26 tháng 5, 2017

Một bài phân tích rất hay

Bùi Văn Phú - Ý kiến đặt câu hỏi: Đối thoại để làm gì?

Đăng bởi Ha Tran on Friday, May 26, 2017 | 26.5.17


Từ nhiều năm qua người Việt đã mơ ước một ngày họ có thể nói lên quan điểm của mình mà không lo sợ bị bắt giam, trấn áp hay sách nhiễu.

Ông Trần Huỳnh Huy Thức
Ông Trần Huỳnh Duy Thức đã từng từ chối đi Mỹ định cư và "kiên quyết đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam"
Trong quá khứ, trước các kỳ Đại hội Đảng hay để chuẩn bị sửa Hiến pháp, Hà Nội đã mời gọi dân, và cả người Việt hải ngoại, tham gia góp ý vào tiến trình kiến tạo đất nước. Dù có nhiều đề nghị hay kiến nghị, nhưng những tiếng nói không đồng lòng với đảng, không cùng quan điểm với nhà nước đã không được quan tâm.
Trái lại, nhiều người bất đồng chính kiến ở Việt Nam ngày nay vẫn còn ở trong tù, hay khi vừa nói lên quan điểm thì bị ngăn chặn, bị côn đồ hành hung.
Nhiều tiếng nói bất đồng đang chịu án tù như Nguyễn Văn Đài, Trần Huỳnh Duy Thức, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Trần Kim Anh, Lê Thanh Tùng và cả trăm người khác.
Nhiều người đã phải chọn con đường lưu vong như Đoàn Viết Hoạt, Đoàn Thanh Liêm, Trần Khải Thanh Thủy, Điều Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ.
Bên ngoài xã hội, nhiều người bị quản chế, bị ngăn cản tiếp xúc với đại diện các tổ chức nhân quyền, các dân cử từ những quốc gia tự do dân chủ hay thường xuyên bị sách nhiễu, không cho tham gia hội họp như Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Quang A, Lê Công Định, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Đoan Trang, Phạm Thanh Nghiên.
Khi bị thế giới đặt vấn đề, quan chức Hà Nội luôn đưa ra quan điểm là những người đó không phải ở tù vì bất đồng quan điểm mà vì họ vi phạm Điều 79: hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 88: tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa, hay Điều 258: lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm quyền lợi nhà nước; trong khi thực tế họ chỉ phát biểu quan điểm bất đồng với nhà nước.
Vài năm trước, khi có tu chính Hiến pháp, người dân cũng được mời gọi đóng góp ý kiến để Hiến pháp phản ánh được thực tế hơn.
Nhưng những đề nghị của hàng trăm trí thức, các lãnh đạo tôn giáo liên quan đến sở hữu đất đai, nền tảng kinh tế, tự do nhân quyền, bỏ Điều 4, bỏ hệ tư tưởng Mác-Lê, bỏ độc quyền cai trị để đưa đến đa nguyên chính trị, thì chỉ nhận được sự im lặng.
Nhà nước không quan tâm đến những góp ý như thế, truyền thông trong nước dưới sự kiểm soát của Ban Tuyên giáo cũng chẳng lên tiếng hay đưa ra tranh luận về những kiến nghị này.
Những năm gần đây, nhiều vấn đề gây bức xúc trong dân, từ việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào hải phận Việt Nam, tranh chấp đất đai giữa dân và nhà nước, dân oan khiếu kiện, cho đến việc ngư dân thường xuyên bị tàu lạ tấn công ngoài khơi hay sự kiện nhà máy thép Formosa thải chất độc gây thiệt hại cho ngư dân và làm ô nhiễm biển.
Đã có nhiều kiến nghị với sự hưởng ứng của hàng nghìn người, thuộc mọi thành phần trong xã hội được gửi đến lãnh đạo. Nhưng mọi yêu cầu đã không được nhà nước hồi đáp.
Bỗng dưng tuần trước đảng lại gợi ý muốn đối thoại với những người có ý kiến khác biệt.
Ông Võ Văn Thưởng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, trong một hội nghị của đảng hôm 18 tháng Năm có nói: “Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý.”

Ông Võ Văn Thưởng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, trong một hội nghị của đảng hôm 18/5 nói không sợ đối thoại.
Tin đưa như thế. Nhưng những ngày qua không thấy truyền thông nhà nước có bình luận, phân tích về phát biểu của người đứng đầu ngành tuyên giáo, là cơ quan có trách nhiệm giáo dục cán bộ và quần chúng về đường hướng lãnh đạo của đảng.
Nội bộ đảng có thực sự muốn mở ra những đối thoại và đối thoại với ai, về những vấn đề gì của đất nước thì chưa rõ. Ông Thưởng chỉ mới gợi ý và cho biết còn đang chờ Ban Bí thư Đảng đưa ra đề xuất thực hiện.
Lời phát biểu của ông Thưởng chỉ làm gợn sóng dư luận hải ngoại, làm cho một số người Việt ở nước ngoài lạc quan. Nhưng đa số vẫn e dè.

Luật sư Lê Công Định là một trong những người đã từng bị quản thúc.
Trong quá khứ, ngay cả giữa những người cộng sản với nhau mà khi đứng ở phía đối lập vẫn phải vào tù hay lưu vong. Vụ án xét lại cách đây nửa thế kỷ đến nay vẫn có nhiều nạn nhân hay thân nhân của họ muốn được minh oan.
Năm 1967, khi nội bộ đảng có những ý kiến trái chiều về vận hành chiến tranh và đã chia làm hai phe, phe chủ trương hòa hoãn theo Liên Xô và phe quyết tâm tiến hành chiến tranh theo Trung Quốc. Kết quả phía Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng thế khiến nhiều người phải vào tù như Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Lê Trọng Nghĩa; mất chức: Ung Văn Khiêm, Lê Liêm; thất sủng: Võ Nguyên Giáp; hay phải sống lưu vong: Nguyễn Minh Cần, Lê Vinh Quốc, Đỗ Văn Doãn.
Năm 1979, Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan vì bất đồng quan điểm cũng đã phải lưu vong sang Trung Quốc.
Trương Như Tảng, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, vì không đồng ý với chính sách Bắc hóa miền Nam của Hà Nội cũng đã vượt biển tị nạn.

Thực tâm đối thoại?

Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ thực tâm muốn đối thoại với những người có ý kiến khác biệt. Khai trừ trong nội bộ. Hay cho đi nước ngoài như những cựu tù cải tạo.
Đối với người Việt hải ngoại, Hà Nội thường dẫn chứng vài trường hợp để đề cao ý hướng đối thoại, chủ trương hòa hợp hòa giải của nhà nước.
Về chính trị, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Phạm Thế Duyệt đã tiếp cựu lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa là Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong chuyến thăm Mỹ, ghé California có mời Tướng Kỳ đến dự tiếp tân. Tôn giáo có Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã về đối thoại với nhà nước, được tổ chức vài khoá tu học, được xây tu viện ở Lâm Đồng. Văn hoá có nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã đối thoại với nhà nước để được hồi tịch, được cấp chứng minh nhân dân, được sở hữu nhà ở.
Nhưng kết quả của những hành động đối thoại đó là gì. Tướng Nguyễn Cao Kỳ chết không được chôn ở quê nhà. Tu viện Bát Nhã của thày Nhất Hạnh bị phá, tu sinh bị đuổi đi. Những sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy đến nay hầu hết vẫn còn bị cấm phổ biến trong nước.
Giám mục Nguyễn Thái Hợp chủ trương đối thoại với nhà nước, nhưng những lời kêu gọi của ông và của một số linh mục trong Giáo phận Vinh đòi công lý cho người dân trong khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm do Formosa cũng chẳng được nhà nước quan tâm. Trái lại những linh mục cùng dân đứng lên biểu tình đã bị vu khống, bôi nhọ.
Giáo sư Ngô Bảo Châu, nhà toán học danh tiếng của Việt Nam được nhà nước dành cho nhiều ưu đãi, nhưng năm ngoái ông cũng đã bị tấn công tinh thần trên mạng bởi những người cuồng lãnh tụ.
Theo BBC Tiếng Việt, khi giáo sư viết một câu bình luận trên FB của mình: “Có quý mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta” là ám chỉ việc tôn sùng lãnh tụ Hồ Chí Minh thì trong vòng ít giờ đã có 2 vạn “like”, hàng nghìn “share” cùng nhiều phê bình, chỉ trích.
Không hiểu do những áp lực từ đâu khiến ông đã phải xóa bình luận này chỉ sau hai giờ đưa lên Facebook. Giáo sư Châu đang sống ở Mỹ, chứ nếu ở quê nhà chắc cũng không tránh khỏi những nhóm tự phát kéo đến sỉ nhục và hỏi tội hay bị côn đồ hành hung.

Giáo sư Ngô Bảo Câu với câu nói: “Có quý mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”
Như thế đối thoại với lãnh đạo cộng sản lúc này để làm gì, khi vẫn còn nhiều người bị tù vì có quan điểm trái nghịch với nhà nước, khi Việt Nam chưa có tự do báo chí, tự do hội họp – là những quyền căn bản để tiếng nói đối lập với nhà nước được công khai đến với dư luận quần chúng.

Xin mời quý vị xem Video : [Nóng] Nguyên Tổng BT Nông Đức Mạnh yêu cầu đưa thi hài CT Hồ Chí Minh về quê theo đúng Di chúc?

           

Điều kiện cần có để đối thoại?

Khi nào nhà nước đưa ra một lộ trình dân chủ hóa đất nước, với những bảo đảm cho quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, hội họp và lập hội, khi đó những người đối lập mới nên tham gia đối thoại.
Vì nếu tham gia đối thoại mà những quan điểm đối lập nếu không đến được với đại chúng thì đối thoại sẽ chẳng đi đến đâu.
Như thế nó chỉ là cơ hội cho nhà nước lợi dụng để tuyên truyền.
Hơn thập niên trước cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói chuyện yêu nước không phải của riêng ai và không phải chỉ có một con đường yêu nước. Nhiều người đã thể hiện tinh thần yêu nước qua phát biểu, qua xuống đường và đã phải đối diện với án tù.
Như thế gợi ý của ông Võ Văn Thưởng về đối thoại với những ý kiến khác biệt có sẽ đem lại kết quả hay không?

Bùi Văn Phú
Gửi cho BBC Tiếng Việt từ California, Hoa Kỳ

Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả là một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.

(BBC)

25 tháng 5, 2017

Biểu Tình ngày thứ 3: CA Hà nội làm ngơ xúi dân biểu tình hô "Đả đảo đản...


QUÁ KHỦNG KHIẾP, CHƯA BAO GIỜ DÂN BỨC XÚC NHƯ NÀY !
CHẾ ĐỘ KHÔNG SỤP ĐỔ MỚI LÀ CHUYỆN LẠ .

Đừng mắc mưu “đối thoại” của CSVN

Trong những ngày vừa qua, một vài trang mạng đã “giật tít” rằng đảng CSVN sẽ đối thoại, liên quan đến câu phát biểu của ông Võ Văn Thưởng, Trưởng ban truyên giáo trung ương đảng CSVN trong Hội nghị học tập về phong cách của ông Hồ Chí Minh, nhân sinh nhật thứ 127 của ông Hồ.

