5 tháng 5, 2017

Vân Hồng | 

Cơ thể khỏe hay không nhờ vào ngũ tạng. Giáo sư Lý Tế Nhân chia sẻ phương pháp chăm sóc tim, gan, phổi, lá lách, thận đơn giản, hãy biến chúng thành thói quen tốt mỗi ngày của bạn.

Giáo sư Lý Tế Nhân năm nay đã 80 tuổi, nhưng ông vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của một "quốc y đại sư" Trung Quốc là khám chữa bệnh khi vẫn còn có thể làm việc. Cống hiến những kiến thức và kinh nghiệm quý báu của mình cho cộng đồng.
Trong khuôn khổ bài viết này, giáo sư Nhân tiết lộ "nguyên tắc vàng" quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc 5 cơ quan nội tạng. Chỉ khi bạn đảm bảo rằng tim, gan, phổi, lá lách, thận khỏe thì mới có thể sống thọ.
Việc tập thể dục dưỡng sinh trên thực tế không có gì khó, nhưng nhiều người đã quan trọng hóa vấn đề, cho rằng bản thân không có đủ điều kiện để thực hiện. Điều đơn giản bạn cần đó là sự kiên trì, chỉ vậy thôi.

Giáo sư Lý Tế Nhân có một sức khỏe tốt hơn người thường, nhờ cách chăm sóc ngũ tạng mà chính bạn cũng có thể thực hiện dễ dàng.
Theo chia sẻ của giáo sư Nhân, ông khỏe mạnh không chỉ dựa vào tập thể dục, mà ông còn quan tâm đến sức khỏe tâm sinh lý, ăn uống, công việc, ngủ nghỉ. Trong đó, việc chăm sóc ngũ tạng được xem là nhiệm vụ hàng đầu, đặc biệt quan trọng đối với ông. Phương pháp cụ thể như sau.
1. Cách dưỡng tim
Mỗi đêm trước khi đi ngủ nên dành ít phút bấm huyệt Lao cung trên bàn tay và huyệt Dũng tuyền ở lòng bàn chân. Việc này làm cho tim và thận có thể kết nối với nhau, có tác dụng cải thiện chất lượng giấc ngủ, rất cần thiết cho việc dưỡng tim.
                                                             Huyệt Lao cung
Huyệt Dũng tuyền
Bên cạnh đó, cách dưỡng tim tốt nhất chính là dưỡng thần, thần kinh có cân bằng hay không quyết định việc bạn có giữ được hòa khí thanh thản hay không. Đừng quá vui cũng đừng làm cho mình rơi vào trạng thái quá buồn. Thường xuyên giữ trạng thái lạc quan, đừng hơn thua quá lâu sẽ gây hại cho tim.
Hãy nhớ và coi trọng giấc ngủ trưa. Tim là cơ quan nội tạng hoạt động mạnh nhất vào buổi trưa. Đây cũng là thời khắc giao hòa giữa âm và dương, nếu nghỉ ngơi đầy đủ sẽ giữ nguyên được tâm khí, điều hòa tim mạch tốt nhất.
Nên bổ sung những loại đồ uống tốt cho tim như các loại sâm, thảo mộc pha trà uống, ăn thêm các món như nhãn, hạt sen, hoa bách hợp, mộc nhĩ… có tác dụng tốt cho tim và nuôi dưỡng tim khỏe mạnh mỗi ngày.
2. Cách dưỡng gan
Làm việc quá sức, mệt mỏi lao lực chính là cách làm cho gan tổn hại nhiều nhất. Vì vậy, hãy nhớ lên lịch làm việc vừa phải, trong sức của mình, kể cả việc rèn luyện thể lực cũng không nên quá sức. Cần lắng nghe cơ thể để điều chỉnh kịp thời.
Cổ nhân có câu nói nổi tiếng, con người ta khi nằm thì máu mới về với gan. Điều này đơn giản là khuyên bạn hãy đi ngủ đúng giờ, chỉ khi bạn có một giấc ngủ tốt và đều đặn thì gan mới được chăm sóc đúng cách.
Chế độ ăn uống tốt nhất để chăm sóc gan chính là ăn thanh nhạt, hạn chế hoặc không ăn thực phẩm cay, nhiều mỡ. Những loại thực phẩm này nếu ăn quá độ sẽ làm gan mất khí, tổn thương ngày càng trầm trọng.
3. Cách dưỡng phổi
Mỗi buổi sáng thức dậy, hãy dành ít phút để tập hít thở thật sâu, hơi thở càng sâu càng chậm càng hiệu quả. Mỗi một hơi thở ra hít vào tối thiểu kéo dài khoảng 6 giây. Cách thở này rất tốt cho việc dưỡng phổi, và nên làm đều đặn, đúng cách.
Hãy học cách nín thở để làm tăng công năng của phổi, mỗi ngày đều nên tranh thủ làm việc này. Đầu tiên là bạn hít thở, sau đó nín thở, rồi giữ nguyên hiện trạng (gần như không thở), càng giữ lâu càng tốt, cho đến mức không chịu đựng được thì thở nhẹ ra. Nên lặp lại động tác thở này 18 lần.
Nên ăn thêm các loại rau củ trái cây tốt cho phổi, ví dụ như ngô, các loại dưa trái, cà chua, lê…
4. Cách dưỡng lá lách
Bạn nên tập một số bài tập hàng ngày hoặc mát xa bấm huyệt để điều hòa "khí", tăng cường khả năng hoạt động của lá lách.
Ví dụ, trước khi đi ngủ hoặc sau khi ngủ dậy nên xoa bụng khoảng 36 lần bằng cách nằm ngửa, lấy rốn làm trung tâm, dùng bàn tay xoa đều theo kim đồng hồ 36 vòng, làm ngược lại 36 vòng nữa.
Dùng tay vỗ hoặc mát xa huyệt chiên trung 120 lần và huyệt đan điền dưới vùng rốn 100 cái.


