12 tháng 5, 2017

Mạc Văn Trang - Bác Trọng và lão Am


Tổng kết HNTƯ 5, TBT Nguyễn Phú Trọng cho biết, sáng tỏ 1 nhận thức mới: “Sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của chúng ta về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng. Từ chỗ kỳ thị, coi nhẹ đã thừa nhận kinh tế tư nhân là một trong những động lực và đến nay là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”…


Trong khi đó LÃO AM (nhân vật chính trong tiểu thuyết Cái Sân gạch, của Đào Vũ), đã nhận biết điều này từ 1958, trước áp lực của phong trào HTX. Lão chỉ tán thành nông dân vào HTX cấp thấp (tức là chỉ cùng góp ruộng đất, công cụ, tổ chứ tập thể sản xuất và chia nhau lợi nhuận theo 2 nhánh: công lao động và cổ phần đóng góp, quyền sở hữu ruộng đất, công cụ, vẫn của tư nhân). Lão Am kiên quyết phản đối HTX cấp cao (Tức là công hữu hóa tất ruộng đất, trâu bò, nông cụ, biến nông dân thành vô sản). Lão bị quy kết là “bảo thủ, tư hữu”, vợ con Lão, gạt lão ra, để đi theo con đường XHCN… Lão Am đau xót nhất là con Trâu mộng, mà lão dầy công mua được và hết lòng yêu quý, chăm chút. Lão bảo công hữu hóa, cha chung không ai khóc; lắm sãi (cán bộ) không ai đóng cửa chùa… Rồi chết cả lũ! Quả nhiên lên HTX cấp cao. Công hữu hóa tất tần tật, 3 năm sau, con trâu nhà Lão Am gầy trơ xương, đang kéo xe bò gạch, thì gục xuống chết. HTX cấp cao, càng ra sức cải tiến, đổi mới quản lý hết theo NQ này đến NQ khác… dẫn đến cả nước ăn bo bo. Nông dân may mắn còn 5% ruộng đất HTX cho mỗi hộ mượn trồng rau mà sống sót, kết hợp với ăn rau má, củ chuối, mò cua bắt ốc…

Sau “Cái đêm hôm ấy đêm gì” và cả nước sắp chết đói, Đảng lại “bừng hiểu” “có nhận thức mới”: phải “Cởi trói cho nông dân”. (Nông dân bảo, mẹ cha thằng nào trói ông, mà bây giờ Đảng phải cởi trói)? Ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố xanh rờn: Mọi người hãy tự cứu lấy mình, trước khi Trời cứu”(!) (Ô hô, trước đó Đảng bảo chăm lo cho mỗi người dân từ cái kim sợi chỉ đến tư tưởng, nghĩ suy, tình cảm yêu ghét, cơ mà”!? Cái đận ấy cũng mất 30 năm, Đảng mới có nhận thức mới đấy!

Và lại chia ruộng cho mỗi hộ theo nguyễn tắc Đảng bảo: “Có gần, có xa; có tốt, có xấu”. A há! Cả cánh đồng nát bét, lộn tùng phèo, mỗi nhà manh mún 5 – 6 mảnh ruộng, bát nháo. Lão Am sống lại thì cười vỡ bụng! Ấy thế mà chỉ cần “người nông dân tự canh tác trên mảnh đất của mình”, các cán bộ Đảng ngồi chơi xơi nước, chả phải lãnh đạo, lãnh điếc gì, mà cả nước no nê thừa mứa, còn xuất khẩu gạo. Rồi sau đó dân cũng tự biết đổi mới: “Dồn điền, đổi thửa” để mỗi nhà có vài ba mảnh ruộng cho ra tấm, ra miếng mà canh tác cơ giới hóa…

Xin mời quý vị xem Video : Nguyễn Phú Trọng đồng ý nhường chức Tổng BT và Trần Đại Quang đã bán đứng Đinh La Thăng thế nào?

                 

Lão Am chả biết lý luận gì sất, lão chỉ am hiểu cuộc sống, tin rằng: Quyền tư hữu ruộng đất, trâu bò, nông cụ … mới gắn bó người nông dân với sản xuất; của đau, con xót, người ta mới yêu quý, giữ gìn của nả; mới say mê làm ăn, tính toán sao để tiết kiệm, hiệu quả…Còn công hữu hóa là “cha chung không ai khóc”, “Vén tay áo xô, đốt nhà táng giấy”, thì của nả như gió vào nhà trống, chết nhăn răng cả lũ!

