11 tháng 7, 2017

Đàn Chim ViệtVụ án Trịnh Vĩnh Bình lại tiếp tục được khởi động trở lại tại Tòa án Quốc tế vào ngày 21 tháng 8 tới đây tại Paris hứa hẹn nhiều kịch tính, Dân Luận xin được giới thiệu tới bạn đọc một bài viết cách đây đã 12 năm được phổ biến trên trang Đàn Chim Việt để mọi người có thêm một góc nhìn về vai trò của Tổng cục II trong vụ án Kinh Tế này, từ vụ kiện 100,000,000 USD năm xưa giờ đã lên tới 1 tỉ USD, theo ông Trịnh Vĩnh Bình, vụ án này nếu thắng, có thể nó sẽ trở thành một tiền lệ cho các vụ án của hàng trăm ngàn người tù cải tạo bị bắt oan sai, bị lừa dối đi tập trung 10 ngày biến thành hàng chục năm tù trong các trại cải tạo khắc nghiệt.
Doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình.
Gần đây [2005], việc ông Trịnh Vĩnh Bình thưa kiện Chính phủ Việt Nam ra một Tòa án Quốc tế đã làm xôn xao dư luận ở Hải ngoại. Vụ kiện này là một vụ án chưa từng có trong lịch sử Việt Nam và có rất nhiều ý nghĩa khác nhau, đặc biệt là số tiền bồi thường quá lớn đối với một đất nước nghèo khó như Việt Nam:
100,000,000 USD.
Thật ra, trong những cuộc họp giao ban của khối an ninh vào khoảng cuối năm 2002 thì người ta đã phổ biến thông tin rằng ông Trịnh Vĩnh Bình đang tìm cách thưa kiện Chính phủ Việt Nam rồi. Song, vì thái độ vô trách nhiệm, coi thường pháp luật, coi thường dư luận quốc tế, cộng với sự chủ quan, lúng túng của bộ máy an ninh, của lãnh đạo cộng sản nên họ đã để sự việc diễn biến đến nghiêm trọng như ngày hôm nay. Tuy nhiên, điều đáng buồn là dư luận trong nước lại rất ít người biết đến vụ việc này, do sự chỉ đạo bưng bít thông tin của Ban Tư tưởng Văn hóa, Ðảng Cộng Sản Việt Nam, mới chỉ có hai, ba tờ báo là “dám” nhắc đến vụ án này một cách “qua quít”, sao chép giống hệt nhau, cùng với mấy ông luật sư trả lời một cách “không có đầu, không có cuối”.
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam, mà tất nhiên là do Ðảng Cộng Sản cầm quyền lãnh đạo, đã rất lo ngại vụ việc này bị phanh phui như một vụ án nghiêm trọng và đặc biệt điển hình để tố cáo chế độ cộng sản ở nhiều mặt khác nhau. Với Quốc tế và giới doanh nhân (xin nhấn mạnh ở đây là giới doanh nhân nói chung, ở cả trong và ngoài nước chứ không riêng gì Việt kiều hay doanh nghiệp nước ngoài như một số bài báo nêu ra, vì ở Việt Nam chưa hề có “một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp” như lời mời gọi của giới lãnh đạo cộng sản vẫn hô hào, bất kể doanh nghiệp nào không phải là doanh nghiệp nhà nước (là “con bò sữa”, là chỗ làm tiền và rửa tiền của Mafia cộng sản) đều gặp phải rất nhiều rắc rối do chính quyền gây ra) đây là một vụ án điển hình nhất được tố cáo và sẽ đưa ra xét xử công khai trước Quốc tế, sẽ là một bằng chứng sống động nhất cho Thế giới biết đến sự cưỡng bức trắng trợn, sự bất chấp luật pháp, vi phạm nhân quyền của bộ máy an ninh cộng sản, chính quyền cộng sản. Ðặc biệt đây là một sự kiện hi hữu, không thể lý giải được: Một tội phạm đào thoát đang chịu hình phạt bị kết án 11 năm tù - có nghĩa là một kẻ đang bị một chính phủ truy nã - lại dám công khai đứng ra kiện chính phủ đó trước Tòa án Quốc tế. Nhưng quan trọng hơn là đối với số đông quần chúng nhân dân, chính quyền cộng sản đang rất lo sợ dư luận nhân dân sẽ biết rõ sự việc này, và đặc biệt nếu chính phủ Việt Nam sẽ bị xử thua ở phiên tòa năm sau thì vụ án này sẽ gây ra một sự bất bình lớn trong dân chúng, nếu toàn bộ sự thật được phơi bày có thể sẽ gây ra một làn sóng phản ứng mạnh mẽ mà sẽ khó đoán trước được hậu quả như thế nào.
Sau khi đã đọc và nghe kỹ hầu hết các bài viết và phỏng vấn ở Hải ngoại có liên quan đến vụ án, tôi xin gửi đến quý độc giả (thính giả) và đặc biệt là ông Trịnh Vĩnh Bình thêm một số chi tiết mà tôi khẳng định là yếu tố quyết định vụ án. Với cương vị là một người trong cuộc, tôi xin đảm bảo rằng những thông tin mình đưa ra là chính xác 100% (điều này hy vọng sẽ được ông Trịnh Vĩnh Bình xác nhận), đồng thời cũng cung cấp thêm một số thông tin mà có thể do ở một góc độ khác ông Trịnh Vĩnh Bình không được biết, hoặc vì một vài lí do nào đó mà ông Trịnh Vĩnh Bình đã không tiết lộ, với mục đích làm rõ hơn những ẩn khuất trong vụ án này và để dư luận trong ngoài nước sẽ được biết đến, quan tâm đến vụ án này hơn nữa; qua đó quần chúng nhân dân, đồng bào Việt Nam ở Hải ngoại và trong nước sẽ cùng lên tiếng tố cáo những bất công, bưng bít, vi phạm pháp luật, vi phạm nhân quyền của chế độ Cộng Sản Việt Nam.
Cần trở lại vụ án Công ty cổ phần Bình Châu (cũng gọi là vụ án Bình - Hà Lan) ở những năm 1998-1999, đã được báo chí Việt Nam viết đến rất nhiều, cũng không ít bài báo viết có sự phân tích, mổ xẻ về tính pháp lý của vụ án, bênh vực “bị cáo” Trịnh Vĩnh Bình. Do có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau nên vụ án được dư luận trong nước quan tâm nhiều. Thế nhưng, sự quan tâm đấy cũng chỉ đơn thuần coi như một vụ án kinh tế, có “dính dáng” đến Việt kiều, đến đầu tư nước ngoài. Rất ít ai được biết đến vụ án là đã có những yếu tố chính trị, thậm chí cái yếu tố ấy đã có tính quyết định toàn bộ vụ án. Về nội dung này tôi không nghĩ là ông Trịnh Vĩnh Bình đã không hề biết gì. Gần đây, khi trả lời phỏng vấn báo chí ông Trịnh Vĩnh Bình cũng đã không cung cấp thêm thông tin gì mới hơn, có thể ông cần phải giữ thái độ thận trọng cần thiết, cũng có thể ông chưa được biết chính xác. Tôi xin công khai chi tiết này dưới đây, để độc giả có thể hiểu được bản chất của sự việc và qua đó các bên liên quan sẽ tìm ra những phương pháp hành sử tốt nhất trong những công việc tiếp theo của vụ án mà ông Trịnh Vĩnh Bình đang theo kiện chính phủ Việt Nam.
Những nguyên nhân chính mà ông Trịnh Vĩnh Bình đưa ra (cũng đã được ông Trọng Kim, chủ bút tờ báo Ngày Nay ở Houston, Texas - Hoa Kỳ cho biết thêm) là do ông Bình đã có một sự đối đầu với cơ quan công an tỉnh Bà rịa - Vũng tàu, cụ thể là ông Ngô Chí Ðan, trưởng phòng an ninh điều tra (PA24) và ông Phạm Văn Phương - anh vợ ông Ngô Chí Ðan - chức danh phó Tổng giám đốc công ty liên doanh Vicarent.
Sự việc này cần phải diễn giải chi tiết thêm thì độc giả mới có thể hình dung được. Tại địa phương tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì gần như ai ai cũng đều biết đến ông Ngô Chí Ðan, với cương vị trưởng phòng an ninh điều tra, phó thủ trưởng cơ quan điều tra liên tục mười mấy năm liền, và là một con người khét tiếng với các vụ án quan trọng. Thế nhưng còn nổi tiếng và “tài ba” hơn nhiều lại chính là ông Phạm Văn Phương, anh vợ của Ngô Chí Ðan, với những quan hệ mà những người dân thường chỉ nghe thấy thôi cũng đã phải “rùng mình”, từ Tổng bí thư (xin nói rõ là Tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải bí thư xã, bí thư huyện nhé) đến Thủ tướng, phó Thủ tướng Chính phủ, còn cỡ như Bộ trưởng, Thứ trưởng thì ông Phương có thể quen biết vài chục vị. Chỉ qua việc ông ta đã từng hạ “nốc ao” cả Chủ tịch tỉnh và đưa một vị khác lên thay chức chủ tịch tỉnh, rồi vào ủy viên Trung ương Ðảng Cộng Sản là đủ biết uy lực của ông Phương lớn đến thế nào (riêng sự việc này tôi xin gửi thông tin đến độc giả ở một bài viết khác). Thế nhưng, sau này chính anh em ông Ngô Chí Ðan và Phạm Văn Phương cũng lại phải ra hầu Tòa trong một vụ án khác, mà ông Ngô Chí Ðan đã bị kỷ luật, tước danh hiệu công an, Phạm Văn Phương thì chịu bản án 27 năm tù giam. Thật ra, trong vụ án đó anh em ông Phương, ông Ðan cũng chỉ là con mồi của bộ máy an ninh cộng sản, con mồi của chính cái bẫy mà mình đã giăng ra, và tôi cũng xin khẳng định rằng vụ án đó cũng lại chính là hệ lụy của vụ án Trịnh Vĩnh Bình mà chúng ta đang nói đến hôm nay, vì lí do đó tôi lại phải xin hẹn với độc giả trong một bài viết khác sẽ được nói rõ thêm về vụ án này (độc giả ở Hải ngoại có thể tìm xem về “vụ án Phương Vicarent” trên các trang pháp luật của các báo điện tử tại Việt Nam, còn ở Việt Nam thì chắc là ai cũng đều biết đến vụ án ấy cả). Vì xã hội Việt Nam đã hoàn toàn bị Ðảng cộng sản cưỡng bức thông tin, bưng bít thông tin; chế độ Ðảng trị độc tài can thiệp vào tất cả bê bối kinh tế và chính trị nhằm che dấu tội lỗi của mình, lo sợ sự phản ứng giận dữ của quần chúng, nhằm đảm bảo sự độc tài thống trị của mình, nên người dân không được biết về thế lực thật sự của ông Phạm Văn Phương cùng những hành động tội lỗi của ông ta mà thật ra “tập đoàn Mafia Năm Cam” so ra với ông Phương cũng chỉ bằng hạt cát.