Tì vị chính là nguồn gốc của khí huyết sản sinh và di chuyển, cũng là gốc của sự sống, vì vậy việc chăm sóc lá lách thì cần kết hợp với chăm sóc dạ dày.
Trong chế độ ăn uống nên chú ý một nguyên tắc là chỉ nên ăn no khoảng 70% nhu cầu. Cố gắng giảm ăn một chút, hơi đói một chút sẽ có lợi cho tì vị, giúp dạ dày dễ dàng tiêu hóa thức ăn.
Ngoài ra, một số thực phẩm đơn giản tốt cho tì vị như táo, khoai lang thì nên ăn nhiều hơn một chút. Ngoài ra, nên tăng cường ăn rau thơm, rong biển, bí các loại để củng cố tốt hơn các thành phần có lợi cho tì vị.
5. Cách dưỡng thận
Thường xuyên mát xa huyệt đan điền, huyệt quan nguyên, đồng thời bấm thêm huyệt mệnh môn, huyệt yếu dương quan có tác dụng dưỡng thận vô cùng hiệu quả.
Nên ăn bổ sung quả óc chó, kỷ tử, đậu đen, hạt vừng, các loại thực phẩm màu đen có thể bảo vệ thận một cách tối ưu.
Giáo sư Nhân cho biết, điều quan trọng nhất của việc dưỡng sinh chính là sự kiên trì, tạo cho mình thói quen, lâu dần bạn sẽ thực hiện nó một cách vô thức, không vất vả hay khó khăn gì nữa.
Điều tiếp theo là nên tìm hiểu thể trạng của bản thân, từ đó làm theo khả năng của mình, lựa chọn phương pháp phù hợp. Ngày này qua ngày khác bạn đều thực hiện công thức dưỡng sinh này, nó sẽ trở thành bình thường như chính hơi thở của bạn vậy.
Huyệt mệnh môn và yêu dương quan nằm ở sống lưng dưới, đây là 2 điểm quan trọng nhất để chăm sóc thận.
Giáo sư Lý Tế Nhân dù ở ngưỡng 80 tuổi nhưng ông vẫn liên tục làm việc ổn định nhờ cách chăm sóc ngũ tạng hiệu quả mỗi ngày.
*Theo Trung y Trung Hoa/Zhzyw