Bác Trọng dầy công nghiên cứu, có lý luận uyên thâm, bác phân tích, khái quát hóa vấn đề, “Từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu trượng” trải qua 30 năm, rất là trăn trở, tâm huyết. Rồi “Từ tư duy trừu tượng” (của bác Trọng) được trừu xuất, trở về thực tiễn khách quan, sinh động... Bây giờ toàn hệ thống chính trị, quán triệt, đồng loạt ra quân, “Vận dụng lý luận vào thực tiễn”! Đó là biện chứng của quá trình nhận thức marxit - Leninit. Rất khoa học. Rất biện chứng! Rất cao siêu!

12/5/2017

Mạc Văn Trang

(FB Mạc Văn Trang)

Huy Đức - Cử tri Thanh Hóa không bầu ông Đinh La Thăng?


Cử tri thanh hóa không bầu ông Đinh La Thăng và nay thì ông trở thành "đại biểu" của họ bằng một quyết định điều chuyển. Từ việc chỉ đạo UBTV Quốc hội làm thủ tục kỷ luật ông Vũ Huy Hoàng đến việc chỉ đạo miễn nhiệm ông Võ Kim Cự cho thấy Ban bí thư đảng công khai thể hiện vai trò "đảng cầm quyền".


Nên trắng phớ ra như thế, dân cũng cần được biết thực chất quyền lực đến từ đâu.

Nhưng như thế thì các cuộc bầu cử hóa ra lại tốn kém không cần thiết. Cho dù đảng Cộng sản vẫn đang là đảng cầm quyền ở VN thì cũng nên cầm quyền thông qua nhà nước. Và, nếu đảng nhận thức rằng quyền lực của mình sẽ bớt tha hóa nếu dân có tiếng nói thì nên cấu trúc "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" thành hai viện: một viện của dân và một viện của đảng.

Viện của đảng có thể cơ cấu như Viện Nguyên lão (Anh) hoạt động như thượng viện gồm (đương nhiên) các vị đã được đại hội đảng bầu vào Trung ương. Viện của dân gồm những người tranh cử từ dân thực sự. Họ xuất phát từ lá phiếu của dân, sống gần dân, chẳng có ban bí thư nào điều chuyển.

Mời xem Video: Nguyễn Phú Trọng đồng ý nhường chức Tổng BT và Trần Đại Quang đã bán đứng Đinh La Thăng thế nào?


Võ Kim Cự cũng chính đảng đưa vào Quốc Hội; Trịnh Xuân Thanh cũng đảng đưa vào Quốc Hội. Dân đã mất một buổi cày đi bỏ phiếu rồi bây giờ ngơ ngác nhìn đảng đưa họ ra.

Có minh bạch nguồn gốc của quyền lực thì mới minh bạch trách nhiệm. Dân chúng chỉ hợp thức hóa một danh sách đảng cử mà bị buộc phải chịu trách nhiệm như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng từng tuyên bố thì tội cho dân lắm.

Huy Đức

(FB Trương Huy San)

Bùi Tín - Vụ Đinh La Thăng, một ‘đại án tí hon’

Ông Nguyễn Phú Trọng có thể hài lòng hể hả về xử xong vụ án Đinh La Thăng. Phong trào chống tham nhũng của ông ghi thêm một ‘’chiến công’’ nổi bật. Một Ủy Viên Bộ Chính Trị mất chức. Một Bí Thư Thành Ủy của thành phố lớn nhất nước bị cảnh cáo, thay thế, chứng tỏ chế độ này có nền tư pháp công minh chính trực ‘’đến thế là cùng!‘’
Đinh La Thăng trong một lần "quạt" nhà thầu Trung Quốc.
Nhưng còn có nhiều vấn đề cần bàn cãi và nhiều câu hỏi còn tồn tại.

Ông Thăng vẫn còn là Ủy Viên Ban Chấp Hành TƯ Đảng ư? Được điều về làm ‘’Phó Ban Kinh Tế TW Đảng’’ nữa. Quyền lực vẫn còn lớn. Vậy thế là kỷ luật nghiêm ư?