Theo báo Pháp Luật ở Sài Gòn, ông Võ Văn Thưởng cho biết là Ban Tuyên giáo trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Các trang mạng ở Hải Ngoại đã dựa theo một số nội dung nói trên của báo Pháp Luật để diễn giải rằng đảng CSVN đang có xu hướng muốn đối thoại!
Tuy nhiên, trên các trang mạng của đảng và nhà nước như trang Nhân dân, Tạp chí cộng sản, Cổng thông tin chính phủ và kể cả Thông tấn xã Việt Nam đều không nhắc gì đến nội dung phát biểu nói trên của ông Thưởng.
Nói cách khác, các trang mạng của đảng và nhà nước đều cắt bỏ đoạn ông Thưởng đề cập đến vấn đề đối thoại như báo Pháp Luật loan tải, mà chỉ nói chung chung về những chỉ thị của ông Thưởng yêu cầu các đảng ủy phải học tập phong cách Hồ Chí Minh để sống gần dân hơn, tránh những hiện tượng tiêu cực xảy ra gần đây.
Việc các trang thông tin của đảng và nhà nước không loan tải vấn đề đối thoại mà ông Thưởng phát biểu có thể đến từ hai lý do.
Một là Ban bí thư chưa chính thức chấp nhận đề nghị của Ban tuyên giáo trung ương nên chưa là quan điểm chung của đảng.
Hai là nội dung phát biểu về đối thoại của ông Thưởng đã không phù hợp với Hội nghị trực tuyến học tập về chỉ thị 05 của Bộ chính trị liên quan đến học tập phong cách của ông Hồ, nên đã bị cắt bỏ.
Dù lý do nào đi chăng nữa, qua sự kiện loan tải khác nhau về nội dung phát biểu của ông Thưởng đăng lại trên báo đảng và báo bên ngoài cho thấy có sự nhận thức khác nhau về cái gọi là “đối thoại” dưới chế độ độc tài cộng sản.
Ông Thưởng đã nói rất rõ về chủ trương đối thoại của Ban tuyên giáo là giữa những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đảng và nhà nước CSVN, chứ không phải là cuộc đối thoại giữa một tổ chức, một tập thể có quan điểm khác với CSVN.
Trong khi đó một số người vì vô tình hay cố ý, diễn giải phát biểu của ông Võ Văn Thưởng là một chủ trương nhằm mở ra một kênh đối thoại giữa đảng CSVN với lực lượng đối lập chống lại chính sách của đảng và nhà nước CSVN.
Thật sự nội dung đối thoại theo chủ trương của ông Võ Văn Thưởng đã và đang được đảng và nhà nước CSVN tiến hành kể từ khi họ tung ra Nghị Quyết 36 cách nay 20 năm, nhằm chiêu dụ một số kiều bào hải ngoại. Nay Ban tuyên giáo muốn mở rộng hơn sự đối thoại để tìm cách tranh thủ với một số cá nhân vốn có những bất đồng về các chính sách hiện nay của CSVN trong bối cảnh đảng CSVN gặp quá nhiều khó khăn về tham nhũng, thảm họa Formosa ...
Những loại đối thoại này, CSVN không nhắm vào những đối tượng đang sống và đang đấu tranh ngay tại Việt Nam, mà chỉ nhắm vào những đối tượng ít hiểu biết tình hình thực tế ở trong nước, đang sinh sống tại hải ngoại là chủ yếu.
Đảng CSVN luôn luôn coi những cá nhân, tập thể khác ý kiến, đường lối của đảng là phản động. Khi bị coi là phản động thì chì có hai con đường: Một là đi vào tù dưới những tội vi phạm Điều 88, 79, 256. Hai là hợp tác và phục tùng đảng vô điều kiện.
Với chế độ độc tài độc đảng như vậy làm sao có sự tồn tại của cái gọi là: “Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận.”
Đây là phát biểu mị dân của ông Thưởng và đảng CSVN, vì nó không bao giờ được chấp nhận trong chế độ độc tài dựa trên bạo lực, đàn áp và khủng bố.
Chế độ CSVN nói riêng và các chế độ độc tài nói chung chỉ chấp nhận “đối thoại” khi họ bị các lực lượng đối lập và quần chúng đẩy vào thế nguy hiểm, như chúng ta đã từng thấy diễn ra ở Ba Lan, Tiệp Khắc vào cuối thập niên 80 và tại Miến Điến vào những năm 2010 và 2014. Khi đó, đối thoại là nhằm giúp đảng độc tài hạ cánh an toàn, tránh sự tan rã toàn diện trước sức bật vũ bão của toàn dân.
Tóm lại, trong tiến trình đấu tranh trực diện, đối thoại không phải là một giải pháp để mang lại sự thay đổi dân chủ cho đất nước, khi thành phần lãnh đạo tiếp tục cố thủ trong lô cốt độc đảng. Đối thoại nếu có chỉ là một thủ thuật mị dân mà những chế độ độc tài mong qua đó tháo bớt ngòi nổ bất mãn của quần chúng và lực lượng đối lập để tìm cách mua thời gian tồn tại.
Đối thoại như là một giải pháp cho những bế tắc hiện nay của đất nước phải là một chính sách nghiêm túc đến từ ý thức từ bỏ độc tài, độc đảng, và phải được thể hiện qua những hành động cụ thể ngay lập tức như: thả tất cả các tù nhân lương tâm tại Việt Nam; tôn trọng quyền tự do phát biểu và tổ chức những buổi gặp gỡ, đối thoại với người dân; tôn trọng quyền biểu tình để bày tỏ ý kiến một cách ôn hòa, tôn trọng tự do truyền thông v.v... Chỉ với những hành động cụ thể này, người ta mới thấy là đảng CSVN thực sự mong muốn có những thay đổi tốt đẹp cho đất nước, và tiếp tay hợp tác để đẩy mạnh tiến trình đối thoại và dân chủ hóa đất nước.
Miệng nói đối thoại mà tiếp tục bịt miệng quần chúng, bỏ tù các nhà dân chủ ôn hòa, trấn áp nạn nhân Formosa... chỉ khiến cho người dân thấy rõ hơn các thủ đoạn của một chế độ đang trong giai đoạn đường cùng.

Trung Điền

(Blog Thông Tin Từ Đức Quốc)
TTHNO

Anh Trọng lại rung cây dọa khỉ



Sau thất bại vụ kỷ luật ông Dũng năm 2012, nhờ sự hợp tác của ông Trương Tấn Sang, ông Trọng đã giành lại Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng trung ương từ tay ông Nguyễn Tấn Dũng.

Kết quả hình ảnh cho nguyễn phú trọng đinh la thăng

Để diệt bầy sâu bu chung quanh ông Dũng, ông Trọng đã kéo ông Nguyễn Bá Thanh từ Đà Nẵng ra Hà Nội phụ trách chức Trưởng ban nội chính, phụ tá ông Trọng trong việc phòng chống tham nhũng. Không may, ông Nguyễn Bá Thanh ra đi quá sớm, ông Trọng mất chỗ dựa khiến cho công tác chống tham nhũng bị… đắp chiếu.
Nhưng sau khi hạ được ông Dũng tại Đại hội XII vào cuối tháng 1 năm 2016, ông Trọng bắt đầu trở lại cuộc chiến chống tham nhũng, nhưng thay vì “đả hổ” như họ Tập bên Trung Quốc đã làm, phe ông Trọng lại chọn “con ruồi” Trịnh Xuân Thanh đập trước. Đợt vung gươm đầu tiên tưởng mang lại thắng lợi vẻ vang nhưng ông Trọng lại thất vọng ê chề, vì trong phút chốc Phó chủ tịch Hậu Giang đã trở thành con sáo sang sông. Ê chề và ê mặt bởi lẽ ông Trọng đang có tham vọng từ “diệt ruồi” nhỏ làm đà, chuyển sang bắt những con cọp to để tỏ ra tổng bí thư là người trong sạch, tay chưa bao giờ nhúng chàm.
Thế rồi mới đây, lần đầu tiên bế mạc một hội nghị trung ương giữa kỳ, chẳng những ông Trọng không phải mếu máo như trong Trung ương 6 năm 2012 vì “không kỷ luật được một đồng chí trong Bộ chính trị”, mà lần này còn có thể xoa tay trong niềm hân hoan của người thắng cuộc. Trung ương 5 khóa XII đã êm thấm kỷ luật được ủy viên Bộ chính trị Đinh La Thăng; thành công này được mô tả như là sự phối hợp chặt chẽ giữa Nguyễn Phú Trọng và Trần Quốc Vượng, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Thế nhưng đòn của ông Trọng chưa dừng lại ở đó. Lột được chức bí thư thành ủy của ông Thăng xong, ngày 13 tháng 5, trong dịp đến tiếp xúc với một số cử tri cò mồi quận Ba Đình ở Hà Nội, ông Trọng huyênh hoang tuyên bố với vẻ tự tin và đắc thắng đó chỉ mới là kỷ luật trong đảng thôi. Trong tương lai còn phải đưa ra truy tố theo luật pháp, tức là đưa ra xét xử về mặt hình sự. Như thế dù đang ngồi ở một trong 8 cái ghế khiêm nhượng là Phó ban kinh tế, Đinh La Thăng có vẻ cũng chưa yên thân. Bằng uy quyền của kẻ đầu đảng kiêm đầu trò, ông Trọng đang đặt ông Đinh La Thăng ngồi trên chiếc ghế ba chân với nhiều nỗi lo âu về số phận mình.
Rõ ràng ông Thăng hiện như con cá nằm trên thớt nên ông Trọng có thể chặt bất cứ lúc nào với quyền lực trong tay, không cần phải hứa hẹn răn đe. Nhưng nếu nhìn trong một khía cạnh khác, Tổng bí thư Trọng đang ngồi đầu cầu thổi ống tiêu, hay nói khác đi là đang rung cây nhát khỉ.
Lý do là ông Trọng chỉ rao lên một cách mập mờ “Sắp tới sẽ làm tiếp, nhưng làm tiếp như thế nào chưa nói trước được.” Trong bối cảnh đảng đang sa lầy trầm trọng, trên thực tế chưa chắc Tổng bí thư nào dám làm tiếp như tuyên bố. Nếu đẩy mạnh cuộc đấu đá đi tới một mất một còn, có thể thấy trước là đảng sẽ loạn trong một cuộc tranh hùng có đổ máu. Yên Bái đã từng là chiến trường súng đạn giữa các cán bộ đầu sỏ tỉnh làm rúng động trung ương, chắc ông Trọng chưa quên.
Sự kiện Đinh La Thăng “giương cờ trắng” ngay sau khi có kết luận và đề nghị của Ủy ban Kiểm tra trung ương khiến người ta tự hỏi, có phải anh Trọng đã dùng cơ chế đảng để ép Thăng nhận tội. Nhưng một mặt đã dàn xếp trước là Thăng hãy chịu nhục một năm thôi, sau đó sẽ có cơ hội phục chức lại. Chẳng khác gì Ủy viên Bộ chính trị Trương Tấn Sang trước đây đã bị kỷ luật với hình thức “khiển trách” trong hội nghị Trung ương 7 năm 2003 vì dính líu đến vụ Năm Cam. Tuy vậy, trong Đại hội 10 năm 2006, Sang lại được bầu vào Bộ chính trị. Do con đường đi ngoắt ngoéo và mờ ám trong đảng, người ta cũng có thể nghi ngờ rằng hiện nay Bộ chính trị đã khuyết 1 ghế vì Thăng bị loại, tại sao không bầu lại mà để trống, phải chăng chờ anh Thăng được xá tội vào lại năm sau?
Sau vụ bắt ruồi Trịnh Xuân Thanh hụt, ông Trọng cũng đủ trí khôn để nhận ra rằng thế lực tay chân phe mình còn yếu, cả về nhân sự lẫn tiền bạc. Nếu ông Trịnh Xuân Thanh không có sự tán trợ của phe cánh mạnh trong bóng tối, làm sao ông Thanh có thể chui lọt mẻ lưới đang giăng sẵn?
Nay kỷ luật ông Thăng như thế là đã gỡ gạc được thể diện lắm rồi, dù vết chàm của sự kiện hàng loạt cán bộ dính líu PVN cao bay xa chạy chưa thể xóa mờ. Do đó, rồi đây ông Trọng sẽ án binh bất động không làm gì tiếp, hay nếu có cũng chỉ hướng vào công tác bổ nhiệm nhân sự tai tiếng ở vài bộ và một số tỉnh ủy. Cần phải giữ uy thế, khuyếch trương thắng lợi hơn là đẩy Nguyễn Tấn Dũng vào chân tường biết đâu sẽ có loạn to trong nội bộ đảng.
Chỉ cần nhìn vào cách ông Trọng xử Vũ Huy Hoàng cũng đủ thấy, mức kỷ luật cuối cùng đối với nguyên Bộ trưởng công thương Vũ Huy Hoàng là cách chức nguyên bộ trưởng và rồi không có gì khác. Vũ Huy Hoàng vẫn sống, vẫn ra vào Bộ Công thương, vẫn đi lại khơi khơi thậm chí còn xin cấp thẻ an ninh ra vào khu cách ly của phi trường. Điều này cho thấy là ông Trọng tuy vực lại chút quyền lực của Tổng bí thư trong cảnh chợ chiều của đảng; nhưng không dám phiêu lưu trong việc xóa sổ phe Nguyễn Tấn Dũng ở miền Nam.
Tóm lại, trong lúc đắc thắng sau vụ kỷ luật ông Đinh La Thăng, ông Trọng tuyên bố một vài điều lớn lối sẽ truy tố hình sự một số cán bộ; nhưng trong thực tế, đó chỉ là động tác giả “rung cây nhát khỉ” mà thôi. Vì ông Trọng đã từng thừa nhận, đánh tham nhũng chính là “ta đánh vào ta”, trong khi phe cánh mình chưa bao giờ là những người trong sạch.

