10 tháng 5, 2017

Một bài báo đã bị rút xuống

Kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân
Vũ Ngọc Hoàng
Bài này của TS Vũ Ngọc Hoàng đã được VNN đăng, nhưng chỉ vài giờ sau là bị gỡ xuống (hẳn là do “lệnh trên”).  May mắn thay, một thân hữu đã nhanh tay, lưu lại.  Nên đọc (bài rất công phu) và đoán thử xem tại sao các “cơ quan chức năng” lại không cho phổ biến.
Trần Hữu Dũng
Ông Vũ Ngọc Hoàng dạo này đăng đàn nhiều cũng hơi bị nhàm, có lẽ ông sốt ruột quá trong khi chỉ biết nói, không biết làm gì hơn.
Bài này khá hay và ngắn so với các bài khác của ông, giúp cho các đầu lú sáng ra được chút nào. Tiếc thay vừa đưa lên VNN được vài tiếng đã bị rút xuống. Đủ biết lực lượng bảo thủ là vô cùng đông đảo.
Nguyễn Quang Lập
Vũ Ngọc Hoàng

Sau đây là toàn văn bài viết của ông Vũ Ngọc Hoàng :
Trong lịch sử nhân loại, thuở ban đầu, khi con người bắt đầu xuất hiện, do yêu cầu sinh tồn, hoạt động kinh tế lúc bấy giờ là hái lượm. Nói cách khác, là kinh tế hái lượm. Sau đó, do tác động của thực tiễn, nhận thức của con người tiến bộ dần, công cụ lao động được cải tiến, sản xuất (kinh tế) tự cấp tự túc bắt đầu. Khi sản xuất có dư thừa và nhu cầu của cuộc sống đa dạng hơn, con người đã thực hiện trao đổi các sản phẩm làm ra, thì kinh tế hàng hóa xuất hiện. Khi kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định, trong xã hội hình thành các phạm trù giá trị và giá cả, quan hệ cung cầu và cạnh tranh, không phải cá biệt, đơn lẻ mà thành các xu hướng, thì đó là lúc kinh tế thị trường bắt đầu, cùng với các quy luật khách quan, vô hình, nhưng mạnh mẽ, tác động chi phối nền kinh tế, thay thế cho nhũng ý muốn chủ quan của các chủ thể có quyền lực trước đó.          Nhân dịp các cơ quan ở trung ương đang thảo luận về kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân, với mong muốn góp một tiếng nói, tôi xin được trao đổi một số ý kiến để bạn đọc tham khảo. Từ sau đại hội XII đến nay, các cơ quan trung ương và các đồng chí lãnh đạo đã quan tâm đáng kể đối với vấn đề doanh nghiệp, khởi nghiệp, kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân. Tôi nghĩ thế là rất đúng. Nếu như trước đây, trong thời chiến tranh giữ nước, việc xây dựng các đơn vị bộ đội “cụ Hồ” để làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân đã có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi, thì ngày nay, trong hòa bình phát triển kinh tế, việc xây dựng các doanh nghiệp VN để làm nòng cốt trong kinh tế thị trường cũng có ý nghĩa quan trọng tương tự.
           Trong quá trình phát triển của kinh tế thế giới, các nhà nghiên cứu, với các cách tiếp cận khác nhau, đã phân chia thành nhiều loại kinh tế thị trường. Như kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng XHCN… và các tên gọi kiểu khác nữa (kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế thị trường hội nhập…). Việc thảo luận, tranh luận về các tên gọi khác nhau này dài dòng và phức tạp, kể cả về học thuật và chính trị, với những nhận thức đúng và chưa đúng, với những ý kiến khoa học và sự dung hòa thỏa hiệp.
           Ở Mỹ, suốt một thời kỳ dài, người ta luôn nhấn mạnh kinh tế thị trường tự do, mọi việc của nền kinh tế do thị trường quyết định, nhà nước không can thiệp. Cho đến một lần, khi nước Mỹ bị khủng hoảng tài chính, Chính phủ Mỹ bị buộc phải chi ra nhiều ngàn tỷ USA để can thiệp vào thị trường. Từ đó, người ta không nhấn mạnh kinh tế thị trường tự do như trước nữa. Tại một số nước Châu Âu, nhất là nước Đức, vào những năm năm mươi của thế kỷ trước, đã có những cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học về kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tranh luận sôi nổi, thẳng thắn, và cuối cùng vẫn không có thắng thua. Nhưng từ những cuộc tranh luận ấy đã làm nảy sinh và xuất hiện một cụm từ-khái niệm mới về “kinh tế thị trường xã hội” mà trong đó, nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước vì các mục tiêu xã hội. Tôi nghĩ đây là một khái niệm, một loại hình đang và sẽ thịnh hành nhất trong tương lai. Tại Trung Quốc, với tư tưởng xây dựng một xã hội XHCN đặc sắc Trung Quốc, người ta đã nghĩ ra kinh tế thị trường XHCN, trong khi họ chưa có CNXH. Việt Nam thì mềm hơn, phù hợp hơn so với Trung Quốc, đã chọn cụm từ “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Vậy là thế giới đã có nhiều tên gọi khác nhau về các loại kinh tế thị trường. Tuy nhiên, rộng rãi nhất, đã được quốc tế hóa, sử dụng phổ biến ở các văn bản quốc tế, đó là cụm từ-tên gọi “kinh tế thị trường”. Chỉ gọn vậy thôi. Không thêm từ gì nữa. Thế giới đã thống nhất cao đối với cụm từ đó. Việt Nam ta, mặc dù viết trong các nghị quyết và văn bản là “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nhưng cũng vẫn phải kêu gọi thế giới công nhận ta là nước có nền “kinh tế thị trường”. Ta không thể yêu cầu họ công nhận ta là “kinh tế thị trường định hướng XHCN” vì thực ra thì thế giới chưa hiểu về khái niệm này, mà có công nhận cũng chẳng để giải quyết vấn đề gì giữa ta với họ. Đó là một thực tế.
           Từ ngữ cũng quan trọng, nhưng quan trọng hơn là nội hàm của khái niệm. Cần hiểu đúng để không làm sai. Suốt một thời gian dài, trên thế giới, không ít người, nhất là ở các nước theo định hướng XHCN, cho rằng kinh tế thị trường là đặc điểm của CNTB, còn CNXH thì phải là kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Ngày ấy, ai nói khác, ai chủ trương phải chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường thì bị Liên-xô và phe XHCN phê phán và quy chụp là xét lại. Thậm chí còn nâng lên là chủ nghĩa xét lại. Năm 1968, khi Ban lãnh đạo Tiệp-khắc chủ trương cải tổ bằng cách chuyển qua kinh tế thị trường và thực hiện dân chủ hóa thì Liên-xô lập tức đổ quân vào Tiệp-khắc và tuyên bố Ban lãnh đạo ấy là xét lại, phế truất họ và lập ban lãnh đạo mới để kiên định cách làm như cũ. Những năm sau đó, nhất là sau khi Liên-xô bị đổ, mọi người đã nhận thức lại, với tư duy thoáng mở và đúng đắn hơn, cho rằng kinh tế thị trường không phải riêng của CNTB, mà các nước XHCN cũng cần phải thực hiện kinh tế thị trường thay cho kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Đó là giai đoạn cải cách, đổi mới ở các nước theo định hướng XHCN. Tư duy đó là đúng, nhưng lại chưa đi đến cùng, vẫn còn cho rằng kinh tế thị trường ở các nước XHCN phải khác về chất so với kinh tế thị trường ở các nước TBCN. Với tư duy chưa đúng này đã dẫn đến những lúng túng trong xử lý công việc cụ thể, kể cả cách gọi tên. Tất nhiên việc lúng túng trong cách gọi tên cũng có thể một phần do sự dung hòa, thỏa hiệp khi có ý kiến khác nhau trong nội bộ.  Đã mất một thời gian khá dài để tìm kiếm các điểm khác nhau đó.
            Tư duy chưa đúng về kinh tế thị trường đã chịu ảnh hưởng của tư duy không đúng về vấn đề CNTB và CNXH. Lúc đầu là tư duy của một bộ phận quan trọng trong giới chính trị, kể cả bên phe này và bên phe kia, từ đó lan rộng ra trong hai hệ thống chính trị của thế giới và tác động sang lĩnh vực khoa học xã hội và truyền thông. Với tư duy sai lầm đó, người ta đã chia thế giới ra thành hai phần chủ yếu, hai phe, TBCN và XHCN, đi về hai hướng khác nhau, với tư tưởng và ý thức hệ riêng của mỗi bên, đối địch với nhau, chạy đua vũ trang đến mức chưa từng có, tạo ra kể cả các loại vũ khí giết người hàng loạt, đủ để có thể tiêu diệt nhiều lần trái đất, có lúc đã đối đầu xe tăng, đại bác và tên lửa mang đầu đạn hạt nhân vào nhau, đã gây nên một số cuộc chiến tranh làm chết nhiều chục triệu người. Để rồi bây giờ, sau gần một thế kỷ đối đầu như vậy, đã phải bắt tay nhau để cùng giải quyết nhiều việc của song phương, của khu vực và của toàn cầu, kể cả coi nhau là đối tác chiến lược, toàn diện. Từ cựu thù thành bạn giữa con người với con người là việc đáng mừng, đáng ủng hộ. Nhưng bản thân sự ấy cũng đã chứng minh sai lầm trước đó, chứng minh sự “lẩm cẩm” từng có ở tầm nhân loại. Xét riêng ở một bên (một phe), thì có thể biện minh cho họ là không sai, vì chính bên kia đã đẩy họ đến đó. Nhưng xét cả hai bên cùng lúc, thì sẽ thấy sai lầm của họ – của cả hai bên. Sai lầm này, xét đến cùng, là do cả hai bên đều không chấp nhận sự đa dạng của tư tưởng, văn hóa và mô hình phát triển, trong khi họ đang và phải sống trong một thế giới ngày càng đa dạng và hội nhập. Sai lầm ấy là do tư duy không khoa học và thiếu biện chứng.
           Cũng với tư duy sai lầm nói trên, người ta cho rằng nhân loại có hai con đường riêng. Một con đường của chủ nghĩa tư bản lâu dài. Và một con đường khác, gần như khác hẳn, dẫn đến CNXH. Hai con đường này đi về hai hướng khác nhau, mãi mãi, không dung hòa, không chấp nhận, không gặp lại nhau. Đó là cách tư duy siêu hình, không phải biện chứng, khác với tư duy của K. Marx.  K. Marx không tư duy như vậy. Theo K. Marx, CNTB sẽ phát triển lên, phát triển tiếp, và dần dần hình thành trong lòng nó, trong chính nó, những nhân tố mới, khác nó, không phải là nó, như một quy luật tất yếu. Đến khi nhiều nhân tố mới hợp lại, tích tụ lại, đến mức đủ nhiều, dẫn đến sự thay đổi về chất, khi ấy, CNTB không còn là nó như trước nữa, mà trở thành một xã hội khác nó, tiến bộ hơn nó. Đó là CNXH. Tư duy đó của K. Marx là biện chứng, có cơ sở khoa học. Mặc dù không phải cái gì ông nghĩ ra cũng đều đúng, và điều đó cũng là dễ hiểu. Mọi người, kể cả các nhà khoa học lớn, kể cả các vĩ nhân cũng vậy, vẫn có nhiều điều, ngay từ đầu hoặc khi thời gian đi qua, không đúng hoặc không còn phù hợp nữa. Trong tư duy của K. Marx, một phần đáng kể thuộc về khoa học, một phần khác thuộc về tư biện, và trong đó, có những hạn chế của yếu tố lịch sử. Nghiên cứu thực tiễn của thế giới cho thấy, CNTB hiện đại ngày nay đã khác rất xa so với CNTB thời K. Marx sống và viết tư bản luận. Nó đã không còn như trước nữa, đã có một bước tiến rất dài về mục tiêu xã hội và phương thức xã hội hóa. Tức là đã gần hơn một cách đáng kể với CNXH. Họ đã tiến gần hơn đến CNXH không chỉ so với chính họ trước đây, mà kể cả so với các nước đã từng hoặc đang định hướng XHCN trên thế giới. Cũng tức là thực tiễn lịch sử đã và đang chứng minh tư duy của K. Marx về CNTB và CNXH là có cơ sở. Đó là ta nói về CNXH chân chính, lành mạnh, hợp quy luật, chứ không phải cái CNXH hình thức, nhân danh, giả mạo hoặc do tư duy và cách hiểu sai lầm, duy ý chí khá phổ biến lâu nay trong thực tế. Những tư duy sai lầm đó mãi đến nay, dù đã có những đổi mới nhất định, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thoát ra khỏi tư duy cũ. Việc này xin sẽ tiếp tục bàn sâu hơn trong một chuyên đề khác.
