11 tháng 5, 2017

TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?
KTS Trần Thanh Vân

 CHINA 
Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
  Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”
– “Cái gì? 55 năm?”
– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.
  Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ..
  Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.
Sự thật và trải nghiệm
  Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.
  Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.
 Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953
  Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ.
   Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tág¡ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.
  Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc.
   Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn. Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư  đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.
 Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.
  Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.
  Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
  Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt
  Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.
  Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.
  Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. ến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.
  Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì…
   Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?
   Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.
Du học ở Trung Cộng
 Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.
  Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Cộng theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.
  Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.
  Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Cộng ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Cộng phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.
  Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậ­y tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.
   Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.
  Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.
  Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”
  Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra kh »i trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Cộng, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.
  Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.
  Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi..
 Thời kỳ đã trưởng thành
  Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.
  Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.
  Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.
  Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với má»™t chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.
  Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.
 Trung Quốc hôm nay?
  Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Cộng đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.
  Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của H »“ng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.
  Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.
  Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.
  Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.
  Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.
 Tôi hiểu gì về Trung Quốc?
 Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.
  Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.
  Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.
 Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich
Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich
  Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
  Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân.. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đã đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như  Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.
  Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao nguyên Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.
 * Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).
 * Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm  ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).
  Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
 Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu
  Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội.. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
  Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo 
từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.
 Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á
   Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?
 Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh
  Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
  Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương
   Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình..
   Lời cuối bài
   Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.
  Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?
   Đông dân là một sức mạnh
   Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.
    Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.
  Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,
  Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán
  Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược. 
  Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?
Nguyễn Thiện Nhân, đi và về cùng những dấu hỏi
Khác hẳn năm 2007 là lúc đảng “còn bạc còn tiền còn đệ tử”, lúc này đây không chỉ “đảng nát như tương” mà đất nước đã nát như cám. Một quan chức sẽ trở thành cái gì nếu não trạng anh ta vẫn chỉ chăm chăm những lời hứa hẹn được lập trình như hồi mười năm trước?