Phạm Nhật Bình

20 tháng 5, 2017

Đã tìm ra đích xác bài hát cụ Hồ nghe trước khi nhắm mắt.


CÂU HÒ XỨ KHỰA?
Bài "Lời Bác Dặn Trước Lúc Đi Xa" của nhạc sĩ Trần Hoàn, qua giọng ca Thu Hiền, được mở đầu bằng một câu hát rất chi là đằm thắm:
"Chuyện kể rằng trước lúc Người ra đi
Bác muốn nghe một câu hò xứ Huế"
Sự thật phải như vậy không? Trên trang web chính thống lề phải của "Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch" ghi:
"Bà Vương Tinh Minh, y tá trưởng của Bệnh viện Bắc Kinh kể lại: Vào buổi chiều một ngày cuối tháng 8, Hồ Chủ tịch đang trong trạng thái hôn mê. Các đồng chí trực bên cạnh Người rất lo lắng... bỗng nhiên Người tỉnh lại, mọi người vui mừng... Hồ Chủ tịch nhìn một lượt mọi người đứng quanh liền nói: Người muốn nghe một bài hát Trung Quốc". (1)

Hóa ra là Bác muốn nghe một câu hò xứ Khựa chứ không phải là một câu hò Huế hay hò xứ Nghệ. Và để thỏa lòng Bác, cô y tá Vương Tinh Minh đến từ Bắc Kinh đã hát cho Bác nghe bài "Đại Hải Hàng Hành Kháo Đà Thủ 大海航行靠舵手" (Ra Khơi Nhờ Tay Lái Vững). (2).
Trong bài hát "Lời Bác Dặn Trước Lúc Đi Xa" của nhạc sĩ Trần Hoàn còn có đoạn:
"Bác muốn nghe một câu hò xứ Nghệ
bởi làng Sen day dứt trong tim
Bác muốn nghe một đôi khúc dân ca
trước lúc đi xa qua bên kia bầu trời"
Xứ Nghệ nào, làng Sen nào trong tim Bác? Cũng trên trang web chính thống lề phải của "Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch" chép:
 "Tháng 8-1969 khi các bác sỹ và nhân viên y tế từ Bắc Kinh đến Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh thì bệnh của Người đã rất nặng. Người vẫn lần lượt bắt tay từng người và nói: “Từ trước tới nay tôi luôn đi chữa bệnh ở Trung Quốc và phải nằm một thời gian khá dài tôi rất mong các đồng chí sang. Nếu cần và có thể thì rôi rất muốn sang Trung Quốc!”. Người hỏi thăm các đồng chí Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Người còn hát se sẽ một bài dân ca Trung Quốc". (3)

Thế thì đã rõ, trước khi chết Bác còn "hát se sẽ một bài dân ca Trung Quốc". Trong tim Bác chẳng có cái xứ Nghệ, làng Sen nào hết như Trần Hoàn đã bịa đặt!

THƯƠNG NHỚ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Tình hữu nghị Việt Trung đời đời xanh tươi
Hồ Chí Minh
Những dòng trên đây là 11 chữ vàng bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh khảm trên một tấm thuỷ tinh hữu cơ nền đỏ. Sản phẩm lưu niệm tinh xảo đó được chính Người phác thảo, đã chứa đựng tình cảm sâu sắc của Người đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc. Hơn 10 năm trước, sau một đợt chữa bệnh ở Trung Quốc và trước khi lên đường trở về nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng phẩm đó cho các bác sỹ, y tá và các cán bộ, nhân viên Trung Quốc.
Một đồng chí trẻ đã cùng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với chúng tôi rằng: “Mỗi lần nhìn lại tặng phẩm quý báu hơn 10 năm trước đó, nghĩ tới quan hệ Trung Việt 10 năm qua, chúng tôi càng tưởng nhớ sâu sắc đến Hồ Chủ tịch”. Các thầy thuốc và nhân dân y tế Trung Quốc 10 năm trước đã có dịp từ Bắc Kinh về Quảng Châu để chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe Hồ Chủ tịch cũng đã thổ lộ với chúng tôi những tình cảm đằm thắm đó.
Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần hoạt động cách mạng trên đất Trung Quốc. Từ sau ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hồ Chủ tịch đã nhiều lần sang khám, nghỉ ngơi và chữa bệnh. Người đã cùng Mao Chủ tịch bơi lội ở Bắc Đới Hà, đến nhà riêng thăm Chu Ân Lai, cùng Phó Chủ tịch Đồng Tất Vũ ngắm họa thơ phú ở Hoàng Sơn, nói chuyện thân mật với quần chúng nhân dân lúc gặp nhau trong công viên.
Nhân dân Trung Quốc rất quan tâm đến sức khỏe của Hồ Chủ tich. Từ tháng 4-1967 Hồ Chủ tịch đã đến Quảng Đông và Bắc Kinh để chữa bệnh. Tháng 4-1968, khi sức khỏe đã khá hơn, Người trở về nước. Trong tháng 2 và tháng 8-1969, do bệnh tình nặng hơn, theo nguyện vọng của Người và yêu cầu của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt cử 4 đoàn bác sỹ và nhân viên y tế sang Việt Nam để chữa bệnh cho Người. Một số bác sỹ nhận được tin đã lên đường ngay đêm hôm đó bằng máy bay để đến Hà Nội kịp thời. Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai và các đồng chí lãnh đạo khác đều rất quan tâm đến sức khỏe của Hồ Chủ tịch. Các bác sỹ Hoàng Uyển và Đào Thọ Kỳ năm đó sang chữa bệnh cho Hồ Chủ tịch nhớ lại; Thủ tướng Chu Ân Lai luôn hỏi chúng tôi những công việc có liên quan đến việc chữa bệnh cho Hồ Chủ tịch. Ông Chu đích thân chọn các chuyên gia y tế để giao công việc và nhiều lần căn dặn các bác sỹ phải tích cực tìm cách điều trị tốt, phối hợp chặt chẽ với các bác sỹ Việt Nam hết lòng chạy chữa cho Người. Ông Chu còn đọc kỹ các báo cáo về bệnh tình của Hồ Chủ tịch, kịp thời phái chuyên cơ chở thuốc men và máy móc y tế cần thiết. Tháng 6-1969, Thủ tướng Chu Ân Lai được tin sức khỏe Hồ Chủ tịch đã khá hơn và Người muốn ăn vịt quay Bắc Kinh. Lập tức Thủ tướng yêu cầu cơ quan có trách nhiệm chuẩn bị và giao cho một số bác sỹ sau khi về Bắc Kinh nghỉ sẽ trở lại Hà Nội phải mang sang hai con vịt quay ướp đá. Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe nói Chu Ân Lai gửi vịt quay Bắc Kinh sang, Người rất vui và yêu cầu cấp dưỡng của Người rán nóng lại để các thầy thuốc Trung Quốc cũng được thưởng thức.
Tháng 8-1969, bệnh tình của Hồ Chủ tịch đột nhiên nặng thêm. Các bác sỹ Trung Quốc và Việt Nam ngày đêm túc trực bên Người. Hà Nội đang mùa nóng nực, mồ hôi ướt đẫm, nhưng các bác sỹ đã quân đi sự mệt nhọc, thậm chí quên ăn quên ngủ, dốc lòng dốc sức cứu chữa cho Người. Các bác sỹ Trung Quốc gầy sút, mắt đỏ những tia máu và có người đã bị ngất. Hai bác sỹ ở Bệnh viện Phụ ngoại Bắc Kinh là Hồ Thúc Đông và Khổng Phồn Anh cho chúng tôi biết rằng lúc bấy giờ mọi người chỉ có một tâm nguyện là khôi phục lại sức khỏe cho Hồ Chủ tịch, không nghĩ gì đến những gian khổ vất vả mệt mỏi của bản thân mình. Để chuyền thuốc vào tĩnh mạch có hiệu quả, các bác sỹ Trung Quốc đã thử nghiệm trước vào chính cơ thể của mình. Vào một ngày cuối tháng 8, Hồ Chủ tịch đã bị hôn mê. Các thầy thuốc Trung Quốc đã ra sức cấp cứu hai ngày hai đêm, cuối cùng Người đã tỉnh lại. Ai nấy đều vui mừng như trút bỏ được một hòn đá trong lòng mình. Các đồng chí Việt Nam cảm động nói: “Thiệt là kỳ diệu”.
Các thầy thuốc Trung Quốc cũng không bao giờ quên sự quan tâm ân cần của Hồ Chủ tịch. Nhớ những ngày Người chữa bệnh ở Trung Quốc thường đi bách bộ chuyện trò và kể chuyện cách mạng cùng các bác sỹ Trung Quốc. Trông thấy một số bác sỹ, nhân viên phục vụ đã lâu không về nhà, người thúc giục phải về thăm nhà. Bác sỹ Trương Hiếu là người theo dõi sức khỏe Bác Hồ từ năm 1960 còn nhớ rất rõ có một lần tháp tùng Hồ Chủ tịch từ Bắc Kinh về đến Quảng Châu, Người đã bảo ông về thăm gia đình, Người tặng ông ít hoa quả và nói: “Đồng chí thay mặt tôi mang ít hoa quả này về cho các cháu và nói rằng đây là của Bác Hồ gửi tặng đấy!”.
Tháng 8-1969 khi các bác sỹ và nhân viên y tế từ Bắc Kinh đến Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh thì bệnh của Người đã rất nặng. Người vẫn lần lượt bắt tay từng người và nói: “Từ trước tới nay tôi luôn đi chữa bệnh ở Trung Quốc và phải nằm một thời gian khá dài tôi rất mong các đồng chí sang. Nếu cần và có thể thì rôi rất muốn sang Trung Quốc!”. Người hỏi thăm các đồng chí Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Người còn hát se sẽ một bài dân ca Trung Quốc. Bác sỹ Lý Bang Kỳ công tác tại Bệnh viện Thủ đô Bắc Kinh vừa mới mổ dạ dày, vết mổ chưa khỏi hẳn, ăn uống chưa được trở lại bình thường nhưng ông vẫn cùng các bác sỹ khác đến Hà Nội để chữa bệnh cho Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch đã nắm tay bác sỹ Lý, ân cần thăm hỏi: “Sao đồng chí này gầy thế này! Phải giữ gìn sức khỏe đấy!” mọi người cảm động ứa nước mắt trước sự quan tâm của Hồ Chủ tịch mặc dầu Người đang ốm nặng.
Cứ mỗi lần hơi tỉnh táo, Hồ Chủ tịch lại nói chuyện với những người xung quanh. Bà Vương Tinh Minh, y tá trưởng của Bệnh viện Bắc Kinh kể lại: Vào buổi chiều một ngày cuối tháng 8, Hồ Chủ tịch đang trong trạng thái hôn mê. Các đồng chí trực bên cạnh Người rất lo lắng... bỗng nhiên Người tỉnh lại, mọi người vui mừng... Hồ Chủ tịch nhìn một lượt mọi người đứng quanh liền nói Người muốn nghe một bài hát Trung Quốc. Bà Vương Tinh Minh nghĩ rằng mặc dầu mình hát không hay nhưng để đáp lại mong ước của Người và vì tình hữu nghị Trung - Việt, mình nên hát. Nghe xong bài hát, Người mỉm cười. Đó là nụ cười cuối cùng của Người, nụ cười chan chứa tình hữu nghị Việt – Trung.
Mấy ngày sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh biệt chúng ta. Các bác sỹ hai nước đã khóc thảm thiết trước thi hài của Người. Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã tặng thưởng huân chương và huy chương hữu nghị với thành tích “đã phát huy tinh thần quốc tế vô sản, nhiệt tình và hết lòng hết sức cứu chữa và chăm sóc Hồ Chủ tịch khi Người ốm nặng”.
Với tình cảm đau thương, các bác sỹ và nhân viên y tế Trung Quốc đã lưu luyến vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một đồng chí Việt Nam nắm chặt tay các bác sỹ Trung Quốc nói: “Xin các đồng chí Trung Quốc yên tâm, tuy Hồ Chủ tịch đã vĩnh biệt chúng ta, nhưng tình hữu nghị Việt – Trung sẽ sống mãi!”. Các đồng chí Trung Quốc cũng nói: “Chúng tôi tin rằng nguyện vọng tha thiết của nhân dân hai nước Trung - Việt đời đời sống hữu nghị với nhau sẽ còn mãi như sông Trường Giang và Hồng Hà, không gì chia cắt nổi, không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi!”.
Người dịch: Nguyễn Huy Hoan
Nguồn :http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/default.aspx