VOV.VN - Sáng 5/5, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng khai mạc Hội nghị. VOV trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu.
"Thưa các đồng chí Trung ương, 
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị, 
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp Hội nghị lần thứ năm để thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xem xét thi hành kỷ luật cán bộ; và một số vấn đề quan trọng khác. 
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, các đại biểu khách mời đã về dự Hội nghị và xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất. 
Thưa các đồng chí, 
Để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần này, ngay từ tháng 10/2016, Ban Bí thư đã thành lập các ban chỉ đạo việc nghiên cứu, tổng kết, xây dựng các đề án, báo cáo về các nội dung nêu trên để báo cáo Bộ Chính trị trình Trung ương xem xét, quyết định.
Các ban chỉ đạo đã bám sát Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, các nghị quyết Đại hội Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XII, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và tình hình thực tiễn của đất nước, khu vực và thế giới để tiến hành tổng kết, nghiên cứu, xây dựng các đề án, tờ trình, dự thảo các nghị quyết trình Trung ương. Bộ Chính trị đã dành thời gian thỏa đáng để thảo luận, cho ý kiến chỉ đạo hoàn thiện các báo cáo, đề án nêu trên.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã nghiêm túc kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng Báo cáo trình Hội nghị Trung ương lần này. 
Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi các tài liệu để các đồng chí nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin phát biểu lưu ý thêm một số khía cạnh có liên quan đến nội dung của các đề án, báo cáo, có tính chất gợi mở, nêu vấn đề, mong được các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định.

1- Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
Trong suốt quá trình đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn xác định đổi mới, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, trong đó cốt lõi là tập trung ưu tiên đổi mới tư duy kinh tế, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển; coi đây là công việc thường xuyên, liên tục. 
Trong 10 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã góp phần quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh... 
Bên cạnh những kết quả, thành tựu đạt được, hiện vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, đặc biệt là: Kinh tế phát triển chưa thật sự nhanh và bền vững như mục tiêu, yêu cầu đề ra. Chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể chậm đổi mới và phát triển; kinh tế tư nhân phát triển chưa thật nhanh, bền vững và lành mạnh.
Một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, kém hiệu quả. Việc tiếp cận các nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng chưa cao và việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Quyền sở hữu tài sản, nhất là quyền của người góp vốn chưa được bảo đảm thực thi đầy đủ. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả chưa cao; việc tự do hóa thương mại, đầu tư trong một số thị trường, lĩnh vực chưa sát hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế... 
Nhiệm vụ của Hội nghị chúng ta lần này là trên cơ sở quán triệt thật sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, kế thừa, bổ sung phát triển Nghị quyết Trung ương 6 khóa X, ban hành một nghị quyết mới của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Đề nghị các đồng chí Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị tập trung nghiên cứu tài liệu, thảo luận thật kỹ, cho nhiều ý kiến đóng góp, tạo sự thống nhất cao về những nhận định, đánh giá tình hình, nhất là những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.
Từ đó đi sâu phân tích, đánh giá về sự đúng đắn, phù hợp của mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và những chủ trương, giải pháp chủ yếu tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới. Tập trung vào những điểm mới cụ thể hóa về mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo; đặc biệt là về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, nhất là những nhiệm vụ và giải pháp có tính đột phá, góp phần kịp thời tháo gỡ những vướng mắc về thể chế liên quan đến việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của nhiệm kỳ khóa XII. 
2- Về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 
Đây là vấn đề lớn, khó và phức tạp. Đảng và Nhà nước ta đã bàn nhiều lần, ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả, phát triển doanh nghiệp nhà nước, và trên thực tế đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Từ chỗ cả nước có hơn 12.000 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, đến năm 2001 giảm xuống còn 5.655 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, và đến thời điểm tháng 10/2016 chỉ còn 718 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Tuy nhiên, đến nay doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước; chưa thực hiện được nhiệm vụ dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế.
Nhìn chung, hiệu quả kinh doanh và đóng góp của phần lớn doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư. Không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, thất thoát, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với những dự án đầu tư hàng nghìn tỉ đồng "đắp chiếu", làm trầm trọng thêm nợ xấu ngân hàng và nợ công quốc gia, gây bức xúc trong nhân dân… 
Có một câu hỏi lớn đặt ra cần được giải đáp thấu đáo là: Vì sao những hạn chế, yếu kém nêu trên đã được chỉ ra từ lâu nhưng qua nhiều nhiệm kỳ đến nay tình hình vẫn chậm chuyển biến, thậm chí có mặt còn trầm trọng hơn. Phải chăng nguyên nhân chủ yếu là do: Chưa xác định rõ ràng, đúng đắn chức năng, nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và chức năng, nhiệm vụ chính trị - xã hội của doanh nghiệp nhà nước; chưa có chuẩn mực trong hạch toán kinh doanh đúng đắn và phù hợp với doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất, kinh doanh sản phẩm hàng hoá thông thường với sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích.
Việc quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, hoàn thiện theo chuẩn mực quốc tế. Thể chế quản lý, kiểm tra, giám sát về đầu tư và tài chính đối với doanh nghiệp, nhất là về bảo lãnh vốn vay, định giá đất đai, tài sản hữu hình, vô hình còn nhiều bất cập.
Công tác cán bộ, chính sách tiền lương của doanh nghiệp chưa phù hợp với cơ chế thị trường; quyền hạn và trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp chưa đủ rõ. Việc tách chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước thực hiện chậm.
Cơ chế quản lý, giám sát và việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp còn bất cập, dễ bị lợi dụng để trục lợi; tham nhũng, tiêu cực. Việc đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp chưa theo kịp yêu cầu cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. 
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng những vấn đề nêu trên, cần xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu có tính đột phá trong thời gian tới. Tập trung thảo luận, tạo sự thống nhất cao về những vấn đề Bộ Chính trị xin ý kiến Trung ương như nêu trong Tờ trình, bao gồm: Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; xây dựng mô hình tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn; phương án đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của tổ chức đảng và công tác cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước; sự cần thiết phải ban hành một nghị quyết mới của Trung ương để tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới… 
3- Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân 
Báo cáo tổng kết 15 năm (2002 - 2017) thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân" đã được xây dựng, biên tập, chỉnh sửa nhiều lần trên cơ sở các báo cáo tổng kết và ý kiến đóng góp của hầu hết các ban, bộ, ngành và các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; kế thừa kết quả tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới; tham vấn ý kiến các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội ngành nghề và nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý. 
Qua tổng kết cho thấy, trong 15 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp quan trọng về khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển. Vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn.
Kinh tế tư nhân ngày càng đóng góp lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội. Tỉ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể duy trì ổn định khoảng 39% - 40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh. Số lượng doanh nghiệp của tư nhân tăng nhanh với nhiều loại hình đa dạng; phong trào khởi nghiệp được đẩy mạnh.