           Trở lại vấn đề kinh tế thị trường. Trong CNXH, kinh tế thị trường sẽ có gì giống hoặc khác so với kinh tế thị trường trong CNTB? Nói trong CNTB là nói cái thực tế đã có. Nói trong CNXH là nói về cái dự báo, chứ chưa có. Dự báo thì dù có cơ sở khách quan vẫn thường chứa đựng cùng lúc cả khoa học và tư biện, chưa được kiểm nghiệm trong thực tế. Kinh tế thị trường thì dù trong CNTB hay trong CNXH vẫn phải là kinh tế thị trường, chứ không thể là cái khác, không để biến tướng thành dị dạng tật nguyền. Bản chất là giống nhau. Cơ bản không khác nhau. Điểm khác nhau chủ yếu là ở trình độ phát triển. Trong đó, năng suất lao động, hiệu quả kinh tế-xã hội, phạm vi của thị trường và tính chất xã hội hóa là những nội dung hàng đầu. Cũng xin nói thêm rằng, các mặt ấy, tức là về trình độ phát triển, thì hiện nay kinh tế thị trường ở nước ta và Trung Quốc còn thua xa nhiều nước mà ta gọi họ là TBCN. Đáng lưu ý hơn nữa là trong vòng 40 năm qua, nước ta dù có phát triển khá nhiều so với chính mình, nhưng lại vẫn bị tụt hậu xa hơn so với họ. Xét theo nghĩa đó, họ đang XHCN hơn ta, hơn Trung Quốc, dù họ không tuyên bố theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ta muốn thành CNXH thì phải hơn họ. Mà muốn hơn họ thì trước tiên là phải phấn đấu cho bằng họ. Và muốn bằng họ, trong khi ta đang ở phía sau, thì chỉ có một con đường là phải phát triển với tốc độ, nhịp độ và hiệu quả cao hơn họ. Việc đó không hề đơn giản, có người còn cho là ảo tưởng. Tôi nghĩ vẫn có cách nếu đủ thông minh. Phải có cán bộ giỏi, thật sự có năng lực, hết lòng tâm huyết với việc chung, không tham nhũng và “lợi ích nhóm”, cộng với việc biết tập họp, phát huy trí thức và sử dụng tối đa kinh nghiệm và chất xám của nhân loại. XHCN trước nhất phải là kết quả của hoạt động trí tuệ sáng tạo, chứ nhất định không thể là bảo thủ giáo điều. Đương thời khi còn sống, K. Marx đã từng không phải một lần có nói rằng, ông làm khoa học, muốn dự báo khoa học, chứ ông không định làm “chủ nghĩa”. Ông nói ông không phải là người Mác-xít. Sau này, khi K. Marx đã qua đời, một số đồng chí của ông cho rằng, để chiếu cố phong trào công nhân, cần có một ngọn cờ lý luận, thì không ai xứng đáng bằng K. Marx, vậy là từ đó, người ta gọi các quan điểm của ông là “Chủ nghĩa Mác”.
           Theo tôi, nền kinh tế thị trường trong CNXH trước tiên phải là một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa của nó, như nó vẫn có phổ biến lâu nay trong thế giới các nước phát triển, đồng thời phải ở trình độ cao hơn. Đại hội XII của Đảng CSVN đã khẳng định sự cần thiết của một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Đó là quan điểm đúng đắn nhằm bảo đảm cho kinh tế thị trường không bị biến dạng bởi sự chủ quan duy ý chí. Tiếp đến, nếu phân loại sâu hơn thì, kinh tế thị trường trong CNXH sẽ là một nền kinh tế thị trường xã hội. Trong đó, có vai trò đáng kể của nhà nước đối với việc điều tiết nền kinh tế vì mục tiêu xã hội. Nhà nước điều tiết một cách khoa học chứ không phải can thiệp thô bạo vào thị trường, càng không làm thay hoặc chống lại thị trường. Chính sách của nhà nước phải phù hợp với kinh tế thị trường, dựa vào các quy luật của thị trường để điều tiết chính nó. Nhà nước không kinh doanh, không để các cơ quan hành chính đi kinh doanh, các cơ quan chuyên chính càng phải thế. Việc chính của nhà nước là tạo điều kiện cho mọi chủ thể trong xã hội được kinh doanh thuận lợi, bình đẳng thật sự, không bị thị trường ngầm, không có buôn gian bán lậu, càng không để cho cán bộ của nhà nước tham gia hoạt động trong và cho các “nhóm lợi ích”. Trong nền kinh tế thị trường đó, năng suất lao động, trình độ ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiệu quả kinh tế-xã hội, phạm vi của thị trường và tính chất xã hội hóa phải cao hơn các nước phát triển hiện nay.
              Sự lãnh đạo và quản lý (ngày nay người ta còn gọi quản trị quốc gia) là cần thiết. Nước nào cũng vậy. Nhưng không thể tư duy rằng, có sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước là đương nhiên thành một đặc trưng của kinh tế thị trường trong CNXH. Cách suy nghĩ này có phần chủ quan, không biện chứng. Giống như cách lý luận rằng, cái do ta làm ra là cái tốt nhất. Chắc gì! Nếu lãnh đạo và quản lý đúng, phù hợp quy luật khách quan, thì mới có nền kinh tế thị trường trong CNXH. Còn nếu lãnh đạo và quản lý không đúng, bị sai lầm, thì sẽ không có nền kinh tế như ta mong muốn. Sự lãnh đạo và quản lý chưa thể là một đặc điểm của nền kinh tế. Đặc điểm của nền kinh tế sẽ hình thành trong thực tế một cách khách quan, nó không phải là sự lãnh đạo và quản lý của ai, mà là kết quả của sự lãnh đạo và quản lý ấy thế nào.
              Cần phân biệt giữa kinh tế nhà nước và kinh tế doanh nghiệp (nhà nước). Kinh tế doanh nghiệp và kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau, nằm ngoài nhau. Kinh tế doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước) nằm ngoài phạm trù kinh tế nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước nên tiếp tục cổ phần hóa, chỉ còn lại rất ít, không đáng kể, hạn chế tối đa, càng ít càng tốt, có tính cá biệt chứ không phải là phổ biến, chỉ còn để phục vụ trực tiếp cho mục đích quốc phòng mà doanh nghiệp các thành phần khác không làm được. Doanh nghiệp nhà nước vẫn thuộc phạm trù kinh tế doanh nghiệp, như mọi doanh nghiệp khác, không phải phạm trù kinh tế nhà nước, không nên đưa vào trong bộ phận hợp thành kinh tế nhà nước, càng không phải là bộ phận then chốt của kinh tế nhà nước như trước đây ta vẫn nói. Còn kinh tế nhà nước là một phạm trù khác, không phải là một thành phần kinh tế như lâu nay vẫn thường quan niệm. Đó là ngân sách nhà nước và các quỹ dự trữ tài chính của quốc gia. Tài nguyên quốc gia do nhà nước quản lý cũng chưa tính vào kinh tế nhà nước vì tự nó chưa phải là một loại hoạt động kinh tế nào. Khi nhà nước bán các tài nguyên ấy, nhập vào ngân sách chung hoặc các quỹ dự trữ tài chính của quốc gia thì lúc ấy mới tính vào kinh tế nhà nước. Vậy, vai trò của kinh tế nhà nước sẽ là gì trong nền kinh tế ? Là trung tâm và công cụ điều tiết nền kinh tế thị trường xã hội. Nói gọn lại là vai trò “điều tiết”. Điều tiết chứ không phải lãnh đạo. Không nhầm lẫn vai trò của kinh tế nhà nước với vai trò của nhà nước. Vậy thì thành phần kinh tế nào là chủ đạo? Trước tiên cần thống nhất với nhau thế nào là chủ đạo. Đạo là đường, là con đường; chủ đạo là con đường chủ yếu, là hướng chủ yếu. Không thể cái nào cũng có thể trở thành chủ đạo. Một hướng đi mà sẽ tắc đường, không đến đích được thì không thể là chủ đạo. Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng. Nghị quyết của Đảng đã khẳng định điều này. Đó là quan điểm đúng. Để có bình đẳng thật sự thì không nên quy định thành phần kinh tế nào là chủ đạo. Trong thực tế, một thành phần kinh tế nào đó sẽ trở thành chủ đạo khi nó đóng được vai trò quan trọng nhất, chi phối nhiều nhất đối với nền kinh tế. Muốn vậy, nó nhất định phải hiệu quả nhất. Do có hiệu quả nhất nên nó sẽ lớn mạnh nhất. Như vậy, sự chủ đạo là một kết quả khách quan, do hiệu quả kinh tế-xã hội quy định. Theo tôi, có cơ sở để dự báo rằng, trong chủ nghĩa xã hội kinh tế cổ phần sẽ đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế cổ phần là sự phát triển lên từ kinh tế tư nhân. Nó không phủ định kinh tế tư nhân, mà trên cơ sở kinh tế tư nhân, do kinh tế tư nhân phát triển đến lúc vượt qua phạm vi của chính mình thì tự nó trở thành kinh tế cổ phần. Tất nhiên trong thực tế kinh tế cổ phần cũng còn cách khác để hình thành. Nhưng không phải là cơ bản, không phải là hướng chính. Hiệu quả nhất, bền vững và hợp quy luật nhất, là kinh tế cổ phần ra đời trên nền tảng của kinh tế tư nhân. Như vậy, có thể đi đến một ý kiến nữa, trong thời kỳ quá độ, kinh tế tư nhân là con đường chính. Và cũng không phải hết thời kỳ quá độ thì kinh tế tư nhân không còn vai trò nữa. Không phải thế! Hết thời kỳ quá độ kinh tế tư nhân vẫn giữ vai trò quan trọng, là nền tảng, là bộ phận chính để hợp thành và là nơi xuất phát để tự nó trở thành kinh tế cổ phần, đồng thời là hậu cứ khi cần tạm lui của kinh tế cổ phần.
              Kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân có mối quan hệ biện chứng và mật thiết với nhau. Sự phát tiển của chúng sẽ là tiền đề, điều kiện, là nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hảm lẫn nhau. Kinh tế tư nhân khó mà phát triển mạnh khi kinh tế thị trường không phát triển, và ngược lại. Không thể muốn kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ mà không muốn kinh tế tư nhân. Nói thế không có nghĩa là các thành phần kinh tế khác (ngoài kinh tế tư nhân) không có quan hệ với kinh tế thị trường. Điểm muốn nói ở đây là giữa kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân có quan hệ nhiều nhất, hơn các thành phần kinh tế khác. Điều đó là do, kinh tế thị trường yêu cầu sự năng động nhất và kinh tế tư nhân thì đáp ứng tốt nhất yêu cầu năng động đó.
           Ở nước ta, kinh tế tư nhân có từ thời Pháp thuộc, mặc dù lúc ấy mới sơ khai, ban đầu, còn rất ít, và chủ yếu là tư bản nước ngoài-tư bản Pháp. Kinh tế cá thể thì có trước đó, trước xa, từ thời phong kiến trước Pháp thuộc. Trên thế giới cũng vậy, kinh tế tư nhân xuất hiện sau (so với kinh tế cá thể) và lớn mạnh nhanh chóng gắn liền với thời kỳ phát triển mạnh của kinh tế thị trường và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Chỉ sau một thời gian không dài, khoảng vài thế kỷ, nhưng CNTB với vai trò hàng đầu của kinh tế tư nhân, đã tạo ra một lượng của cải vật chất “khổng lồ”, bằng tổng số của cải mà loài người đã tạo ra suốt mấy ngàn năm trước đó.
            Ở nước ta, kinh tế thị trường mặc dù đã manh nha từ trước, nhưng thực chất cũng mới phát triển nhiều trong mấy chục năm gần đây, sau khi tiến hành đổi mới. Trước đây, kể cả ở Miền Bắc trước 1975 và cả nước sau 1975, trong một thời gian khá dài, kinh tế tư nhân chưa được thừa nhận. Lúc đó, nhiều người đã coi kinh tế tư nhân là đặc điểm riêng có của CNTB, nó còn lại như là một “tàn dư” của chế độ cũ. Ý kiến khác thì cho rằng kinh tế tư nhân là tạm thời, là quá độ, là “sách lược”, không lâu dài, không đại diện cho một tương lai. Ngày đó chúng ta đã thực hiện cải tạo công-thương nghiệp, làm cho một xu hướng phát triển cần thiết mới bắt đầu đã phải dừng lại, thậm chí tan tác, mất hết sức lực, lại bị mất tinh thần, sau này cứ ám ảnh, không dám phát triển, sợ bị “vỗ béo để thịt” như nhiều người đã nói. Nhận thức và chính sách ấy là rất sai lầm. Tất nhiên sau đó đã thấy sai và đã sửa. Không riêng ở nước ta. Liên-xô, Trung Quốc và các nước XHCN trước đây ở Đông Âu cũng vậy. Ta học và làm theo họ. Nhận thức sai lầm này có nguồn gốc và nguyên nhân của nó.