Bùi Tín - Xử án kiểu ‘Chúa Sơn Lâm’

Sự kiện sôi nổi nhất trong cuộc Hội nghị Trung Ương 5 khóa XII vừa qua là xử vụ án lớn Đinh La Thăng, bị cáo buộc làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng khi còn làm người đứng đầu quản lý ngành dầu khí.
Đinh La Thăng (trái) và "Chúa Sơn Lâm."
Đinh La Thăng (trái) và "Chúa Sơn Lâm."
Kết quả là ông Thăng bị đưa ra khỏi Bộ Chính Trị. Chấm hết.
Không có bản khởi tố. Không có bản luận tội. Không có bản trình bày của bị cáo. Không có một nhân chứng, vật chứng, hồ sơ, tài liệu liên quan. Không có luật sư, không có tranh biện. Không có kết luận, kể rõ những tội, chiếu theo đạo luật nào. Không có bản tuyên án.
Vì vậy, sau khi kết án xong, nhiều vấn đề xuất hiện, to lớn hơn, quan trọng hơn chính vụ án.
Đó là: 200 vị trong Ban Chấp Hành TƯ có ai chất vấn gì về vụ án hay không? Có ai thắc mắc là việc xử cao hay thấp hay đúng người, đúng tội? có ai thắc mắc sao bị cáo vẫn còn ở trong Ban Chấp Hành TƯ, lại còn là Phó Ban Kinh Tế TƯ Đảng? lại còn là Đại Biểu Quốc Hội? Sao cả gần 200 vị dều như những chiếc robot vô hồn làm theo lệnh bấm nút của Tổng Bí Thư, ngoan ngoãn, nhanh nhẩu giơ tay, không một ai mở mồm có một ý kiến riêng.
Đây là vụ án về tội vô trách nhiệm, làm thất thoát tài sản lớn, dính đến tham nhũng, vậy bị can đã tham nhũng bao nhiêu, phải hoàn bồi ra sao? tài sản bị trưng thu trả lại công quỹ bao nhiêu? Không ai được biết. Một vụ án dang dở!
Vụ án thế là đã kết thúc hẳn hay chưa? Cũng là chuyện tù mù. Có nhà bình luận phán đoán sẽ còn 4 bước dành cho bị cáo. Một bước là đưa ra khỏi Ban Chấp Hành TƯ, đồng thời đưa ra khỏi Ban Kinh Tế TƯ. Một bước nữa là đưa ra khỏi Quốc Hội, để trở thành một công dân, rồi bị truy tố theo luật Nhà Nước. Rồi một bước đưa ra Tòa Án, ví như Bạc Nhất Ba bên Tàu, có thể bị tử hình rồi hoãn thi hành, coi như bị tù chung thân, và tài sản bị xung công. Được như thế còn là hay, là tốt. Nhưng không ai biết sẽ ra sao! Một nền tư pháp u ám, mờ ảo.
Ông Tổng Bí Thư vừa cho biểu diễn một vụ xử án độc đáo, nhanh chóng, êm đềm, thực thi một nền tư pháp Đảng trị không giống ai, giơ cao đánh khẽ; tự khoe là nghiêm minh, nhưng đầy những câu hỏi chưa được giải đáp. Một mình ông, ông làm quan tòa, ông kể tội, ông kết luận, ông tuyên án và buộc 200 vị giơ tay tán thành, thế là xong.
Chính ông Tổng Bí Thư từng kêu gọi đổi mới nền tư pháp công bằng minh bạch,
thì nay ông xử một vụ án lớn sau lưng ngành Tư Pháp, phớt lờ Viện Kiểm Sát, phớt lờ Tòa Tối Cao, phớt lờ Hiến Pháp, luật pháp. Ông là Chúa Sơn Lâm!
Chợt nhớ đến câu nói của bà luật gia Ngô Bá Thành khi còn là Đại Biểu Quốc Hội: «Ta có cả một rừng luật, nhưng lại xử theo luật Rừng!» Tức là trong ngôi rừng Việt Nam, vị Chúa Sơn Lâm là kẻ cầm cân nảy mực, muốn trị ai là trị, có toàn quyền sinh sát, muốn thịt ai là thịt, muốn cho sống được sống, muốn bắt chết phải chết. Hiến Pháp ư? Luật hình sự ư? Luật phòng chống tham nhũng ư? Một nền tư pháp công minh, bình đẳng cho mọi người ư? Ông Chúa Sơn Lâm Nguyễn Phú Trọng cóc cần. Vì ông có riêng một nền dân chủ phát triển đặc biệt, «cao đến thế là cùng!»
Xin nhắc nhở vị Chúa Sơn Lâm rằng ông vừa kêu gọi ngành tư pháp khẩn trương xử 12 vụ án lớn nhất. Các vụ xử án tới sẽ gay go khó khăn vì các bị cáo sẽ ghen tỵ với ông Đinh La Thăng, họ chỉ mong Ngài Chúa Sơn Lâm cho họ hưởng kiểu xử án rất tài tử như Ngài đã làm mẫu ‘’dơ cao, đánh khẽ, cho hạ cánh êm ru, an toàn, còn được giữ nguyên bổng lộc dồi dào cho các đời con cháu.»

Bùi Tín
(Blog VOA)

19 tháng 5, 2017

HỒ CHÍ MINH SINH NGÀY NÀO?


Sắp đến 19/5 lại thấy báo chí, truyền hình bắt đầu "nhớ về Bác". Xét lại thì thấy mình chưa viết một bài nào về ông cụ bởi bất cứ bài nào viết về ông cụ dù là bất cứ ai viết và viết kiểu thì gì ở dưới cũng có rất nhiều tranh cãi thậm chí cắn xé lẫn nhau. Mình không thích viết ra để người ta tranh cãi nên vẫn chưa viết. Hôm nay thử viết một bài về cụ theo cách tiếp cận mới "ít tranh cãi" mà lại gắn với "sự kiện" xem sao, cho mọi người có cái đổi móm.
Ngày 19/5 cách đây 74 năm một tổ chức tên không hề lạ là Việt Minh đã ra đời tại Pác Bó Cao Bằng, song cho đến nay chẳng mấy ai chú ý tới cái ngày thành lập tổ chức này, tuy vậy không phải vì thế mà ngày 19/5 bị lãng quên mà nó đã trở nên quá quen thuộc với người Việt Nam với ý nghĩa là ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh. Liệu rằng đây có phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử giống như ngày mất của ông trùng với ngày quốc khánh? Khi nói về cái ngẫu nhiên thường người ta bỏ qua luôn lý do xuất hiện của nó vì đơn giản nó xảy ra một cách "không cố ý" tuy nhiên lịch sử lại chưa đầy những hành động có chủ ý của con người. Và một trong những chủ ý như thế của Hồ Chí Minh đã tạo ra một "ngày sinh nhân tạo" cho mình.