Quay trở lại vụ án của ông Trịnh Vĩnh Bình, thật không may cho ông Trịnh Vĩnh Bình là: Thời điểm mà ông Trịnh Vĩnh Bình vào Việt Nam đầu tư là thời điểm mà ông Phạm Văn Phương và vây cánh của ông ta đang rất mạnh. Tất cả các doanh nghiệp vào đầu tư tại Bà Rịa - Vũng Tàu đều phải nhờ vả hoặc đến “ra mắt” ông Phương, phải chịu sự điều khiển của ông ta, hoặc ít ra cũng phải “cống nộp” tiền bạc cho ông ta. Ông Trịnh Vĩnh Bình vì là người ở Hà Lan đến, cộng thêm sự tự tin là về đầu tư trên quê hương mình nên đã không sớm có sự hiểu biết đó. Nguyên nhân mà ông Trịnh Vĩnh Bình hiểu ra rằng sự khó chịu và đối đầu với ông Phạm Văn Phương đã gây ra cho ông bao nhiêu khó khăn, vất vả sau này, từ đổ vỡ trong kinh doanh, rồi tù tội, trắng tay về kinh tế, rồi phải đào thoát, tính mạng nguy hiểm đến thế nào, và cuối cùng là vụ kiện chính phủ Việt Nam mà ngày hôm nay ông đang theo đuổi. Về xuất phát cơ bản thì đúng là như vậy, nhưng sự thật đằng sau đó có ý nghĩa quyết định vụ án đấy là lí do chính trị, bàn tay của Tổng cục II, Bộ quốc phòng.
Ngay sau khi ông Phương và bè cánh của ông Phương đã lên một “kế hoạch” hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình, người ta chưa hề nghĩ đến sẽ có một hậu quả xấu như thế (tôi chắc là ngay cả chính ông Phương cũng chưa định liệu trước được một hậu quả như vậy.) Bởi vì bản chất của Phương chỉ là một kẻ giang hồ, mượn oai thế và uy lực để bức hiếp kẻ yếu, tống tiền, trục lợi. Về con đường “quan lộ”, với cái gốc là lái xe, không một mảnh bằng cấp, không trình độ ngoại ngữ, Phương không thể “mảy may” nghĩ tới. Và Phương cũng không nghĩ ra được rằng con mồi của mình (ông Trịnh Vĩnh Bình) lại liên quan đến các yếu tố chính trị cơ hội khác. Ngô Chí Ðan, dù là trưởng phòng an ninh điều tra, phòng có uy quyền nhất trong lực lượng công an cộng sản (cơ quan điều tra là cơ quan duy nhất được phép ra lệnh triệu tập và bắt người), là cơ quan theo dõi mọi hoạt động an ninh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, thế nhưng Ngô Chí Ðan cũng không hề có thông tin và âm mưu hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình là có liên quan đến các yếu tố chính trị (ngoài việc biết ông Trịnh Vĩnh Bình là thành viên Ðảng dân chủ tự do Hà Lan). Việc Phương và Ðan mưu hại thật ra cũng chỉ là một màn kịch tống tiền, Phương và Ðan chưa nghĩ ra được Trịnh Vĩnh Bình sẽ trở thành một miếng mồi thơm hơn để có thể trục lợi những âm mưu khác, Phương và Ðan cũng không thể nghĩ ra rằng việc hãm hại Trịnh Vĩnh Bình có thể để lại một hệ lụy khôn lường (cho chính cả bản thân mình và cho cả chính phủ Việt Nam) đến ngày hôm nay.
Mọi việc không chỉ đơn giản như vậy. Chắc rằng, tất cả những người có một chút am hiểu về bộ máy an ninh của cộng sản đều biết rằng: Mọi công dân nước ngoài khi vào hoạt động, làm ăn tại Việt Nam cũng đều bị một sự giám sát vô hình của cơ quan an ninh cộng sản. Ðặc biệt như trường hợp của ông Trịnh Vĩnh Bình, một thành viên của Ðảng dân chủ tự do Hà Lan, ngoài các bộ phận nghiệp vụ của Bộ công an ra thì không thể nào Tổng cục II - Bộ quốc phòng lại có thể “quên” được. Do vậy, giai đoạn mà mạng lưới Mafia của Phạm Văn Phương đang tìm cách hãm hại ông Trịnh Vĩnh Bình ở thời điểm quan trọng, quyết định nhất thì chính là lúc lộ diện vai trò của Tổng cục II. Lúc đó, Phương và Ðan đều có phần lúng túng (dù là không bất ngờ) vì kế hoạch của mình có thể bị bại lộ hoặc phải thay đổi, lúc này bọn chúng phải tính đến việc phải phối hợp với Tổng cục II để hướng sự việc sang một chiều hướng khác. Do phối hợp với Tổng cục II nên nhiều yếu tố mới đã xuất hiện, từ đó sự việc trở nên phức tạp và ngoài tầm kiểm soát của Phương - Ðan, nhưng cũng lại mở ra một âm mưu mới táo bạo hơn, có lợi hơn cho Phương - Ðan (âm mưu hạ bệ ông Nguyễn Trọng Minh, chủ tịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sau vụ án này.)
Ðây là yếu tố quyết định của vụ án này, và cũng chính từ Tổng cục II đã phát ra nhiều thông tin đặc biệt rất bất lợi đến ông Trịnh Vĩnh Bình (đến bây giờ cũng khó khẳng định được những thông tin này là thật hay “dỏm” như những thông tin mà Tổng cục II đưa ra về ông Võ Nguyên Giáp và các lãnh đạo cao cấp khác ?) Những diễn biến dưới đây , tôi cũng xin để trả lời cho nguyên nhân tại sao mà ông Trọng Kim, chủ bút tờ báo Ngày Nay ở Houston, Texas - Hoa Kỳ, không biết được tại sao mà ngay cả khi đã có bút phê của thủ tướng chính phủ Việt Nam - Phan Văn Khải - rồi mà bên Bộ công an họ vẫn ra lệnh khởi tố, bắt giam ông Trịnh Vĩnh Bình (xin xem thêm trong phỏng vấn ngày 15/5/2005 của Ðài RFA, BBC hoặc các trang Web: www.ykien.net, www.doi-thoai. com, www.danchimviet. com ...) Và qua đây tôi cũng xin làm rõ một số chữ viết tắt (mà theo tôi là không cần thiết), và một số điều chưa rõ trong “Thư gửi đồng bào cả nước” của tác giả Nguyễn Thiện Tâm đăng trên rất nhiều báo chí Hải ngoại thời gian gần đây, ở phần nói về vụ án của ông Trịnh Vĩnh Bình (xin đọc trên trang Web: www.vnn-news. com ra ngày 18/5/2005). Việc này ông Trọng Kim cho rằng: Là do thế lực và vây cánh của thứ trưởng Bộ công an - Nguyễn Khánh Toàn - quá mạnh. Thực chất, không phải là như vậy, mặc dù tôi cũng khẳng định rằng ông Phương - Ðan có quan hệ rất thân thiết với ông Nguyễn Khánh Toàn (thậm chí việc ông Nguyễn Khánh Toàn mất ghế Bộ trưởng công an sau này cũng do vụ án “Phương Vicarent” mà liên lụy), thế nhưng lúc đấy ông Lê Minh Hương là Bộ trưởng - Ủy viên Bộ chính trị, quyền lực rất mạnh nếu muốn làm cũng không thể làm được gì, đấy chính bởi vì đã có bàn tay của Tổng cục II - Bộ quốc phòng dính vào, thậm chí là quyết định toàn bộ vụ án.
Rất ít khi có một vụ án kinh tế mà lại phức tạp như vụ án này. Cần phải nói rõ thêm, về vụ án này đã có mấy chục cá nhân liên quan được cơ quan công an thẩm vấn, điều tra. Trong số các bị cáo, ngoài ông Trịnh Vĩnh Bình là bị cáo chính, còn một nhân vật cũng được rất nhiều người biết đến, đấy chính là ông Lê Quang Luyện, tiến sĩ hóa học, đã từng là thư ký riêng của Chủ tịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; gia đình bà Hương, vợ ông Luyện, lại có quan hệ với bà phó chủ tịch nước Việt Nam lúc đó là Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Mạnh Cầm (lúc đó mới chỉ là Bộ trưởng Bộ ngoại giao). Từ đó đã nảy sinh ra rất nhiều mối quan hệ, nhiều sức ép từ nhiều phía. Bằng con đường ngoại giao, chính phủ Hà Lan đã có công hàm cho chính phủ Việt Nam. Thường vụ Bộ chính trị Việt Nam đã phải họp mở rộng bốn lần về vụ án này. Theo quan điểm ngoại giao, ông Phan Văn Khải và bà Nguyễn Thị Bình (đã từng là bộ trưởng ngoại giao và trưởng phái đoàn đàm phán của CPLTCHMN Việt Nam tại Paris) đề nghị đình chỉ vụ án và giải oan cho ông Trịnh Vĩnh Bình. Ngược lại, ý kiến của ông Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương và đặc biệt người tỏ ra quyết liệt, gay gắt nhất là ông Phạm Thế Duyệt (người mà tác giả Nguyễn Thiện Tâm viết tắt là PTD, còn ba người kia nữa là ông Châu Văn Mẫn - giám đốc công an tỉnh Bà rịa - Vũng tàu, Lê Văn Dỹ - bí thư tỉnh ủy, sau này bị khiển trách và đưa ra làm Phó Ban kinh tế Trung ương, và Phạm Văn Phương) là phải kiên quyết xử lý. Nhưng từng ý kiến của các vị Ủy viên Bộ chính trị ấy đều không có tính quyết định bằng các chứng cứ của Tổng cục II đưa ra, họ khẳng định rằng Trịnh Vĩnh Bình vào Việt Nam là để hoạt động gián điệp, núp dưới cái “vỏ” doanh nhân. Tổng cục II đã đưa ra hàng loạt những ghi chép theo dõi về các hoạt động của ông Trịnh Vĩnh Bình, một trong những mục tiêu của Trịnh Vĩnh Bình là mua chuộc các cán bộ cao cấp nhất, mà cụ thể Tổng cục II đưa ra dẫn chứng về một cuộc sắp đặt của ông Trịnh Vĩnh Bình tiếp xúc ông Phan Văn Khải, cũng như việc ông Trịnh Vĩnh Bình đã dùng tiền hối lộ (mà theo tổng cục II là để mua chuộc, khống chế) ông Nguyễn Trọng Minh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà rịa - Vũng tàu (sau này ông Minh cũng bị mất chức Chủ tịch vì vụ việc này) (người viết chỉ đưa ra các chi tiết theo các tài liệu có được, điều này chắc chắn ông Trịnh Vĩnh Bình là người biết rõ nhất và là đúng sai như thế nào ?) Về phía bà Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Mạnh Cầm cũng được Tổng cục II cho biết những mối quan hệ và tiếp xúc với gia đình ông Lê Quang Luyện, do vậy ông Khải, ông Cầm và bà Bình gần như “chết cứng”, không thể nói được gì nữa. Vậy là từ một âm mưu tống tiền rồi chuyển thành một vụ án kinh tế, một vụ án kinh tế lại được biến ra thành một vụ án chính trị. Bộ chính trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã phải trực tiếp chỉ đạo vụ án. Tuy nhiên, cả phía an ninh quân đội và công an đều cho rằng họ đã “bắt non” ông Trịnh Vĩnh Bình, vì vậy họ phải xử theo một vụ án kinh tế (chứ không phải là “hình sự hóa quan hệ kinh tế” như ông Trịnh Vĩnh Bình đã trả lời phỏng vấn báo chí). Vậy là việc ông Trịnh Vĩnh Bình bị kết án là việc không thể tránh khỏi và là một “vở kịch” đã được Tổng cục II viết sẵn rồi, các công việc thủ tục pháp lí tiếp theo chỉ còn mang tính chất hợp pháp hóa cho cái “vở kịch” đó thôi.