            Trước đây người ta đã nghĩ rằng, sở hữu tư nhân là nguồn gốc sản sinh ra CNTB. Kinh tế tư nhân gắn liền với CNTB, thuộc về chủ nghĩa tư bản. Còn chủ nghĩa xã hội thì phải khác, phải ngược lại. Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân không có vai trò trong CNXH. Công hữu mới là con đường đi đến và là đặc trưng cốt lõi của CNXH. Đúng là K. Marx đã có lúc nhấn mạnh “công hữu” trong xã hội tương lai (XHCN). Ông và Ăng-ghen nói điều ấy vào thời kỳ viết Tuyên ngôn Cộng sản. Nhưng đó là lúc K. Marx và Ăng-ghen còn rất trẻ, 29 và 27 tuổi, hăng hái và đầy nhiệt huyết. Sau này, tiếp tục nghiên cứu quá trình phát triển trên thực tế của các nước tư bản, khi đã chín muồi về tư duy, thì K. Marx đã có những ý kiến mới, ý kiến khác. Khi thấy kinh tế cổ phần xuất hiện, ông đã cho rằng đó là con đường để đến xã hội tương lai. Theo tôi hiểu, K. Marx đã nhận định kinh tế cổ phần mới là con đường đi đến CNXH. Đó là sự điều chỉnh đúng và rất quan trọng trong tư duy của ông. Rất tiếc là các tài liệu nghiên cứu sau đó không nói rõ vấn đề này mà luôn nhấn mạnh “công hữu” – cái mà K. Marx đã muốn điều chỉnh, từ đó, nhấn mạnh đến kinh tế nhà nước. Như đoạn trên đã trình bày, kinh tế tư nhân phát triển dần lên, đến khi “vượt qua” chính mình thì xuất hiện kinh tế cổ phần, và đồng thời với nó là sở hữu xã hội ra đời. Kinh tế cổ phần và sở hữu xã hội chẳng những không đối lập, không loại bỏ kinh tế tư nhân và sở hữu tư nhân, mà ngược lại còn xuất hiện trên cơ sở của sự phát triển ở trình độ cao của kinh tế tư nhân và sở hữu tư nhân. Nói cách khác, kinh tế tư nhân và sở hữu tư nhân, do quy luật phát triển “tự nhiên” của chính nó, K. Marx gọi là quá trình lịch sử-tự nhiên của nó, đã tự biến đổi dần, hiện đại lên, thành kinh tế cổ phần và sở hữu xã hội. Sự ra đời của kinh tế cổ phần hoàn toàn không phải là sự kết thúc của kinh tế tư nhân, mà là một sự tiếp tục, sự phát triển “nhảy vọt”, về chất. Trong kinh tế cổ phần, vai trò của các tư nhân không bị đánh mất, sở hữu tư nhân đối với phần vốn của họ không bị tước đoạt, nó tồn tại lâu dài mãi, và có thể ngày càng tăng thêm lên nếu như hoạt động kinh tế có hiệu quả tốt, nó chỉ khác ở chỗ là quá trình quản trị , tổ chức kinh doanh và thực hiện phân phối đã được xã hội hóa. Ăng-ghen có lần đã nói Marx và ông muốn viết lại, muốn sửa đổi một số vấn đề trong Tuyên ngôn Cộng sản đã viết, nhưng không làm được vì tài liệu ấy mang tính chất lịch sử, chỉ còn cách là phải có bổ sung và điều chỉnh trong các tài liệu khác.
Hiện nay, tại nhiều nước phát triển, phần vốn cổ phần huy động từ xã hội đã chiếm đại bộ phận so với tổng số vốn đầu tư phát triển. Còn phần vốn tư bản tư nhân chỉ còn lại số ít. Với tỷ lệ ấy, sở hữu xã hội đã trở thành phổ biến. Khi sở hữu xã hội sẽ ngày càng phổ biến trong nền kinh tế thì tính chất chính trị của xã hội cũng thay đổi theo, dân chủ hóa phát triển, quyền lực từ chỗ bị giới tài phiệt nắm giữ và chi phối (thời kỳ đầu của CNTB) sẽ chuyển sang thuộc về nhân dân. CNTB hiện đại đã xuất hiện theo con đường như vậy. Chính điều này đã góp phần quan trọng nhất để CNTB không còn là nó như vốn có trước kia, mà trở thành CNTB hiện đại ngày nay – đã khác rất nhiều, đã khác căn bản về chất so với CNTB thời K. Marx sống và viết Tư bản luận. Nói cách khác, CNTB dần dần không còn là CNTB nữa, mà chính nó đã tiến gần đến CNXH. Trong khi đó, tại các nước định hướng XHCN, trong đó có VN, kinh tế (doanh nghiệp) nhà nước rất kém hiệu quả, phần lớn đã thua lỗ kéo dài, lãi thì bị đem phân chia, nhưng lỗ thì nhà nước gánh chịu, nợ nần chồng chất, tham nhũng nhiều, mất tiền, mất cán bộ và mất lòng tin. Khác hẳn kinh tế nhà nước, trong nội bộ kinh tế tư nhân, vấn đề tham nhũng của doanh nghiệp sẽ bị triệt tiêu, tiết kiệm và chống lãng phí cũng sẽ tốt hơn nhiều. Việc thất thoát của các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua cũng đã lên tới nhiều trăm ngàn tỷ đồng. Riêng điều đó cũng đã chứng tỏ kinh tế nhà nước nhìn chung kém xa so với kinh tế tư nhân về mặt hiệu quả kinh tế. Tôi cũng không rõ tại sao lại có tài liệu đánh giá là kinh tế nhà nước có hiệu quả tốt? Theo chỗ tôi biết thì mấy năm trước đã có ý kiến phân tích rằng, doanh nghiệp nhà nước có lúc đã chiếm giữ phần lớn nguồn lực chủ yếu của quốc gia nhưng mới tạo ra phần ít GDP, còn kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm phần ít nguồn lực nhưng lại tạo ra phần lớn GDP? Nếu tư liệu đó là đúng thì hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước là rất thấp so với ngoài quốc doanh. Thực tế về tình hình và kết quả hoạt động kinh tế những năm qua cho thấy, không thể tiến lên CNXH bằng việc tạo ra chế độ công hữu về tư liệu sản xuất theo ý muốn chủ quan, cùng với việc lập ra nhiều doanh nghiệp nhà nước các loại để trực tiếp quản lý các nguồn tài nguyên và hoạt động với cơ chế ưu tiên hơn các thành phần kinh tế khác. Mà CNXH chỉ có thể là kết quả tất yếu của một nền kinh tế thị trường, mà trong đó kinh tế tư nhân phát triển rất cao, đến mức vượt qua giới hạn của chính mình để trở thành kinh tế cổ phần và sở hữu xã hội, cộng với một nền văn hóa giàu tính nhân văn và một nền chính trị thật sự dân chủ.
           Đại hội XI của Đảng CSVN khi nói về đặc trưng của CNXH, đã điều chỉnh từ chỗ nhấn mạnh vai trò của “công hữu” về tư liệu sản xuất (trước đó) sang quan hệ sản xuất “tiến bộ phù hợp”. Nói quan hệ sản xuất “tiến bộ phù hợp” thì không sai, nhưng vẫn còn rất trừu tượng, chưa đủ rõ và không ít khó khăn trong chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên, việc không nói đến “công hữu” trong đặc trưng của CNXH là một bước tiến đáng kể trong đổi mới tư duy. Đại hội XII tiếp tục phát triển tư duy theo hướng tiến bộ, khẳng định kinh tế tư nhân có vai trò “quan trọng” trong xây dựng và phát triển đất nước. Nói kinh tế tư nhân có vai trò “quan trọng” là vừa phải, xét theo tư duy chính trị trong hoàn cảnh cụ thể của nhận thức chung, nhưng cũng là chưa đủ, xét theo tư duy kinh tế. Tôi nghĩ, kinh tế tư nhân ở VN rất cần và tất yếu sẽ phát triển lâu dài, mãi mãi, không giới hạn về thời gian và quy mô. Hoàn toàn có thể khẳng định rằng, kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ và lành mạnh sẽ là động lực quan trọng hàng đầu để cho đất nước phát triển, chẳng những không sợ chệch hướng mà ngược lại sẽ là con đường chính, con đường chủ yếu để đi đến CNXH. Chắc mới nghe qua nhiều người sẽ cảm thấy như “ngược đời” hoặc cho là có sự “nhầm lẫn” hay “chệch hướng” nào đó. Nhưng không! Đó là ý kiến nghiêm túc và có trách nhiệm, chứ không nhầm lẫn gì đâu. Vì rằng, kinh tế tư nhân sẽ đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội-chính trị lớn hơn nhiều, so với doanh nghiệp nhà nước, xét trên nhiều phương diện. Như phần trên đã nói, doanh nghiệp nhà nước đã làm mất lòng tin quá nhiều, mất gần như đa phần rồi, mặc dù vẫn còn một số ít doanh nghiệp có hiệu quả, nhưng không thể bù lại được sự mất mát quá lớn đã xảy ra. Các năm gần đây nhiều dự án làm mất đi nhiều ngàn tỷ đồng đã hủy hoại lòng tin của dân chúng đối với các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước. Gần đây, với sự kiên quyết hơn trong chống tham nhũng của Bộ Chính trị và Chính phủ được nhiều cán bộ đảng viên và nhân dân hoan nghênh đã bắt đầu khôi phục một phần lòng tin, dù chưa nhiều nhưng quan trọng. Tuy nhiên, đó mới là lòng tin về chính trị, còn lòng tin đối với doanh nghiệp nhà nước thì vẫn không trở lại. Từ lòng tin đối với doanh nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến lòng tin đối với nhà nước. Để mất lòng tin thì sẽ làm hỏng và sụp đổ nền tảng chính trị. Mất lòng tin là mất tất cả. Trong kinh tế có quy luật rằng: Khi đạt hiệu quả cao mới có thể tái sản xuất mở rộng nhiều, tức là mới có thể phát triển mạnh. Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ phát triển mạnh mẽ nhất khi nó gắn với kinh tế tư nhân. Mà kinh tế thị trường trong CNXH chỉ có thể là sự tiếp nối kinh tế thị trường trong CNTB, chứ không thể nảy sinh từ “ý chí chủ quan”. CNXH nhất thiết phải là kết quả của một sự phát triển cao và bền vững về kinh tế, và từ đó, tạo điều kiện tác động tới (và tác động trở lại) để có một nền văn hóa giàu tính nhân văn. Phát triển mới là con đường đúng nhất đi đến CNXH. Giáo điều và duy ý chí không thể đến được CNXH thực chất, thậm chí sẽ ngày càng  chệch hướng xa hơn và khủng hoảng. Các nước Bắc Âu đã tiến đến gần với CNXH, họ đã chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi tác động tư tưởng của quốc tế XHCN mà trước đây Liên-xô và phe XHCN đã từng nhiều lần lên án và ghép vào “chủ nghĩa xét lại”, trong khi đó, mô hình mà Liên-xô và các nước Đông Âu lựa chọn thì đã thất bại và sụp đổ trên thực tế. VN, TQ và Cu-ba thì còn quá xa để có thể tới được CNXH, thậm chí nếu không đổi mới một cách căn bản thì khó mà đến được CNXH.
          Để kinh tế tư nhân ở nước ta có điều kiện phát triển mạnh mẽ, cần tập trung giải quyết vấn đề bình đẳng thật sự giữa kinh tế tư nhân với kinh tế và doanh nghiệp nhà nước, giữa doanh nghiệp vốn trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giữa doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn, đồng thời có chính sách trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa; tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh và khởi nghiệp, không tham nhũng, tiêu cực và “lợi ích nhóm”; bảo vệ lâu dài quyền sở hữu tài sản cá nhân và sở hữu trí tuệ.
          Chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn, thuộc về tư duy đổi mới. Trong cổ phần hóa có hai yêu cầu chính yếu: Thứ 1, phải hướng đến một năng suất và hiệu quả cao hơn. Thứ 2, tạo ra sở hữu xã hội. Chính yêu cầu thứ hai là sự phân biệt giữa cổ phần hóa và tư nhân hóa. Nếu nhân danh “cổ phần hóa” để rồi thực hiện tư nhân hóa mà gây thiệt hại cho nhà nước và làm lợi cho một số cá nhân trong “nhóm lợi ích” thì quả là sai lầm lớn. Nói vậy không phải xuất phát từ định kiến với tư nhân hóa. Nhưng cái gì nó phải ra cái đấy, cần minh bạch rõ ràng. Nhà nước có thể bán doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân, vẫn tốt, không sao cả. Đó là tư nhân hóa. Còn cổ phần hóa thì phải đúng là cổ phần hóa, để góp phần hình thành kinh tế cổ phần và sở hữu xã hội. Doanh nghiệp nhà nước nào nên cổ phần hóa và doanh nghiệp nhà nước nào nên tư nhân hóa là một bài toán mà lời giải của nó phải xuất phát từ cơ sở khách quan, khoa học, gắn với tư duy đúng về quản trị doanh nghiệp và nhất là mục tiêu phát triển hiệu quả, chứ không phải là suy nghĩ chủ quan, càng không phải “lợi ích nhóm”. Để có thể phân loại và có hướng xử lý đúng, cần có một số tọa đàm khoa học để thảo luận.
Hà Nội đầu tháng 5.2017
V.N.H.