SINH NHẬT CHÍNH TRỊ.

Sẽ là không ngoa chút nào khi nói ngày sinh nhật 19/5 của chủ tịch Hồ Chí Minh là là sinh nhật chính trị vì nó tạo ra hoàn toàn vì mục đích chính trị.
Bây giờ chúng ta quay về thời điểm lịch sử xung quanh tháng 5/1946. Vào ngày 6/3/1946 Hồ Chí Minh cùng Jean Sainteny đã ký kết hiệp định sơ bộ Pháp-Việt. Theo đó Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp. Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa Dân Quốc để giải giáp quân đội Nhật . Hiệp định này được xem là một nước cờ chính trị của cả hai bên nhằm mưu đồ lợi ích riêng. Chính vì thế mà nó bị các đảng phái khác ra sức công kích dữ dội xem nó là "Hiệp ước bán nước" khiến ông Hồ phải đứng ra thề trước quốc dân đồng bào trong một cuộc mit tinh ở Nhà hát lớn: “Hồ Chí Minh không bán nước!” Những diễn biến này đặt ông trước những tình thế nhạy cảm tiếp theo.

Sau Hiệp định Sơ bộ, quân Pháp bắt đầu vào miền Bắc và sớm gây sự. Quân Tưởng rút dần nhưng chậm. Cao ủy Pháp D’Argenlieu đề nghị gặp Hồ Chí Minh trên Vịnh Hạ Long. Cuộc gặp gỡ đi đến các thỏa thuận: Mở cuộc đàm phán trù bị ở Đà Lạt. Khi trù bị kết thúc sẽ mở đàm phán chính thức ở Paris. Phía Pháp đồng ý mời một đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam sang thăm Pháp. Cùng dịp này, Chính phủ Pháp mời Hồ Chí Minh sang thăm Pháp với danh nghĩa thượng khách của nước Pháp. Đây là cơ hội lớn để đề cao vị thế của Việt Nam, tranh thủ dư luận Pháp, tranh thủ đấu tranh về vấn đề Việt Nam trực tiếp với Chính phủ Pháp, tránh giáp mặt với thực dân Pháp ở Đông Dương.
Trong lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị chuyến đi thì Cao ủy Pháp D'Argenlieu, mở cuộc kinh lý khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 từ ngày 14/5/1946. D'Argenlieu đến Vientiane ngày 17/5/1946, đến Hà Nội chiều ngày 18/5/1946. Trên danh nghĩa, D'Argenlieu là cao uỷ, đại diện chính phủ Pháp tại Đông Dương. Việt Nam là một quốc gia trong Liên Bang Đông Dương nên theo nghi thức ngoại giao, để đón tiếp cao ủy, phía Việt Nam phải treo quốc kỳ trong ba ngày để đón D'Argenlieu. Dư luận trong nước thì vẫn còn đang sôi sục vì Pháp đã chiếm lại Nam Bộ, quả này mà dân thấy treo cờ ra với lý do chào đón "toàn quyền" thì thể nào "bọn phản động" cũng có cớ sẽ làm rùm beng lên công kích chính phủ Việt Minh bán nước cho mà xem :D. Đúng là một bài toán khó cho ông Hồ và các đồng chí của mình.
Quân đội Pháp thì muốn tổ chức lễ đón D'Argenlieu thật long trọng để phô trương thanh thế và khẳng định sự quay trở lại của Pháp. Họ mời Hồ Chí Minh tới dự vào ngày 19/5/1946. Ngày 18 sau khi nhận được giấy mời ông Hồ liền cử bộ trưởng Phan Anh tới dự và sau đó yêu cầu thư ký Vũ Đình Huỳnh mời các lãnh đạo trong chính phủ và các đoàn thể tới Bắc Bộ Phủ dự lễ sinh nhật mình vào ngày hôm sau. Theo Hồi ký "Tháng tám cờ bay" của Vũ Đình Huỳnh có đoạn:
“Khi tôi báo tin về ngày sinh của Bác, mọi người cằn nhằn sao nước đến chân mới nhảy. Anh Trường Chinh nói rằng tôi đã biết ngày sinh của Bác mà không nói trước. Tôi thưa lại: Bác vừa bảo thì tôi đến đây ngay”.
Chi tiết này cho thấy ngày sinh nhật đùng một cái được đẻ ra này chắc đến 100% là sinh nhật giả. Vì đâu mà ông Hồ lại sinh khéo thế đúng vào dịp có "việc phải xử lý". Hôm sau, cả Hà Nội bừng lên màu cờ, biểu ngữ chúc mừng sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tối 19/5, lễ mừng chính thức được tổ chức trọng thể tại Bắc Bộ Phủ. Không khí tưng bừng, quan khách tấp nập. Các đoàn thiếu nhi gõ trống ca vang trong phủ. Trong không khí rộn ràng đó, Cao ủy D’Argenlieu và Ủy viên Cộng hòa Sainteny mang hoa đến "chúc mừng sinh nhật Hồ chủ tịch".
Hiệu quả của việc lựa chọn ngày sinh cho mình của Hồ Chí Minh đã giúp ông đi một nước cờ ngoại giao có ý nghĩa cả về mặt đối nội và đối ngoại. Đối với dân chúng ông đã tìm được một lý do để treo cờ "đón giặc Pháp" là để mừng thọ “cha già dân tộc” mà họ không hề nghi ngờ gì về mục đích của nó, điều ấy cũng tạo thêm hậu thuẫn cho bản thân ông và Việt Minh, giúp đo được sự ủng hộ của dân chúng đối với mình, cũng như kiềng mặt các đảng phái đối lập. Đối với các đồng chí là cơ hội biểu dương lực lượng, cho họ được chào mừng ngày thành lập Việt Minh. Còn đối với Pháp ông đã đảo ngược thế cờ, đổi vị thế chủ và khách với phía Pháp, tránh không đến dự buổi lễ phía Pháp tổ chức mà lại kéo hai đại diện chính của nước Pháp đến chào mình, nói theo kiểu vẫn thấy trong phim Tàu là "hạ thấp oai phong của địch nâng cao uy thế của ta", tạo bước đệm tốt cho chuyến thăm của ông sang Pháp sắp tới. Nói chung là một mũi tên trúng nhiều con chim và từ sau sự kiện đó thì ngày 19/5 được chính thức hóa trở thành ngày sinh Hồ Chí Minh.

TỰ VẼ RỒNG.

Từ những dữ kiện trên có đủ kết luận là ngày 19/5 thực tế là một ngày sinh nhật chính trị, vậy còn những dữ kiện nào khác về ngày sinh Hồ Chí Minh đã được biết tới trong các hồ sơ lưu trữ?



Căn cứ theo lá thư Nguyễn Tất Thành tại Marseille ngày 15/9/1911 gửi tổng thống Pháp để xin vào học trường thuộc địa tại Paris lấy từ cuốn Ho Chi Minh: A Life của William J.Duiker thì phía dưới lá thư ký: Nguyễn Tất Thành, Sinh tại Vinh, 1892 con trai ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương) sinh viên tiếng Pháp và Trung Quốc.
Theo Jacques Dalloz trong cuốn " Les Vietnamiens dans la Franc-Maçonnerie coloniale " ( Người Việt trong hội tam điểm thuộc địa ) thì trong đơn xin vào Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) vào đầu năm 1922, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Nguyễn Ái Quốc, ghi trong phiếu cá nhân rằng ông sinh ngày 15/2/1895.
Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15/2/1895 ( trùng với ngày khai ở trên ).
Hộ chiếu Tổng lãnh sự quán Trung Hoa tại Singapore cấp ngày 28/4/1930 cho Tống Văn Sơ ghi năm sinh là 1899.
Còn theo sử gia Daniel Hémery, dựa theo các nguồn của kho lưu trữ của chính phủ Pháp có một tờ khai tại sở cảnh sát Paris năm 1902, Hồ Chí Minh lại khai là sinh ngày 15/01/1894.
Cũng theo ông này thì có một nguồn tin khác nữa là khai sinh của Hồ Chí Minh được những người làm chứng ở Kim Liên xác nhận đã được cơ quan mật thám xác lập năm 1931 (tức khoảng 40 năm sau) thì chỉ ra ngày sinh của Nguyễn Sinh Cung vào tháng 03 năm Thành Thái thứ 6, tức khoảng tháng 04 năm 1894.
Trong cuốn truyện "những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" dưới bút danh Trần Dân Tiên ông Hồ đã nêu ra một triết lý:
"Một nhà họa sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn, khi hiện giữa những đám mây".



Có lẽ ông đã vận dụng nguyên lý này để chỉ đạo các hành động và tư tưởng của mình nên đã chủ động tạo ra rất nhiều đám mây xung quanh bản thân mình cả trong điều kiện phải lẩn tránh sự theo dõi chú ý của kẻ thù cũng như xây dựng hình ảnh vị lãnh tụ tối cao trong dân chúng. Những cuốn truyện ông tự viết về mình với hình ảnh vị cha già, người đại diện của giai cấp cần lao với phong thái "bình dị cận nhân" dưới các bút danh khác nhau tôi thấy nó có thể xếp cùng loại với truyền thống vẽ rồng thường thấy trong lịch sử Việt Nam đời xưa như việc Lý Công Uẩn muốn dời đô thì "phịa" ra chuyện thấy rồng bay lên ở thành Đại La, Nguyễn Trãi bôi mỡ lên lá theo chữ "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần" để kiến ăn theo hình chữ đõ, dân chúng thấy đó là điềm trời ứng như thiền sư Vạn Hạnh cho khắc bài sấm trên cây gạo bị sét đánh nói về việc nhà Lý thay nhà Tiền Lê. Hay như Lê Lợi "dựng" lên chuyện "trả gươm cho rùa" và nay chúng ta có "Di tích lịch sử Hồ hoàn kiếm" đều nhằm tạo ra hình ảnh của các vị "chân mệnh thiên tử" có tư cách chính danh để cầm quyền, là những công cụ lối cuốn đám đông bằng sự sùng kính thần thánh của người làm chính trị trong một đất nước lạc hậu. Vậy cho nên đến tận bây giờ xung quanh ông vẫn là những đám mây huyền ảo. Người ta biết về ông không khác gì hơn biêt về một điệp viên. Và quả thực cũng đúng như vậy. Qua sự sai khác giữa các thông tin trong các hồ sơ mà ông tự khai cho thấy từ khi còn rất sớm ông đã có ý thức "bảo mật thông tin" của một "điệp viên" khá rõ rệt.

DỮ LIỆU TỪ NHỮNG KÝ ỨC.

