những thông tin này là thật hay “dỏm” như những thông tin mà Tổng cục II đưa ra về ông Võ Nguyên Giáp và các lãnh đạo cao cấp khác ?) Những diễn biến dưới đây , tôi cũng xin để trả lời cho nguyên nhân tại sao mà ông Trọng Kim, chủ bút tờ báo Ngày Nay ở Houston, Texas - Hoa Kỳ, không biết được tại sao mà ngay cả khi đã có bút phê của thủ tướng chính phủ Việt Nam - Phan Văn Khải - rồi mà bên Bộ công an họ vẫn ra lệnh khởi tố, bắt giam ông Trịnh Vĩnh Bình (xin xem thêm trong phỏng vấn ngày 15/5/2005 của Ðài RFA, BBC hoặc các trang Web: www.ykien.net, www.doi-thoai. com, www.danchimviet. com ...) Và qua đây tôi cũng xin làm rõ một số chữ viết tắt (mà theo tôi là không cần thiết), và một số điều chưa rõ trong “Thư gửi đồng bào cả nước” của tác giả Nguyễn Thiện Tâm đăng trên rất nhiều báo chí Hải ngoại thời gian gần đây, ở phần nói về vụ án của ông Trịnh Vĩnh Bình (xin đọc trên trang Web: www.vnn-news. com ra ngày 18/5/2005). Việc này ông Trọng Kim cho rằng: Là do thế lực và vây cánh của thứ trưởng Bộ công an - Nguyễn Khánh Toàn - quá mạnh. Thực chất, không phải là như vậy, mặc dù tôi cũng khẳng định rằng ông Phương - Ðan có quan hệ rất thân thiết với ông Nguyễn Khánh Toàn (thậm chí việc ông Nguyễn Khánh Toàn mất ghế Bộ trưởng công an sau này cũng do vụ án “Phương Vicarent” mà liên lụy), thế nhưng lúc đấy ông Lê Minh Hương là Bộ trưởng - Ủy viên Bộ chính trị, quyền lực rất mạnh nếu muốn làm cũng không thể làm được gì, đấy chính bởi vì đã có bàn tay của Tổng cục II - Bộ quốc phòng dính vào, thậm chí là quyết định toàn bộ vụ án.
Rất ít khi có một vụ án kinh tế mà lại phức tạp như vụ án này. Cần phải nói rõ thêm, về vụ án này đã có mấy chục cá nhân liên quan được cơ quan công an thẩm vấn, điều tra. Trong số các bị cáo, ngoài ông Trịnh Vĩnh Bình là bị cáo chính, còn một nhân vật cũng được rất nhiều người biết đến, đấy chính là ông Lê Quang Luyện, tiến sĩ hóa học, đã từng là thư ký riêng của Chủ tịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; gia đình bà Hương, vợ ông Luyện, lại có quan hệ với bà phó chủ tịch nước Việt Nam lúc đó là Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Mạnh Cầm (lúc đó mới chỉ là Bộ trưởng Bộ ngoại giao). Từ đó đã nảy sinh ra rất nhiều mối quan hệ, nhiều sức ép từ nhiều phía. Bằng con đường ngoại giao, chính phủ Hà Lan đã có công hàm cho chính phủ Việt Nam. Thường vụ Bộ chính trị Việt Nam đã phải họp mở rộng bốn lần về vụ án này. Theo quan điểm ngoại giao, ông Phan Văn Khải và bà Nguyễn Thị Bình (đã từng là bộ trưởng ngoại giao và trưởng phái đoàn đàm phán của CPLTCHMN Việt Nam tại Paris) đề nghị đình chỉ vụ án và giải oan cho ông Trịnh Vĩnh Bình. Ngược lại, ý kiến của ông Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương và đặc biệt người tỏ ra quyết liệt, gay gắt nhất là ông Phạm Thế Duyệt (người mà tác giả Nguyễn Thiện Tâm viết tắt là PTD, còn ba người kia nữa là ông Châu Văn Mẫn - giám đốc công an tỉnh Bà rịa - Vũng tàu, Lê Văn Dỹ - bí thư tỉnh ủy, sau này bị khiển trách và đưa ra làm Phó Ban kinh tế Trung ương, và Phạm Văn Phương) là phải kiên quyết xử lý. Nhưng từng ý kiến của các vị Ủy viên Bộ chính trị ấy đều không có tính quyết định bằng các chứng cứ của Tổng cục II đưa ra, họ khẳng định rằng Trịnh Vĩnh Bình vào Việt Nam là để hoạt động gián điệp, núp dưới cái “vỏ” doanh nhân. Tổng cục II đã đưa ra hàng loạt những ghi chép theo dõi về các hoạt động của ông Trịnh Vĩnh Bình, một trong những mục tiêu của Trịnh Vĩnh Bình là mua chuộc các cán bộ cao cấp nhất, mà cụ thể Tổng cục II đưa ra dẫn chứng về một cuộc sắp đặt của ông Trịnh Vĩnh Bình tiếp xúc ông Phan Văn Khải, cũng như việc ông