Ông Nguyễn Thiện Nhân. (REUTERS/Minh Hoang)
Sự nghiệp chính trị của ông Nguyễn Thiện Nhân tiếp tục “đi lên” vào năm 2017 với việc “xuống” địa phương. Nhưng thực chất là một bước thăng tiến. Sau khi tưởng chừng đã bị an bài cho đến lúc về hưu với chức vụ Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở tận Hà Nội xa lạnh, ông Nhân bất chợt nhận quyết định “về nhà”, kết thúc 11 năm “ra trung ương”. 
Mơ ước khôn tận
Có lẽ chức vụ bí thư thành ủy TP.HCM vẫn là mơ ước khôn tận của Nguyễn Thiện 
Nhân. Mơ ước này còn vượt quá cả vị trí phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giáo dục mà một thời ông Nhân đã được sủng ái.
Và có lẽ rời xa một Hà Nội nhung nhúc âm mưu thủ đoạn chính trị, con người không mang tư tưởng tranh đoạt, và thực chất cũng không có đủ bản lĩnh tranh đoạt như ông Nhân, chỉ muốn “về nhà”. Mà lại về Sài Gòn trong một tư thế đẹp nhất trong nhiều tư thế, được ngẩng cao đầu, được trở thành “đầu chuột hơn đuôi voi” như dân gian vẫn ví von.
Với dư luận chung ở Sài Gòn, “phương án Nguyễn Thiện Nhân” có thể được xem như một sự dung hòa có thể chấp nhận được.
Là người có thực hàm, nhưng hơn cả là có thực học nhất trong tổ chức Bộ Chính trị, Nguyễn Thiện Nhân cũng thường được coi là ủy viên bộ chính trị duy nhất có khả năng nói chuyện trực tiếp với người nước ngoài mà không cần phiên dịch, tuy nhiều lúc ông vẫn cần đến tờ giấy để đọc trước người dân trong nước. Vào năm 2006 khi được đưa từ TP.HCM ra trung ương làm bộ trưởng giáo dục, Nguyễn Thiện Nhân đã được khá nhiều người dân kỳ vọng về triển vọng “đưa trí tuệ vào Bộ Chính trị”.
Nguyễn Thiện Nhân lại thuộc về số ít, có thể là số rất ít, trong giới quan chức cao cấp được dư luận nhìn nhận là “sạch”. Trái ngược với rất nhiều quan lại bị dư luận đàm tiếu và lên án về tài sản cá nhân và hình ảnh tham nhũng “ăn của dân không chừa thứ gì”, ông Nhân chưa hề bị điều tiếng về chuyện tham ô hay nhà cửa. Chỉ đối chiếu ngay tại phạm vi TP.HCM, đức tính này của ông Nhân đã vượt hẳn quá nhiều tai tiếng của hai đời bí thư trước đó là Lê Thanh Hải và Đinh La Thăng.
Chỉ có điều, chừng đó tố chất trên vẫn là chưa đủ. Chưa đủ để Nguyễn Thiện Nhân được “tập thể Bộ Chính trị”, mà ai cũng hiểu là chính Tổng bí thư Trọng, quyết định điều động “về nhà” làm Bí thư thành ủy TP.HCM.
Phải có nguyên do nào khác. Khác đặc biệt.
“Trung lập” và “Nam Bộ”
Ngay khi Hội nghị trung ương 5 của đảng diễn ra vào đầu tháng 5/2017 cùng xuất hiện tình huống “ai thay thế Đinh La Thăng”, “phương án Nguyễn Thiện Nhân” đã chỉ khá mờ nhạt. Nổi trội hơn hẳn là “phương án Trương Hòa Bình” - người đang giữ chức vụ Phó thủ tướng thường trực và được xem là “được anh Tư đỡ đầu”. “Anh Tư” ở đây là Trương Tấn Sang - cựu chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân vật tuy đã thôi mọi chức vụ nhưng lại được dư luận xem là “cố vấn đặc biệt” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Ngoài Trương Hòa Bình là ứng viên hàng đầu cho chức bí thư thành ủy TP.HCM, còn có những cái tên khác mà Nguyễn Thiện Nhân phải “xếp hàng” sau: Tô Lâm - Bộ trưởng công an, Võ Văn Thưởng - Trưởng ban Tuyên giáo trung ương. Vào nửa chừng Hội nghị trung ương 5 và là lúc Đinh La Thăng chính thức bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị, dư luận còn đồn ầm ĩ về người đàn bà “quá khổ” - Ủy viên bộ chính trị, Phó chủ tịch thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng - sẽ được đưa về thay Đinh La Thăng. Có người còn nói vui: thay Thăng bằng Phóng để quyết tâm đưa Sài Gòn bằng với… Sơn La.
Nhưng rốt cuộc, có tin Trương Hòa Bình “xin rút không về TP.HCM”. Không loại trừ ông Bình mang cao vọng mà đang tính toán đường đi xa hơn, cao hơn chức vụ phó thủ tướng thường trực hiện thời…
Lại không nghe tin tức gì về Tô Lâm vào Sài Gòn…
Cũng rốt cuộc, đã xuất hiện tin tức về phản ứng của nhiều cán bộ lão thành và quan chức đương nhiệm ở Nam Bộ trước việc trung ương cứ khăng khăng điều “người Bắc, có lý luận” để trấn giữ khu vực phía Nam, rằng một Đinh La Thăng đã là quá đủ…
Có lẽ ông Nguyễn Phú Trọng đã không thể thờ ơ trước phản ứng của miền Nam. Nếu lại phát sinh một scandal Đinh La Thăng nữa, uy tín của tổng bí thư trong mắt bàn dân thiên hạ sẽ ra sao?
Ngoài Trương Hòa Bình đã “rút”, chỉ còn Võ Văn Thưởng và Nguyễn Thiện Nhân là “đại diện” cho miền Nam mà có thể dễ được người Nam Bộ chấp nhận.
Đến lúc này, yếu tố “phe phái” mới thực trọng yếu.
Trong lịch sử hoạt động chính trị của mình, Nguyễn Thiện Nhân còn có một đức tính đáng kể khác: ít có dấu hiệu và biểu hiện nào cho thấy ông trực tiếp tham dự vào đấu trường chính trị và trở thành người của các phe nhóm. Nói cách khác, ông Nhân là người tương đối trung lập. Mà trung lập trong tình trạng nhiều đảng viên than thở “đảng nát như tương” cũng đã là “quý”.
Chưa kể một vấn đề khác cũng thuộc về lịch sử: vào thời còn làm phó chủ tịch Ủy ban nhân dân TP.HCM, Nguyễn Thiện Nhân bị bí thư thành ủy khi đó là Lê Thanh Hải tìm cách cô lập - theo nhiều dư luận. Rất có thể chính vì nguồn cơn đó mà ông Nhân bị “đá” ra trung ương. Do vậy, không thể có chuyện Nguyễn Thiện Nhân, khi đã nghiễm nhiên “vinh quy” về TP.HCM, lại “cùng cánh” với triều đại cựu bí thư họ Lê.
Cuối cùng, chiến dịch tranh đấu giành vị trí đứng đầu TP.HCM dường như đã dẫn đến kết quả mang tính thỏa hiệp: một nhân vật Nam Bộ và trung dung không thuộc phe phái nào như Nguyễn Thiện Nhân lại nghiễm nhiên “buồn ngủ gặp chiếu manh”.
Thách thức lớn nhất?
Giờ đây, như thường lệ đối với những nhân vật mới nhậm chức, công luận đang đặt dấu hỏi “thách thức nào cho Tân bí thư Nguyễn Thiện Nhân?”.
Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại. Thách thức lớn nhất đối với Nguyễn Thiện Nhân chính là bản thân ông.
Để lại phát sinh một câu hỏi khác: Nguyễn Thiện Nhân có năng lực hay không?
Cần nhắc lại, khi được điều ra trung ương để nắm giữ chức bộ trưởng giáo dục vào năm 2007, Nguyễn Thiện Nhân đã được dư luận và báo chí kỳ vọng, cùng một làn sóng ca ngợi ông không mấy kém thua những trường hợp Nguyễn Bá Thanh và Đinh La Thăng sau này.
Khi đó, Nguyễn Thiện Nhân đã trở thành bộ trưởng hiếm hoi dám đưa ra những cam kết như “Sẽ không một sinh viên nào phải bỏ học” và “Đến năm 2010 giáo viên sẽ sống được bằng lương”.
Nhưng sau năm 2010 và từ đó đến nay, kết quả lại giống như một cái gương chiếu hậu: sinh viên phải bỏ học do khó khăn gia đình và học phí quá cao, giáo viên ở nhiều vùng sâu phải thoái trường, còn một số học sinh phải tự nuôi thân bằng thịt chuột. Nền giáo dục Việt Nam thời Nguyễn Thiện Nhân đã không hoặc chỉ được cải thiện rất ít, còn sau thời ông thì lao dốc không phanh.
Từ đó đến nay, nhiều tạp chí chuyên ngành danh tiếng quốc tế đã thường xuyên công bố danh sách 400 - 500 trường đại học hàng đầu thế giới, nhưng Việt Nam hoàn toàn vắng bóng.
Sau năm 2010, tiếng nói của Bộ trưởng Nhân chỉ còn rơi rớt.
Bệnh nói nhiều làm ít còn có thể được châm chước vào thời Nguyễn Thiện Nhân còn ở TP.HCM, khi ông bị Lê Thanh Hải “siết”. Nhưng khi đã một mình một cõi tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, thậm chí còn lên đến chức Phó thủ tướng, Nguyễn Thiện Nhân đã tự thể hiện mình ra sao để đến mức ông bị điều về Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một cơ quan bị xem là “đầu không tới trời, chân không tới đất”?
Rất nhiều người hâm hộ và ủng hộ ông trước đó đã chuyển sang tâm thái thất vọng. Sau thất vọng là chỉ trích. Ông nói nhiều nhưng lại làm quá ít. Ngay cả những người còn giữ được cái nhìn về một Nguyễn Thiện Nhân “trí thức” và “sạch” cũng đâm ra hoài nghi về năng lực hành động của ông.
Còn giờ đây, “bỗng dưng” trở thành Bí thư thành ủy và nắm vận mạng của thành phố lớn thứ hai quốc gia, Nguyễn Thiện Nhân sẽ phải chịu trách nhiệm về công tác chính trị và nhân quyền chứ không còn thuần túy như chuyên môn giáo dục trước đây.
Khác hẳn năm 2007 là lúc đảng “còn bạc còn tiền còn đệ tử”, lúc này đây không chỉ “đảng nát như tương” mà đất nước đã nát như cám. Một quan chức sẽ trở thành cái gì nếu não trạng anh ta vẫn chỉ chăm chăm những lời hứa hẹn được lập trình như hồi mười năm trước?
Nếu không khắc phục nhanh nhất những nhược điểm cố hữu trong công tác quản lý, đặc biệt là công tác tổ chức nhân sự, công tác hậu kiểm và không có được một chút dũng khí để thẳng tay xử lý tiêu cực, Nguyễn Thiện Nhân sẽ có thể ứng xử với Sài Gòn theo cái cách mà ông đã hô hào phong trào “hai không” ở ngành giáo dục nhưng chỉ đạt được kết quả “không không thấy”.