Dữ liệu mà một điệp viên tự khai thì độ tin cậy không thể cao vì mục đích của thông tin đó tự thân nó không phải cung cấp sự thật. Vì thế muốn biết ngày sinh thực của Hồ Chí Minh thì bắt buộc là phải có thao tác khai phá dữ liệu kiểu "data mining". Phân tích từ chính thông tin của ông lúc "sơ hở" so sánh các nguồn tư liệu khác nhau và tìm kiếm gián tiếp qua thông tin của những người thân cận với ông. Khi đi tìm dữ liệu về năm sinh của ông manh mối đầu tiên mà tôi phát hiện ra là một chi tiết khi ông trả lời phỏng vấn tạp chí "Ngọn lửa nhỏ" vào năm 1923 của Liên Xô:
“Vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên tôi đã được nghe về những từ ngữ tiếng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng đều được coi là người Pháp – thể là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ngữ ấy”
Theo thông tin từ cuốn "Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế" của Nguyễn Đắc Xuân, một người đã lần gặp gỡ, phỏng vấn và ghi âm rất nhiều lời kể của những người sống ở Huế có mối liên hệ với gia đình ông Nguyễn Sinh Sắc cũng như bạn học cùng với Hồ Chí Minh ở trường Pháp Việt Đông Ba và quốc học Huế ngay sau thời điểm 1975 có xác nhận thời điểm ông Hồ vào học ở trường quốc học Huế là khoảng thời điểm 1905. Trong cuốn đó cũng có phần trao đổi giữa ông Xuân và "nhân chứng"
Lời kể cụ Hồ Đắc Định (87 tuổi) - “Lúc cụ Hồ còn là câu học sinh Nguyễn Sinh Côn ở trường Đông Ba và trường Quốc Học tôi có biết nhưng ít khi gặp nhau chuyện trò. Tuy vậy, trong gia đình tôi thì không thể quên được người học sinh ấy. Bởi vì cuộc đời học vấn của cụ Hồ lúc ấy có liên quan đến ông anh tôi là thầy trợ Hồ Đắc Quỳnh. Trước đây mấy người cháu của tôi đi tập kết (Hồ Đắc Nga làm ở báo Độc Lập) gửi thư về bảo tôi viết chuyện ấy. Nhưng tôi không viết. Anh lạ gì người Huế mình có thói quen rất sợ mang tiếng “thấy sang bắt quàng làm họ”. Bây giờ thì cụ Hồ đã mất gần mươi năm rồi, đối với anh là học trò cũ, tôi không thể từ chối được.Tôi kể anh nghe rồi anh coi chọn sử dụng được cái gì thì tuỳ ý anh.
-“Lúc vào học trường Pháp Việt Đông Ba trình độ Pháp văn của anh Côn còn kém lắm. Từ điển rất hiếm và học sinh cũng chưa có thói quen tra Từ điển. Gặp chữ gì khó hiểu anh Côn cũng hỏi thầy. Một hôm mới vào lớp anh Côn thấy dòng chữ kẻ phía trên tấm bảng đen trước mặt, anh đứng dậy hỏi thầy:
- “République Francaise,Liberté-Égalité-Fraternité, nghĩa là gì, thưa thầy?”
Anh tôi- cụ Hồ Đắc Quỳnh - vốn là một học sinh thông minh, mới 23 tuổi đã đỗ Thành chung, tuy vậy anh cũng chưa hiểu hết câu tiêu ngữ này. République Francaise là nước cộng hoà Pháp nhiều người đã hiểu. Còn ba chữ kia thì sao? Vì tình trạng đất nước mình lúc đó không có những từ tương đương với những từ Pháp ấy. Cuối cùng anh tôi giở Từ điển ra xem và đọc nguyên văn bằng tiếng Pháp cho anh Côn và cả lớp đều nghe. Nghe xong anh Côn vẫn chưa thỏa mãn. Hết giờ anh Côn và một số học sinh đi theo yêu cầu thầy giáo giải nghĩa thêm bằng tiếng Việt nữa. Khi anh hiểu mấy chữ ấy rồi thì anh rất thích thú. Anh nói với bạn bè anh sẽ học tiếng Pháp cho thật giỏi để hiểu được văn minh, lịch sử nước Pháp. Ngoài giờ học ở trường anh còn xin đi học cours du soir (Lớp chiều) với thầy Ưng Dự (lớp học chiều ấy mở ngay ở ngã tư Trần Hưng Đạo-Phan Đăng Lưu ngày nay)" .
Nếu kết hợp lời kể này với điều "bộc bạch" của Hồ Chí Minh trong bài phỏng vấn ở trên ( tôi dùng chữ bộc bạch vì trong câu trả lời không có tính khai báo mà nó là chia sẻ về một ký ức thời niên thiếu, độ tin cậy cao hơn ) ta có thể thấy là thời điểm ông Hồ lần đầu nghe mấy chữ "Tự do, bình đẳng, bác ái" là khi ông khoảng 13 tuổi, và đó cũng là thời điểm đó không thể sớm hơn năm 1905 được ( nếu ông sinh năm 1890 thì lúc đó ông phải ít nhất là 15 tuổi chứ không phải trạc 13 tuổi ). Lấy 1905 trừ đi 13, chấp nhận sai số cộng trừ 1 thì năm sinh của ông sẽ rơi vào khoảng 1891 hoặc 1892.

NHỮNG CUỐN HỒI KÝ.

Khi nghiên cứu lịch sử ngoài các hồ sơ lưu trữ, các tư liệu được giải mật thì các cuốn hồi ký cũng là một nguồn tư liệu hết sức quan trọng. Trong số các cuốn hồi ký hot thì gần đây nhất là "Đèn cù" của Trần Đĩnh cũng có nhắc đến chi tiết về năm sinh của Hồ Chí Minh:
"Tháng 3, Tố Hữu triệu tập mấy người lập nhóm viết tiểu sử Hồ Chí Minh với danh nghĩa Ban nghiên cứu lịch sử đảng. Gồm Tố Hữu, Phạm Bình (Ban nghiên cứu lịch sử đảng), Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh và tôi. Hai nhà văn vào tận quê Cụ sưu tầm tài liệu. Phạm Bình cung cấp tài liệu. Tôi viết. Cố nhiên cũng sưu tầm cả tài liệu. Hai nhà văn trở ra với nhiều điều giật gân. Cụ sinh năm 1891! Cụ Khiêm, anh trai Cụ nói thế, có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng. Báo cáo với Cụ thì Cụ nói của người ta thế nào thì cứ để thế không sửa gì hết. Hai nhà văn và tôi bảo nhau: Bác muốn dân dễ nhớ nên lấy tròn 1890".
Điểm lưu ý trong đoạn trên là Trần Đĩnh khẳng định "có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng" vậy bằng chứng đó là gì? Chúng ta có thể tìm thấy một sự tương thích về mặt nội dung trong thông tin của Trần Đĩnh và thông tin từ một người họ hàng của Hồ Chí Minh là nhà văn Sơn Tùng.
Trong ký lục về buổi nói chuyện của Sơn Tùng ngày 27/4/2001 tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Đào tạo có đoạn:
" Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiên cứu từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh năm 1890, nhưng tôi nghiên cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào Huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho tôi cuốn “Tất Đạt tự ngôn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong “Tất Đạt tự ngôn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ."
Ông Sơn Tùng có nhắc đến cả tử vi của Hồ Chí Minh như vậy thì ngoài chi tiết về năm sinh 1891 thì ông chắc chắn còn biết cả ngày tháng thâm chí là giờ sinh ( không biết thì không thể lập được là số tử vi ). Lá số tử vi này do ai lập? Ngay trong đoạn sau của bài nói chuyện trên cũng có đề cập thêm một lần nữa về lá số tử vi của Hồ Chí Minh qua lời kể của ông cả Khiêm trực tiếp kể cho ông ( Sơn Tùng ) nghe:
"Lúc đến chân Đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Đến chân Đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo: chỗ này phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác ngồi xuống thì ôm bàn chân rộp, còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha:
-Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:
Đó là con đường mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách “Tất Đại tự ngôn” này:
“Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con”
Nói về văn, thơ, tôi là anh thanh niên năm 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn “Tất Đại tự ngôn” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ. Ông Khiêm nói tiếp:
Lúc đó, cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ:
Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.
Như vậy là ông Nguyễn Sinh Sắc đã lập là số tử vi cho cậu con trai của mình. Điều này cũng không có gì là khó hiểu bởi Nguyễn Sinh Sắc vốn là bậc túc nho, nói đến Nho là nói đến "Tứ thư, ngũ kinh", trong mấy sách này "Dịch quán quần kinh chi thủ" đứng đầu bảng là Kinh Dịch vốn là cha đẻ của mệnh lý học. Từ cái gốc Dịch thì tỏa ra là các môn lý số khác như Tử vi, Thái Ất, Phong Thủy etc.., tầng lớp sĩ phu có danh vọng hồi xưa có lẽ ông nào cũng thông thạo Nho, Y, Lý, Số cả. Cái tên chữ "Tất Thành" ông đặt cho con trai phải chăng là đã ước đoán được con đường của cậu con trai mình qua sơ đồ mệnh lý "Đa gian truân, hựu tất thành"?
Theo Thiếu Lăng Quân ( tên thật là Nguyễn Tài Tư , còn có một tên khác là Hồ Chí Trung cũng là họ hàng gọi Hồ Chí Minh bằng bác, tác giả của "Ba mươi năm mong đợi Bác về tập hồi ký 400 trang viết tay chưa xuất bản" ) kể về vế lá số Tử Vi của cậu bé Nguyễn Sinh Cung là:
"Cụ Nguyễn Sinh Sắc có lấy lá số Tử Vi ngay và cụ Sắc cũng có đưa lá số này ra để giải đoán với các bạn bè như cụ Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý".
Sau này ông Khiêm cải táng mộ cho mẹ là bà Hoàng Thị Loan về núi Đại Huệ, người biết về Phong Thủy sẽ luận ra viễn án của ngôi mộ bà Loan là dãy núi Hồng Lĩnh như một đàn ngựa đang rong ruổi, minh đường là dòng sông Lam vắt qua, tiền án là ngọn rú Dầu, phân tích này chứng tỏ là ông Khiêm cũng được truyền lại các kiến thức Phong Thủy từ cha mình và các bậc tiên nho khác.

TƯ DUY DỊCH LÝ PHƯƠNG ĐÔNG.