Trịnh Vĩnh Bình đã dùng tiền hối lộ (mà theo tổng cục II là để mua chuộc, khống chế) ông Nguyễn Trọng Minh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà rịa - Vũng tàu (sau này ông Minh cũng bị mất chức Chủ tịch vì vụ việc này) (người viết chỉ đưa ra các chi tiết theo các tài liệu có được, điều này chắc chắn ông Trịnh Vĩnh Bình là người biết rõ nhất và là đúng sai như thế nào ?) Về phía bà Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Mạnh Cầm cũng được Tổng cục II cho biết những mối quan hệ và tiếp xúc với gia đình ông Lê Quang Luyện, do vậy ông Khải, ông Cầm và bà Bình gần như “chết cứng”, không thể nói được gì nữa. Vậy là từ một âm mưu tống tiền rồi chuyển thành một vụ án kinh tế, một vụ án kinh tế lại được biến ra thành một vụ án chính trị. Bộ chính trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã phải trực tiếp chỉ đạo vụ án. Tuy nhiên, cả phía an ninh quân đội và công an đều cho rằng họ đã “bắt non” ông Trịnh Vĩnh Bình, vì vậy họ phải xử theo một vụ án kinh tế (chứ không phải là “hình sự hóa quan hệ kinh tế” như ông Trịnh Vĩnh Bình đã trả lời phỏng vấn báo chí). Vậy là việc ông Trịnh Vĩnh Bình bị kết án là việc không thể tránh khỏi và là một “vở kịch” đã được Tổng cục II viết sẵn rồi, các công việc thủ tục pháp lí tiếp theo chỉ còn mang tính chất hợp pháp hóa cho cái “vở kịch” đó thôi.
Nhưng sau khi ông Trịnh Vĩnh Bình đã bị kết án và bắt giam rồi thì lại xảy ra một “tấn tuồng” khá vụng về của cơ quan an ninh Việt Nam và “tấn tuồng” ấy đã để lại hậu quả đến hôm nay. Ðấy chính là việc “để thoát” ông Trịnh Vĩnh Bình, cần xem lại các báo chí Việt Nam viết về sự kiện đó, các báo đưa tin: “Trịnh Vĩnh Bình đã bỏ trốn khi cơ quan công an di lí từ Tân Sơn Nhất ra Nội Bài - Hà Nội” (đào thoát trên máy bay mới lạ chứ! Thật là một “trò hề” quá vụng về!) Việc này, gần đây tất cả các bài báo và trả lời phỏng vấn của ông Trịnh Vĩnh Bình đều không đề cập đến. Có thể vì lí do nào đó mà ông Trịnh Vĩnh Bình đã né tránh điều này, chỉ duy nhất hai lần ông Trịnh Vĩnh Bình và ông Trọng Kim nhắc đến sự việc này với từ “đào thoát” mà không nói gì thêm. Tôi chắc chắn rằng ông Trịnh Vĩnh Bình có thể viết sách bán được về cái vụ “đào thoát” của mình. Tôi cũng đề nghị ông Trịnh Vĩnh Bình cần công khai tất cả những chi tiết này, vì nó sẽ có lợi hơn cho ông. Theo một thông tin tuyệt mật được phía Bộ công an tiết lộ thì âm mưu đào thoát của ông Trịnh Vĩnh Bình lại là một kế hoạch được thỏa thuận ngầm của Tổng cục II. Rất may khi ông Trịnh Vĩnh Bình đã nghĩ là: “Sau một thời gian tôi được tại ngoại, tôi cảm thấy là có nguy cơ tôi sẽ bị bắt lại và đưa vào tù và có thể tôi sẽ bị chết. Do đó, với hoàn cảnh đó, tôi phải đào thoát khỏi Việt Nam.” Bởi vì, theo kế hoạch đó của Tổng cục II, việc họ bắt và xử ông là không có cơ sở, trái với luật pháp Quốc tế và Việt Nam. Do vậy, các Chính phủ và tổ chức Quốc tế sẽ can thiệp và nếu sự việc vỡ lở lúc đó sẽ dẫn đến những hậu quả lớn hơn trên trường Quốc tế. Vậy thì, cách tốt nhất là họ để ông “đào thoát” và sau đó sẽ tìm cách thủ tiêu ông, lúc đó sẽ chẳng có ai phải chịu trách nhiệm về vụ án của ông cũng như mạng sống của ông nữa. Nếu có một tổ chức điều tra Quốc tế nào đó có thể điều tra ra thì đấy cũng chỉ như một vụ án hình sự thanh toán lẫn nhau của các băng nhóm giang hồ mà thôi. Những linh tính đã mách bảo cho ông Trịnh Vĩnh Bình và cứu ông thoát khỏi cái chết trong tay của Tổng cục II. Phải chăng, đây là một trong những trường hợp may mắn khá hi hữu, hay là khi ông Trịnh Vĩnh Bình tiết lộ rõ mọi chuyện thì người ta sẽ lại được thấy thêm những bộ mặt phản trắc trong nội bộ Tổng cục II?