Phạm Chí Dũng

Toàn văn phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 5 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

THEO BÁO NHÂN DÂN
  )
(GDVN) - Báo điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.


Chiều 10/5, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra và họp phiên bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu bế mạc.
Báo điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu này.
Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự hội nghị,
Sau 6 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra.
Các đồng chí Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào các báo cáo và đề án.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 5. Ảnh: Nhandan.com.vn
Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất cao thông qua các nghị quyết, kết luận của Trung ương; đặc biệt là nhất trí ban hành ba Nghị quyết về:
"Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"; "Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước";
"Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"; và quyết định một số vấn đề quan trọng khác.
Để kết thúc Hội nghị, tôi xin thay mặt Bộ Chính trị phát biểu, làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả chủ yếu mà Hội nghị đã đạt được.
1- Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận sôi nổi, quán triệt sâu sắc, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới, quan trọng của Nghị quyết Trung ương 6 khoá X "Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Trung ương thống nhất cho rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản trong đường lối phát triển kinh tế ở nước ta, một sáng tạo mới của Đảng ta về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước;
Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ:
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn 30 năm đổi mới;
Có hệ thống pháp luật, các thiết chế, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với thị trường và các nền kinh tế trên thế giới;
Vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực phổ biến của thế giới đương đại.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế từng bước được xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người;
Phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh;
Sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Hoàn thiện thể chế kinh tế phải đi đôi với đổi mới, hoàn thiện bộ máy tổ chức, cán bộ của toàn hệ thống chính trị;
Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương lần này, toàn hệ thống chính trị cần tiếp tục thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra.
Trong nhiệm kỳ khoá XII, tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia.