Nhưng sau khi ông Trịnh Vĩnh Bình đã bị kết án và bắt giam rồi thì lại xảy ra một “tấn tuồng” khá vụng về của cơ quan an ninh Việt Nam và “tấn tuồng” ấy đã để lại hậu quả đến hôm nay. Ðấy chính là việc “để thoát” ông Trịnh Vĩnh Bình, cần xem lại các báo chí Việt Nam viết về sự kiện đó, các báo đưa tin: “Trịnh Vĩnh Bình đã bỏ trốn khi cơ quan công an di lí từ Tân Sơn Nhất ra Nội Bài - Hà Nội” (đào thoát trên máy bay mới lạ chứ! Thật là một “trò hề” quá vụng về!) Việc này, gần đây tất cả các bài báo và trả lời phỏng vấn của ông Trịnh Vĩnh Bình đều không đề cập đến. Có thể vì lí do nào đó mà ông Trịnh Vĩnh Bình đã né tránh điều này, chỉ duy nhất hai lần ông Trịnh Vĩnh Bình và ông Trọng Kim nhắc đến sự việc này với từ “đào thoát” mà không nói gì thêm. Tôi chắc chắn rằng ông Trịnh Vĩnh Bình có thể viết sách bán được về cái vụ “đào thoát” của mình. Tôi cũng đề nghị ông Trịnh Vĩnh Bình cần công khai tất cả những chi tiết này, vì nó sẽ có lợi hơn cho ông. Theo một thông tin tuyệt mật được phía Bộ công an tiết lộ thì âm mưu đào thoát của ông Trịnh Vĩnh Bình lại là một kế hoạch được thỏa thuận ngầm của Tổng cục II. Rất may khi ông Trịnh Vĩnh Bình đã nghĩ là: “Sau một thời gian tôi được tại ngoại, tôi cảm thấy là có nguy cơ tôi sẽ bị bắt lại và đưa vào tù và có thể tôi sẽ bị chết. Do đó, với hoàn cảnh đó, tôi phải đào thoát khỏi Việt Nam.” Bởi vì, theo kế hoạch đó của Tổng cục II, việc họ bắt và xử ông là không có cơ sở, trái với luật pháp Quốc tế và Việt Nam. Do vậy, các Chính phủ và tổ chức Quốc tế sẽ can thiệp và nếu sự việc vỡ lở lúc đó sẽ dẫn đến những hậu quả lớn hơn trên trường Quốc tế. Vậy thì, cách tốt nhất là họ để ông “đào thoát” và sau đó sẽ tìm cách thủ tiêu ông, lúc đó sẽ chẳng có ai phải chịu trách nhiệm về vụ án của ông cũng như mạng sống của ông nữa. Nếu có một tổ chức điều tra Quốc tế nào đó có thể điều tra ra thì đấy cũng chỉ như một vụ án hình sự thanh toán lẫn nhau của các băng nhóm giang hồ mà thôi. Những linh tính đã mách bảo cho ông Trịnh Vĩnh Bình và cứu ông thoát khỏi cái chết trong tay của Tổng cục II. Phải chăng, đây là một trong những trường hợp may mắn khá hi hữu, hay là khi ông Trịnh Vĩnh Bình tiết lộ rõ mọi chuyện thì người ta sẽ lại được thấy thêm những bộ mặt phản trắc trong nội bộ Tổng cục II?
Từ vụ án này người ta lại thấy bản chất cực kỳ thâm độc của cơ quan An ninh cộng sản - Tổng cục II. Nhưng hơn tất cả là người ta nhận thấy sức mạnh ghê gớm của nó, nó có thể điều hành tất cả các vị trí, chức vụ cao nhất trong Ðảng, trong Chính phủ, kể cả các ủy viên Bộ chính trị. Nó có thể can thiệp vào mọi công việc và quyết định mọi sự việc theo ý mình. Sau vụ này cũng cần phải nói thêm là viên trung tá phụ trách Tổng cục II ở Bà Rịa - Vũng Tàu là Võ Minh Thắng (biệt hiệu là Thắng “què”) đã được phong quân hàm lên chức thượng tá.
Cuối cùng, điều gì cần rút ra sau vụ án này Dù ông Trịnh Vĩnh Bình có thắng hay thua trong vụ án này thì nhiều bài học rất xót xa cũng đã và sẽ được rút ra từ các bên, mà những nguyên nhân của nó lại chính xuất phát từ cơ quan an ninh - Tổng cục II, Bộ quốc phòng Việt Nam, một cơ quan đã gây ra quá nhiều vụ án, tai tiếng từ quá khứ và hiện tại rồi sẽ ảnh hưởng đến tương lai của cả dân tộc. Nhà nước Việt Nam thì bị tai tiếng, mất uy tín trên trường Quốc tế. Chính quyền Việt Nam thì bị mất đi một số cán bộ do bị họ chụp mũ, vu khống, cưỡng bức. Các cá nhân, các tổ chức, doanh nghiệp, những người không thể tự mình có thể đối phó với thế lực của họ thì bị tù đày, oan ức, sạt nghiệp và không ít người bị thủ tiêu, bức tử. Và điều gì nữa sẽ xảy ra nếu ông Trịnh Vĩnh Bình sẽ thắng kiện trong vụ kiện sắp tới (mà cá nhân tôi tin chắc rằng ông ta sẽ thắng kiện)? Ông Trịnh Vĩnh Bình cũng đã khẳng định rằng số tài sản ban đầu mà ông đầu tư vào Việt Nam chỉ tổng cộng trên dưới 4 triệu Mỹ kim; tất nhiên con số 100 triệu Mỹ kim của ông Bình và luật sư của ông đưa ra yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải bồi thường cũng phải rất có cơ sở, vậy số tiền chênh lệch lên đến 96 triệu đô la Mỹ, có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ gấp 24 lần giá trị ban đầu. Một trăm triệu đô la Mỹ, đâu phải là một khoản tiền nhỏ? Một khoản tiền rất lớn đối với mọi quốc gia, và đối với Việt Nam lại càng là một số tiền khổng lồ. Ở Việt Nam, với số tiền đó có thể xây dựng được hơn 200 trường học khang trang, hiện đại; khoảng 30 bệnh viện lớn. Số tiền đó có thể giúp cho khoảng 160,000 hộ gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo. Và nếu chia đầu người 82 triệu dân Việt Nam phải gánh chịu thì già trẻ, lớn bé mỗi người đều phải đóng góp gần 20,000 đồng mới đủ để trả cho ông Trịnh Vĩnh Bình, chưa tính được án phí sẽ là bao nhiêu nữa.
Thật là khủng khiếp. Thật là đáng căm giận! Số tiền đó ai sẽ phải trả? Chính phủ Việt Nam ư? Chẳng có Ngân sách quốc gia nào cả, đấy chính là tài sản của nhân dân Việt Nam đó. Tất cả một đồng bạc nào của đất nước Việt Nam cũng đều do nhân dân lao động làm ra và đóng góp cả. Hết vụ kiện của ông Letard kiện Liên đoàn bóng đá Việt Nam số tiền 197,000 Mỹ kim, rồi lại đến vụ hãng hàng không quốc gia Việt Nam Airline bị kiện bồi thường khoảng 5 triệu đô la Mỹ, rồi lại đến vụ kiện của ông Trịnh Vĩnh Bình sắp tới đây. Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam sẽ lấy đâu ra tiền để bồi thường những khoản tiền đấy (dù chỉ là chi phí theo hầu kiện và án phí)? Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam làm gì có “của hồi môn” nào để lại mà tự gánh chịu thiệt hại? Tất nhiên những đồng tiền ấy là của NHÂN DÂN rồi! Thế thì, ai cho phép Ðảng Cộng Sản Việt Nam được tự ý sử dụng những đồng tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân như vậy? Ai cho phép Ðảng Cộng Sản Việt Nam dùng mồ hôi của người lao động để đóng cái khoản “tiền ngu” cho mình như thế? Tại sao báo chí Việt Nam và những ông luật gia, luật sư lại chỉ nói đến việc ấy một cách vô cảm, vô trách nhiệm như là một “bài học kinh nghiệm”? Nhân dân Việt Nam đâu có cần và đâu có làm ra những “bài học kinh nghiệm” đó ?
Hay phải chăng những đồng tiền đó không phải là mồ hôi, nước mắt của nhân Việt Nam? Hoàn toàn không thể như vậy được, chẳng qua là do người dân không được biết sự thật đó thôi. Nhân dân Việt Nam cần phải biết sự thật! Những nhà hoạt động dân chủ, những người có khả năng và phương tiện để tuyên truyền đến dân chúng, cùng tất cả những người dân yêu nước Việt Nam, phải vạch rõ những sự thật này cho mỗi người dân trong nước được biết đến. Trách nhiệm là của tất cả mọi người, nếu chúng ta không muốn nhìn thấy bất công, nếu chúng ta không muốn đất nước và nhân dân phải chịu thiệt hại, nếu chúng ta không muốn lại tái diễn những sự kiện tương tự, chúng ta phải có trách nhiệm thông báo và giải thích rõ những sự kiện này đến mỗi người dân lao động Việt Nam? Tại sao các tổ chức đối lập ở Hải ngoại không lên tiếng đấu tranh với Chính phủ Việt Nam về những sự kiện này? Phải chăng là họ không cảm thấy thương xót cho tài sản, mồ hôi nước mắt của đồng bào mình đã bị Nhà nước cộng sản xâm phạm? Tại sao những nhà hoạt động dân chủ trong và ngoài nước không lên tiếng đấu tranh với một sự việc quá rõ ràng và không thể bưng bít được (so với vụ án Tổng cục II mà lâu nay vẫn tốn nhiều giấy mực nói đến)? Phải chăng các nhà hoạt động dân chủ cho rằng vụ việc này không liên quan đến đấu tranh dân chủ, không thiệt hại đến đồng bào và cá nhân mình? Còn chờ gì nữa? Ðã đến lúc cần phải tự cảnh tỉnh và tự vấn mình!!
Bài viết này tôi cũng xin gửi đến toàn thể đồng bào Việt Nam ở trong nước và Hải ngoại để chúng ta được biết thêm sự thật đằng sau bức màn đen tối của chế độ cộng sản Việt Nam. Tôi xin nhờ đến các cơ quan đài, báo Việt Nam ở Hải ngoại và đài, báo quốc tế có quan tâm đến sự việc này giúp tôi chuyển bài viết này đến đồng bào Việt Nam ở trong nước và trên khắp Thế giới. Tôi cũng rất mong sẽ nhận được những ý kiến của ông Trịnh Vĩnh Bình để khẳng định thêm tính trung thực về những tư liệu mà tôi đưa ra, đồng thời cũng rất mong muốn rằng ông Trịnh Vĩnh Bình sẽ cho các cơ quan báo chí và đồng bào Việt Nam được biết thêm những chi tiết về cuộc “đào thoát” của mình, cùng những thủ đoạn đen tối của cơ quan an ninh cộng sản đã áp dụng đối với ông. Tôi cũng sẽ xin cung cấp thêm những thông tin riêng mà mình đang có liên quan đến vụ án mà ông đang theo đuổi, nếu ông thấy cần thiết.
Xin hẹn trở lại với độc giả ở một bài viết sau, nói về hậu quả của vụ án Bình Châu (Trịnh Vĩnh Bình) đã để lại cho gia đình ông Phạm Văn Phương và Ngô Chí Ðan, cũng chính là một vụ bê bối chính trị trong bộ máy cộng sản được ém nhẹm, ngụy trang dưới cái vỏ “kinh tế” để lừa bịp che mắt nhân dân.