Từ vụ án này người ta lại thấy bản chất cực kỳ thâm độc của cơ quan An ninh cộng sản - Tổng cục II. Nhưng hơn tất cả là người ta nhận thấy sức mạnh ghê gớm của nó, nó có thể điều hành tất cả các vị trí, chức vụ cao nhất trong Ðảng, trong Chính phủ, kể cả các ủy viên Bộ chính trị. Nó có thể can thiệp vào mọi công việc và quyết định mọi sự việc theo ý mình. Sau vụ này cũng cần phải nói thêm là viên trung tá phụ trách Tổng cục II ở Bà Rịa - Vũng Tàu là Võ Minh Thắng (biệt hiệu là Thắng “què”) đã được phong quân hàm lên chức thượng tá.
Cuối cùng, điều gì cần rút ra sau vụ án này Dù ông Trịnh Vĩnh Bình có thắng hay thua trong vụ án này thì nhiều bài học rất xót xa cũng đã và sẽ được rút ra từ các bên, mà những nguyên nhân của nó lại chính xuất phát từ cơ quan an ninh - Tổng cục II, Bộ quốc phòng Việt Nam, một cơ quan đã gây ra quá nhiều vụ án, tai tiếng từ quá khứ và hiện tại rồi sẽ ảnh hưởng đến tương lai của cả dân tộc. Nhà nước Việt Nam thì bị tai tiếng, mất uy tín trên trường Quốc tế. Chính quyền Việt Nam thì bị mất đi một số cán bộ do bị họ chụp mũ, vu khống, cưỡng bức. Các cá nhân, các tổ chức, doanh nghiệp, những người không thể tự mình có thể đối phó với thế lực của họ thì bị tù đày, oan ức, sạt nghiệp và không ít người bị thủ tiêu, bức tử. Và điều gì nữa sẽ xảy ra nếu ông Trịnh Vĩnh Bình sẽ thắng kiện trong vụ kiện sắp tới (mà cá nhân tôi tin chắc rằng ông ta sẽ thắng kiện)? Ông Trịnh Vĩnh Bình cũng đã khẳng định rằng số tài sản ban đầu mà ông đầu tư vào Việt Nam chỉ tổng cộng trên dưới 4 triệu Mỹ kim; tất nhiên con số 100 triệu Mỹ kim của ông Bình và luật sư của ông đưa ra yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải bồi thường cũng phải rất có cơ sở, vậy số tiền chênh lệch lên đến 96 triệu đô la Mỹ, có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ gấp 24 lần giá trị ban đầu. Một trăm triệu đô la Mỹ, đâu phải là một khoản tiền nhỏ? Một khoản tiền rất lớn đối với mọi quốc gia, và đối với Việt Nam lại càng là một số tiền khổng lồ. Ở Việt Nam, với số tiền đó có thể xây dựng được hơn 200 trường học khang trang, hiện đại; khoảng 30 bệnh viện lớn. Số tiền đó có thể giúp cho khoảng 160,000 hộ gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. Và nếu chia đầu người 82 triệu dân Việt Nam phải gánh chịu thì già trẻ, lớn bé mỗi người đều phải đóng góp gần 20,000 đồng mới đủ để trả cho ông Trịnh Vĩnh Bình, chưa tính được án phí sẽ là bao nhiêu nữa.