Hai là, hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, có chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp.
Ba là, hoàn thiện thể chế về phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, về giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao để tranh thủ những thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bốn là, đổi mới vai trò, chức năng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện chính sách, luật pháp của Nhà nước.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống chính trị.
Trước mắt, cần khẩn trương rà soát, tháo gỡ những vướng mắc về thể chế kinh tế để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát nợ công, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả hệ thống các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn.
Đổi mới, phát triển thị trường dịch vụ công, thị trường bất động sản và quyền sử dụng đất...
Thực hiện xã hội hoá tối đa các dịch vụ công, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp hàng hoá, dịch vụ công theo cơ chế thị trường;
Bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và các đơn vị sự nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực này.
Tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất, góp cổ phần bằng quyền sử dụng đất nhằm hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, công nghệ cao, gắn với bảo đảm việc làm và thu nhập bền vững của nông dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn.
Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước sử dụng.
Đồng thời, đổi mới căn bản và toàn diện công tác xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư công và phân bổ các nguồn lực của Nhà nước thực sự theo tín hiệu và cơ chế thị trường, khắc phục tình trạng "xin - cho", chủ quan, duy ý chí.
Đẩy mạnh cải cách tiền lương, tiền công, gắn với xây dựng, thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách đối với người có công, giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo...
2- Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Hội nghị thống nhất nhận định: Thời gian qua, mặc dù còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục, nhưng nhìn tổng thể, doanh nghiệp nhà nước, bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối, đã nỗ lực vươn lên trong sản xuất, kinh doanh, không ngừng đổi mới, đạt được nhiều kết quả.
Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường, kiềm chế lạm phát;
Đóng góp lớn trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; là nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
Thời gian tới, cần tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò, vị trí then chốt trong khu vực kinh tế nhà nước, là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Nghiêm túc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, biện pháp mới, có tính đột phá vừa được Trung ương nhất trí cao thông qua. Cụ thể là:
Đẩy mạnh chuyển đổi hầu hết các doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khoán, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu.
Thực hiện công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường, chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán việc thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước hoặc không cần tham gia đầu tư để tập trung vốn cho đầu tư phát triển các công trình, dự án quan trọng khác thuộc những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp, các dự án, công trình đầu tư không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, kể cả bằng biện pháp giải thể, phá sản.