Bà Rịa-Vũng Tàu ngày 25/5/2005

Trần Quốc Hoàn

Phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Bình về vụ kiện CQVN ra Tòa Trọng tài Quốc tế lần 2 (phần 1)


Kính thưa quý độc giả !

Tất cả những ai theo dõi thời cuộc Việt Nam trong vài thập niên vừa qua, đều biết đến vụ án Trịnh Vĩnh Bình, một triệu phú ở Hoà Lan. Ông Trịnh Vĩnh Bình, đã đem hơn 4.000.000 USD (bốn triệu USD) về Việt Nam làm ăn và đầu tư trong nước vào cuối năm 1990. Ông đã bị Nhà cầm quyền Việt Nam tước đoạt mất hết cơ nghiệp và còn bị lãnh án 11 năm tù vào năm 1996. Ông đã bị giam giữ hơn 18 tháng. Nhưng trong khi bị quản thúc tại gia, ông Bình bằng một cách bí mật đã thoát ra khỏi Việt Nam.
Ông Trịnh Vĩnh Bình. Ảnh: internet
Trong thời gian đó, ông Trịnh Vĩnh Bình đã nhờ Tập đoàn luật sư nổi tiếng của Mỹ Covington Burling ở Washington và sau đó thuê Tổ hợp Luật sư KING & SPALDING LLP làm đại diện để kiện Nhà cầm quyền Việt Nam lên Toà Án Trọng Tài Quốc Tế, đồng thời đòi bồi thường thiệt hại. Nhà cầm quyền Việt Nam cũng đã thuê một công ty luật sư nổi tiếng của Pháp để đại diện cho họ trong vụ kiện này.
Khi thấy ông Trịnh Vĩnh Bình có khả năng thắng kiện, Nhà cầm quyền Việt Nam đã “đi đêm” với ông. Sau đó, hai bên đã thoả thuận với nhau:
– Ông Trịnh Vĩnh Bình đồng ý bãi nại;
– Nhà cầm quyền Việt Nam hứa sẽ bồi thường cho ông Trịnh Vĩnh Bình 15.000.000 USD (mười lăm triệu USD), đồng thời sẽ trả lại tất cả những tài sản mà họ đã tước đoạt của ông”.
Kết quả là: Ông Trịnh Vĩnh Bình đã nhận được số tiền trên. Nhưng Nhà Cầm Quyền Việt Nam hoàn toàn không trả lại tài sản cho ông Bình như đã hứa.
Vì vậy, ông Trịnh Vĩnh Bình lại một lần nữa phải thưa Nhà cầm quyền Việt Nam lên Toà Án Trọng Tài Quốc Tế, theo quy chế UNCITRAL (The United Nations Commission on International Trade Law), trụ sở đặt tại La Haye – Hoà Lan. Phiên toà lần này sẽ xử tại Paris, vào ngày 21/8/2017 và có thể kéo dài từ 7 đến 10 ngày.
Sau đây là cuộc phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Bình do Nguyễn Hoàng Mơ (NHM) thực hiện:
NHM: Chúng tôi vừa được tin ông đã nhờ Tổ hợp Luật sư KING & SPALDING LLP kiện Nhà cầm quyền Việt Nam lên Toà Án Trọng Tài Quốc Tế và vụ án sẽ được xét xử tại Paris ngày 21/8/2017, tin này có đúng không, thưa ông?
Trịnh Vĩnh Bình: Vâng! Tin đó hoàn toàn chính xác!
NHM: Trước đây, chúng tôi từng nghe nói, việc tranh tụng cũng đã được đưa lên kiện ở Toà Án Trọng Tài Quốc tế ở Stockholm – Thuỵ Điển. Nhưng trước khi xử thì giữa Nhà cầm quyền Việt Nam và ông đã đi đến thoả thuận và ông đã bãi nại. Như vậy, vì lí do nào đã khiến ông kiện Nhà cầm quyền Việt Nam trở lại ạ?
Trịnh Vĩnh Bình: Vâng! Đúng như thế! Trước đây khi vụ án sắp được xử ở Thuỵ Điển, khoảng 10 ngày trước ngày xử, Nhà cầm quyền Việt Nam và tôi đã kí một thoả thuận để hoà giải, tức là giải quyết ngoài toà.
Lúc đó, Toà Án Trọng Tài Quốc Tế đã sắp xếp phiên xử từ ngày 5 đến 12 tháng 12/2006. Nhưng về phía Việt Nam, họ đã đưa ra cam kết sẽ trả lại toàn bộ tài sản, nếu tôi đồng ý yêu cầu ngưng phiên xử, đồng thời Nhà cầm quyền Việt Nam sẽ trả một khoản phí để trang trải cho những chi phí mà tôi đeo đuổi vụ kiện đó. Khi hai phía đã kí kết vào bản Thoả Thuận, tôi đã yêu cầu Toà Án Trọng Tài Quốc Tế ngưng phiên xử.
Sau đó, tôi trở về Việt Nam. Nhưng hơn 7 năm qua, tôi vẫn chưa nhận lại được tài sản như Nhà cầm quyền Việt Nam đã cam kết.
NHM: Vì Nhà cầm quyền Việt Nam không tôn trọng cam kết nên bây giờ ông lại phải kiện Họ lên Toà Án Trọng Tài Quốc Tế? Ông đã dựa vào cơ sở nào để kiện lần thứ hai ạ?
Trịnh Vĩnh Bình: Để trả lời câu hỏi này của phóng viên, tôi xin trích đoạn 1 và 21 trong Bản Trả Lời của các nguyên đơn do Tổ Hợp Luật Sư KING & SPALDING LLP đại diện:
* Đoạn 1: Các Nguyên đơn đã giải thích trong Đơn Khởi kiện của mình về câu chuyện không thể hiểu được của ông Trịnh Vĩnh Bình, sau hai thập kỷ bị ngược đãi trong bàn tay của các cơ quan của Việt Nam. Sự nghiêm trọng và vô pháp luật trong hành vi của Việt Nam thực sự có tính chất Kafka. Điều này bao gồm các cáo buộc hình sự được ngụy tạo; sự truy tố sai lệch và có động cơ chính trị; tra tấn liên tục trong khi bị giam giữ; vi phạm một cách rõ ràng đối với quyền yêu cầu được xét xử đúng pháp luật; “phiên tòa dàn dựng” tại một tòa án kiểu chuột túi mà trên thực tế đã bị kết án trước hàng tháng bởi lãnh đạo Đảng Cộng sản và Chính phủ, tiếp nối bởi bản án phúc thẩm có giá trị chung thẩm khó hiểu (“Bản án”) khiến cho việc giải thích các căn cứ pháp lý trong việc kết án ông Trịnh không thể thực hiện được; và việc Nhà nước thu giữ tài sản của ông, lấy cớ là thi hành Bản án, mà đỉnh điểm là việc thu giữ trên 50 bất động sản (“Tài sản”) và các tài sản khác mà hiện nay có trị giá trên 250 triệu USD. Về cốt lõi, căn cứ của tranh chấp này nằm tại hành vi của Việt Nam liên quan đến bản án hình sự oan sai của ông Trịnh, cũng như việc chiếm đoạt tài sản của ông, xảy ra sau đó.
* Đoạn 21: Phán quyết trong Vụ kiện Trọng tài Thứ nhất không có hiệu lực ngăn cản bởi vì phán quyết này chỉ đơn thuần là phán quyết chấm dứt theo Mục 27(1) của Đạo luật Trọng tài Thụy Điển. Các bên đồng ý rằng các phán quyết theo Mục 27(1) của Đạo luật Trọng tài Thụy Điển không có hiệu lực theo quy định bản án đã tuyên. Ngược lại với lý lẽ của Việt Nam, Phán quyết không phải là một phán quyết có hiệu lực ngăn chặn theo Mục 27(2) của Đạo luật Trọng tài Thụy Điển bởi vì các phán quyết theo đạo luật đó phải đồng thời được yêu cầu bởi các bên và có các điều khoản được thỏa thuận về giải quyết [tranh chấp]. Cả hai điều này đều không xảy ra: các bên không yêu cầu bất kỳ phán quyết nào, phán quyết cuối cùng được đưa ra (theo yêu cầu của Hội đồng Trọng tài Thứ nhất, không phải các bên) không bao gồm các điều khoản được thỏa thuận (ngược lại, các bên không thể thỏa thuận về các điều khoản), và Phán quyết không bao gồm các điều khoản của Thỏa Thuận Singapore (vẫn bí mật và chưa được xem bởi Hội đồng Trọng tài Thứ nhất, theo yêu cầu riêng của Việt Nam).
NHM: Trước đây ông đòi số tiền bồi thường, nghe đâu khoảng 150 triệu USD, còn lần này thì con số sẽ là bao nhiêu ạ?
Trịnh Vĩnh Bình: Tôi chưa có thể nói con số chính xác là bao nhiêu, nhưng một điều chắc chắn là lần này con số sẽ cao hơn, thậm chí là nhiều lần.
NHM: Ông có thể cho biết con số phỏng đoán được không ạ?
Trịnh Vĩnh Bình: Được chứ! Số tiền được phỏng đoán trên 1,5 tỉ USD, gồm cả bồi thường tài sản lẫn bồi thường giam giữ người, vi phạm luật Quốc tế.
NHM: Căn cứ vào những khía cạnh nào để ông đòi bồi thường cao?
Trịnh Vĩnh Bình: Căn cứ vào việc Nhà cầm quyền Việt Nam không thực hiện cam kết như đã thoả thuận, mà chỉ muốn lừa tôi để đạt được mục đích là ngưng phiên xử tại Stockholm. Nhưng sau đó, họ đã không tuân thủ cam kết. Như vậy, tôi sẽ có thể đòi bồi thường những tổn thất của giai đoạn trước và cộng thêm những thiệt hại từ ngày đó đến nay và có thể còn nhiều mục mà tôi chưa tiện tiết lộ.