Tại sao một cán bộ của Đảng phạm pháp nặng nề như thế lại không bị đem ra truy tố và xét xử công khai bởi Viện Kiểm Sát và tại Tòa Án theo đúng Luật. Lẽ ra ông Thăng phải bị khai trừ ra khỏi Đảng và phải ra trước Tòa Án như một công dân, có bản luận tội, có luật sư bào chữa, được trình bày rõ trường hợp của mình, có buổi tranh luận công khai đầy đủ, để đi đến kết luận và tuyên án đàng hoàng của tập thể Hội Đồng Xét Xử. Một vụ trọng án như thế liên quan đến nhiều nhân chứng, phải xử vài tuần lễ, có khi vài tháng mới có thể xét đúng người đúng tội, đúng luật.

Kết luận Tòa Án phải quyết định thu hồi tài sản phạm pháp, như ‘’tiền bạc, nhà cửa, đất đai, chứng khoán, tiền gửi ngân hàng… sung vào công quỹ, để phần nào bù lại số tiền của đất nước, của nhân dân đã bị thất thoát.

Vậy là xét về mặt Hiến Pháp và Luật Pháp, vụ án Đinh La Thăng vi phạm lụat pháp nặng nề chỉ bị xét theo kỷ luật Đảng, coi đảng viên là công dân đặc biệt, đứng ngoài pháp luật. Ngay trong việc xử kỷ luật này cũng tiến hành luộm thuộm, chớp nhoáng, độc đoán, theo ý kiến của Tổng Bí Thư, các Ủy Viên Bộ Chính Trị gật theo, rồi cuộc họp TƯ gật theo, với tỷ lệ gần 100%. Một vụ án không có ai luận tội, kết luận vì không có buổi xét kỷ luật nào. Nó diễn ra trong nháy mắt, chỉ bằng giơ tay biểu quyết.

Một vụ đại án dính đến tài sản hàng trăm tỷ thất thoát mà Bộ Trưởng Tư Pháp, Viện Kiểm Sát, Tòa Án Tối Cao phải đứng ngoài lề, buộc phải câm lặng, thật là một nét son đỏ chót rất khó coi trên mặt ngài Tổng Bí Thư.

Một trò hề 100% chống tham nhũng.

Một trò hề vụng về điển hình về lời khoe thi hành kỷ luật Đảng nghiêm minh và đổi mới ngành Tư Pháp tiến bộ.

Ông Trọng cố làm ra vẻ kiên quyết chống tham nhũng, nhưng để lộ ra nhiều sơ hở vụng về.

Đây chỉ là trò dơ cao đánh khẽ, dơ roi rất cao nhưng đánh rất nhẹ, chỉ như phủi bụi, vì tội phạm nghiêm trọng là thế vẫn đàng hoàng là Ủy Viên Trung Ương Đảng, nay còn là ‘’Phó Ban Kinh Tế TƯ,’’ một cán bộ cấp cao trong một Ban hệ trọng đối với nền kinh tế.

Chiếu theo Luật phòng chống tham nhũng, tham nhũng trên 1 tỷ đồng là có thể nhận án tử hình vì đó là tiền thu nhập vài chục năm một lao động.

Đất nước có 2 nền tư pháp với tốc độ khác hẳn nhau là như thế.

Một cho dân đen, trong đó có các nhà dân chủ yêu nước, thương dân, các chiến sỹ dân chủ kiên cường, như Nguyễn Hữu Vinh, Trần Huỳnh Duy Thức, Bùi Minh Hằng… rên xiết trong tù dài dài, và một tư pháp riêng cho những tên tội phạm đáng tội tử hình vẫn ung dung hưởng thụ không chút lo ngại vì là đảng viên cấp cao có thế lực phe cánh.

Xin mời quý vị xem Video : Tại sao GS. Nguyễn Thiện Nhân đánh bại bà Tòng Thị Phóng do TBT Trọng đề cử để giữ chức BT Sài Gòn?

                  

Vậy mà trên báo Nhân Dân hôm nay vẫn còn trưng khẩu hiệu ‘’Đổi mới Tư Pháp, Áp dụng Tư Pháp,‘’ thật mỉa mai và khôi hài, nói một đằng làm một nẻo.