Cơ cấu lại, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao được triển khai theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai; xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước đang được giao quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, khi cổ phần hoá, Nhà nước kiểm soát theo nguyên tắc:
Nhà nước thống nhất sở hữu các công trình hạ tầng quan trọng; doanh nghiệp cổ phần hoá, nhà đầu tư nhận quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng.
Việc lựa chọn nhà đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện theo Luật Đấu thầu, công khai, minh bạch. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
Tách bạch, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp nói chung với chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp, cũng như với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
Khẩn trương hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát doanh nghiệp và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; chậm nhất đến năm 2018, thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
Kiên quyết đấu tranh và có biện pháp phòng ngừa, khắc phục tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước móc ngoặc với cán bộ, công chức nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân để hình thành "nhóm lợi ích", "sân sau" thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân chủ tịch, thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, người đại diện phần vốn của Nhà nước, ban điều hành trong hệ thống quản trị, điều hành doanh nghiệp.
Người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và Nhà nước về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Ban kiểm soát, kiểm soát viên phải thực sự là công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu, hoạt động độc lập và không chịu sự chi phối vô lý nào về lợi ích của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị và ban điều hành của doanh nghiệp.
Tổng giám đốc và các thành viên ban điều hành của doanh nghiệp nhà nước do hội đồng thành viên, hội đồng quản trị bổ nhiệm và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và hợp đồng lao động.
Hoàn thiện các hệ thống khuyến khích, đòn bẩy kinh tế đi đôi với việc nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương đối với lãnh đạo, quản lý và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện rộng rãi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí việc làm khác trong doanh nghiệp nhà nước...
3- Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
Sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của chúng ta về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng.
Từ chỗ kỳ thị, coi nhẹ đã thừa nhận kinh tế tư nhân "là một trong những động lực" và đến nay "là một động lực quan trọng" để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trên thực tế, kinh tế tư nhân đã ngày càng phát triển; tỉ trọng trong GDP chiếm 39 - 40%; đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh.
Ban Chấp hành Trung ương hoan nghênh và đánh giá cao những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, nhất là đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp cả nước, thời gian qua, đã tích cực hưởng ứng, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân", góp phần quan trọng làm cho kinh tế tư nhân không ngừng phát triển, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trung ương yêu cầu: Thời gian tới, toàn hệ thống chính trị phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu phát huy những kết quả, thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, triển khai thực hiện thật tốt các chủ trương, chính sách mới được khẳng định, kế thừa hoặc bổ sung, phát triển tại Hội nghị lần này.
Trước hết, cần tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là yêu cầu tất yếu, khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chăm lo phát triển kinh tế tư nhân nhanh, lành mạnh và đúng đắn hơn, thực sự trở thành một động lực quan trọng để giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội;
Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm nòng cốt để bảo đảm xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại.
Phát huy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và phong trào khởi nghiệp.
Tạo thuận lợi để các hộ và cá nhân tự nguyện liên kết hình thành doanh nghiệp hoặc các hình thức tổ chức hợp tác khác.
Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực, tự cường, lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp;
Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, có ý thức chấp hành luật pháp, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng quản lý, quản trị cao; chú trọng xây dựng, nâng cao văn hoá doanh nghiệp và đạo đức doanh nhân.
Về phía Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, cần có sự đột phá trong tư duy và hành động, kiên trì đổi mới, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thật tốt luật pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với quy luật thị trường và thông lệ, chuẩn mực quốc tế;
Xoá bỏ mọi định kiến, rào cản; cải cách mạnh các thủ tục hành chính rườm rà, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, doanh nghiệp, doanh nhân và người lao động; đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch;
Ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, đặc biệt là phòng chống mọi biểu hiện của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", quan hệ "lợi ích nhóm", "thao túng chính sách", cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
Thường xuyên chăm lo tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới, sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực…
Về phía các doanh nhân, doanh nghiệp, cần chủ động, tích cực hơn nữa trong đổi mới quản lý, quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như từng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cụ thể.
Tăng cường liên kết sản xuất, tham gia chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới, xây dựng thương hiệu và "chữ tín" trong kinh doanh.
Chăm lo đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ. Thực hiện nghiêm mọi quy định của pháp luật, nhất là quy định của pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người lao động, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo vệ tài nguyên, môi trường…
4- Về kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cao với nội dung của Báo cáo và khẳng định, điểm mới của việc kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư lần này là đã gắn việc kiểm điểm công tác năm với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
Việc tiến hành kiểm điểm đã được chuẩn bị rất nghiêm túc, chu đáo, bài bản; diễn ra trong không khí thẳng thắn, chân tình, cầu thị; là hình mẫu cho cấp dưới noi theo.
Trung ương khẳng định: Năm 2016, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp; tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, có nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh.
Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn vững vàng, đoàn kết thống nhất, tỏ rõ bản lĩnh kiên định và sáng tạo, có các quyết sách đúng đắn, kịp thời để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân giành được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực đối nội và đối ngoại, được cán bộ, đảng viên và nhân dân ghi nhận, hoan nghênh, bạn bè thế giới đánh giá cao.
Những kết quả đó là đáng khích lệ, tạo tiền đề cho đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Mặc dù vậy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng còn một số hạn chế, khuyết điểm.
Công tác dự báo chiến lược, hoạch định đường lối, chính sách và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của tình hình mới.
Việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước có mặt, có lúc chưa quyết liệt, kịp thời.
Việc ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ còn khó khăn.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tuy đạt được kết quả rất đáng khích lệ, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Còn chậm chỉ đạo xử lý tình trạng thua lỗ, thất thoát nghiêm trọng về vốn và tài sản tại một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Hệ thống chính trị ở địa phương, nhất là ở cơ sở, nhiều nơi bộc lộ yếu kém, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Tình hình an ninh, trật tự, tai nạn, tệ nạn, khiếu kiện còn tiềm ẩn yếu tố bất ổn.
Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là công nhân các khu công nghiệp, khu chế xuất, đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn nhiều khó khăn, chậm được cải thiện.
Việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời, kém hiệu quả.
Nội dung và phương thức lãnh đạo trên một số lĩnh vực còn chậm đổi mới. Ban Chấp hành Trung ương đánh giá cao và hoan nghênh việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê bình trước Ban Chấp hành Trung ương về những hạn chế, khuyết điểm.
Trung ương đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong thời gian tới cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt hơn, đồng bộ hơn, với quyết tâm cao hơn để thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt, cụ thể hơn nữa, giải quyết có hiệu quả những vấn đề nổi cộm, bức xúc trong dư luận xã hội; củng cố và tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
5- Cũng tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã tiến hành xem xét thi hành kỷ luật đối với đồng chí Đinh La Thăng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh do có khuyết điểm và vi phạm rất nghiêm trọng trong công tác lãnh đạo, quản lý và công tác cán bộ trong thời kỳ đồng chí là Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, để lại hậu quả rất nặng nề, ảnh hưởng xấu đến uy tín của cấp uỷ, tổ chức đảng và cá nhân đồng chí.
Với tinh thần trách nhiệm cao, khách quan, công tâm, nghiêm túc, Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét kỹ lưỡng, cân nhắc nhiều mặt và đã quyết định thi hành kỷ luật đồng chí Đinh La Thăng bằng hình thức cảnh cáo và cho thôi giữ chức Uỷ viên Bộ Chính trị khoá XII. Đây là bài học sâu sắc không chỉ đối với đồng chí Đinh La Thăng mà đối với tất cả chúng ta.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thành công tốt đẹp. Ba Nghị quyết chuyên đề về kinh tế được Trung ương ban hành tại Hội nghị lần này đều là những vấn đề cốt yếu, đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm do Đại hội XII đã đề ra về phát triển kinh tế - xã hội.
Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựng Đảng và việc thi hành kỷ luật cán bộ được Trung ương đồng tình, nhất trí cao chắc chắn sẽ góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết, kết luận của Trung ương tại Hội nghị lần này sẽ góp phần quan trọng đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống, tạo khí thế mới trong toàn Đảng, toàn dân ta, thúc đẩy việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Tôi đề nghị từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, theo cương vị công tác của mình, hãy phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm cá nhân, cùng với cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thật tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương.
Tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII. Chúc các đồng chí mạnh khoẻ, hoàn thành tốt trọng trách trước Đảng, nhân dân, đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn.