Để làm sáng tỏ câu trả lời của tôi, tôi xin trích dẫn đoạn 653 trong Bản Trả Lời của các nguyên đơn do Tổ Hợp Luật Sư KING & SPALDING LLP đại diện:
* Đoạn 653: Tóm lại, khi sáu nhóm hành vi kể trên của Việt Nam được xem xét cùng nhau thì hành vi của Việt Nam liên quan đến vụ án hình sự của ông Trịnh có thể nói đã cấu thành nên một trong những nhóm hành vi từ chối xét xử công bằng vô nhân đạo nhất trong lịch sử luật pháp quốc tế. Đơn giản là không có bất kỳ một cách lý giải hay biện minh nào cho hàng loạt vi phạm thủ tục tố tụng hợp pháp mà các Cơ quan Tư pháp và Hành pháp của Việt Nam gây ra đối với ông Trịnh. Ngoài ra, nhiều việc làm trong mỗi nhóm hành vi liệt kê trên đây cũng cấu thành nên những hành vi từ chối xét xử công bằng độc lập và riêng rẽ. Sau cùng, mỗi hành vi riêng lẻ thuộc một trong số sáu nhóm này tự bản thân nó đều cấu thành hành vi từ chối xét xử công bằng hoặc nếu không cũng là các hành vi vi phạm thủ tục tố tụng hợp pháp theo nguyên tắc FET.
NHM: Thưa ông, vụ kiện này sẽ có lợi gì cho những người đã bị Nhà cầm quyền Việt Nam giam giữ, vi phạm nhân quyền?
Trịnh Vĩnh Bình: Theo tôi, vụ kiện này sẽ tạo tiền lệ đòi Nhà cầm quyền Việt Nam bồi thường cho những vụ giam giữ, vi phạm đến quyền con người, đến tài sản của người dân. Chỉ tính từ tháng 4/1975 đến nay đã có khoảng 1 triệu người bị giam giữ không minh bạch. Nếu số người này tập hợp lại kiện thì Nhà cầm quyền Việt Nam sẽ như thế nào?
NHM: Ông có thể nói rõ hơn suy nghĩ của ông về vụ kiện này?
Trịnh Vĩnh Bình: Tôi muốn nói rõ thêm, vụ kiện này không chỉ mang tính hình sự mà nó còn mang tính chế tài về kinh tế. Về khía cạnh này, tôi thấy chúng ta phải nhìn sự việc ở cả hai mặt của vấn đề:
a- Việc tôi đòi bồi thường những tổn thất do Nhà cầm quyền Việt Nam gây ra là rất đương nhiên và cần thiết;
b- Cũng phải để Nhà cầm quyền Việt Nam trả giá cho hậu quả của việc họ tịch thu trái phép, chiếm lấy tài sản của người dân bừa bãi (ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến tải sản của tôi) và cả việc họ bắt giữ người tuỳ tiện – mà từ trước đến nay, các cơ quan tư pháp, hành pháp Việt Nam dù có làm sai trái, vi phạm pháp luật – nhưng hiếm khi bị chế tài. Vì nạn Huyện binh Huyện, Phủ binh Phủ, nạn cửa quyền ở Việt Nam nên thường xuyên đã có những hành vi như: vượt quyền hạn; vi phạm pháp luật; xâm phạm đến quyền con người; đến tài sản nhân dân ở Việt Nam. Những hành vi trái nguyên tắc này cần phải được xử lí thích đáng. Cho nên nếu vụ việc này được đưa ra Toà Án Trọng Tài Quốc Tế thì dù cho chính phủ của một nước siêu cường đi nữa cũng vẫn bị phán quyết, một khi họ làm sai. Và như vậy, đích thực là bài học đích đáng, khá cần thiết, cho tình trạng “có pháp luật cũng như không có pháp luật” ở Việt Nam hiện nay.
NHM: Khi đọc những bài báo, những phóng sự trước đây từ những năm 1998 – 2006, một phần đã được đưa lên mạng, chúng tôi thấy dư luận trong lẫn ngoài nước, phần lớn mong muốn ông thắng kiện. Cũng có người cho rằng việc ông thắng thua chưa phải là việc quan trọng hàng đầu. Điều quan trọng nhất ở đây vẫn là ông dám phơi bày, dám đưa ra công luận sự gian trá và thiếu minh bạch của Nhà cầm quyền Việt Nam. Họ nói một đàng làm một nẻo!
Ông có ý kiến gì về việc này ạ?
Trịnh Vĩnh Bình: Tôi đồng ý với cả hai nguồn phản ánh của dư luận. Nếu tôi thắng kiện, như đã trình bày trong phần phỏng vấn trước:
a- Tôi đòi lại những thiệt hại, tổn thất do Nhà cầm quyền Việt Nam gây ra;
b- Từ những vụ kiện như vậy, cho nhà nước Việt Nam thấy được hậu quả của việc họ bắt bớ, tịch thu và xâm chiếm tài sản của người dân vô tội như thường xảy ra hằng ngày ở Việt Nam hiện nay. Rồi cũng có ngày, họ sẽ phải trả cái giá cho hành vi bá quyền, ngang ngược và độc ác đó!
Một khi Nhà cầm quyền Việt Nam đã có tiền lệ bị đưa ra Toà Án Quốc Tế, sẽ mở màn cho nhiều người dân bị oan trái, bị ức hiếp tập hợp lại để kiện Nhà cầm quyền Việt Nam. Tôi nghĩ rằng Nhà cầm quyền Việt Nam chưa thấy được, chưa ý thức đến, chưa gặp thì đúng hơn sức mạnh của sự tập hợp vừa kể, chưa nói đến sự binh vực và hỗ trợ của người Việt hải ngoại. Hiện nay, có gần 4 triệu người Việt sống ở nước ngoài, trong số đó, không ít người Việt đã tham gia vào dòng chính, giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền từ cấp thành phố, tiểu bang lên đến liên bang và nắm trong tay một sức mạnh tài chánh không nhỏ.
Chúng ta có thể xem lại, đã nhiều năm Nhà cầm quyền Việt Nam làm bao nhiêu việc sai trái, bức hiếp dân, chiếm đoạt tài sản của dân, mặc dù có tiếng nói của quốc tế. Thế nhưng tiếng nói là tiếng nói, can thiệp là can thiệp, Nhà cầm quyền Cộng Sản vẫn trơ như đá!
Nhưng bây giờ thì khác, một khi bị thua kiện, bị đóng phạt một số tiền lớn, mà càng lớn thì càng hay, Nhà Cầm Quyền Việt Nam sẽ phải tự kiềm chế, tự điều chỉnh guồng máy công quyền, bằng không thì hậu quả như tôi đã nói trên, sẽ khôn lường!
NHM: Vậy thì người dân trong nước, làm thế nào tập hợp lại để kiện Nhà cầm quyền Việt Nam, khi bị oan trái, thưa ông?
Trịnh Vĩnh Bình: Trên đời này, câu hỏi nào cũng sẽ có câu trả lời. Khó khăn cách mấy cũng sẽ có cách giải quyết!
Câu hỏi này, tôi xin nhường cho các vị trong ngành luật giải thích, sẽ chính xác hơn. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay, vấn đề toàn cầu hoá, ngày càng rõ. Bên cạnh đó là sự đòi hỏi về nhân quyền, minh bạch ngày càng quyết liệt. Để có thêm tư liệu tham khảo, kính mời quý vị độc giả vào trang web, tìm “Netherlands-Vietnam BIT, Trinh Vinh Binh”, hoặc bằng tiếng Việt “Vụ án Trịnh Vĩnh Bình” (thời gian sau này, những trang web này bị ngăn chặn một phần ở Việt Nam). Trong những trang web này, có nhiều tư liệu tham khảo liên quan đến câu hỏi trên. Hi vọng trong lần phỏng vấn tới tôi sẽ trả lời rõ ràng hơn về câu hỏi này.
NHM: Chúng tôi xin được đặt câu hỏi cuối cùng: Giả sử ông thắng kiện, với số tiền lớn như vậy, ông sẽ sử dụng như thế nào ạ?
Trịnh Vĩnh Bình: Như trong phiên xử trước, tôi có một tâm nguyện: trường hợp tôi được thắng kiện, tôi sẽ sử dụng 90% số tiền được bồi thường cho mục đích từ thiện, không ngoại trừ giúp đỡ những nạn nhân bị bức hại trong nước (theo nghĩa rộng).
NHM: Thay mặt nhóm phóng viên theo dõi vụ án – Nguyễn Hoàng Mơ, Phan Bá Việt, Lê Viết Thông, Nguyễn Hoàng Hà và Nguyễn Văn Toàn – chúng tôi xin chân thành cám ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Xin cảm ơn quý độc giả đã theo dõi cuộc phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Bình và xin hẹn quý độc giả trong cuộc phỏng vấn tiếp theo.

Nguyễn Hoàng Mơ

(FB Hoa Mai)

Bàn cờ thế Đồng Tâm


LẬP LUẬN PHÍA ĐỒNG TÂM

Toàn bộ sự việc Đồng Tâm liên quan tới hai khu đất riêng rẽ, nằm kề nhau, tạm gọi là Khu A (47,36 ha) và Khu B (59 ha).
Khu A là đất dự án sân bay Miếu Môn mà dân Đồng Tâm giao cho Chính phủ từ năm 1980. Dự án sân bay treo tới nay đã 37 năm nên để tránh lãng phí, Quân đội đã giao kèo với Đồng Tâm cho phép dân canh tác và nộp tô lợi cho Quân đội suốt hàng chục năm qua.

Trong video, cụ ông tên Kình giải thích về tranh chấp khiếu kiện tại xã Đồng Tâm
Thật kỳ khôi khi Quân đội ngồi không hưởng tô lợi trên đất vốn của dân làng trước đây, song để có đất canh tác thì dân Đồng Tâm vẫn chấp nhận, nên mọi chuyện vẫn suôn sẻ bao năm nay, mãi tới khi Viettel gần đây rục rịch có dự án triển khai tại khu vực này.
Khi đó nếu Quân đội chỉ thu hồi lại Khu A này giao cho Viettel thì dù có buồn vì phải mất đất canh tác, dân Đồng Tâm vẫn chịu, vì họ chấp nhận rằng khu đất này, dù gốc gác vốn là của làng đi chăng nữa, cũng đã được giao cho Chính phủ 37 năm trước. Họ hiểu họ chỉ đang mượn đất. Có mượn thì có trả, lẽ thường tình là thế.
Nhưng không, Quân đội và Viettel muốn hơn thế. Họ nhắm cả Khu B bên cạnh, địa thế đẹp hơn với vị trí 2 mặt tiền (phía Nam và phía Tây giáp tỉnh lộ DT429, nối tới đường Hồ Chí Minh). Đây chính là đất đồng Sênh trong cách gọi của dân Đồng Tâm.
Tranh cãi bắt đầu từ đây. Dân Đồng Tâm cho rằng 100% Khu B là đất nông nghiệp của xã, Viettel muốn lấy phải bồi thường theo quy định (ít nhất cũng vài trăm tỷ). Phía Quân đội và Viettel dĩ nhiên không muốn thế, nhưng thái độ lại phức tạp, bất nhất. Khi thì họ kết hợp với chính quyền Hà Nội định bồi thường bố trí tái định cư chỉ cho vài chục hộ dân (gồm cả sĩ quan của họ mới mua đất ở khu này) - tức là gián tiếp thừa nhận đây không phải là đất quốc phòng. Khi thì lại cho quân về rào đất, cắm biển đất quân sự trên toàn bộ khu đất trước khi tiến hành thu hồi.
Để chứng minh quan điểm của mình, cụ Kình - đại diện dân làng Đồng Tâm, đưa ra các lập luận:
Một, và quan trọng nhất: Nếu là đất quốc phòng thì sao Viettel và chính quyền Hà Nội lại bồi thường bố trí tái định cư cho các hộ dân ở đây? Chưa phạt họ chiếm dụng đất quốc phòng đã là may cho họ rồi, sao lại còn ưu đãi đền bù hàng tỷ đồng cho mỗi hộ dân và lập dự án bố trí tái định cư cho họ nữa?
Hai, khi rục rịch có chuyện thu hồi đất, dân làng Đồng Tâm khiếu nại cơ quan chủ quản dự án sân bay Miếu Môn là Quân chủng Phòng không-Không quân thì được Quân chủng đề nghị liên hệ với các cấp chính quyền Hà Nội. Thế nghĩa là đất dân sự, chứ nếu là đất quốc phòng thì sao Quân chủng đẩy trách nhiệm sang cho chính quyền Hà Nội được?
Ba, nếu là đất quốc phòng thì sao chính quyền xã Đồng Tâm bao lâu nay vẫn thu thuế đất nhà ở cho các hộ dân được xã cấp tạm đất?
Bốn, chính quyền Hà Nội xác định tổng diện tích đất quốc phòng ở đây là 236,9 ha, song Lữ 28 - đơn vị trực tiếp quản lý đất dự án sân bay Miếu Môn - lại thừa nhận chỉ đang nắm 208 ha, bằng đúng diện tích Chính phủ thu hồi làm sân bay 37 năm trước. Sao lại có chuyện chênh lệch tới 28,9 ha?