Những Dương Chí Dũng, Mai Văn Phúc từng bị tuyên án tử hình trong đại án Vinalines có thể kêu ‘’oan’’ vì họ cũng là cán bộ cao cấp của Đảng sao lại không được Đảng ưu đãi như Đinh La Thăng, hạ cánh êm, an toàn.

Để xem sau vụ án Đinh La Thăng mang tính ‘’giơ rất cao đánh rất nhẹ,’’ ông Cả Trọng sẽ lãnh đạo việc xét xử 12 vụ đại án, phần lớn dính đến các ngân hàng quốc doanh hiện đang chờ giải quyết trong thời gian tới ra sao.

Bùi Tín

(VOA)

11 tháng 5, 2017

Hội nghị Trung ương 5 bế mạc trong ‘bế tắc’
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 đã bế mạc vào chiều ngày 10/5, nhưng nhiều vấn đề lớn vẫn còn “bế tắc.” Nhà báo Hữu Minh cũng có cùng nhận định với ông Chênh: “Tôi không kỳ vọng lắm vào công cuộc chống tham nhũng của Đảng. Ngoài việc ông Thăng mất ghế bí thư thành ủy và ra khỏi Bộ Chính trị ra thì cũng không có một hướng xử lý nào để thu hồi về một phần tài sản tham nhũng về cho ngân sách quốc gia. Việc kỷ luật ông Thăng chưa giải quyết vấn đề này. Thứ hai, hệ thống pháp luật của Việt Nam có vấn đề, không thượng tôn pháp trị, chỉ xử lý sai phạm theo hướng vụ nào ồn ào mới làm, vấn đề đảng nhỏ trong đảng to… Những vấn đề đó đều núp dưới vỏ bọc chống tham nhũng.” 

Từ trái sang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, tân Bí thư Tp. HCM Nguyễn Thiện Nhân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, và Chủ tịch Trần Đại Quang.

Báo Tuổi trẻ đưa tin “sau 6 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra.”

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã “thống nhất cao” thông qua các nghị quyết, bao gồm việc “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước; và phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.”

Ông Quang Hữu Minh, một nhà báo độc lập ở Sài gòn, cho rằng trong giới lãnh đạo Hà Nội vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ về lý luận khi đưa ra các nghị quyết này. Và ông Minh nhấn mạng rằng nếu “nếu còn vấn đề về lý luận thì lý luận sẽ không ổn.”

“Nghị quyết mới nhưng cái bình cũ thì không giải quyết được gì cả. Chúng ta hãy nhớ khi nhậm chức thì Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có nói rằng Việt Nam chỉ có kinh tế thị trường, chứ ông ấy không hề nhắc gì đến khái niệm theo định hướng XHCN. Nhưng mà nghị quyết mới vẫn là tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường theo đi định hướng XHCN. Thì rõ ràng là ngay trong nhận thức của những lãnh đạo cấp cao của Đảng đã có vấn đề về việc chọn mô hình phát triển kinh tế.”

Việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, theo ông Minh, Việt Nam đã “kêu gào” trong ba năm qua nhưng cũng không thực hiện được vì lý do như sau:

“Vì cơ bản, nếu không còn lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, không còn hệ thống tập đoàn doanh nghiệp nhà nước thì bản sắc của chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Việt Nam cũng sẽ nhạt nhòa đi, và nhiều người không muốn điều đó. Do đó, tôi không kỳ vọng nhiều vào Hội nghị 5 này.”

Nhà báo Hữu Minh kết luận rằng lãnh đạo Hà Nội vẫn còn“lúng túng” về vấn đề đinh hướng mô hình kinh tế:

Một tập đoàn doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam
Một tập đoàn doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam
“Tôi nghĩ rằng sau Hội nghị Trung ương 5, mọi thứ vẫn sẽ còn lúng túng về đường lối, về kinh tế, chứ không chỉ riêng vấn đề chính trị.”