10 tháng 5, 2017

Nguyễn Thiện Nhân “tiếp quản” Thành Hồ, Tòng Thị Phóng bị loại phút chót


Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ông Nguyễn Thiện Nhân vừa được đưa lên giữ chức Bí thư Thành uỷ TP.HCM thay cho ông Đinh La Thăng bị kỷ luật cách chức.


Một hội nghị trao quyết định bổ nhiệm vừa diễn ra vào sáng ngày 10/5/2017 tại trụ sở thành uỷ TP.HCM, với sự tham dự của bà Nguyễn Thị Kim Ngân – Chủ tịch Quốc hội và ông Phạm Minh Chính – Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng.

Cũng tại hội nghị, ông Đinh La Thăng chính thức nói lời chia tay với chiếc ghế Bí thư Thành uỷ TP.HCM chỉ sau 15 tháng nhậm chức. Theo quyết định của bộ chính trị, ông Thăng bị điều chuyển ra Hà Nội giữ chức phó Ban Kinh tế Trung ương. 

Đinh La Thăng xin lỗi Tổng bí thư

Cuộc chuyển giao quyền lực tại Thành Hồ diễn ra trong ngày làm việc cuối cùng của Hội nghị Trung ương 5 đầy căng thẳng. 

Phát biểu trước khi chia tay, ông Thăng cho biết ông đã gửi lời xin lỗi đến đảng và cá nhân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về những sai phạm xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN).

 “Quyết định thi hành kỷ luật của Ban chấp hành trung ương đối với tôi là có lý có tình”, vị cựu Bí thư Thành uỷ TP.HCM nói.

Phát biểu trên cho thấy Đinh La Thăng đã phải chấp nhận đầu hàng trước Nguyễn Phú Trọng, đổi lại là việc ông ta không bị truy tố hình sự về khoản thất thoát 9 tỷ đô-la Mỹ xảy ra tại PVN khi còn đương chức.

Ông Đinh La Thăng bị điều chuyển ra Hà Nội làm Phó ban Kinh tế Trung ương. Ảnh: Tuổi Trẻ
Dù đã bị loại khỏi Bộ Chính trị và mất chức Bí thư Thành uỷ, nhưng ông Thăng vẫn còn là Uỷ viên Trung ương đảng và là Đại biểu Quốc hội. Điều này giúp ông ta trở thành “bất khả xâm phạm” đối với ý định điều tra của các cơ quan hành pháp.

Trái với kết cục bi đát của vị cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, việc kỷ luật nhẹ hều đối với Đinh La Thăng so với những vi phạm được đánh giá là “rất nghiêm trọng” tại PVN cho thấy ông này đã chấp nhận khuất phục và có sự đổi chác với Nguyễn Phú Trọng.

Việc đưa Đinh La Thăng về Hà Nội làm Phó Ban kinh tế Trung ương cũng là một nước cờ cao tay của ông Trọng. Bởi ai cũng biết, nhân vật tiếp theo trong danh sách thanh trừng của ông Tổng bí thư chính là cấp trên của ông Thăng – tức Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình.

Kịch bản dùng Đinh La Thăng để đấu tố nốt những thế lực còn lại trong phe Nguyễn Tấn Dũng sẽ sớm xảy ra trong một tương lai rất gần. Vụ đào tẩu bất thành của Vũ Huy Hoàng là biểu hiện rõ rệt nhất mà người ta đã chứng kiến.

Thăng giáng, Phóng bay

Gần cuối Hội nghị Trung ương 5, những thay đổi ở phút 89 đã gây tác động đến công tác nhân sự cho chức Bí thư Thành Hồ - một đảng bộ luôn bị coi là bất trị đối với trung ương. 

Trái với những lời đồn đoán ban đầu, nhân vật được lựa chọn tiếp quản chiếc ghế Bí thư Thành uỷ TP.HCM đã không nằm trong tính toán nhân sự của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Với tiêu chí phải là người miền Bắc có lý luận, ông Trọng muốn thay thế ông Thăng bằng Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng – người bị ông Trọng mang đích danh làm trò cười khi tại đại hội 12: “Đấy bà con xem có oai vệ không? Đàng hoàng ngang ngửa ra quốc tế đấy chứ. Vừa nữ, vừa dân tộc”.

Đối với ông Trọng, việc đưa một người dễ sai bảo như bà Phóng vào làm Bí thư Thành Hồ cũng là thủ đoạn dễ bề cai trị, đồng thời cũng để làm nhục phe cánh cộng sản miền Nam – những kẻ vốn thực dụng và chịu ảnh hưởng thân Mỹ của Nguyễn Tấn Dũng.

Do đặc thù là thành phố đứng đầu về kinh tế trên cả nước, trở thành người đứng đầu Thành Hồ  đồng nghĩa với việc nắm luôn ngân sách của đảng, do đó các phe tranh giành quyết liệt. Phe Trần Đại Quang đề cử Tô Lâm, “bố già” Trương Tấn Sang thì lại muốn Trương Hoà Bình, trùm tài phiệt Lê Thanh Hải tha thiết đưa Võ Văn Thưởng về lại Thành Hồ… Không ai chịu ai, thậm chí coi khinh cả uy lệnh của Tổng bí thư đang say men chiến thắng.