PHẢN BÁC TỪ PHÍA CHÍNH QUYỀN

Cả bốn lập luận này đều không dễ phản bác. Tuy nhiên, sau sự kiện bắt giữ cán bộ vô tiền khoáng hậu ở xã Đồng Tâm, chính quyền Hà Nội không còn lựa chọn nào khác phải chứng minh dân làng Đồng Tâm sai. Mà phải là sai hoàn toàn, thì các động thái đàn áp sau đó mới dễ được biện minh.

Chính quyền Hà Nội đã làm thế nào?

Bốn ngày trước khi công bố dự thảo kết luận thanh tra đất đai Đồng Tâm, ngày 3/7, Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung đề nghị HĐND thành phố thu hồi dự án bố trí tái định cư cho các hộ dân trong Khu B (đất Đồng Sênh), với lý do thật lạ thường là “dân ở đó đã có đất, không cần tái định cư nữa” [1] Nghĩa là, để đối đáp lại lập luận thứ nhất của cụ Kình, chính quyền Hà Nội đã phải chấp nhận hi sinh phần nào lợi ích của vài chục hộ dân (hoặc là dân địa phương có liên đới với chính quyền xã, hoặc là các sĩ quan quân đội vừa mua đất đón đầu đền bù tái định cư).
Động thái này mở đường đến việc công bố dự thảo kết luận thanh tra ngày 7/7, trong đó chính quyền Hà Nội kể một câu chuyện hoàn toàn khác. Đó là, chẳng có Khu A, Khu B nào cả, mà tất cả là đất quốc phòng hết. Chính quyền cơ sở đã sai khi buông lỏng quản lý, để mặc các hộ dân lấn chiếm, cho tặng, chuyển nhượng (phản bác lập luận thứ ba của cụ Kình). Bên cạnh đó, sở dĩ cho sự chênh lệch diện tích lên tới 28,9 ha là vì “bị ảnh hưởng của thi công” và đây là đất thực hiện “giai đoạn 2 sân bay Miếu Môn” (phản bác lập luận thứ tư của cụ Kình). Diện tích này chưa được “các đơn vị quốc phòng báo cáo Bộ Quốc phòng để báo cáo Thủ tướng Chính phủ” cũng là một thiếu sót (phản hồi lại lập luận thứ hai của cụ Kình). [2]
Khá khen cho chính quyền Hà Nội chỉ bằng một động thái thu hồi dự án và một bản dự thảo kết luận thanh tra đã phản bác đồng loạt 4 lập luận quan trọng của cụ Kình - người đang dẫn dắt dân Đồng Tâm đấu tranh giữ đất.

KẼ HỞ VÀ LỜI GIẢI

Không khó để thấy chính quyền Hà Nội chẳng qua chỉ đang tận dụng thế mạnh tuyệt đối của nó so với phía dân làng ở chỗ nắm giữ và tạo ra văn bản, cả cũ lẫn mới, và thông qua đó có thể kể một câu chuyện khác cho những gì đã xảy ra - một thứ sự thật thay thế (alternative fact).
Tuy nhiên, kịch bản một khi đã ngụy tạo ắt hẳn có kẽ hở. Trong câu chuyện mới được kể của chính quyền Hà Nội, kẽ hở có thể nằm ở những điểm sau:
Một là, tháng 5/2016, UBND TP Hà Nội có văn bản 2590 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban chỉ đạo Giải phóng mặt bằng Thành phố, UBND huyện Mỹ Đức và Tập đoàn Viễn thông Viettel trong đó ghi rõ “kinh phí thực hiện bồi thường hỗ trợ và tái định cư do Tập đoàn Viettel chi trả”. [1] Nếu chính quyền Hà Nội khăng khăng đây là đất quốc phòng và dân lấn chiếm xây dựng công trình thì sao chính quyền Hà Nội lại yêu cầu Viettel bỏ tiền ra bồi thường hỗ trợ và tái định cư?
Hai là, chênh lệch tới 28,9 ha với lý do “bị ảnh hưởng của thi công” là gì? Sao dự thảo kết luận thanh tra gần 2 tháng trời lại có một câu văn tối nghĩa đến như vậy? Đất nở ra vì ảnh hưởng của việc thi công công trình? Câu văn ngô nghê bất thường này cho thấy chính quyền Hà Nội dường như đang túng thiếu một lý do chính đáng trong khi thời gian thanh tra có hạn.
Ba là, từ khi nào và trong văn bản nào có cái gọi là “giai đoạn 2 sân bay Miếu Môn”? Một dự án treo 37 năm chưa có nhát xẻng làm giai đoạn 1, và mãi mãi sẽ không thực hiện, nay lại thu hồi đất cho giai đoạn 2?
Nếu chính quyền Hà Nội tự tin với những lập luận họ đưa ra trong dự thảo kết luận thanh tra, tôi đề xuất thế này: Tổ chức một cuộc đối chất được điều phối bởi các luật sư và có truyền hình trực tiếp trên báo và mạng xã hội (Facebook, Youtube), trong đó từng điểm lập luận của mỗi bên được đưa ra mổ xẻ, tranh luận trước sự theo dõi của công luận. Các văn bản (trong đó quan trọng bậc nhất là tài liệu liên quan đến cái gọi là giai đoạn 2 sân bay Miếu Môn) phải được công khai, và được các luật sư mời giám định độc lập xác định tuổi văn bản, tránh tình trạng dự án năm 1980 và các văn bản về nó lại được tạo lập năm 2017.

Nguyễn Anh Tuấn

(TTHNO)

 Tấu hài đỏ


Người Việt đang tận mắt mục kích chuyện “dối Trời, lừa dân, đủ muôn ngàn kế…” mà Nguyễn Trãi từng khái quát trong Bình Ngô Đại cáo cách nay 589 năm, đang diễn ra hàng ngày trên xứ sở của mình.
Một cảnh sát cúi lạy dân làng Đồng Tâm khi được thả ra ngày 22 tháng Tư.
Một cảnh sát cúi lạy dân làng Đồng Tâm khi được thả ra ngày 22 tháng Tư.
Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng CSVN, công nhiên dối lừa trở thành một kiểu... tấu hài đỏ khiến thiên hạ ngao ngán nhưng không thể làm gì khác nên đành cười trừ!

***
Cuối cùng thì chính quyền thành phố Hà Nội cũng công bố Dự thảo Kết luận thanh tra đất đai tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức. Cuộc thanh tra được thực hiện nhằm đáp ứng đòi hỏi của công chúng: Xác định trách nhiệm của những cá nhân đã đẩy dân chúng xã Đồng Tâm đến chỗ nổi loạn hồi trung tuần tháng 4 vừa qua (bắt giữ 38 con tin gồm cảnh sát cơ động, công an và viên chức chính quyền địa phương, rào làng tử thủ suốt một tuần bởi hệ thống công quyền không những làm ngơ trước các khiếu nại về sự bất minh trong việc thu hồi và sử dụng đất mà còn dùng vũ lực để trấn áp họ).
Theo những gì cụ Lê Đình Kính - người được xem như thủ lĩnh của dân chúng xã Đồng Tâm - từng kể trong một video clip được đưa lên You Tube thì dân chúng xã Đồng Tâm chịu rất nhiều thiệt thòi vì liên tiếp bị thu hồi đất với diện tích rất lớn mà không hề được bồi thường.
Thập niên 1960, chính quyền Việt Nam thu hồi 300 héc ta đất ở xã Đồng Tâm để xây dựng trường bắn Miếu Môn. Đến thập niên 1980, chính quyền Việt Nam quyết định thu hồi thêm 54 héc ta đất nữa để xây dựng phi trường quân sự Miếu Môn. Sau đó, phi trường quân sự Miếu Môn chỉ xuất hiện trên giấy.
Do thiếu đất canh tác, dân chúng xã Đồng Tâm đã thỏa thuận với Lữ đoàn 28 thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân (phía được giao quản lý 54 héc đất) xin thuê đất để trồng trọt. Lữ đoàn 28 “phát canh, thu tô” ổn định suốt từ đó cho đến năm 2007 thì giao lại cho chính quyền địa phương 6,78 héc ta trong số 54 héc ta đã trưng dụng, chỉ giữ lại 47,3 héc ta.
Bởi thửa đất 6,78 héc ta mà Lữ đoàn 28 giao trả bị chính quyền xã, huyện “hoàn trả” một cách bất minh cho một số cá nhân vốn chỉ bị trưng dụng vài trăm mét vuông nhưng được nhận lại tới… vài chục ngàn mét vuông và phân lô bán cho nhiều cá nhân khác, dân chúng xã Đồng Tâm bắt đầu khiếu nại. Năm 2016, chính quyền thành phố Hà Nội tổ chức thanh tra và “thu hồi” 6,78 héc ta thêm một lần nữa với lý do đó là “đất quốc phòng”. Lần này, 6,78 héc ta “đất quốc phòng” được giao cho Viettel – một tập đoàn viễn thông của Bộ Quốc phòng Việt Nam để Viettel thực hiện “công trình quốc phòng”.
Thay vì trả lời thấu đáo những thắc mắc như: Tại sao lại xác định 6,78 héc ta đã hoàn trả là “đất quốc phòng”? Nếu 6,78 héc ta đất này là “đất quốc phòng”, tại sao Bộ Quốc phòng không giao trực tiếp cho Viettel mà phải nhờ chính quyền thành phố Hà Nội tổ chức “thu hồi”?... thì chính quyền thành phố Hà Nội tổ chức “cưỡng chế”. Hồi trung tuần tháng 10 năm 2016, khoảng 600 thành viên của lực lượng vũ trang, bao gồm cả công an, bộ đội phải thối lui, bỏ dở kế hoạch “cưỡng chế - thu hồi đất” vì dân chúng xã Đồng Tâm liều chết giữ đất.
Đến trung tuần tháng 4 năm nay, chính quyền thành phố Hà Nội mời cụ Lê Đình Kình và bốn người khác tham dự hoạt động cắm mốc, phân ranh, xác định “đất nông nghiệp” và “đất quốc phòng” rồi bắt cả năm. Thay vì tiếp tục khiếu nại xin cứu xét, dân chúng xã Đồng Tâm nổi loạn.
Không thể dùng “bạo lực cách mạng” bởi vụ nổi loạn ở Đồng Tâm được “cả nước trông vào”, ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch thành phố Hà Nội đã thay mặt hệ thống công quyền đến xã Đồng Tâm thương lượng và cam kết: Trực tiếp giám sát cuộc thanh tra việc quản lý và sử dụng đất tại xã Đồng Tâm, bảo đảm đúng với “sự thật khách quan” và “đúng pháp luật”, xác định rạch ròi đâu là “đất nông nghiệp”, đâu là “đất quốc phòng”. Không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với toàn thể dân chúng xã Đồng Tâm. Chỉ đạo điều tra việc bắt và gây thương tích cho cụ Lê Đình Kình để xử lý theo đúng qui định pháp luật.