Tuy nhiên, kinh tế tư nhân cũng đã bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Xuất phát điểm phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp; chủ yếu vẫn là kinh tế hộ, cá thể.
Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp và chậm đổi mới; trình độ quản trị, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh còn yếu kém; chủ yếu tham gia ở phân khúc thị trường có giá trị gia tăng thấp. Khả năng liên kết với các thành phần kinh tế khác và tham gia chuỗi giá trị sản xuất trong nước, khu vực và toàn cầu còn nhiều hạn chế.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân hoạt động thiếu ổn định, bền vững, thậm chí bị thua lỗ, giải thể, phá sản. Tình trạng vi phạm pháp luật, gian lận thương mại, trốn thuế, nợ thuế, cạnh tranh không lành mạnh, gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, không quan tâm bảo đảm lợi ích của người lao động diễn biến phức tạp, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng. 
Đề nghị các đồng chí Trung ương và các đồng chí tham dự hội nghị xuất phát từ thực tiễn, thảo luận, đánh giá khách quan, khoa học về những kết quả, thành tích đã đạt được; đồng thời phân tích sâu sắc những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, bám sát Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và thực tế đất nước, tập trung thảo luận làm rõ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về mục tiêu, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và những nhiệm vụ và giải pháp lớn cần được quán triệt và triển khai thực hiện để kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, đúng đắn và lành mạnh hơn, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 
4- Về kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng 