9 tháng 5, 2017

Nguyễn Hồng - Vài lời với Tân Bí thư Nguyễn Thiện Nhân

Có lẽ nghe dân tình nhao nhao sửng sốt phản đối bà "phong nhũ phì đồn" về làm tổng trấn Sài Thành, thấy dư luận coi bộ không thuận, sợ chuyện nội bộ đang hồi rực lửa hội nghị Trung Ương 5 thêm bung bét gây mối nguy tao loạn, ông Cả Trọng và các mưu sĩ của ông bèn đổi ý, đưa "anh bạn cũ" của thầy giáo "người đương thời" Đỗ Việt Khoa về trấn nhậm thay.

15 năm về trước, thời còn đầy ngu muội, tôi từng thần tượng con trai ông Giáo Sư Bác Sĩ Nguyễn Thiện Thành cựu giám đốc bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện Vì Dân cũ) quá trời khi ảnh làm Phó Chủ tịch thường trực Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hồ Chí Minh. Với một thằng trai mới lớn, có ước mong học hành lên cao cho bớt ngu si thì cái profile học tập và "nghiên cứu khoa học" của anh Nhân đã từng làm tôi choáng ngợp.

Tuy nhiên, sau "màn trình diễn" chống tiêu cực nơi học đường để lấy điểm lúc mới chân ướt chân ráo về Bộ Giáo Dục & Đào Tạo nhưng rồi "bỏ rơi" "người bạn" Đỗ Việt Khoa, làm thầy Khoa bị bọn giáo chức khốn nạn "đánh hội đồng" tới mức phải bỏ nghề về mở tiệm internet mưu sinh qua ngày, và nhất là khi càng nhận thức sâu thêm về cơ chế vận hành của hệ thống cai trị của chế độ cộng sản thì "thần tượng" Nguyễn Thiện Nhân ngày nào trong tôi sụp đổ tan tành. Tôi nhận ra, một cá nhân dù có giỏi đến đâu, dù đạo đức cao vợi thế nào, nhưng nếu ở trong "tổ quỷ" lâu ngày rồi thì cũng phải thỏa hiệp để tồn tại, và như vậy dần biến chất đến mất chất. Nếu có tỉnh táo cố gắng giữ mình lương thiện để không hại dân hại nước thì sẽ chẳng làm được việc gì ra hồn, còn nếu dụng tâm chứng tỏ "năng lực", leo cao luồn sâu trong bộ máy cai trị ấy thì chẳng chóng thì chầy, hắn sẽ tha hóa.