Do đó, việc Tòng Thị Phóng rớt đài phút chót cho thấy Hội nghị Trung ương 5 vẫn chưa là một chiến thắng trọn vẹn cho những toan tính quyền lực của ông Trọng. Phương án Nguyễn Thiện Nhân về làm Bí thư Thành Hồ là một kết quả từ sự thoả hiệp, mặc cả giữa các bên. 

Điều này phản ánh rõ qua lời bà Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu tại buổi chuyển giao quyền lực: “Bộ Chính trị đã họp và bàn các phương án, sau đó thống nhất 100% phân công ông Nguyễn Thiện Nhân làm Bí thư Thành ủy TP.HCM”.

Thậm chí, ngay cả đến những đối thủ của vị bí thư vừa bị phế truất Đinh La Thăng cũng không mấy vui vẻ gì với kết quả này, trong đó, “bố già” Trương Tấn Sang cùng những tay viết thuê có lẽ sẽ là những người thất vọng nhiều nhất.


Đào tạo tại Mỹ

Sau quyết định đưa Nguyễn Thiện Nhân giữ chức Bí thư Thành uỷ TP.HCM, xuất hiện một số ý kiến kỳ vọng rằng gương mặt mới này sẽ mang lại khởi sắc cho Sài Gòn. Tuy nhiên,  đó cũng chỉ là một sự hy vọng hão huyền của những ai còn ảo tưởng về cộng sản.

Trong hơn 11 năm giữ nhiều chức vụ trong trung ương, ấn tượng duy nhất mà ông Nhân để lại chỉ là hình ảnh một Uỷ viên Bộ chính trị đầu tiên được học hành từ Mỹ và có thể nói được tiếng Anh.

Tuy vậy, ông không phải là một nhà lãnh đạo kỹ trị như nhiều người mong đợi. Ông Nhân có học hàm là giáo sư kinh tế và từng công tác ở nhiều lãnh vực như: văn hoá, kinh tế, giáo dục, chính trị…, nhưng ông đã không mang lại bất cứ thành quả nào trong vai trò là người đứng đầu.

Thậm chí, năm 2013, ông Nguyễn Thiện Nhân bất ngờ được chen chân, bổ sung vào cơ quan quyền lực nhất trong chế độ là Bộ Chính trị. Thế nhưng sau đó, ông cũng chỉ biết an phận với chức danh Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 

Khi ấy, nhiều người kiến nghị để ông Nhân vào vị trí hữu danh vô thực như thế là “phí phạm nhân tài”, tuy nhiên, ông không có tài như nhiều người vẫn lầm tưởng khi chỉ có cái nhìn chủ quan qua bằng cấp, học vị của ông. Thậm chí, nếu có tài thực sự đi chăng nữa, thì những kiến thức học bên Mỹ của ông Nhân cũng sẽ bị chế độ quy chụp là thành phần “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

Nói một cách thẳng thắn, giáo sư Nguyễn Thiện Nhân không có khả năng làm chính trị. Ông thiếu những tố chất cần thiết để làm một người lãnh đạo, không đủ bản lĩnh để thay đổi, ít dũng khí để làm những việc có lợi cho dân.

Nguyễn Thiện Nhân lọt vào Bộ Chính trị, làm Bí thư Thành uỷ TP.HCM là do gặp thời thế. Bản tính ông ta vốn dĩ an phận, tỏ ra trung dung trong các cuộc chiến phe phái nên sẽ luôn là một lựa chọn tình thế khi các phe nhóm không thể tìm được nói tiếng chung.

Xin mời quý vị xem Video : "Nhốt" Bình Ruồi & Đinh La Thăng ở Ban KinhTế TW là thả Hổ về rừng TBT Nguyễn Phú Trọng sẽ thất bại




Ở tuổi 63, có lẽ ông Nhân sẽ tiếp tục ngồi ghế Bí thư cho đến hết nhiệm kỳ rồi về hưu một cách an phận. Sẽ không có bất cứ sự thay đổi nào xảy ra, có chăng sẽ vẫn chỉ là những cuộc chiến ngầm trong đảng bộ Thành Hồ ngày càng leo thang do sự nhu nhược của người lãnh đạo.

Những ai còn kỳ vọng về Nguyễn Thiện Nhân cũng sẽ nhanh chóng nhận phải thất vọng ê chề. Bởi lẽ, những ai mang danh là trí thức, được ăn học tử tế mà lại đi theo cộng sản thì quả là người không có cả con tim lẫn trí óc. Đừng tự ngộ nhận để tiếp tục bị lừa như “hiện tượng” Đinh La Thăng xảy ra cách đây mới 15 tháng.

Nhật Anh

Huy Đức - Hy vọng sẽ không còn phải viết về ai như Dũng, như Thăng nữa


Khác với những người đang "thương vay, khóc mướn", Đinh La Thăng tính toán chiến lược hơn. Anh ấy biết rõ "cơ quan chức năng" có lượng tài liệu gấp nhiều lần "mấy mẩu con con" mà ủy ban Kiểm tra công bố.