Liên quan đến vấn đề nhân sự, nhà báo Hữu Minh nói rằng việc chọn ông Nguyễn Thiện Nhân làm tân bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh hôm 10/5 thay cho ông Đinh La Thăng cho thấy sự miễn cưỡng và có phần bế tắc của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dù ông Nhân nhận được 100% phiếu tán thành:

“Tôi nghĩ rằng việc chọn ông Nguyễn Thiện Nhân là một sự lựa chọn hơi miễn cưỡng. Cũng có người không muốn có sự xáo động về nhân sự ở kỳ này, nhưng cuối cùng buộc lòng phải như thế. Thành ra việc lựa chọn ông Nguyễn Thiện Nhân cho thấy cũng có phần bế tắc vì rõ ràng là ông Nguyễn Thiện Nhân ít phù hợp hơn ông Đinh La Thăng. Ông Nguyễn Thiện Nhân thì đỡ bảo thủ hơn những người khác một chút. Tôi cũng không kỳ vọng nhiều vào sự đổi mới (của ông Nhân). Nhưng tôi cũng thấy vui vì ít ra (ổng) đỡ bảo thủ hơn.”

Trước đó, vào ngày 7/5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra quyết định kỷ luật ông Đinh La Thăng bằng hình thức cảnh cáo và đồng ý cho thôi giữ chức Uỷ viên Bộ Chính trị khoá XII với tỉ lệ phiếu biểu quyết trên 90%.

Rõ ràng việc Hội nghị Trung ương 5 thu xếp cho ông Thăng tự rút lui chưa mở ra hướng chống tham nhũng hiệu quả, so với hàng ngàn tỉ đồng mà ông Thăng đã làm thất thoát trước khi làm bí thư thành phố lớn nhất nước.

Cựu nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh ở thành phố Hồ Chí Minh viết trên Facebook rằng: “Cuối cùng thì trận chiến "đả hổ diệt ruồi" phiên bản Việt Nam cũng đã kết thúc tốt đẹp như một vở kịch có hậu.”

Ông Chênh nhận định rằng chủ trương "diệt chuột nhưng không để vỡ bình" của ông Trọng “đã bộc lộ rõ ra qua chuyện dàn xếp cho Đinh La Thăng chức phó ban kinh tế ngay sau khi bị lấy lại hai chức được cho trước đây để y vui vẻ nhận tội, để chuyện chống tham nhũng chỉ dừng ở ruồi mà không dẫn lên đến hổ, để chuột bị diệt mà không ảnh hưởng đến bình.”

Ông Đinh La Thăng khi còn là Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải.
Ông Đinh La Thăng khi còn là Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải.
Nhà báo Hữu Minh cũng có cùng nhận định với ông Chênh:

“Tôi không kỳ vọng lắm vào công cuộc chống tham nhũng của Đảng. Ngoài việc ông Thăng mất ghế bí thư thành ủy và ra khỏi Bộ Chính trị ra thì cũng không có một hướng xử lý nào để thu hồi về một phần tài sản tham nhũng về cho ngân sách quốc gia. Việc kỷ luật ông Thăng chưa giải quyết vấn đề này. Thứ hai, hệ thống pháp luật của Việt Nam có vấn đề, không thượng tôn pháp trị, chỉ xử lý sai phạm theo hướng vụ nào ồn ào mới làm, vấn đề đảng nhỏ trong đảng to…Những vấn đề đó đều núp dưới vỏ bọc chống tham nhũng.” 

Ông Chênh kết luận trên Facebook về Hội nghị Trung ương 5: “Tóm lại vở kịch đả hổ diệt ruồi theo kiểu Tập Cận Bình, phiên bản Nguyễn Phú Trọng đã kết thúc win-win (các bên đều thắng). Chỉ có nhân dân mãi làm khán giả và bị thất bại thảm hại.”