"Đến năm 2010 toàn bộ giáo viên có thể sống được bằng lương", lời hứa ấy thầy còn nhớ không thầy Nguyễn Thiện Nhân? Hay đến tận hôm nay nhiều giáo viên, nhất là vùng sâu vùng xa, vẫn phải nai lưng quần quật làm thêm nghề phụ để còn có thể giữ lửa trong lòng mà không bỏ nghề? (xem: http://thanhnien.vn/…/nam-2010-giao-vien-co-the-song-duoc-b…; http://tuoitre.vn/…/nam-2010-giao-vien-song-duo…/353434.html)

Đề án "Kiên cố hóa trường học" của thầy tới đâu rồi, các em học sinh vùng cao không còn phải chịu cảnh lớp học gió lùa hay đến tận hôm nay (2017) vẫn quá nhiều em phải học trong những phòng học còn tồi tàn hơn cả chuồng lợn? (http://www.baomoi.com/de-an-kien-co-hoa-giai-…/c/8983930.epi)

Khi bỏ của chạy lấy người qua làm Phó Thủ tướng chính phủ rồi sau đó là Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc, quăng lại bãi chiến trường cho ông Phạm Vũ Luận lãnh đủ để đến hôm nay cái "mặt trận giáo dục" của nước nhà vẫn trong tình trạng vỡ trận, thầy làm được gì trên cương vị mới? Mặt Trận Tổ Quốc của thầy có nói giùm tiếng nói bức xúc của người dân về bao nhiêu chuyện đau đớn hôm nay? Thầy Nhân và hệ thống mặt trận của thầy làm được gì, nói lên tâm tư gì cho nhân dân trong thảm họa ô nhiễm biển miền trung do Formosa Hà Tĩnh gây ra? Hay chỉ biết im lặng và nói theo chỉ đạo? Biển đảo mất dần, lệ thuộc Tàu Khựa trên mọi phương diện, thầy có thấy không? Thảm họa điều hành kinh tế thị trường "định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa" dẫn đến nền kinh tế nước ta nát như tương bần hôm nay, một giáo sư kinh tế như thầy sao lại im lặng? Còn nhiều điều tăm tối, tôi chán không muốn bươi thêm nữa.

Thưa thầy Nguyễn Thiện Nhân, à không người thầy Nguyễn Thiện Nhân đã chết trong tôi, thưa ông Tân Bí thư Nguyễn Thiện Nhân:

Dù học hành rất nhiều, được đào tạo bài bản ở những ngôi trường uy tín Âu Mỹ, giảng dạy trồng người cũng nhiều năm ở Đại học Bách Khoa Tp. HCM, tham gia chính trường đã lâu và cũng "sâu", nhưng ông không hề là một "kẻ sĩ" ông ạ. Cái "chất" cộng sản trong con người ông và cái truyền thống cộng sản của gia đình ông đã làm ông mãi mãi dừng lạ ở mức chỉ là một kẻ có học mà không phải một trí thức.

Ông vẫn chỉ là một "người cộng sản" chứ không phải "người lương thiện" như ý nghĩa cái tên "Thiện Nhân" cha mẹ đặt cho ông. Vì sao ông biết không? Vì không có "người cộng sản tốt" đâu ông; Chỉ có người tốt chọn nhầm cộng sản và khi đã chọn nhầm thì sớm muộn cũng thành người không tốt. "Người cộng sản tốt" chỉ khi người ấy chết đi vì chết rồi thì mới hết làm điều xấu.

Liệu ông có dám làm người tốt, một "thiện nhân" khi vẫn còn sống? E là không rồi vì người cộng sản vô thần như ông thì làm sao hiểu được lời Phật dạy: quay đầu là bờ.

Nguyễn Hồng

(FB Nguyễn Hồng)

Một khía cạnh khác giấu kín của Đinh La Thăng: vi phạm nhân quyền.


Rất nhiều khả năng ông Đinh La Thăng bị đảng kỷ luật và còn có thể phải ra tòa là do cuộc xung đột quyền lực và lợi ích. Nhưng bài viết này chỉ đề cập một khía cạnh giấu kín của Đinh La Thăng: vi phạm nhân quyền.

Cũng là lời cảnh báo cho đời bí thư sắp tới ở Sài Gòn…


Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng.
 Hai thái cực trong “tâm lý học Đinh La Thăng”

Mùa xuân năm 2016 khi mới chân ướt chân ráo lên mặt báo “từ nay tôi sẽ dành toàn tâm toàn ý cho TP.HCM”, có lẽ tân ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng chỉ muốn tìm một “bãi đáp” an dưỡng sau thời quẫy vùng các dự án béo bở ở Tập đoàn Dầu khí quốc gia và các gói thầu béo bở không kém thời làm bộ trưởng giao thông vận tải sau đó.

Để nếu quan lộ thuận lợi và thiên hạ vẫn ở thế “chia hai,” Đinh La Thăng sẽ đương nhiên trở thành “thủ lĩnh Nam Bộ” với Sài Gòn là trung tâm của các trung tâm.

Hẳn đó là nguyên cớ sâu xa mà đã khiến tân Bí Thư Thăng trở nên náo nhiệt trên mặt báo còn hơn cả thời điều hành Bộ Giao thông Vận tải, nhằm mau chóng tiến chiếm yếu tố “nhân hòa” sau khi đã có được “địa lợi” ở miền Nam.

Duy có điều thật khó hiểu: trong lúc không hề sượng sùng tuyên ngôn “vì dân và hành động” và tìm cách lấy lòng giới cán bộ lão thành, có công cách mạng, trí thức và cả những người dân thường, Đinh La Thăng lại tuyệt đối không nhân nhượng với giới hoạt động nhân quyền ở Sài Gòn trong suốt gần một năm rưỡi từ khi ông nhậm chức bí thư thành ủy đến nay.

Thậm chí thời Đinh La Thăng còn qua mặt và vượt hẳn cả bí thư thành ủy cũ là Lê Thanh Hải cùng đương kim bí thư thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải về “thành tích” ném mắm tôm, đánh đấm và bắt bớ nhân quyền.

Ban đầu, một số người còn mơ màng về “Thăng có xu hướng cải cách”, “Thăng là người cấp tiến”, hay cao độ là “Thăng thân Mỹ”. Một số trí thức và cán bộ đương chức lại cho rằng quyết định của Bộ Chính trị điều động ông Đinh La Thăng vào Sài Gòn là “quá giỏi về mặt tổ chức”. Một số trí thức khác tỏ ra hy vọng ông Thăng có thể trở thành một nhà kỹ trị để giúp thành phố giàu nhất nước trở về “Hòn ngọc Viễn Đông”…

Nhưng chẳng bao lâu sau, những nhà hoạt động nhân quyền và xã hội dân sự “mê” và từng góp sức tung hô hy vọng về Đinh La Thăng đã phải vò đầu bóp trán: vì sao một người muốn và phải tìm cách mị dân như Thăng lại quay ngoắt với dân chủ nhân quyền một cách cực đoan đến như thế? Giải thích ra sao về “tâm lý học Đinh La Thăng”?

Chuỗi “thành tích” có hệ thống

Chỉ ít ngày sau khi Đinh La Thăng về “trấn” ở TP.HCM, một trong trong những địa chỉ đầu tiên mà ông Thăng đến “ủy lạo” là Công an TP.HCM. Cuộc làm việc như thể “người thân gặp lại”. Chủ đề gặp gỡ này được báo ngành công an nhấn mạnh về “phải bảo đảm an ninh trật tự cho thành phố”.

Để ngay sau đó, vào ngày 19/1/2016 tưởng niệm 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh để bảo vệ Trường Sa năm 1974, hàng trăm người bị đàn áp, bị đánh đập, bị cấm ra khỏi nhà ở Sài Gòn. Công an TP.HCM lao vào đám đông và giật phá tan nát vòng hoa tưởng niệm ở Sài Gòn. Trong khi đó, Công an Hà Nội đã chỉ quan sát lễ tưởng niệm hy sinh vì Trường Sa của hàng trăm trí thức và người dân Hà Nội tại tượng đài Lý Thái Tổ.

Một tháng sau, 17/2/2016 - ngày tưởng niệm 6 vạn quân nhân và người dân Việt Nam đã hy sinh trong Chiến tranh vệ quốc 1979 chống Trung Quốc xâm lược - cuộc dâng hoa thắp nhang thắm đượm lòng yêu nước của giới trí thức Sài Gòn tại tượng đài Trần Hưng Đạo lại một lần nữa bị công an thành phố này đàn áp và ngăn chặn thô bạo. Rất nhiều người khác đã bị lực lượng an ninh huy động số đông chặn ngay tại nhà. Một số khác còn bị công an đánh đập thẳng tay.

“Không cho đi vì là ngày kỷ niệm chiến tranh biên giới Việt - Trung” - công an tuyên bố không giấu diếm. Những nhân viên an ninh còn huỵch toẹt: “Đây là lệnh của chính quyền TP. HCM”.

Song trong lúc chính quyền và giới công an TP. HCM tỏ ra mẫn cán đến mức khó hiểu và “vì dân và hành động” mà khó có thể được hiểu khác hơn là “bảo vệ Trung Quốc”, cuộc tưởng niệm 17/2 ở Hà Nội đã diễn ra yên bình. Chỉ có một nhóm nhân viên an ninh đứng xung quanh và cũng chỉ làm nhiệm vụ ghi hình.

Lần đầu tiên, cái tên Đinh La Thăng đã bị người dân và trí thức réo lên phản đối.

Nhưng cho dù ngay sau ngày 17/2/2016, một bức thư ngỏ gửi Bí thư thành ủy Đinh La Thăng đã được 61 trí thức cùng ký tên, vừa thống thiết vừa cảnh báo với ông Thăng trước hình ảnh chà đạp thẳng chân lên nhân quyền và dân chủ tại một thành phố chưa bao giờ thuộc về Hà Nội, Đinh La Thăng đã không hề hồi đáp.

Từ đó đến nay, tất cả các cuộc tưởng niệm chiến tranh biên giới 1979, Trường Sa, Hoàng Sa, Gạc Ma được giới nhân quyền tổ chức ở Sài Gòn đều bị Công an TP.HCM thẳng tay ngăn chặn và đàn áp.

Nhưng trong bảng vàng thành tích của Công an TP. HCM và Bí thư Đinh La Thăng, trận đàn áp cuộc biểu tình vì môi trường vào ngày 8/5/2016 mới cần được gạch dưới như một đỉnh cao chói lọi: lực lượng ăn thuế của dân đã bắt đến 500 công dân biểu tình nhốt tại sân vận động Hoa Lư. Chẳng có gì là chứng cứ của “thế lực thù địch”. Chỉ toàn dân ra biểu tình. Rất nhiều gương mặt mới xuất hiện: kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, có cả giám đốc ngân hàng.

Ngày hè đỏ nắng và đỏ máu ở Sài Gòn. Khắp trung tâm thành phố này là cảnh “các lực lượng bảo vệ trật tự” nhe nanh lao vào hành hung không thương tiếc người biểu tình. Xịt hơi cay, đánh đập đến đổ máu rất nhiều người, đấm đá đến ngất xỉu hai mẹ con tuần hành như một cách kỷ niệm “Ngày của Mẹ”… Một số hình ảnh đã được xác minh: chính những nhân viên công an đã hóa trang làm thanh niên xung phong để tấn công dã man người biểu tình.

Cùng thời điểm trên, những người biểu tình vì môi trường ở Hà Nội bị tống lên xe bus và đưa về “giam” tại một số trụ sở công an phường. Nhưng thông tin về người biểu tình bị đánh đập ở Hà Nội lại ít hơn hẳn ở Sài Gòn.