***

Hai tháng sau khi vụ nổi loạn ở Đồng Tâm kết thúc, công an thành phố Hà Nội công bố quyết định khởi tố hai vụ án “bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật” và “hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” xảy ra tại xã Đồng Tâm hồi trung tuần tháng 4.
Quyết định khởi tố hai vụ án khiến dân chúng Việt Nam chưng hửng! Một số viên chức hữu trách bắt đầu giải thích , Chủ tịch thành phố Hà Nội (đại diện cho hành pháp), không có quyền giải trừ trách nhiệm hình sự cho những cá nhân vi phạm pháp luật vốn thuộc thẩm quyền của hệ thống tư pháp.
Về lý, điều đó không sai nhưng với bối cảnh và đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam, không ai tin rằng ông Chung tự tiện tìm tới thương lượng và đưa ra ba cam kết như đã kể với dân chúng xã Đồng Tâm. Thương lượng và cam kết dứt khoát phải là chủ trương của giới lãnh đạo Đảng mà giới này thì có đủ thẩm quyền quyết định mọi thứ, kể cả có cần tuân theo pháp luật hay không! Nhiều người, trong đó có cả những viên chức cao cấp đã nghỉ hưu nhận định, quyết định khởi tố hai “vụ án” xảy ra tại xã Đồng Tâm hồi trung tuần tháng 4 là ngu xuẩn.
Cho đến nay, công an thành phố Hà Nội chưa xác định hai “vụ án” xảy ra tại xã Đồng Tâm hồi trung tuần tháng 4 có bao nhiêu bị can. Chỉ có thể đoan chắc, nếu công an thành phố Hà Nội thực hiện đúng tuyên bố “sẽ điều tra, xử lý nghiêm, đúng pháp luật” số dân Đồng Tâm vướng vào vòng lao lý sẽ lên tới hàng trăm chứ không chỉ là năm như hồi trung tuần tháng 4!
Song song với quyết định khởi tố hai “vụ án” xảy ra tại xã Đồng Tâm, hệ thống công quyền Việt Nam tuyên bố sẽ đưa 14 viên chức địa phương (bốn viên chức huyện Mỹ Đức và 10 viên chức xã Đồng Tâm) ra xử vào giữa tháng này vì “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (cấp đất, giao đất trái thẩm quyền, hợp thức hóa việc lấn chiếm đất cho một số cá nhân, gia đình tại xã Đồng Tâm).
Kế đó, chính quyền thành phố Hà Nội công bố Dự thảo Kết luận thanh tra đất đai ở xã Đồng Tâm. Tuy đây chỉ là “dự thảo” nhưng qua việc công bố rộng rãi dự thảo này, 99% dự thảo sẽ trở thành kết luận chính thức.
Theo dự thảo thì diện tích thực tế của phi trường quân sự Miếu Môn là 236,9 héc ta. Trong 236,9 héc ta được xem là “đất quốc phòng” có 64,11 héc ta thuộc xã Đồng Tâm. Nếu so với quyết định đã được phê duyệt năm 1980 thì hệ thống công quyền đã thu hồi và giao lố cho Bộ Quốc phòng Việt Nam khoảng 30 héc ta nằm hoàn toàn trên địa bàn xã Đồng Tâm. Chuyện Bộ Quốc phòng Việt Nam nhận lố 30 héc ta và lờ đi được xem là... thiếu sót.
Cũng theo dự thảo thì sở dĩ có “một số gia đình ăn ở trên đất quốc phòng từ năm 1980 đến nay” là vì các đơn vị quân đội “buông lỏng quản lý đất quốc phòng”. Việc một số người dân ở xã Đồng Tâm tự ý tổ chức đo đạc, phân lô, xây dựng trên phần đất mà Viettel (Tập đoàn Viễn thông Quân đội) muốn thực hiện “dự án quốc phòng” được xác định là hành vi chiếm “đất quốc phòng”, coi thường luật pháp.
Nói cách khác, theo dự thảo, kế hoạch “cưỡng chế - thu hồi đất” ở Đồng Tâm không sai, khiếu nại - đòi hỏi của dân chúng xã Đồng Tâm là vô lý.
Giờ thì đã có thể xác định, chuỗi hành động liên quan tới việc giải quyết hậu quả vụ nổi loạn ở Đồng Tâm là một kịch bản với nhiều lớp.
Lớp đầu làm tê liệt ý chí phản kháng của dân chúng xã Đồng Tâm. Quyết định khởi tố hai “vụ án” đang chờ để biến bất kỳ ai muốn chống đối dự thảo kết luận thanh tra sẽ công bố sau đó trở thành bị can ngay lập tức.
Lớp thứ hai, loan báo việc truy tố 14 viên chức địa phương nhằm minh họa cho sự “công tâm”. Việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn đúng như Chủ tịch thành phố Hà Nội từng cam kết là sẽ đúng với “sự thật khách quan” và “đúng pháp luật”!
Lớp thứ ba, công bố Dự thảo Kết luận thanh tra để hạ màn: Khẳng định cưỡng chế - thu hồi đất ở Đồng Tâm là đúng vì đó là “đất quốc phòng”. Dân chúng xã Đồng Tâm đã “tố láo, cáo điêu”, đòi thứ không phải của mình. Cũng do vậy, nổi loạn trở thành không thể chấp nhận vì vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Nếu chính quyền có xử lý thì đó là cần phải giữ sự nghiêm minh, còn chính quyền bỏ qua, miễn trừ trách nhiệm hình sự thì đó là “khoan hồng, nhân đạo” với những công dân “thiếu hiểu biết về pháp luật”, bị “kẻ xấu lợi dụng, kích động”. Với những yếu tố như vậy, cam kết điều tra việc bắt và gây thương tích cho cụ Lê Đình Kình của Chủ tịch thành phố Hà Nội đương nhiên là không cần thực hiện nữa.

***

Phát biểu sau khi Thanh tra thành phố Hà Nội công bố Dự thảo Kết luận thanh tra đất đai tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Chủ tịch thành phố Hà Nội nhấn mạnh, phải “thượng tôn pháp luật”.
Tuy nhiên chính Dự thảo Kết luận thanh tra đất đai tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức lại cho thấy luật pháp hiện hành tại Việt Nam cũng chỉ có giá trị như... ba cam kết của chính ông Chung hồi trung tuần tháng 4 với dân chúng xã Đồng Tâm.
Nếu “thượng tôn pháp luật” thì tại sao không làm rõ và truy cứu trách nhiệm những cá nhân đã thu hồi lố, giao lố cho Bộ Quốc phòng Việt Nam 30 héc ta đất ở xã Đồng Tâm?
Nếu “thượng tôn pháp luật” thì tại sao lại nghiễm nhiên chấp nhận 30 héc ta nằm ngoài quyết định thu hồi được ban hành ầu thập niên 1980 là “đất quốc phòng”?
Nếu “thượng tôn pháp luật” thì tại sao lại chấp nhận chuyện Bộ Quốc phòng bỏ hoang 236,9 héc ta, không truy cứu trách nhiệm việc lập dự án để chiếm dụng 236,9 héc ta đó suốt 36 năm?
Nếu “thượng tôn pháp luật” thì tại sao không kiểm tra, đối chiếu và công bố ai là người phải chịu trách nhiệm trong việc đề ra chủ trương và thực hiện “phát canh, thu tô” trên “đất quốc phòng”, số tiền đó đã dùng vào việc gì?
Nếu “thượng tôn pháp luật” thì tại sao lại chấp nhận việc giao “đất quốc phòng” cho Viettel. Dẫu thuộc quân đội nhưng xét về bản chất, Viettel vẫn là một doanh nghiệp, pháp luật hiện hành có bất kỳ qui định nào cho phép doanh nghiệp sử dụng tài sản thuộc sở hữu toàn dân dành riêng cho quốc phòng làm phương tiện kiếm tiền?
Ông Chung có thấy những điểm phi lý đó không? Chắc là có. Thậm chí vì thấy rất rõ nên chính ông chủ động chặn đầu thiên hạ: “Trên thế giới tất cả đất thuộc về an ninh quốc phòng”. Ông Chung còn khẳng định bằng câu hỏi: “Tại sao nước Mỹ để trống cả một bang cho quốc phòng?”. Cũng theo lời của ông Chung, không ai có quyền thắc mắc quân đội dùng “đất quốc phòng” vào chuyện gì. Tất cả các thắc mắc loại đó đều bị ông Chung xếp vào loại “cùn”!
Dường như để hỗ trợ ông Chung, ông Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam lập tức đến thăm Viettel và tuyên bố, phải phấn đấu để có nhiều Viettel nữa bởi “điều đó chứng minh rằng chủ trương xây dựng các doanh nghiệp quân đội của Đảng ta là đúng đắn”. Vài ngày sau, ông Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng, khẳng định thêm rằng: “Muốn làm quân đội mạnh lên trước hết chúng ta phải bảo vệ quân đội, bảo vệ những chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, mà trong đó chủ trương quân đội làm kinh tế phục vụ quốc phòng và tham gia phát triển kinh tế đất nước là một ví dụ”.
Cách nay hai tuần, trước sự chỉ trích kịch liệt về chuyện quân đội cương quyết giữ 157 héc ta “đất quốc phòng” ở phi trường Tân Sơn Nhất để cho thuê làm sân golf, bất kể phi trường Tân Sơn Nhất nghẽn cả trên trời lẫn dưới đất, ông Lê Chiêm, một Thứ trưởng khác của Bộ Quốc phòng, từng khẳng định: “Quân đội sẽ không làm kinh tế nữa để tập trung toàn lực xây dựng quân đội vững mạnh”. Tuyên bố của ông Chiêm khiến cả triệu người đang phẫn nộ vung tay hoan hô.
Giờ, sau khi các chỉ trích đã xẹp xuống, tới lượt ông Lịch, ông Vịnh bước ra sân khấu “nói lại cho rõ”.

***
Nếu bạn tưởng ông Chung là nhân vật chính quyết định mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đồng Tâm rồi khen hay chê ông ta thì dường như bạn thuộc loại “cùn”. Nếu bạn tưởng các ông tướng quân đội sẽ từ bỏ các đặc quyền, đặc lợi để dành toàn bộ công sức, thời gian cho chuyện “bảo quốc, an dân”, có lẽ bạn còn… “cùn” hơn.
Cần nhớ thế này, chỉ có Đảng CSVN quang vinh mới “bén”, tất cả chúng ta đều “cùn”. Tôi cũng “cùn” nhưng tôi không buồn. Trừ các đồng chí đang tham gia lãnh đạo “Đảng ta” một cách “tài tình, sáng suốt”, đố… cha “thằng” nào trong số 7 tỉ “thằng” đang sống trên thế giới này tìm ra một thế giới khác trên trái đất này mà “toàn bộ đất đai đều thuộc an ninh, quốc phòng”. Tương tự, đố cha “thằng” nào trong số hơn 300 triệu “thằng” đang là công dân Mỹ, kể cả tổng thống Mỹ tìm ra bang nào ở Mỹ mà “toàn bang bỏ trống để dành cho quốc phòng”.
Thành thật xin lỗi bạn. Ăn nói như vừa kể rõ ràng là quá bỗ bã, không “nhã” nhưng đôi khi phải nói năng một cách… “bình dân” thì mới có thể diễn tả gần đúng cảm xúc sau khi phải xem... tấu hài đỏ.

Trân Văn

(Blog VOA)
TTHNO

9 tháng 7, 2017

Dân Đồng Tâm lại bị dồn đến chỗ phải nổi loạn


HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Hôm 7 Tháng Bảy, chính quyền thành phố Hà Nội công bố dự thảo kết luận thanh tra đất đai tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức. Theo đó, đòi hỏi của dân chúng xã này là vô lý, bởi vì “không có đất nông nghiệp xứ đồng Sênh như kiến nghị của người dân Đồng Tâm,” theo báo điện tử VietNamNet.