(VOA)
TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?
KTS Trần Thanh Vân

 CHINA 
Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
  Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”
– “Cái gì? 55 năm?”
– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.
  Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ..
  Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.
Sự thật và trải nghiệm
  Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.
  Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.
 Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953
  Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ.
   Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tág¡ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.
  Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc.
   Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn. Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư  đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.
 Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.
  Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.
  Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
  Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt
  Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.
  Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.
  Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. ến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.
  Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì…
   Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?
   Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.
Du học ở Trung Cộng
 Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.
  Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Cộng theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.
  Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.
  Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Cộng ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Cộng phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.
  Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậ­y tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.
   Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.
  Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.
  Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”
  Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra kh »i trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Cộng, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.
  Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.
  Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi..
 Thời kỳ đã trưởng thành
  Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.
  Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.
  Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.
  Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với má»™t chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.
  Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.
 Trung Quốc hôm nay?
  Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Cộng đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.
  Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của H »“ng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.
  Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.
  Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.
  Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.
  Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.
 Tôi hiểu gì về Trung Quốc?
 Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.
  Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.
  Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.
 Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich
Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich
  Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
  Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân.. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đã đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như  Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.
  Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao nguyên Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.
 * Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).
 * Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm  ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).
  Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
 Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu
  Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội.. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
  Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo 
từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.
 Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á
   Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?
 Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh
  Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
  Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương
   Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình..
   Lời cuối bài
   Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.
  Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?
   Đông dân là một sức mạnh
   Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.
    Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.
  Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,
  Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán
  Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược. 
  Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?
Nguyễn Thiện Nhân, đi và về cùng những dấu hỏi
Khác hẳn năm 2007 là lúc đảng “còn bạc còn tiền còn đệ tử”, lúc này đây không chỉ “đảng nát như tương” mà đất nước đã nát như cám. Một quan chức sẽ trở thành cái gì nếu não trạng anh ta vẫn chỉ chăm chăm những lời hứa hẹn được lập trình như hồi mười năm trước?