Thực hiện Điều lệ Đảng, Quy chế làm việc và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong tháng 3/2017, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã dành 7 ngày để tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2016 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 
Việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã được thực hiện bài bản, theo từng bước hợp lý. Các báo cáo kiểm điểm đều chuẩn bị đúng hướng dẫn. Không khí kiểm điểm dân chủ, đoàn kết, thẳng thắn, chân tình. Các đồng chí được góp ý đã tiếp thu nghiêm túc, cầu thị, coi đây như là cơ hội quý để học tập, chia sẻ lẫn nhau. Trong quá trình kiểm điểm, từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã liên hệ đến trách nhiệm cá nhân đối với lĩnh vực được phân công, thấy rõ những ưu điểm để phát huy, nhận ra những khuyết điểm, hạn chế để khắc phục. 
Qua kiểm điểm tập thể và cá nhân, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhận thấy: Năm 2016, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp; tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, có một số vấn đề phức tạp mới nảy sinh (như sự cố ô nhiễm môi trường biển ở miền Trung, tình trạng khô hạn gay gắt ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, xâm nhập mặn ở đồng bằng Sông Cửu Long,...).
Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn vững vàng, đoàn kết, kiên định và sáng tạo, có các quyết sách đúng đắn, kịp thời và phù hợp để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực đối nội và đối ngoại, được cán bộ, đảng viên và nhân dân ghi nhận, hoan nghênh, bạn bè thế giới đánh giá cao.
Cụ thể là: Ngay sau thành công tốt đẹp của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đã lãnh đạo tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - ­2021. Nhanh chóng kiện toàn tổ chức, nhân sự các cơ quan đảng và bộ máy nhà nước, bảo đảm sự kế thừa, đổi mới và phát triển ổn định. Khẩn trương triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị mà Đại hội XII của Đảng đề ra. Kinh tế đạt mức tăng trưởng khá (6,21%), lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, dự trữ ngoại hối đạt mức tăng cao nhất từ trước đến nay. Văn hóa, xã hội có tiến bộ; tỉ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; niềm tin của nhân dân được củng cố.
Công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính và cải cách tư pháp được chú trọng. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; chủ quyền quốc gia được giữ vững; an ninh, trật tự được ổn định.
Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai mạnh mẽ, toàn diện; quan hệ đối ngoại, nhất là quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn và các đối tác quan trọng khác tiếp tục đi vào chiều sâu, ngày càng thực chất, mang lại hiệu quả thiết thực, nâng cao vai trò, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cùng với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh và có những chuyển biến tích cực, rõ rệt. Nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng đã được đưa ra xét xử; nhiều sai phạm trong công tác cán bộ, nhiều cán bộ cấp cao vi phạm đã được kết luận và xử lý, kỷ luật nghiêm minh, công khai, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Dù vẫn còn không ít khó khăn, thách thức, nhưng những kết quả đạt được trong năm qua là đáng khích lệ, tạo đà thuận lợi cho đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới. 
Mặc dù vậy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng còn những hạn chế, khuyết điểm như đã nêu trong Báo cáo của Bộ Chính trị gửi các đồng chí Ủy viên Trung ương. Đề nghị Trung ương với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, xem xét, đánh giá kỹ lưỡng những ưu điểm, những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII trên các lĩnh vực. Đặc biệt, cần chỉ rõ những nguyên nhân, bài học và đề ra các giải pháp khắc phục trong thời gian tới. 
Thưa các đồng chí, 
Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này là những vấn đề rất lớn và quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cũng như xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đề nghị Trung ương phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận sôi nổi, cho ý kiến để hoàn thiện và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp. 
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn"./.

Hội nghị Trung ương 5 - Liệu sẽ là một dấu chấm hết đối với gia tộc Nguyễn Tấn Dũng?


Hội nghị Trung ương 5 của đảng CSVN vừa chính thức khai mạc vào sáng ngày 5/5/2017 tại Hà Nội giữa lúc có tin ông Đinh La Thăng chủ động xin từ chức và rút khỏi Bộ Chính trị.


Dưới danh nghĩa là về trọng tâm kinh tế, 200 uỷ viên sẽ dành ra 5 ngày để họp bàn về vấn đề được quan tâm nhất trong thời gian gần đây – đó là việc kỷ luật Bí thư Thành uỷ TP.HCM Đinh La Thăng.

Ông Thăng đã bị Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ra quyết định kỷ luật vào hôm 27/4/2017 vì những “sai phạm nghiêm trọng” khi còn làm lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), gây thất thoát số tiền lên đến 9 tỷ đô-la Mỹ.

Quyết định kỷ luật được đưa ra cận kề thời điểm khai mạc Hội nghị Trung ương 5 là một “cú đòn huỷ diệt” mà phe Nguyễn Phú Trọng tung ra nhằm kết liễu sinh mạng chí trị của vị Bí thư từng gây nhiều ồn ào này.

Thu hồi bản kiểm điểm của Đinh La Thăng

Có thể nói, đây là một Hội nghị Trung ương căng thẳng nhấ kể từ sau Đại hội 12 đến nay. Cuộc chiến thanh trừng quyền lực đã được đẩy lên cao trào khi đích đến của nó không chỉ dừng lại ở mức Uỷ viên Bộ chính trị.

Thanh toán Đinh La Thăng chưa đủ, Nguyễn Phú Trọng còn muốn đánh tiếp đến cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – người đỡ đầu quyền lực cho ông Thăng và cũng là kẻ thù chính trị của ông Trọng.