Là một người có gốc cựu học vững vàng Hồ Chí Minh có lẽ còn giỏi lý số dịch học hơn cha và anh trai mình. "Dĩ bất biến ứng vạn biến" là câu nói khá nổi tiếng mà ông dặn dò một nhà nho khác là Huỳnh Thúc Kháng trước khi lên đường sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau đã khắc họa sâu sắc nguyên lý dịch học "Bất dịch, Biến dịch và Giản dịch". Ông cũng đã vận dụng điều này qua những phát biểu khác nhau, có nhiều cái bất biến được ông khẳng định như:
"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi".
"Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết phải giành cho được độc lập".
"Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, bởi không có gì quý hơn độc lập tự do".
Rõ ràng là với ông những khái niệm "Tự do, Độc lập, Thống nhất" ở trong ông là những khái niệm bất di "bất dịch", trong khi đó ông lại hết sức cơ mưu quyền biến, uyển chuyển "biến dịch" trong sách lược chính trị ngoại giao cũng như cách ứng xử. Và đời sống sinh hoạt của ông thì vô cùng "đơn giản, cơ động" rất đậm chất "giản dịch", người ta vẫn hay nói về "sự giản dị của Bác Hồ" như một thói quen sinh hoạt mà ít đề cập tới rằng nó có thể là một triết lý sống hay là một thái độ triết học nữa . Trong tiếng Hán thì chữ giản dị và giản dịch là cùng một từ 簡易, trong câu văn Việt tùy theo context mà phiên âm ra là giản dị hay giản dịch . Vì đã đi khắp nơi, uống cả mực Tàu và mực Tây nên trong số đồ nghề ông sử dụng có đầy đủ các thể loại Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Hoa và ông cũng không đề cao duy nhất một loại mực nào. Ông thường làm những điều tưởng chừng như rất nghịch lý nhưng đem lại hiệu quả khá cao:
Dùng chủ nghĩa cộng sản làm phần mềm để xây dựng và tập hợp lực lượng nhưng lại customize nó bằng cách viết ra một cương lĩnh mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa khi thành lập Đảng cộng sản Đông Dương khiến ông bị các đồng chí của mình là Hà Huy Tập, Trần Phú phê phán gay gắt là "chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh" kéo theo việc ông bị mất ảnh hưởng trong đảng của mình thời gian sau đó. Tuy nhiên sau này nhờ vào đường lối dân tộc và bộ máy tổ chức kiểu cộng sản mà ông giành được mục tiêu của mình còn những người đã từng phê phán ông thì đều đi vào con đường thất bại và chết sớm.
Ông trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền Pháp vào Tuyên ngôn độc lập Việt Nam chứ không phải lời nói nào đó của Marx hay Lenine. Theo hồi ký "Con rồng An Nam" thì Hồ Chí Minh nói với Bảo Đại là ông cho mấy lời đó vào để "làm đẹp lòng người Pháp và người Mỹ" , ông cũng có lần đề nghị Bảo Đại phục vị còn ông sẽ đứng sau làm thủ tướng với lý do mà ông thổ lộ với Bảo Đại là người Pháp, người Mỹ họ không tin ông vì "họ thấy tôi quá đỏ" ông sẵn sàng lùi lại sau để phương Tây thấy chính phủ của ông "bớt đỏ đi" . Trước khi chết Bảo Đại còn trả lời nhà sử học trẻ Frédéric Mitterand ( cháu của Tổng thống François Mitterand ) trong một cuộc phỏng vấn trực tiếp được phát trên truyền hình Pháp nhiều lần trong đó có đoạn:
Bảo Đại: "Vâng, xin đừng quên rằng cụ Hồ xuất thân từ một gia đình quan lại. Và cụ đã đối xử với tôi như tôi còn làm vua. Cụ cấm những người xung quanh cụ gọi tôi bằng đồng chí, bằng những tên gọi của giai cấp vô sản, và luôn luôn gọi tôi là Hoàng thượng"
Gửi thư cho cả 2 ông trùm của 2 phe thù địch là Truman và Stalin đề nghị công nhận độc lập của Việt Nam .
Hợp tác với sĩ quan OSS của Mỹ và sau này là đi dây với cả Liên Xô và Trung Quốc trong bối cảnh mâu thuẫn Xô-Trung cực kỳ gay gắt, hai ông lớn đều tranh nhau vị trí thống soái lãnh đạo cách mạng thế giới cùng muốn lôi kéo "thằng em út" nhưng ông Hồ đã không để bên nào lôi được mình sang hẳn một phe.
Về đối nội thì ông không thể hợp những người "đồng chí cộng sản" Trotskyist khác đường lối như Tạ Thu Thâu nhưng lại sẵn sàng sử dụng cựu đảng viên Quốc dân đảng như Nguyễn Bình làm tư lệnh thống nhất các lực lượng vũ trang miền Nam.
Trong buổi phỏng vấn ngày 25/6/1946, Hồ Chí Minh đã trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như sau: Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés. Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt ).
Trong "Tứ trụ triều đình": Giáp, Duẩn, Đồng, Chinh thì hai người có vẻ thân thiết với ông hơn là Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng đều là người của "Tân Việt cách mạng đảng" trước rồi thành đảng viên CS sau chứ không phải đi theo CS ngay từ đầu như các ông Trường Chinh và Lê Duẩn.
Ông có thể một phát phong ngay cho một anh giáo dạy sử Võ Nguyên Giáp chưa từng qua trường lớp quân sự nào quân hàm đại tướng tổng tư lệnh trong khi sẵn sàng bỏ qua không cần dùng một anh "thừa tướng" đã từng trải qua "Hoàng Phố quân sự học hiệu" và "Vạn lý trường chinh" như Nguyễn Sơn. Ông cũng đặt tên lại cho ông Võ-Nguyên Giáp là Văn, phải chẳng đó chính là vì ông muốn nhắc nhở vị tướng của mình một nguyên lý của Dịch là "Trong văn có võ, trong võ có văn", "trong quân sự có chính trị, trong chính trị có quân sự" và kẻ cầm quân không hiểu đạo lý này sẽ không thể thành tướng tài được.
Tất cả những việc ông làm đều cho thấy ông là người thực dụng không câu nệ hình thức, cái gì cũng có thể sử dụng được cốt sao được việc, cốt sao đạt được những mục tiêu bất biến của mình, và qua mỗi hành động đó đều có một nguyên lý nhất quán xuyên suốt mà ông cố gắng vận dụng và thực hành đó là " dung thông những cái trái khoáy, đối lập nhau, khai thác những ưu điểm của sự đối lập đó theo khía cạnh có lợi nhất trên toàn cục thay vì độc tôn một mặt nào đó, loại bỏ cái cái còn lại". Những lời sau đây của ông có thể minh họa cho lập luận này:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Jesus có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jesus, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Chính vì thế nên ông nói "đạo đức cách mạng" là "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư" cái này toàn là ngôn ngữ nho giáo từ học thuyết họ Khổng mà ra chứ không "tự mình sáng tạo" ra những thứ kiểu "làm chủ tập thể" như ông Lê Duẩn. Rồi cái khẩu hiệu "Độc lập- Tự Do- Hạnh Phúc" này chẳng phải đâu xa, vốn chính là "Dân tộc độc lập-Dân quyền tự do-Dân sinh hạnh phúc" mà ông đã "thuổng" nó từ "Chủ nghĩa Tam dân" của Tôn Trung Sơn đúng như tinh thần của đoạn văn trên.
Người ta có thể lý giải cho những hành đông này của ông bắt nguồn từ phép biện chứng của chủ nghĩa Marx vì chính Engels đã từng nói "Everthing exists in pair" ( mọi thứ tồn tại theo cặp ở thế lưỡng trị ) tuy nhiên theo tôi có lẽ nó bắt nguồn từ lối tư duy "Lưỡng tại song hành, lưỡng phân lưỡng hợp" đẻ ra từ học thuyết âm dương thì đúng hơn, bởi phép biện chứng của Marx không nhấn mạnh rằng các mặt đối lập có chứa đựng các yếu tố của của mặt đối lập kia như học thuyết âm dương "Trong âm có dương và trong dương có âm" dù nó có đề cập đến việc chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.



Những dẫn chứng hơi dài dòng vừa rồi của tôi là để chứng minh một niềm tin là Hồ Chí Minh là người am tường dịch lý một cách sâu sắc và có vận dụng dịch học vào việc tạo ra sự nghiệp chính trị của mình. Điều này chưa từng đề cập đến trong các tài liệu nghiên cứu về ông do giới sử học trong và ngoài nước tiến hành, có lẽ bởi với hệ thống lý luận XHCN thì dịch lý là sản phẩm của chế độ phong kiến nên không thể đưa nó vào tài liệu nghiên cứu chính thống, còn với giới nghiên cứu phương Tây thì "học thuật của phương Đông" không phải là thứ được đánh giá cao.
Nếu không thừa nhận điều này thì sẽ khá khó khăn trong việc lý giải tại sao Hồ Chí Minh có khả năng tiên đoán trước một số điều ( vốn đã được kiểm chứng bằng dữ liệu chính xác ) . Ở đây tôi xin trích ra một đoạn trong hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh, một cuốn hồi ký cũng từng gây xôn xao văn đàn và xã hội cả ảo lẫn thực.
Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm lịch sử quan trọng: năm 1945, chấm dứt Đại chiến Thế giới thứ hai và Cách mạng tháng Tám thành công; năm 1954 chiến thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950); năm 1975 chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm 1960).
Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có tử vi.Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài “Diễn ca lịch sử nước ta”: “Bốn nhăm sự nghiệp hoàn thành”, thì ở Hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu cường trong phe Đồng Minh là Stalin, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh chấm dứt năm1946.Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ, lại đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh chống phát-xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện đầy đủ. Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!
Trần Quốc Vượng kết luận: cụ Hồ có tử vi.Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở Thư viện Quốc gia có cuốn Tử vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư nói sách không còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư viện, Vượng đến hỏi, cụ Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho cụ Hồ đọc rồi. Sách đang ở chỗ cụ Hồ.

Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di bút của Hoài Thanh (bản đánh máy lúc chưa xuất bản thành sách). Trong đó có đoạn viết: “Năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, anh Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với Bác:
‘Thưa cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng sợ hơn?’
‘Tây cũng không đáng sợ. Tàu cũng không đáng sợ. Đáng sợ nhất là các chú.’ Ông Hồ trả lời như vậy”.
Ngẫm ra đây cũng là một tiên đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày nay Pháp, Mỹ đều rút hết rồi. Đất nước nếu còn khốn khổ thì đúng là do “các chú”.
Chi tiết nói về khả năng tiên đoán tương lai của Hồ Chí Minh không phải chỉ một mình Nguyễn Đăng Mạnh nhắc đến mà nó được nhiều người khác từng tiếp xúc với ông nhắc lại nhiều lần trên các phương tiện thông tin chính thống, chỉ có thông tin về việc ông Hồ nghiên cứu tử vi là thông tin mới. Dù rằng "môn dự đoán dựa trên dịch học" chưa được xác lập là một môn khoa học thực sự bởi cái mã nguồn của nó vẫn chưa được public để trở thành open source mọi người cùng nghiên cứu nhưng có một thực tế là công chúng vẫn đã và đang thừa nhận năng lực này ở một số nhân vật lịch sử được tôn xưng là "Thượng thông thiên văn, hạ tường địa lý, trung tri nhân sự, huyền cơ tham tạo hóa" như Thiệu Ung ở Trung Quốc và Nguyễn Bình Khiêm ở Việt Nam.
Khác với Thiệu Ung chuyên tâm vào học thuật, chú trọng soạn thảo các trước tác dịch học, Nguyễn Bỉnh Khiêm không để lại trước tác dịch học nào cả ( có một số tác phẩm được cho là của cụ nhưng chưa có bằng chứng xác thực, có thể người đời sau tạo ra mượn danh cụ để lấy uy ) nhưng ông lại được xem là người đã sắp xếp thế các thế lực chính trị tạo nên cục diện lịch sử Việt Nam thế kỷ 16 qua việc "chỉ dẫn" cho các tập đoàn Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn. Cũng có những ví dụ khác về những "trí thức cổ trang" có bản lĩnh "chọc trời khuấy nước, khuynh đảo thiên hạ" là "bậc thầy của đế vương" từng dùng cái năng lực "thần cơ diệu toán" của mình can dự một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào lịch sử lập nên các triều đại kéo dài mấy trăm năm như Trương Lương, Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn mà học thuật của mấy đồng chí này không gì khác ngoài mấy món "Âm dương dịch lý, ngũ hành vật luận".
Bất kể ai xuất phát từ quan điểm chính trị nào mà nói đều phải thừa nhận rằng Hồ Chí Minh cũng là một nhân vật "hùng tài đại lược" có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Căn cứ vào những hệ quả mà ông tạo ra đối với lịch sử ( tôi không nói về việc nó là tiêu cực hay tích cực, cái này tùy quan điểm lập trường của các phe phái theo các xu hướng chính trị khác nhau, tôi chỉ nói về mức độ sâu và rộng của ảnh hưởng đó ) thì bản lĩnh của ông so với các nhân vật đã nêu cũng không kém chút nào, thì không có gì là phi lý nếu cho rằng bản lĩnh ấy một phần bắt nguồn từ học vấn về dịch lý cũng như năng lực thực hành nó của ông.
Quay trở lại với chủ đề về ngày sinh, tôi đồng tình với kết luận của Giáo sư Trần Quốc Vượng qua lời kể của Nguyễn Đăng Mạnh, vì như tôi như đã dẫn chứng ở trên, tôi tin rằng Hồ Chí Minh có căn bản dịch lý vững vàng và theo logic đó ông cũng am hiểu tư vi, tất nhiên ông là người biết rõ về ngày tháng năm sinh của mình, chỉ có điều ông không muốn người khác biết. Song không phải là không ai biết thông tin đó. Ngoài những người trong gia đình ông Hồ thì trong giới nghiên cứu tử vi lý số Việt Nam nhiều người có biết những thông tin này.