Ông Nguyễn Thiện Nhân. (REUTERS/Minh Hoang)
Sự nghiệp chính trị của ông Nguyễn Thiện Nhân tiếp tục “đi lên” vào năm 2017 với việc “xuống” địa phương. Nhưng thực chất là một bước thăng tiến. Sau khi tưởng chừng đã bị an bài cho đến lúc về hưu với chức vụ Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở tận Hà Nội xa lạnh, ông Nhân bất chợt nhận quyết định “về nhà”, kết thúc 11 năm “ra trung ương”. 
Mơ ước khôn tận
Có lẽ chức vụ bí thư thành ủy TP.HCM vẫn là mơ ước khôn tận của Nguyễn Thiện 
Nhân. Mơ ước này còn vượt quá cả vị trí phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giáo dục mà một thời ông Nhân đã được sủng ái.
Và có lẽ rời xa một Hà Nội nhung nhúc âm mưu thủ đoạn chính trị, con người không mang tư tưởng tranh đoạt, và thực chất cũng không có đủ bản lĩnh tranh đoạt như ông Nhân, chỉ muốn “về nhà”. Mà lại về Sài Gòn trong một tư thế đẹp nhất trong nhiều tư thế, được ngẩng cao đầu, được trở thành “đầu chuột hơn đuôi voi” như dân gian vẫn ví von.
Với dư luận chung ở Sài Gòn, “phương án Nguyễn Thiện Nhân” có thể được xem như một sự dung hòa có thể chấp nhận được.
Là người có thực hàm, nhưng hơn cả là có thực học nhất trong tổ chức Bộ Chính trị, Nguyễn Thiện Nhân cũng thường được coi là ủy viên bộ chính trị duy nhất có khả năng nói chuyện trực tiếp với người nước ngoài mà không cần phiên dịch, tuy nhiều lúc ông vẫn cần đến tờ giấy để đọc trước người dân trong nước. Vào năm 2006 khi được đưa từ TP.HCM ra trung ương làm bộ trưởng giáo dục, Nguyễn Thiện Nhân đã được khá nhiều người dân kỳ vọng về triển vọng “đưa trí tuệ vào Bộ Chính trị”.
Nguyễn Thiện Nhân lại thuộc về số ít, có thể là số rất ít, trong giới quan chức cao cấp được dư luận nhìn nhận là “sạch”. Trái ngược với rất nhiều quan lại bị dư luận đàm tiếu và lên án về tài sản cá nhân và hình ảnh tham nhũng “ăn của dân không chừa thứ gì”, ông Nhân chưa hề bị điều tiếng về chuyện tham ô hay nhà cửa. Chỉ đối chiếu ngay tại phạm vi TP.HCM, đức tính này của ông Nhân đã vượt hẳn quá nhiều tai tiếng của hai đời bí thư trước đó là Lê Thanh Hải và Đinh La Thăng.
Chỉ có điều, chừng đó tố chất trên vẫn là chưa đủ. Chưa đủ để Nguyễn Thiện Nhân được “tập thể Bộ Chính trị”, mà ai cũng hiểu là chính Tổng bí thư Trọng, quyết định điều động “về nhà” làm Bí thư thành ủy TP.HCM.
Phải có nguyên do nào khác. Khác đặc biệt.
“Trung lập” và “Nam Bộ”
Ngay khi Hội nghị trung ương 5 của đảng diễn ra vào đầu tháng 5/2017 cùng xuất hiện tình huống “ai thay thế Đinh La Thăng”, “phương án Nguyễn Thiện Nhân” đã chỉ khá mờ nhạt. Nổi trội hơn hẳn là “phương án Trương Hòa Bình” - người đang giữ chức vụ Phó thủ tướng thường trực và được xem là “được anh Tư đỡ đầu”. “Anh Tư” ở đây là Trương Tấn Sang - cựu chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân vật tuy đã thôi mọi chức vụ nhưng lại được dư luận xem là “cố vấn đặc biệt” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Ngoài Trương Hòa Bình là ứng viên hàng đầu cho chức bí thư thành ủy TP.HCM, còn có những cái tên khác mà Nguyễn Thiện Nhân phải “xếp hàng” sau: Tô Lâm - Bộ trưởng công an, Võ Văn Thưởng - Trưởng ban Tuyên giáo trung ương. Vào nửa chừng Hội nghị trung ương 5 và là lúc Đinh La Thăng chính thức bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị, dư luận còn đồn ầm ĩ về người đàn bà “quá khổ” - Ủy viên bộ chính trị, Phó chủ tịch thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng - sẽ được đưa về thay Đinh La Thăng. Có người còn nói vui: thay Thăng bằng Phóng để quyết tâm đưa Sài Gòn bằng với… Sơn La.
Nhưng rốt cuộc, có tin Trương Hòa Bình “xin rút không về TP.HCM”. Không loại trừ ông Bình mang cao vọng mà đang tính toán đường đi xa hơn, cao hơn chức vụ phó thủ tướng thường trực hiện thời…
Lại không nghe tin tức gì về Tô Lâm vào Sài Gòn…
Cũng rốt cuộc, đã xuất hiện tin tức về phản ứng của nhiều cán bộ lão thành và quan chức đương nhiệm ở Nam Bộ trước việc trung ương cứ khăng khăng điều “người Bắc, có lý luận” để trấn giữ khu vực phía Nam, rằng một Đinh La Thăng đã là quá đủ…
Có lẽ ông Nguyễn Phú Trọng đã không thể thờ ơ trước phản ứng của miền Nam. Nếu lại phát sinh một scandal Đinh La Thăng nữa, uy tín của tổng bí thư trong mắt bàn dân thiên hạ sẽ ra sao?