Việc "chui" vào Bộ chính trị một năm, một trăm ngày trước đây; những giọt nước mắt trình bày hoàn cảnh gia đình trong phiên họp "luận tội" của Trung ương hôm Chủ nhật và lời xin lỗi gửi tới cả cá nhân Tổng bí thư sáng nay đều nằm trong những nỗ lực tìm nơi trú ẩn.

Đây chỉ mới là quy trình chính trị. Bỏ qua lòng kiêu hãnh mà Đình La Thăng vẫn xây dựng trước "đám đông", việc anh làm bây giờ là làm sao tránh được quy trình tố tụng.

Tuần trước, khi còn ở trong Bộ chính trị, muốn "chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra", những người xử lý anh cần phải có đủ phiếu ở Trung ương. Giờ đây, chỉ cần Ban bí thư, Bộ chính trị là đã có thể làm việc đó.

Cũng hôm Chủ nhật, Tướng Vịnh đã tiên phong khi bắt đầu phiên họp của Trung ương, nhân danh đồng chí và bạn thân của Đinh La Thăng, ủng hộ Trung ương kỷ luật và đưa Thăng ra khỏi Bộ chính trị. Tướng ra trận phải biết bỏ những thành đã mất. Hành động của Tướng Vịnh như ông anh bạt tai thằng em trước "ông bà bô" nghiêm khắc, những mong thằng em thoát được những đòn roi xé da, rách thịt hơn.

Đinh La Thăng giờ đây có lẽ rồi cũng sẽ rời khỏi "pháo đài uy tín trong dân".

Từ năm 2008, một số thành viên Chính phủ đã nhiều lần chính thức can Nguyễn Tấn Dũng không mở tung cửa cho nhà thầu Trung Quốc. Năm 2008, 2009, bộ trưởng Võ Hồng Phúc còn làm văn bản khẩn thiết đề nghị Chính phủ có biện pháp ngăn chặn làn sóng nhà thầu Trung Quốc chụp giựt, yếu kém. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chưa một lần trả lời và sau hai nhiệm kỳ của ông, Việt Nam thành bãi rác cho công nghệ "Tàu" lỗi thời. Có không ít dự án của Đinh La Thăng, khi vừa hoàn thành thì "công nghệ" cũng vừa hết đát. Vậy mà chỉ cần một câu nói chống "tình hữu nghị viển vông"; chỉ cần một cái chỉ tay "đuổi nhà thầu Trung Quốc(bất thành)" cả Nguyễn Tấn Dũng và Đinh La Thăng đều trở thành "phe chống Tàu, thân Mỹ".

Các nhà lãnh đạo Chế độ nên đặt câu hỏi, tại sao dân chúng lại từng lên tiếng ủng hộ những kẻ mà họ biết rõ là "sâu chúa". Dân chúng đã chán ngắt một hệ thống chính trị mà trong đó họ rất ít khi nhìn thấy mình. Lòng khát khao thay đổi đã làm cho không ít người dân nhẹ dạ cả tin suýt nữa trở thành thành quách chở che những kẻ vơ vét sạch sành sành của họ.

Tham nhũng trong hệ thống thì đầy rẫy nhưng rất hiếm có những người như Thăng, như Dũng. Tôi không phải là một nhà báo chống tham nhũng. Ba mươi năm làm báo của tôi chủ yếu là phản biện chính sách. Và gần đây, chỉ khi cần ngăn chặn những kẻ tham nhũng khoác áo dân túy tôi mới phải mài ngòi bút của mình. Tôi hy vọng sẽ không còn phải viết về ai như Dũng, như Thăng nữa. Công việc mấy tháng qua của tôi là nghiên cứu về những bất cập trong thể chế, những bất cập đẻ ra tham nhũng.

Mời xem Video: [Chấn động] Thực hư tin đồn tân BT Thành ủy TP. HCM Nguyễn Thiện Nhân xài bằng Tiến sĩ CHDC Đức giả?


Giật mặt nạ những kẻ tham nhũng dùng vật liệu dân túy để xây lô cốt là rất cần thiết. Nhưng không thể chỉ làm việc đó bằng một quy trình chính trị nội bộ. Nơi người dân chỉ có thể đứng ngoài la ó hoặc vỗ tay. Cái quy trình đó lệ thuộc rất nhiều vào ý chí của những cá nhân. Khi những kẻ tham nhũng vận hành cái quy trình ấy đông hơn thì nhân dân bó tay.

Ủy viên bộ chính trị hay ủy viên trung ương đều là những "vai vế trong đảng", đảng có thể sử dụng quy trình chính trị nội bộ của mình để xử. Nhưng, hành vi của họ còn làm tổn hại tới lợi ích quốc gia và tiền bạc của dân. Nếu dân không có thực quyền. Nếu không có nhà nước pháp quyền. Nếu các cơ quan tố tụng luôn phải chờ đợi quy trình chính trị này để túm cổ bọn sâu mọt thì những thành tích chống tham nhũng sẽ rất tạm thời và đất nước rất dễ rơi trở lại cái vòng luẩn quẩn.

Huy Đức
(FB. Huy Đức)