Đây là cuộc đàn áp bất thường, rất bất thường của Công an “thành phố mang tên Bác”. Trận đàn áp đẫm máu này ngay lập tức đã được các hãng thông tấn và báo chí quốc tế chú ý và loan tin. Lần đầu tiên, tên của Bí thư Thăng xuất hiện trên mặt báo nước ngoài không phải như một “hiện tượng kỹ trị”, mà một cách gián tiếp bị coi là “thủ phạm đàn áp nhân quyền”.

Cũng là một hiện tượng rất đáng được phân tích về tâm lý hành vi và động cơ chính trị của Công an TP.HCM, đặc biệt dưới thời Đinh La Thăng.

Hiện tượng trên tất dẫn đến một câu hỏi rất quan trọng về “chính trị nội bộ”: Vì sao Công an TP. HCM lại quá mẫn cán trong việc bắt bớ người bất đồng chính kiến, đàn áp và đánh đập người dân biểu tình tàn bạo hơn Công an Hà Nội, trong khi Sài Gòn vẫn luôn được xem là đất Nam Bộ có khí chất hiền hòa, ít xảy ra xung đột giữa chính quyền và dân chúng như khu vực miền Bắc và miền Trung?

Lời giải về Đinh La Thăng

Đã không có được lời giải thỏa đáng cho câu hỏi trên, cho tới tháng Tư năm 2017 bất ngờ tung tóe vụ Bí thư Đinh La Thăng bị Ủy ban Kiểm tra trung ương đề nghị kỷ luật đảng. Mãi đến lúc này, rất nhiều người mới biết rằng Đinh La Thăng là “người của anh Ba Dũng”, và việc ông Thăng được đưa vào “trấn” tại TP.HCM rất có thể dựa theo một thỏa thuận ngầm giữa ông Nguyễn Tấn Dũng với ông Nguyễn Phú Trọng ngay trước Đại hội 12 vào đầu năm 2016.

Cũng đến lúc này, lời giải hợp lý nhất cho câu hỏi trên thêm một lần nữa được củng cố tính xác cứ của nó: yếu tố đấu đá phe phái chính trị trong nội bộ đảng cầm quyền luôn tác động không nhỏ đến sự an nguy của các tổ chức dân chủ nhân quyền và phản kháng của người dân.

Sau Đại hội 12, “anh Ba Dũng” đã “về vườn”. Nhưng nhiều dư luận cho rằng “dây” của cựu thủ tướng này vẫn còn tại một số địa phương, trong đó có TP. HCM. Có dư luận còn khẳng định rằng Công an TP. HCM thuộc về cái “dây” ấy, mà trừ một số nhân vật cùng đệ tử được hưởng “lợi ích” đầy đủ, đại đa số an ninh và cảnh sát đàn áp biểu tình ở TP. HCM đã vô hình trung bị biến thành công cụ cho ý đồ “bắt nhân quyền làm vật hy sinh” đã được thực hiện trong suốt một thời gian dài.

Nhưng bất kể những thông tin trên có độ xác thực đến mức nào, hậu quả về “uy tín đối ngoại” phải nhận lãnh luôn “đánh” thẳng vào các nhân vật Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Xuân Phúc.

Không ai quên cuộc đối đầu lịch sử giữa Nguyễn Tấn Dũng với Nguyễn Phú Trọng. Mãi cho đến ngày nay…
Đến lúc này, đã rõ Đinh La Thăng chính là nhân vật “vì dân và hành động” như thế nào. Sự thật không thể chối bỏ là trong suốt thời gian từ ngày nhậm chức bí thư thành ủy TP HCM, ngoài những năng lực vụn vặt như “mua sữa cho dân”, làm đường cho Mẹ Việt Nam Anh Hùng, mị dân đến mức hoang tưởng như “TP.HCM phấn đấu có giải Nobel y học”, nhưng lại hoàn toàn thiếu tầm và đặc biệt sút kém về công tác tổ chức nhân sự, công trạng lớn nhất của Đinh La Thăng là góp một bàn tay vào trận đòn trấn áp trí thức và người dân, đặc biệt nhắm vào những người yêu nước chỉ không muốn chế độ cầm quyền trở nên “người ta lớn bởi vì mi quỳ xuống” trước Trung Nam Hải.

Hành vi thông đồng của Đinh La Thăng với Công an TP.HCM nhằm đàn áp nhân quyền một cách có chủ ý, có hệ thống và dã man đã để lại quá nhiều hậu quả cho đến giờ này.

Chia tay Đinh La Thăng, không có gì tiếc nuối. Chỉ như lời vĩnh biệt một kẻ thông đồng bắt nhân quyền làm vật hy sinh mà thôi.

Phạm Chí Dũng

(VOA)

7 tháng 5, 2017

Chu Mộng Long: QUAN CHÚNG TA VÀ DÂN (CHÚNG NÓ)


Chu Mộng Long

QUAN CHÚNG TA VÀ DÂN (CHÚNG NÓ) 

Để tự chống lại sự quá khích, tôi phải bỏ vào ngoặc đơn từ "chúng nó", vì từ này không xuất hiện trong câu nói của người phát ngôn của Chính phủ. Song le, như một đối lập nhị nguyên của đại từ xưng hô, đã tự xưng "chúng ta" thì ngôi thứ ba ắt hẳn là "chúng nó". "Chúng nó" ấy là dân.

Vì đối lập nên trong cửa miệng có gang có thép của ngài mới vang ra một cách hùng hồn: "Nếu chúng ta sai, chúng ta nhận lỗi trước dân. Nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật!"

Mặc dù Hiến pháp và Pháp luật nói, và ông cũng nói, mọi công dân đều bình đẳng, nhưng hai giả thiết trong lời nói trên không thể bình đẳng. Bởi ở đó, "chúng ta" không bị bất cứ một sự ràng buộc nào về mặt pháp lí - xin lỗi là một hành vi tự giác - trong khi "chúng nó" không thể thoát khỏi chiếc gông pháp lí gông thẳng vào cổ.

Vậy là lời cam kết của ông chủ tịch thành phố Hà Nội có khả năng bị vô hiệu hóa, bởi chiếc gông pháp lí kia có sức nặng hơn vạn lần mọi lời cam kết, mặc dù lời cam kết ấy không phải lời nói gió bay!

Nôm na, lời tuyên bố có gang có thép trên kia có khả năng thành một bản án cho dân Đồng Tâm. Bởi lẽ, điều tra làm rõ sự vụ không phải là một cơ quan độc lập mà là của "chúng ta", do "chúng ta", vì "chúng ta"!

Sau cuộc hòa giải mà tôi hân hoan khái quát trong bài viết trước là cả hai đều thắng, thì đến đây đã thấy rõ "chúng nó" phải thua và "chúng ta" có quyền chụp lấy chiếc gông trên cổ "chúng nó"!?

Vậy là huyền thoại “chính quyền của dân, do dân, vì dân”, hay nói giản dị theo cụ Hồ: “cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân” đã bị cái miệng có gang có thép kia xé toạc ra để phơi trần sự thật bên trong. Rằng quan hệ giữa chính quyền với nhân dân là quan hệ giữa “chúng ta” và “chúng nó”. Thảo nào, mỗi khi xảy ra đấu tranh, kiện tụng hay biểu tình là lập tức “chúng ta” quy tội “chúng nó” là “thù địch”!

Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa. Chợt nhớ Kinh Thánh ghi nhận ngôn ngữ mà Chúa cho con người vừa giúp con người tách lọc thế giới trong mớ hỗn độn thành có trật tự, nhưng cũng chính ngôn ngữ lại vừa gây xung đột đến sụp đổ cả tháp Babel. Từ đây, phải chăng cộng đồng Việt vốn là một khối thống nhất “đại đoàn kết” theo tinh thần của cụ Hồ đã bị chia rẽ thành hai nhóm người với hai loại ngôn ngữ khác nhau để miệt thị nhau: ngôn ngữ “chúng ta” và ngôn ngữ “chúng nó”.

Cán bộ sinh ra từ nhân dân, nhưng lời nói có gang có thép của quan đã lộn ngược vị thế. “Chúng ta” là cái bản thể sinh ra “chúng nó” – Cái Khác (The Other) – hóa ra là quan phụ mẫu đẻ ra con dân và dân phải mang ơn quan đời đời. Và như vậy, lời xin lỗi trong cái câu điều kiện mà quan trên đã nói là một thứ giả định không bắt buộc và không bao giờ xảy ra.

Cám ơn quan "chúng ta" đã cho dân "chúng nó" thấy được sự thật sau gần cả thế kỉ sống trong huyền thoại!

Não nùng thay!

Người thông minh chắc chắn cả đời sẽ không nói 4 câu này



Người xưa nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, ý tứ vốn không phải khuyên người ta nói năng khéo léo, lấy lòng người khác. Nguyên do chủ yếu là lời nói quả thực có thể hại người khôn lường. Người thông minh thường tự biết tiết chế lời nói của mình. Về cơ bản, họ sẽ không bao giờ nói ra những điều dưới đây. 
1. Không nói lời thị phi, nói xấu sau lưng người khác 
Nói lời thị phi đã là không nên, nói lời thị phi sau lưng người khác lại càng là hành động khó chấp nhận hơn. Người xưa coi kẻ gièm pha, khích bác, “thọc gậy bánh xe” như vậy là hạng tiểu nhân nhỏ mọn. Thực ra hạng người này ở thời đại nào cũng có. Đó là những kẻ thích lấy chuyện không tốt của người khác ra để mua vui, hoặc thêm mắm, thêm muối, hoặc dựng chuyện, đơm đặt. Dù là cách thức nào cũng chính là dùng miệng lưỡi xảo quyệt, gian ngoa mà hại người, ngậm máu phun người.
Người thích nói xấu sau lưng chắc chắn sẽ không có nhiều bạn bè. Bởi vì họ luôn bán đứng bạn bè. Họ cũng đang không ngừng tạo ra “khẩu nghiệp”, ác nghiệp. Phật gia giảng những người mang nhiều khẩu nghiệp khi còn sống khi xuống địa ngục sẽ phải hoàn trả rất ghê gớm. Ngoài ra, ở kiếp sau, họ cũng phải gánh chịu tất cả nghiệp chướng mà bản thân mình đã gây ra.