Ngoài Trương Hòa Bình đã “rút”, chỉ còn Võ Văn Thưởng và Nguyễn Thiện Nhân là “đại diện” cho miền Nam mà có thể dễ được người Nam Bộ chấp nhận.
Đến lúc này, yếu tố “phe phái” mới thực trọng yếu.
Trong lịch sử hoạt động chính trị của mình, Nguyễn Thiện Nhân còn có một đức tính đáng kể khác: ít có dấu hiệu và biểu hiện nào cho thấy ông trực tiếp tham dự vào đấu trường chính trị và trở thành người của các phe nhóm. Nói cách khác, ông Nhân là người tương đối trung lập. Mà trung lập trong tình trạng nhiều đảng viên than thở “đảng nát như tương” cũng đã là “quý”.
Chưa kể một vấn đề khác cũng thuộc về lịch sử: vào thời còn làm phó chủ tịch Ủy ban nhân dân TP.HCM, Nguyễn Thiện Nhân bị bí thư thành ủy khi đó là Lê Thanh Hải tìm cách cô lập - theo nhiều dư luận. Rất có thể chính vì nguồn cơn đó mà ông Nhân bị “đá” ra trung ương. Do vậy, không thể có chuyện Nguyễn Thiện Nhân, khi đã nghiễm nhiên “vinh quy” về TP.HCM, lại “cùng cánh” với triều đại cựu bí thư họ Lê.
Cuối cùng, chiến dịch tranh đấu giành vị trí đứng đầu TP.HCM dường như đã dẫn đến kết quả mang tính thỏa hiệp: một nhân vật Nam Bộ và trung dung không thuộc phe phái nào như Nguyễn Thiện Nhân lại nghiễm nhiên “buồn ngủ gặp chiếu manh”.
Thách thức lớn nhất?
Giờ đây, như thường lệ đối với những nhân vật mới nhậm chức, công luận đang đặt dấu hỏi “thách thức nào cho Tân bí thư Nguyễn Thiện Nhân?”.
Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại. Thách thức lớn nhất đối với Nguyễn Thiện Nhân chính là bản thân ông.
Để lại phát sinh một câu hỏi khác: Nguyễn Thiện Nhân có năng lực hay không?
Cần nhắc lại, khi được điều ra trung ương để nắm giữ chức bộ trưởng giáo dục vào năm 2007, Nguyễn Thiện Nhân đã được dư luận và báo chí kỳ vọng, cùng một làn sóng ca ngợi ông không mấy kém thua những trường hợp Nguyễn Bá Thanh và Đinh La Thăng sau này.
Khi đó, Nguyễn Thiện Nhân đã trở thành bộ trưởng hiếm hoi dám đưa ra những cam kết như “Sẽ không một sinh viên nào phải bỏ học” và “Đến năm 2010 giáo viên sẽ sống được bằng lương”.
Nhưng sau năm 2010 và từ đó đến nay, kết quả lại giống như một cái gương chiếu hậu: sinh viên phải bỏ học do khó khăn gia đình và học phí quá cao, giáo viên ở nhiều vùng sâu phải thoái trường, còn một số học sinh phải tự nuôi thân bằng thịt chuột. Nền giáo dục Việt Nam thời Nguyễn Thiện Nhân đã không hoặc chỉ được cải thiện rất ít, còn sau thời ông thì lao dốc không phanh.
Từ đó đến nay, nhiều tạp chí chuyên ngành danh tiếng quốc tế đã thường xuyên công bố danh sách 400 - 500 trường đại học hàng đầu thế giới, nhưng Việt Nam hoàn toàn vắng bóng.
Sau năm 2010, tiếng nói của Bộ trưởng Nhân chỉ còn rơi rớt.
Bệnh nói nhiều làm ít còn có thể được châm chước vào thời Nguyễn Thiện Nhân còn ở TP.HCM, khi ông bị Lê Thanh Hải “siết”. Nhưng khi đã một mình một cõi tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, thậm chí còn lên đến chức Phó thủ tướng, Nguyễn Thiện Nhân đã tự thể hiện mình ra sao để đến mức ông bị điều về Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một cơ quan bị xem là “đầu không tới trời, chân không tới đất”?
Rất nhiều người hâm hộ và ủng hộ ông trước đó đã chuyển sang tâm thái thất vọng. Sau thất vọng là chỉ trích. Ông nói nhiều nhưng lại làm quá ít. Ngay cả những người còn giữ được cái nhìn về một Nguyễn Thiện Nhân “trí thức” và “sạch” cũng đâm ra hoài nghi về năng lực hành động của ông.
Còn giờ đây, “bỗng dưng” trở thành Bí thư thành ủy và nắm vận mạng của thành phố lớn thứ hai quốc gia, Nguyễn Thiện Nhân sẽ phải chịu trách nhiệm về công tác chính trị và nhân quyền chứ không còn thuần túy như chuyên môn giáo dục trước đây.
Khác hẳn năm 2007 là lúc đảng “còn bạc còn tiền còn đệ tử”, lúc này đây không chỉ “đảng nát như tương” mà đất nước đã nát như cám. Một quan chức sẽ trở thành cái gì nếu não trạng anh ta vẫn chỉ chăm chăm những lời hứa hẹn được lập trình như hồi mười năm trước?
Nếu không khắc phục nhanh nhất những nhược điểm cố hữu trong công tác quản lý, đặc biệt là công tác tổ chức nhân sự, công tác hậu kiểm và không có được một chút dũng khí để thẳng tay xử lý tiêu cực, Nguyễn Thiện Nhân sẽ có thể ứng xử với Sài Gòn theo cái cách mà ông đã hô hào phong trào “hai không” ở ngành giáo dục nhưng chỉ đạt được kết quả “không không thấy”.

Phạm Chí Dũng