Dĩ nhiên, “bố già” Nguyễn Tấn Dũng với tiềm lực kinh tế khổng lồ cũng không dễ dàng để yên cho Nguyễn Phú Trọng tự tung tự tác. Cứu đàn em Đinh La Thăng cũng đồng nghĩ với việc ông Dũng tự cứu chính mình.

Thêm vào đó, việc có kỷ luật được ông Thăng hay không lại phụ thuộc vào cuộc bỏ phiếu kín của 200 Uỷ viên Trung ương đảng trong 5 ngày hội nghị sắp tới. Cơ hội đảo ngược tình thế đối với phe ông Dũng vẫn hoàn toàn có thể xảy ra.

Theo các thông tin rò rỉ ra bên ngoài, ngay sau khi có kết luận của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đảng, ông Thăng đã hoả tốc gửi đến các Uỷ viên Trung ương một bản kiểm điểm dài 20 trang nhằm tự giải oan cho bản thân mình.

Bất ngờ đã xảy ra khi có đến 1/3 uỷ viên thường vụ Thành uỷ TP.HCM – nơi ông Thăng công tác, đề nghị không áp dụng bất kỳ hình thức kỷ luật nào đối với ông Thăng.

Kết luận này có thể khiến Nguyễn Phú Trọng choáng váng, vì chính ông Tổng bí thư đã điều động Đinh La Thăng về Thành uỷ TP.HCM với hi vọng “chảo lửa” Thành Hồ sẽ tự thiêu đốt vị Bí thư gốc Bắc này.

Đó cũng là lý do vì sao xuất hiện một công văn của Ban bí thư, yêu cầu tất cả các Uỷ viên Trung ương khi nhận được bản kiểm điểm của Đinh La Thăng gửi đến thì không được đọc, mà phải nhanh chóng giao nộp lại cho Ban bí thư.

Đinh La Thăng xin từ chức?

Dù đã vận dụng cả Ban Tuyên giáo và hệ thống báo chí để tạo dư luận, nhưng vì sao Nguyễn Phú Trọng vẫn tỏ ra sợ hãi trước một bản kiểm điểm dày 20 trang? Phải chăng, những bằng chứng để kết tội Đinh La Thăng vẫn chưa thể thuyết phục được các Uỷ viên Trung ương đảng?

Thêm vào đó, việc bưng bít thông tin, thậm chí tước quyền bào chữa – hay nói đúng hơn – bịt miệng một Uỷ viên Bộ chính trị là hành động thiếu khôn ngoan của kẻ độc tài. Hình ảnh của ông Tổng bí thư càng xấu đi trong con mắt của 2/3 Uỷ viên Trung ương đảng vừa tham gia lần đầu tại đại hội 12 – những người vẫn còn chưa biết rõ nên theo phe nào.

Sự hung hăng, ngạo mạn của Nguyễn Phú Trọng đủ khiến những kẻ đang có ý định theo ông ta cũng bắt đầu phải dè chừng.

Trong một diễn biến mới nhất, ông Đinh La Thăng đã bất ngờ nộp đơn xin từ chức Bí thư Thành uỷ TP.HCM và rút khỏi Bộ chính trị trong phiên họp trù bị cho Hội nghị Trung ương 5 diễn ra hôm 3/5/2017. Nhiều người cho rằng động thái trên cho thấy ông Thăng đã chấp nhận buông cờ đầu hàng, nhưng cá nhân tôi thì không cho là vậy.

Theo lý lẽ về công tác nhân sự của cộng sản, ông Thăng có muốn từ chức cũng không được, vì trung ương đảng đề cử ông Thăng vào Bộ chính trị thì chính Trung ương đảng cũng quyết định cách chức ông Thăng. Việc một uỷ viên Bộ chính trị tự nguyện nộp đơn xin thôi các chức vụ là tiền lệ chưa từng có trong đảng cộng sản.

Do đó, đây chỉ là cú đòn tâm lý mà Đinh La Thăng tung ra nhằm đổ dồn mọi áp lực về phía Nguyễn Phú Trọng. Bởi lẽ, nếu so sánh giữa ông Thăng và ông Trọng thì người cần phải từ chức chính là ông Tổng bí thư - người đang ngấp nghé bước sang tuổi 74 và ngày càng tỏ ra lú lẫn.