Thật là khủng khiếp. Thật là đáng căm giận! Số tiền đó ai sẽ phải trả? Chính phủ Việt Nam ư? Chẳng có Ngân sách quốc gia nào cả, đấy chính là tài sản của nhân dân Việt Nam đó. Tất cả một đồng bạc nào của đất nước Việt Nam cũng đều do nhân dân lao động làm ra và đóng góp cả. Hết vụ kiện của ông Letard kiện Liên đoàn bóng đá Việt Nam số tiền 197,000 Mỹ kim, rồi lại đến vụ hãng hàng không quốc gia Việt Nam Airline bị kiện bồi thường khoảng 5 triệu đô la Mỹ, rồi lại đến vụ kiện của ông Trịnh Vĩnh Bình sắp tới đây. Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam sẽ lấy đâu ra tiền để bồi thường những khoản tiền đấy (dù chỉ là chi phí theo hầu kiện và án phí)? Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam làm gì có “của hồi môn” nào để lại mà tự gánh chịu thiệt hại? Tất nhiên những đồng tiền ấy là của NHÂN DÂN rồi! Thế thì, ai cho phép Ðảng Cộng Sản Việt Nam được tự ý sử dụng những đồng tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân như vậy? Ai cho phép Ðảng Cộng Sản Việt Nam dùng mồ hôi của người lao động để đóng cái khoản “tiền ngu” cho mình như thế? Tại sao báo chí Việt Nam và những ông luật gia, luật sư lại chỉ nói đến việc ấy một cách vô cảm, vô trách nhiệm như là một “bài học kinh nghiệm”? Nhân dân Việt Nam đâu có cần và đâu có làm ra những “bài học kinh nghiệm” đó ?
Hay phải chăng những đồng tiền đó không phải là mồ hôi, nước mắt của nhân Việt Nam? Hoàn toàn không thể như vậy được, chẳng qua là do người dân không được biết sự thật đó thôi. Nhân dân Việt Nam cần phải biết sự thật! Những nhà hoạt động dân chủ, những người có khả năng và phương tiện để tuyên truyền đến dân chúng, cùng tất cả những người dân yêu nước Việt Nam, phải vạch rõ những sự thật này cho mỗi người dân trong nước được biết đến. Trách nhiệm là của tất cả mọi người, nếu chúng ta không muốn nhìn thấy bất công, nếu chúng ta không muốn đất nước và nhân dân phải chịu thiệt hại, nếu chúng ta không muốn lại tái diễn những sự kiện tương tự, chúng ta phải có trách nhiệm thông báo và giải thích rõ những sự kiện này đến mỗi người dân lao động Việt Nam? Tại sao các tổ chức đối lập ở Hải ngoại không lên tiếng đấu tranh với Chính phủ Việt Nam về những sự kiện này? Phải chăng là họ không cảm thấy thương xót cho tài sản, mồ hôi nước mắt của đồng bào mình đã bị Nhà nước cộng sản xâm phạm? Tại sao những nhà hoạt động dân chủ trong và ngoài nước không lên tiếng đấu tranh với một sự việc quá rõ ràng và không thể bưng bít được (so với vụ án Tổng cục II mà lâu nay vẫn tốn nhiều giấy mực nói đến)? Phải chăng các nhà hoạt động dân chủ cho rằng vụ việc này không liên quan đến đấu tranh dân chủ, không thiệt hại đến đồng bào và cá nhân mình? Còn chờ gì nữa? Ðã đến lúc cần phải tự cảnh tỉnh và tự vấn mình!!
Bài viết này tôi cũng xin gửi đến toàn thể đồng bào Việt Nam ở trong nước và Hải ngoại để chúng ta được biết thêm sự thật đằng sau bức màn đen tối của chế độ cộng sản Việt Nam. Tôi xin nhờ đến các cơ quan đài, báo Việt Nam ở Hải ngoại và đài, báo quốc tế có quan tâm đến sự việc này giúp tôi chuyển bài viết này đến đồng bào Việt Nam ở trong nước và trên khắp Thế giới. Tôi cũng rất mong sẽ nhận được những ý kiến của ông Trịnh Vĩnh Bình để khẳng định thêm tính trung thực về những tư liệu mà tôi đưa ra, đồng thời cũng rất mong muốn rằng ông Trịnh Vĩnh Bình sẽ cho các cơ quan báo chí và đồng bào Việt Nam được biết thêm những chi tiết về cuộc “đào thoát” của mình, cùng những thủ đoạn đen tối của cơ quan an ninh cộng sản đã áp dụng đối với ông. Tôi cũng sẽ xin cung cấp thêm những thông tin riêng mà mình đang có liên quan đến vụ án mà ông đang theo đuổi, nếu ông thấy cần thiết.
Xin hẹn trở lại với độc giả ở một bài viết sau, nói về hậu quả của vụ án Bình Châu (Trịnh Vĩnh Bình) đã để lại cho gia đình ông Phạm Văn Phương và Ngô Chí Ðan, cũng chính là một vụ bê bối chính trị trong bộ máy cộng sản được ém nhẹm, ngụy trang dưới cái vỏ “kinh tế” để lừa bịp che mắt nhân dân.
Bà Rịa-Vũng Tàu ngày 25/5/2005
Trần Quốc Hoàn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)