Ảnh qua: Mystown.com
Người xưa nói: “Thiện ý một câu ấm ba đông. Lời ác lạnh người sáu tháng ròng“. Lời nói xấu cũng mang theo năng lượng không tốt, có thể thực sự như là “giết người không dao”. Một lời vu khống có thể kết hàm oan cho kẻ khác, thậm chí lấy đi tính mạng của họ. Điều ấy là hoàn toàn có thực.
Mỗi người đều có một con đường để đi, một cuộc đời để sống, là tốt hay xấu, phúc hay hoạ cũng đều là tự mình đối diện, tự mình gánh chịu. Cớ chi phải bàn tán, lời ra tiếng vào khi ai đó phạm sai lầm, hoặc giả gặp chuyện phiền phức? Cứ mải săm soi kẻ khác, rồi có khi người kia lãng quên, bỏ bê ngay chính cuộc đời mình. Như vậy liệu có phải là cách sống của kẻ thông minh được chăng?
Đã là người thông minh, hiểu đời thì hầu như đều rất minh bạch được việc nào nên làm, lời nào nên nói, có thể điều chỉnh, dàn xếp tốt các mối quan hệ, chuyển thù thành bạn, kết giao rộng rãi, bao dung, độ lượng. Có như thế mới gặp dữ hoá lành, biến hoạ thành phúc mà cũng tích được phúc báo cho con cháu đời đời về sau.
2. Không nói lộng ngôn ngông cuồng

Ảnh qua: qtcs.com.vn
Lộng ngôn là những lời nói trong lúc cao hứng mà sinh ra. Người nói lời lộng ngôn ngông cuồng thường là kẻ tự phụ, ỷ vào cái gọi là sở trường, tài năng của mình, vốn đã coi người khác bằng nửa con mắt từ lâu. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng những kẻ tự phụ thường chịu nhận kết cục đau thương nhất.
Cổ nhân giảng, kẻ khôn thực sự lại thường giả ngu ngơ. Và chuyện “Thùng rỗng kêu to” là rất phổ biến. Kẻ không có thực tài thường chỉ mạnh miệng bề ngoài, chỉ là lấy khẩu khí để lấp đầy sự thiếu hụt của trí tuệ và tài năng.
Nói lời ngông cuồng cũng thường là bước đầu tiên dẫn người ta đến việc làm điều ngông cuồng. Họ có thể nói ra được lời lẽ lộng ngôn thì cũng hoàn toàn đủ gan làm những chuyện tày trời, bất chấp. Như thế không thể gọi là người thông minh được.
Bởi người thông minh luôn biết giấu cái tài năng của mình bên trong, thường không thể hiện ra ngoài, đặc biệt là qua lời nói. Người thông minh hiểu rằng hiển thị tài năng chỉ là chuốc thêm rất nhiều sự đố kỵ, ghen ghét của người đời. Ở một phương diện khác, bậc quân tử thường giữ được phong thái trầm tĩnh, vui buồn không để lộ ra ngoài và có thể nhún mình, nhường nhịn người khác mà thu phục nhân tâm.
Một người đã ở cảnh giới cao thường xét đoán sự việc khác hẳn. Kẻ tiểu nhân thường tranh hơn nhau khẩu khí, còn bậc quân tử chỉ cần dùng hành động để chứng minh trí tuệ của mình. Đó là hai việc hoàn toàn khác nhau vậy.
3. Không nói chuyện phiếm

Ảnh qua vedepphatphap.vn
Vì để mua vui, tạm quên sầu, nhiều người thường trong lúc nhàn nhã, “trà dư tửu hậu” mà mang chuyện phiếm ra trút bầu tâm sự. Ở một khía cạnh nào đó mà xét thì đó cũng là chuyện bình thường, không có gì quá nguy hại như nói xấu sau lưng hay nói lời ngông cuồng. Nhưng dù không nguy hại, nó cũng không có lợi ích gì.
Chuyện phiếm thường là khởi đầu của những lời nói thị phi. Cổ nhân dạy: “Nhàn cư vi bất thiện” (ý nói nhàn nhã quá thì thường làm chuyện xấu). Cũng như vậy, chủ đề của những câu chuyện phiếm chắc chắn là không đứng đắn, đôi khi là nhằm vào người khác mà đơm đặt, bàn tán. Như vậy, nó chính là nguyên nhân tạo ra những lời thị phi sau lưng người khác như đã nói ở trên.
Người thông minh luôn biết bố trí và sử dụng thời gian của mình hợp lý. Chuyện phiếm khẳng định là tiêu tốn thời gian, là một loại gặm nhấm tư duy người ta. Thay vì thiêu đốt thì giờ vào những chuyện phiếm không đầu, không cuối, người thông minh hoặc trầm tĩnh bên đèn sách, hoặc rèn giũa, tu luyện bản thân, hoặc du sơn ngoạn thuỷ, xem ngắm cảnh tượng, hoặc chăm sóc, phụng dưỡng thân nhân. Nói chung, người thông minh không có thời gian bàn chuyện phiếm.
4. Không nói lời ác nghiệt, oán hận

Ảnh qua: tinhhoa.net
Khi gặp chuyện không vừa ý hoặc cảm thấy bị đối xử bất công, người ta thường có xu hướng thất vọng, phàn nàn, thậm chí buông lời oán hận. Một khi đã oán thì họ hận tất cả, kể cả là trời đất, Thần Phật. Thực tế, những gian nan, khổ ải mà một người thường mắc phải không có gì là bất công. Phật gia giảng về nghiệp lực luân báo rằng mọi khổ nạn mà con người phải gánh chịu đều là nghiệp báo cho những hành vi, ý nghĩ bất hảo của họ trong đời này hoặc từ kiếp trước. Đã nợ nghiệp mà không muốn trả nghiệp, lẽ nào lại có lý như vậy?
Lời oán hận thường mang theo những năng lượng rất xấu bởi nó xuất phát từ tâm oán trách, đố kỵ, lòng sân hận của người ta. Oán hận sẽ che mờ lý trí của họ, sẽ khiến họ không còn phân biệt được thật giả, đúng sai, phải trái. Như thế, hậu quả gây ra thậm chí còn tai hại hơn. Từ nói lời oán hận, người ta còn có thể gây ra việc ác nghiệp, hại người hại mệnh.
Người thông minh thường có cách ứng xử khác. Đứng trước khổ nạn, gian khó hay sự thua thiệt, mất mát về lợi ích cá nhân, họ đương nhiên không một lời oán trách. Họ biết học cách chấp nhận, học cách thích nghi. Đứng trước sóng gió, bão giông, người thông minh luôn giữ được tâm thái bình hoà, thanh thản. Cũng nhờ thế, họ không bị mê mờ trong oán hận, tầm nhìn lại có thể rộng mở hơn. Chỉ cần có được sự tỉnh táo, mọi khó nạn trong đời họ thảy đều bước qua, đúng hơn là vui vẻ bước qua. Như vậy gọi là:
Nhân sinh một kiếp mỏi mòn
Mê trong dục vọng mãi còn chưa buông
Nghìn năm chẳng thoát khổ buồn
Hỏi đâu là chốn linh hồn tựa nương? 
Hữu Bằng

Những tiếng nói ngược chiều với cụ Tổng

 ( tên cúng cơm của cụ là Lù Chọng Thắng)


Hội nghị TƯ 5 bắt đầu khai cuộc. Vẫn chiếc loa rè của cụ Tổng Trọng ( Lù Chọng Thắng) yêu cầu chấn chỉnh doanh nghiệp nhà nước để tiếp tục đẩy mạnh nền kinh tế thị trường có cái đuôi “định hướng XHCN”, bất chấp khối doanh nghiệp ăn hại khổng lồ này trong bao nhiêu năm đã tha hồ tự tung tự tác, xả láng vay mượn, xả láng đầu tư, đi kèm với hàng trăm nghìn phi vụ của đám quan chức sân sau… làm cho kinh tế cả nước rơi vào vòng xoáy khủng hoảng, triền miên, dai dẳng và mỗi năm một chìm sâu xuống đáy lũ, với những con số nợ nước ngoài tăng chóng mặt, ai nghe cũng kinh hồn.
Trong khi chấn chỉnh doanh nghiệp nhà nước là chuyện ảo tưởng không bao giờ hoặc chưa biết bao giờ mới thực hiện được, thì một mục tiêu cụ thể của Hội nghị TƯ 5 – tuy không nói trắng ra trong lời khai mạc – là xem xét kỷ luật ông Đinh La Thăng, Ủy viên BCT, nguyên Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia PVN trong thời gian 2009-2015 – mà theo nhận định của UB kiểm tra TƯ đảng CS, là người chịu trách nhiệm toàn diện việc thất thoát khổng lồ tiền bạc của Tập đoàn này.



Rất nhiều phản ứng khác nhau đã rộ lên kể từ khi bản đề nghị kỷ luật ông Đinh La Thăng được công bố ngày 27/04/2017. Mới đây nhất là nguồn tin rò rỉ về việc Thành ủy TP HCM có gửi lên Ban bí thư TƯ đảng một công văn “không chấp nhận bản tự kiểm điểm và xin nhận hình thức kỷ luật khiển trách” của ông ĐLT, đi kèm với kiến nghị “không áp dụng hình thức kỷ luật với đồng chí Đinh La Thăng”. Nhưng oái oăm hơn là công văn gửi Ban Bí thư TƯ đảng của Thành ủy HCM lại đồng thời được gửi đến tận tay tất cả các Ủy viên TƯ đảng trong cả nước ngay trước Hội nghị TƯ 5, khiến cho Ban Bí thư TƯ phải lật đật gửi ngay một công văn khác, yêu cầu các Ủy viên TƯ “không bóc bản công văn của Thành ủy HCM” và chuyển ngược lên Ban bí thư, theo nguyên tắc mới là “nơi nhận”. Đúng là ly kỳ. Chứng tỏ, đằng sau một cái án kỷ luật, còn rất nhiều góc khuất. Cũng chứng tỏ, trong thời buổi hỗn mang hôm nay, ý muốn của một người hay vài người, dù quyền lực tối cao, cũng chưa chắc đã thuyết phục được người khác trong cùng phe đảng.

Bauxite Việt Nam không đứng về phía ông Trọng, cũng không tán thành bao che cho tội lỗi của ông Đinh La Thăng. Tuy nhiên theo chúng tôi, bất kỳ tổ chức nào cũng vậy, muốn xử lý kỷ luật một người trong tổ chức, để được tiếng công minh chứ không nhằm thỏa mãn ân oán cá nhân, thì đều phải xem xét công tội của người đó một cách khách quan trên suốt cả một quá trình, sao cho thấu tình đạt lý.