Ngay từ đầu, người dân Đồng Tâm đã khẳng định: “Nhân dân Đồng Tâm chúng tôi không chống đối nhà nước Việt Nam.” Họ chỉ bảo vệ lẽ phải cho chính mình. (Hình: STR/AFP/Getty Images)
Qua vụ Đồng Tâm, thêm một lần nữa, hệ thống công quyền Việt Nam minh định, khuyến cáo của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” là hoàn toàn chính xác.

Từ ép dân nổi loạn

Lý do chính khiến dân chúng xã Đồng Tâm nổi loạn hồi trung tuần Tháng Tư: Bắt giữ 38 con tin gồm cảnh sát cơ động, công an và viên chức chính quyền địa phương. Rào làng tử thủ suốt một tuần là vì hệ thống công quyền bất minh trong việc thu hồi và sử dụng đất. Thay vì giải quyết các khiếu nại, tố cáo một cách rạch ròi thì lại dùng vũ lực để trấn áp họ.

Ông Lê Đình Kình, người được xem như thủ lĩnh vụ phản kháng của dân chúng xã Đồng Tâm từng kể, dân chúng xã này chịu rất nhiều thiệt thòi vì liên tiếp bị thu hồi đất với diện tích rất lớn mà không hề được bồi thường.

Theo báo Người Lao Động, thập niên 1960, chính quyền Việt Nam thu hồi 300 hécta đất ở xã Đồng Tâm để xây dựng trường bắn Miếu Môn. Đến thập niên 1980, chính quyền Việt Nam quyết định thu hồi thêm 54 hécta đất nữa để xây dựng phi trường quân sự Miếu Môn. Tuy nhiên, kế hoạch xây dựng phi trường quân sự bị bỏ dở. Do thiếu đất canh tác, dân chúng xã Đồng Tâm đã thỏa thuận với Lữ Đoàn 28 thuộc Quân Chủng Phòng Không-Không Quân (phía được giao quản lý 54 hécta đất bị thu hồi) xin thuê đất để trồng trọt. Lữ Đoàn 28 “phát canh, thu tô” ổn định suốt từ đó cho đến năm 2007.

Theo đề nghị của chính quyền địa phương, năm 2007, Lữ Đoàn 28 đã hoàn tất thủ tục giao lại 6.78 hécta trong số 54 hécta từng bị trưng dụng làm phi trường quân sự Miếu Môn cho chính quyền huyện Mỹ Đức. Lữ đoàn này chỉ giữ lại 47.3 hécta đất. Mảnh đất diện tích 6.78 hécta này đã bị chính quyền xã, huyện “hoàn trả” một cách bất minh cho hàng loạt người được dân chúng xã Đồng Tâm hài tên một cách rành rọt. Nhiều người trong số này vốn chỉ bị trưng dụng một vài trăm mét vuông đã được hoàn trả tới… vài chục ngàn mét vuông. Mảnh đất diện tích 6.78 hécta đã được phân lô bán cho nhiều người. Người mua có đầy đủ giấy tờ chứng minh họ đã thực hiện các nghĩa vụ về thuế, phí…

Năm 2016, sau khi thanh tra theo “khiếu nại, tố cáo” của dân chúng xã Đồng Tâm, chính quyền thành phố Hà Nội thông báo “thu hồi” 6.78 hécta với lý do đó là “đất quốc phòng” để giao cho Viettel, một tập đoàn viễn thông của Bộ Quốc Phòng, để thực hiện “công trình quốc phòng.”

Những thắc mắc: Tại sao lại xác định 6.78 hécta đã hoàn trả là “đất quốc phòng?” Nếu 6.78 hécta đất này là “đất quốc phòng” thì tại sao Bộ Quốc Phòng không giao trực tiếp cho Viettel mà phải nhờ chính quyền thành phố Hà Nội tổ chức “cưỡng chế, thu hồi?” Sau khi “cưỡng chế, thu hồi” xong thì trách nhiệm của những viên chức từ xã, huyện đến thành phố đã tham gia phân chia mảnh đất này một cách bất minh sẽ được thực hiện ra sao?… Tất cả đều không được trả lời.

Thay vào đó, chính quyền thành phố Hà Nội bắt đầu tổ chức “cưỡng chế, thu hồi” 6.78 hécta “đất quốc phòng.” Hồi trung tuần Tháng Mười năm ngoái, 600 thành viên của lực lượng vũ trang, bao gồm cả công an, bộ đội, không hoàn thành nhiệm vụ vì dân chúng xã Đồng Tâm phản ứng quyết liệt.

Đến trung tuần Tháng Tư, chính quyền thành phố Hà Nội mời ông Lê Đình Kình và bốn người khác tham dự hoạt động cắm mốc, phân ranh, xác định “đất nông nghiệp” và “đất quốc phòng” rồi bắt cả năm. Đó là giọt nước làm tràn ly phẫn nộ, dân Đồng Tâm nổi loạn…
Chủ Tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung gặp gỡ người dân xã Đồng Tâm và ký giấy trắng mực đen cam kết nhiều điều nhưng nay mọi việc trở thành một kiểu “khôi hài đỏ.” (Hình: STR/AFP/Getty Images)
Đến “gần dân, lắng nghe dân”

Không thể dìm cả xã trong máu, chủ tịch thành phố Hà Nội và một số đại biểu của Quốc Hội đã đến xã Đồng Tâm thương lượng và cam kết với dân chúng xã này: (1) Trực tiếp giám sát cuộc thanh tra việc quản lý và sử dụng đất tại xã Đồng Tâm, bảo đảm đúng với “sự thật khách quan” và “đúng pháp luật,” xác định rạch ròi đâu là “đất nông nghiệp,” đâu là “đất quốc phòng.” (2) Không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với toàn thể dân chúng xã Đồng Tâm. (3) Chỉ đạo điều tra việc bắt và gây thương tích cho ông Lê Đình Kình (gãy cổ xương đùi), xử lý theo đúng quy định pháp luật.

Hệ thống tư pháp thành phố Hà Nội đã phóng thích và tuyên bố hủy các quyết định khởi tố ông Kình và bốn người khác vì “gây rối trật tự công cộng.”

Vụ thương lượng và cam kết này được xem là chưa từng có. Vào thời điểm đó, nhiều viên chức lãnh đạo đảng, Quốc Hội, chính phủ tuyên bố vụ Đồng Tâm là một “bài học đáng giá” cho bộ máy công quyền, rằng hệ thống công quyền phải gần dân, lắng nghe “tâm tư, nguyện vọng” của dân kỹ lưỡng hơn…

Rồi “phản dân”

Ngày 13 Tháng Sáu, công an thành phố Hà Nội công bố quyết định khởi tố hai vụ án “bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật” và “hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” xảy ra tại xã Đồng Tâm hồi trung tuần Tháng Tư.

Quyết định khởi tố hai vụ án khiến dân chúng Việt Nam chưng hửng. Một số viên chức hữu trách bắt đầu giải thích, chủ tịch thành phố Hà Nội (đại diện cho hành pháp), không có quyền giải trừ trách nhiệm hình sự cho những cá nhân vi phạm pháp luật vốn thuộc thẩm quyền của hệ thống tư pháp. Về lý, điều này không sai nhưng với bối cảnh và đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam, không ai tin rằng chủ tịch thành phố Hà Nội tự tiện tìm tới thương lượng và đưa ra ba cam kết như đã kể với dân chúng xã Đồng Tâm.

Cho đến nay, công an thành phố Hà Nội chưa xác định hai vụ án “bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật” và “hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” xảy ra tại xã Đồng Tâm hồi trung tuần Tháng Tư có bao nhiêu bị can nhưng nếu công an thành phố Hà Nội thực hiện đúng tuyên bố “sẽ điều tra, xử lý nghiêm, đúng pháp luật” số dân Đồng Tâm vướng vào vòng lao lý sẽ lên tới hàng trăm chứ không chỉ là năm!

Để hạ nhiệt, hệ thống công quyền Việt Nam tuyên bố sẽ đưa 14 viên chức địa phương (bốn viên chức huyện Mỹ Đức và 10 viên chức xã Đồng Tâm) ra xử vào giữa Tháng Bảy này vì “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (cấp đất, giao đất trái thẩm quyền, hợp thức hóa việc lấn chiếm đất cho một số cá nhân, gia đình tại xã Đồng Tâm).

Mới đây, chính quyền thành phố Hà Nội công bố dự thảo kết luận thanh tra đất đai ở xã Đồng Tâm. Tuy đây chỉ là “dự thảo” nhưng kết luận này sẽ trở thành chính thức nếu… không có thêm diễn biến nào mới.

Theo báo điện tử VietNamNet, dự thảo này cho biết diện tích thực tế của phi trường quân sự Miếu Môn là 236.9 hécta, trong đó có 64.11 hécta thuộc xã Đồng Tâm được xem là “đất quốc phòng.” Nếu so với quyết định đã được phê duyệt năm 1980 thì hệ thống công quyền đã thu hồi và giao lố cho Bộ Quốc Phòng khoảng 30 hécta. Chuyện Bộ Quốc Phòng nhận lố 30 hécta và lờ đi, không báo cáo chỉ được xem là thiếu sót.

Cũng theo dự thảo, các đơn vị quân đội “chưa di dời một số gia đình ăn ở trên đất quốc phòng từ năm 1980, để các gia đình này dân lấn chiếm, tặng cho, chuyển nhượng, xây dựng công trình trái phép” là “buông lỏng quản lý đất quốc phòng.” Việc một số người dân ở xã Đồng Tâm tự ý tổ chức đo đạc, phân lô trên phần đất mà Viettel đang thực hiện dự án quốc phòng bên trong phi trường Miếu Môn là hành vi chiếm “đất quốc phòng,” coi thường luật pháp.

Dự thảo không hề đả động gì đến trách nhiệm của Bộ Quốc Phòng: Lập dự án xây dựng phi trường quân sự Miếu Môn, chiếm dụng hơn 200 hécta đất rồi bỏ hoang suốt từ năm 1980 đến nay và giờ giao một phần tài sản đó cho Viettel kinh doanh.

Tuy việc sử dụng đất đai ở xã Đồng Tâm đã được “thanh tra” nhưng không ai biết “công trình quốc phòng” mà Viettel xây dựng là gì. Liệu tính chất “công trình quốc phòng” đó có giống các sân golf ở phi trường quân sự Gia Lâm và phi trường Tân Sơn Nhất hay không?

Chuyện Bộ Quốc Phòng nhận lố 30 hécta và lờ đi, dẫn tới bạo loạn chẳng lẽ không phải là coi thường luật pháp, “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng?” Rồi tại sao nhận lố mà không hoàn trả để cấp lại cho dân? (G.Đ)

(Người Việt)
Đăng trên TTHNO

6 tháng 7, 2017


BỎ THƠ RỒI
…Chồng người biệt thự cao vời
Chồng mình nhà nát vẫn ngồi làm thơ
Đã nghèo nhưng chẳng biết trơ
Điên lên tao mới dí thơ vào L…
Chồng tao sợ hết cả hồn
Không hiểu sao vợ dí L… vào thơ
Tao rằng bên vợ bên thơ
Chọn đi chứ cấm được sờ cả hai
Chồng tao chép miệng thở dài
Riêng thơ chấm dứt từ mai xin thề…
Bùi Bắc Hợp
( FB Bùi Bắc Hợp)