GIAI THOẠI VÀ THỰC TẾ.

Có một lần tôi đọc được đâu đó trên một trong các diễn đàn lý số mà người viết ( có lẽ đã cao tuổi và đang sống ở hải ngoại ) kể là ông được cụ Ba La, người được xem là vua tử vi rất nổi tiếng ở Sài Gòn trước 1975 lấy tên làng Ba La-Hà Ðông làm tên hiệu, không ai biết được tên tuổi thật của cụ, vốn là sĩ phu thế hệ Cần Vương, Duy Tân sau khi thất bại chạy sang Tàu cụ Ba La sau lại về ngồi xem số ở chợ Hà Đông trước 1954 trực tiếp thuật lại là:
"Nhà tôi có vườn rộng, các ông ấy ông Võ -Nguyễn Giáp và ông Nguyễn - Hồ Chí Minh vẫn tới chơi xem số “, ” các ông ấy xuất thân ở miền đất xấu, gặp nhiều tai ương, chẳng được lâu, đất Việt ta thời xưa từ Thanh Hóa trở ra đất rộng sông dài, dựng nghiệp lâu dài được, miền Nghệ Tĩnh đất hẹp, bốc lên rồi tắt rất nhanh, chẳng quá hai ba giáp”.
Không cần để tâm đến phán đoán của cụ Ba La thì cũng đã có dữ liệu củng cố thêm khả năng Hồ Chí Minh có nghiên cứu tử vi của chính mình để ứng dụng nó vào sự nghiệp là rất cao và có lẽ ông đã khá thành công trong việc này.

MỘT LÁ TỬ VI TRONG MẪU SÁCH.

Vậy rốt cuộc thì Hồ Chí Minh sinh ngày nào và lá số tử vi của ông ra sao?
Trong cuốn "Tử Vi Đẩu Số Tân Biên" của một nhân vật tên tuổi trong làng tử vi là Vân Đằng Thái Thứ Lang ở phần phụ lục có 4 lá số mẫu dành cho những người nghiên cứu học cách lập đoán trong đó có 2 lá số làm cho người ta chú ý bởi cách ám chỉ của tác giả. Dù không nói trắng ra nhưng những thông tin mà tác giả đưa ra dường như khẳng định 100% rằng đó là lá số của Bảo Đại và Hồ Chí Minh. Thái Thứ Lang vốn là người cùng quê Nam Đàn với Hồ Chí Minh và cha của ông còn được cho là bạn của Nguyễn Sinh Sắc nên đó là lý do mà những người đọc sách này tin tưởng rằng nguồn tin của ông là chân thực. Ngoài ra còn một lý do nữa mà người ta tin vào thông tin của Thái Thứ Lang vì ông này là nhà sư, người xuất gia thì sẽ không phạm giới luật vọng ngôn, tức là ông sẽ nói những thông tin mà ông nghĩ trong đầu là đúng chứ không bịa đặt ( dù có thể điều ông ấy nghĩ chưa chắc đã đúng :D ) .
Đây là là số của Hồ Chí Minh do tôi chụp lại từ cuốn sách xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn này.



Theo những thông tin trên đó thì Hồ Chí Minh sinh vào giờ Mão ngày 6/6 (Âm Lịch ) năm Tân Mão ( 1891).
Lá số này có một số điểm khá tương hợp với miêu tả của Thiếu Lăng Quân về băn khoăn của các ông Nguyễn Sinh Sắc, Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý khi họ luận đoan lá số của Nguyễn Sinh Cung rằng họ đều thừa nhận đây là lá số Tử Vi của một con người không bình thường, song các ông không lý giải được vì sao với một con người an thủ Mệnh, Tài, Quan là các chính tinh: Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Liêm như vậy mà Cung Điền Trạch lại "Vô chính diệu".
Thực tế sau này đã cho thấy cho thấy Hồ Chí Minh uy quyền bao trùm thiên hạ mà trong tay lại không có tài sản gì, cung Điền Sản rất mờ nhạt thì có thể giải thích được băn khoăn ở trên. Thêm một điều lý giải cho việc không có tài sản và "làm quan thanh liêm" của ông Hồ là cung Quan Lộc trong lá số có chính tinh Liêm Trinh vượng địa.
Luận đoán thêm một chút là thấy ông có số "Thân cư Di" ( cung Thân trùng với cung Thiên Di ) lại có Phá quân ( cách mạng thay đổi ) thủ tọa đắc địa đồng cung với Thai ( chủ sự mớ mẻ ) có vẻ ứng với cuộc đời suốt đời làm chuyện canh cải, bôn ba khắp năm châu bốn biển đầy sóng gió của ông Hồ. Và một nét đặc biệt nữa của mẫu người Thân Cư Thiên Di là cung Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh, cho nên khi Thân cư vào cung Thiên Di thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do đó, người Thân Cư Thiên Di như có “hai con người” trong họ, một con người với những bản chất đã có từ lúc sinh ra, và một con người khác là con người ngoài xã hội. Đúng với tính chất lưỡng tại song hành mô tả về ông ở trên.
Sao triệt án giữa cung mệnh và cung phụ mẫu có thể ứng với việc mẹ ôngmất sớm, từ nhỏ đã vất vả lận đận vì sống xa cha.
Khả năng vượt khó của ông cũng thể hiện trong sự nghiệp chính trị của mình. Nếu xem xét toàn bộ thế tam hợp của 3 cung: Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc thì cái thế tam hợp này là thế lấn lướt tình thế.



Thế tam hợp trong Tử vi có 4 thế: Thế bình thuận, an hòa; Thế đối nghịch ; Thế bị lấn át và Thế lấn lướt ( hoàn cảnh ). Từ lý "Quan phương thập dụ" ( mười nguyên tắc căn bản khi luận đoán bản phương của lá số tử vi ) mà xét thì lá số này có bản phương "Do nội tự cường" ( Mạnh từ bên trong, lực từ gốc rễ mà ra ) là thế của người bản lĩnh rất cao cường luôn chủ động lấn lướt mọi hoàn cảnh, tức là không phụ thuộc hoàn cảnh để nó khuất phục mà còn có khả năng áp đặt hoàn cảnh…Ở trên có mấy ví dụ về cách ông Hồ ứng biến với tình thế hay nhìn thấy trước được cục diện chiến tranh.

KẾT.

Đối với Tử vi mà nói thì cùng một lá số nhưng mỗi ông luận một kiểu tùy vào trình độ và cả trường phái nữa ( có rất nhiều cách xem, nhiều trường phái trong tử vi, đông phái nhất là ở Đài Loan ). Nhất là khi luận về mấy ông làm chính trị thì yếu tố tình cảm yêu ghét, sùng bái, hận thù các kiểu xen vào lại chi phối rất nhiều, và có nhiều cách luận giải khác thì lại chỉ ra những điểm không tương thích với vận mệnh của ông Hồ. Cá nhân tôi thì tuy không khẳng định 100% nhưng đánh giá rằng thông tin về ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh là 6/6 âm lịch 1891 có độ chân thực với xác suất khá cao.
Dù vậy nếu có được thêm các dữ kiện đầy đủ hơn để có câu trả lời chính xác hơn nữa thì càng tốt, bởi tìm kiếm sự thật là nhu cầu vốn có của con người, thông tin về một nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng toàn cầu như Hồ Chính Minh không đơn giản chỉ là ngày giờ ông đến với thế giới này mà nó còn liên quan đến rất nhiều sự kiện lịch sử khác trước đây và sau này nữa.
Chính vì lý do đó nên hôm nay tôi viết bài này với mong muốn cung cấp thêm một số thông tin vốn dĩ chưa được hoặc ít được nhắc tới về Hồ Chí Minh xem như một thao tác xử lý ảnh "xóa mờ, khử nhiễu" bức chân dung của ông để những ai có cùng mối quan tâm có thể thảo luận. Đây là một case study rất đắt giá. Hy vọng các bạn yêu thích nghiên cứu lịch sử hay lý số dịch học và tử vi sẽ cung cấp thêm cho tôi một số thông tin khác mà các bạn có, chẳng hạn như lá số được cho là của Hồ Chí Minh mà 2 ông Sơn Tùng và Thiếu Lăng Quân đang giữ. Tôi đã tìm thông tin liên lạc của họ trên mạng nhưng không tìm được để hỏi trực tiếp.



P/S: Đối với các bạn chưa tìm hiểu về dịch học và tử vi, các bạn có thể bỏ qua các các đoạn dẫn giải của tôi về các nội dung này, không cần focus nhiều vào chúng bởi các bộ môn này được xếp vào loại huyền học chứ không phải khoa học, nó có cách tư duy và phương pháp luận hoàn toàn khác với phương pháp luận của khoa học hiện đại. Dưới con mắt của khoa học còn rất nhiều điều về các môn huyền học chưa được làm sáng tỏ. Dù sao với đại đa số mọi người mà nói thì chúng ta chỉ nên tin vào những thứ mà mình đã hiểu rõ và lấy nó làm căn cứ cho nhận thức của mình. Đối với cái ta chưa hiểu hãy xem nó có giá trị tham khảo. Ở đây là giá trị tham khảo hữu ích mà nó mang lại là có một logic dẫn đến dữ kiện về ngày sinh thực sự của Hồ Chí Minh, đó có thể là mối quan tâm chung của nhiều người.

***

P/s: Bài rút trên facebook Thành Nguyễn.