Để bạn đọc hiểu rõ hơn các dư luận trái chiều xung quanh sự việc nóng bỏng về ông Đinh La Thăng hiện đang được các vị Ủy viên TƯ ĐCS trong hội nghị TƯ 5 bàn thảo, ngoài bài viết quan trọng của Kỹ sư Bùi Quang Vơm đăng trên BVN hôm nay, chúng tôi cũng xin đăng lại dưới đây hai ý kiến khác, của các cây bút quen thuộc trong XHDS, có nắm được ít nhiều về một vài mảng công việc ông Đinh La Thăng đã từng phụ trách, cũng như về tác phong làm việc của ông Đinh La Thăng.
                                                                 
                                                                                ***

Trên góc nhìn khác, hiện tượng bất tuân TƯ của Đảng bộ Sài Gòn chứa đựng bản chất bất tín nhiệm Bộ chính trị của đảng bộ cơ sở, nếu không phải chỉ ở Đảng bộ Sài Gòn, thì khủng hoảng chia rẽ đã tới mức tan rã của toàn hệ thống. Tất cả các đảng bộ địa phương đều bất tín nhiệm Ban bí thư? Các quết định của Ban bí thư sẽ không tự động có hiệu lực?

Đảng bộ Sài Gòn, đầu tàu kinh tế cả nước, nơi cọ xát từng ngày với năng lực cạnh tranh quốc tế, nơi mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển và nhu cầu thích ứng của thể chế chính trị luôn bộc lộ lớn nhất và gay gắt nhất. Chính ở đây, đòi hỏi bứt phá, giải phóng khỏi những tư duy giáo điều, lạc hậu, cản trở tiến bộ, là động lực đẩy Đảng bộ Sài Gòn tách xa dần lối mòn tư duy của TƯ, đặc biệt là của Tổng bí thư. Sức ép của mâu thuẫn giữa tăng trưởng với tư duy giáo điều sẽ buộc Đảng bộ Sài Gòn thành nhân tố cách mạng.

Con sóng ngầm từ Sài Gòn đang mở màn sự tan rã không có gì cản được. Hãy nhìn xem toàn cảnh Việt Nam. Nông dân và những cuộc bùng nổ ruộng đất sẽ tiếp tục với trung tâm từ đồng bằng Bắc Bộ. Formosa sẽ là rốn của vùng lũ miền Trung. Công nhân sẽ tiếp tục đốt cháy nhà máy công xưởng Tàu từ khu vực miền Nam. Phong trào tự chủ và tự do tín ngưỡng của đồng bào Công giáo, Phật tử, dân tộc thiểu số Tây nguyên… sẽ tiếp tục lan rộng trên cả nước. Tổng biểu tình tuy không rầm rộ nhưng không tắt, âm thầm chờ lửa, sẽ bùng lên bất cứ lúc nào. Ban bí thư và Bộ chính trị bị cô lập, mất tín nhiệm, mất khả năng kiểm soát.

Nếu sự tan rã của đảng cộng sản đang là hiện tượng có thật, thì một biểu hiện gắn liền với nó có tính quy luật là hiện tượng tập quyền của bộ máy lãnh đạo. Sự hoang mang, hoảng sợ sẽ càng đẩy đảng tới độc tài.

Chúng ta vừa nhắc đến một hiện tượng tập quyền thông qua tiểu xảo, như động tác giành quyền kỷ luật đảng viên của Ban Bí thư bằng cách sửa nghị quyết 46-QĐ/TW năm 2011 thành 30-QĐ/TW năm 2016 một cách mập mờ. Đó là phương pháp «biển thủ» quyền lực một cách vụng trộm. Cũng là một sự «sa đoạ, suy thoái đạo đức».


Chúng ta sẽ chứng kiến cuộc vận động nhất thể hoá sắp tới, tại hội nghị TƯ 6 vào cuối năm. Đảng sẽ tràn sang nắm Chính phủ. Khi không thể kiểm soát được bằng các biện pháp thông thường, ít nhiều được che đậy bằng dân chủ hình thức

Bauxite Việt Nam
________________

Bây giờ là những ngày ngày cuối tháng 4 lịch sử. Lịch sử hôm qua đầy thương đau, và hôm nay cũng không khác mấy…

Đến giờ này, ai cũng biết Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ TP.HCM Đinh La Thăng, đang đứng trước nguy cơ có thể phải nhận một án kỉ luật liên quan đến trách nhiệm của ông khi còn là Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN).

Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, hôm thứ 5 đã kết luận, ông Đinh La Thăng phải chịu trách nhiệm người đứng đầu trong việc góp vốn vào Ocean Bank, việc đầu tư xây dựng các nhà máy xơ sợi, xăng sinh học; chịu trách nhiệm trong việc ban hành chủ trương, quyết định đầu tư dàn trải; thiếu kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các dự án ở thời kỳ làm lãnh đạo PVN, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp…

Trước đó, suốt từ cuối 2016 đến nay, trên facebook, có những cá nhân cho rằng, ông Đinh La Thăng là nguyên nhân gây ra những khoản thất thoát, lãng phí hàng ngàn tỉ đồng, phải chịu trách nhiệm về những dự án đầu tư không hiệu quả, trong đó có dự án đầu tư nhiên liệu sinh học, dự án hợp tác khai thác dầu ở Venezuela.

Việc xử lý ông Đinh La Thăng, đến hôm nay đang ở bước đề xuất xem xét kỉ luật của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Hình thức kỉ luật ra sao sẽ phải chờ Hội nghị Trung ương 5 quyết định bằng bỏ phiếu. Trong trường hợp sau khi có quyết định kỉ luật, ông Đinh La Thăng sẽ rời vị trí Bí thư thành uỷ TP.HCM hay không thì phải chờ Bộ Chính trị họp rồi quyết định. Đến giờ, nhiều thông tin cho rằng, ông Thăng sẽ phải rời vị trí ấy.

Những cơ sở để dẫn đến đề nghị kỉ luật, hầu hết báo chí đã đưa tin đầy đủ. Cũng đã có facebooker thay mặt toà tuyên án Đinh La Thăng. Tôi không lấy mất thời gian của các anh chị đang đọc bài viết này bằng việc nhắc lại những thông tin mà mọi người đều đã biết. Tuy nhiên, tôi sẽ cung cấp thêm một số thông tin mà báo chí và các facebooker khi kết án ông Đinh La Thăng, vì lý do nào đó mà không thông tin chi tiết.

Đầu tiên là về dự án hợp tác khai thác dầu khí ở mỏ Junin-2 tại Venezuela. Vốn đầu tư của dự án khoảng 1,8 tỉ USD, trong đó phía Việt Nam góp 40%. Khi mới chỉ giải ngân được một phần thì dự án phải dừng lại vào năm 2014 do những bất ổn về chính trị, tình hình lạm phát không thể kiểm soát và chênh lệch quá lớn giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen ở Venezuela.

Chính vì phải dừng dự án, chưa biết khi nào có thể thực hiện được nên có ý kiến cho rằng ông Đinh La Thăng phải chịu trách nhiệm về việc chôn tiền ở Venezuela. Thực tế, đây không phải là dự án mang dấu ấn của cá nhân Đinh La Thăng. Khai thác dầu khí ở mỏ Junin-2 chính xác phải gọi là dự án tiêu biểu cho cái gọi là “ngoại giao dầu khí” của Việt Nam với Venezuela.

Cụ thể như sau:

Việc hợp tác khai thác mỏ Junin-2 được ký kết vào ngày 20-11-2008 nhân chuyến thăm chính thức Venezuela của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.

Trong thời kỳ đàm phán để chuẩn bị đầu tư, cứ 2-3 tháng lại có một đoàn của Tổng bí thư (lúc ấy là ông Nông Đức Mạnh), chủ tịch nước, phó Thủ tướng… sang Venezuela và làm việc với đại diện PVN.

Việc đàm phán hợp đồng khai thác Junin-2 không phải chỉ cá nhân Đinh La Thăng hay PVN quyết định, mà [đó là] các đàm phán thuộc tầm Chính phủ. Ông Hoàng Trung Hải lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng đã 4 lần sang Venezuela đàm phán.

Dự án khai thác mỏ Junin-2 cũng đã được Quốc hội phê duyệt. Chủ tịch Quốc hội lúc ấy là ông Nguyễn Phú Trọng bây giờ. Nhiều đại biểu Quốc hội khi ấy giờ chắc cũng nắm những vị trí cao trong bộ máy chính quyền.

Ngày 29-6-2010, hợp đồng thành lập và quản lý công ty liên doanh khai thác và nâng cấp dầu tại mỏ Junin-2 được ký kết tại Venezuela cũng có sự chứng kiến của đại diện Chính phủ Việt Nam là Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, cùng đại [diện] các bộ ngành ngoại giao, công thương, kế hoạch và đầu tư….

Đó chỉ là một trong những ví dụ cho thấy, chỉ nói chung chung việc thất thoát của một dự án với cá nhân ông Đinh La Thăng là chưa đủ, nếu không xem xét đầy đủ các khía cạnh và vai trò của ông Thăng cũng như các cá nhân khác, đặc biệt là phải đặt trong bối cảnh ngoại giao dầu khí.

Quay trở lại đề xuất kỷ luật, ông Đinh La Thăng phải chịu trách nhiệm vì là người đứng đầu. Đây là lần hiếm hoi khái niệm trách nhiệm người đứng đầu được sử dụng quyết liệt.

Với cơ chế được tiêu tiền không phải của mình, thì thật khó để tìm kiếm được một doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả, cũng thật là khó để tìm thấy một doanh nghiệp không làm sai, nếu không có những đặc quyền. Nhưng, dù chúng ta có nói PVN phá hoại, thì cũng phải nhìn nhận thực tế là suốt nhiều năm ròng rã, ngành dầu khí phải làm cả nhiệm vụ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Họ phải gánh cho GDP của cả đất nước này. Ví dụ vào năm 2011, PVN đóng góp tới 26% GDP, và năm 2010 là 24%.

Xin mời quý vị xem Video : [Nóng]Bất ngờ Hội nghị Trung ương 5: Bộ CA trưng bằng chứng TBT Nguyễn Phú Trọng là nội gián của TQ?

                 

Tôi không bình luận gì về việc kỉ luật một quan chức trong hệ thống chính quyền. Trong thể chế chính trị này, khi bản kê khai tài sản của quan chức là tài liệu mật, thì tôi chẳng tin có một quan chức nào liêm khiết. Và thể chế kinh tế này, khi một cá nhân ngồi vào vị trí quản lý kinh tế thì có lẽ họ đã là một tội phạm dự bị khi cần!?

Khi xem tivi phát thông tin về đề nghị xử lý trách nhiệm Đinh La Thăng, bỗng dưng tôi chợt nhớ, ông này này đã từng lớn tiếng phản ứng và trảm nhà thầu Trung Quốc và phía Mỹ, Nhật đều có chỉ dấu chọn ông Thăng chứ không phải những cá nhân khác trong chính quyền Hà Nội.

Nhưng, xét về trách nhiệm người đứng đầu, thì PVN đã là gì, nếu so với tương lai của cả dân tộc này?

Bạch Hoàn

(Bauxite Việt Nam)