Tại đại hội 12, ông Trọng cam kết sẽ chỉ ngồi nửa nhiệm kỳ, sau đó bàn giao chiếc ghế Tổng bí thư cho một người khác. Hội nghị Trung ương 5 là thời điểm mà ông Trọng phải thực hiện lời hứa, nhưng ông ta vẫn cố tình tỏ ra chây lỳ và không có ý định về hưu.

Nguyễn Phú Trọng ngày càng trở nên hung hăng trong các cuộc thanh trừng phe phái khiến không một Uỷ viên Trung ương nào còn cảm thấy an toàn. Nhu cầu thay thế ông Trọng là điều mà nhiều người nghĩ đến.

Do đó, cơ hội đảo ngược thế cờ đối với Đinh La Thăng là vẫn còn, dù cán cân quyền lực vẫn đang nghiêng về Nguyễn Phú Trọng.

“Thăng chết, Trọng cũng băng hà” là kịch bản có thể xảy ra, dù rất thấp. Ngược lại sẽ là một kịch bản thoả hiệp giữa các phe phái, Trọng tiếp tục bám ghế, Thăng không bị kỷ luật, hai bên gầm ghè nhau cho đến Đại hội 13. 

Mời xem Video: Đòn độc gì của Tổng Trọng khiến Trần Đại Quang không cứu nổi Đinh La Thăng ở Hội Nghị Trung ương 5?


Trong trường hợp Nguyễn Phú Trọng đại thắng, Đinh La Thăng về vườn “làm người tử tế” thì chắc chắn sẽ là một dấu chấm hết đối với gia tộc Nguyễn Tấn Dũng. 

Phân tích vậy cũng để bà con có thêm cái nhìn về cục diện chính trường CSVN, bọn chúng bề ngoài thì tỏ ra đoàn kết, nhưng bên trong thì đánh nhau nát bấy. Tóm lại thì kẻ nào chết thì nhân dân càng mừng.

5/5/2017

Quân Nam

Cuộc chiến Sang-Dũng vẫn còn tiếp diễn


Khuôn xanh có biết vuông tròn hay chăng 

T/g Sông Hồng giới thiệu: Tôi không tin ông Nguyễn Phú Trọng là bậc cao thủ trong những cuộc đấu đá chính trị. Tôi cũng không tin ông là người tham quyền cố vị. Nhưng tôi tin vào cái tên “Lú” mà dân Hà Nội đặt cho ông. Tuy vậy, từ “Lú” ở đây bao hàm ý hiền lành đến mức bị lợi dụng. 


Anh em thù hận 

Nổi bật trên sân khấu chính trị Việt Nam trong những năm gần đây, người ta thấy có hai người anh em gốc miền Tây Nam bộ: Chủ tịch Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, với những màn đấu đá rùng rợn.

Người coi trận quyền của hai võ sĩ cùng lò luyện, cùng môn phái nhận ra: ông Sang ra đòn trước, dồn đối phương vào thế thủ. Hay nói trắng ra rằng: Ông Sang gây sự với ông Dũng, mà không thấy ông Dũng trả đũa. 

Một mình không thể hạ gục được ông Dũng, ông Sang tìm kiếm đồng minh. Ông Trọng chỉ đơn thuần là người phất cao ngọn cờ chống tham nhũng, nhưng ông Sang mượn tay và núp dưới bóng cờ để diệt đối phương. 

Tờ báo mạng Quan Làm Báo ra đời, nhằm thẳng quân thù mà bắn: Vạch tội, bôi đen, lăng mạ, tung tin, xách mé, gọi thẳng ông Dũng là “tên y tá”. 

Ông Dũng vượt qua bão tố, giành một thắng lợi đến mức ngoạn mục. Kết quả bỏ phiếu tín nhiệm Bộ Chính trị, tại Hội nghị Trung ương 10, Khóa 11, ông Dũng đạt số phiếu “tín nhiệm cao” 153 /197 phiếu. Ông về đầu bảng. Ông là quán quân. Ông trở thành ứng cử viên nặng ký nhất cho ghế tổng bí thư nhiệm kỳ tới. Trong khi ông Trọng chỉ được 135/197 phiếu, đứng thứ tám trong bảng xếp hạng từ cao xuống thấp. 

Quan Làm Báo vừa lá cải vừa không kinh nghiệm trận mạc nên bị loại. Huy Đức, người thạo nghề viết lách xuất hiện. Lần lượt từng bài, từng bài như những phát tên lửa Tomahawk nã vào ông Dũng, đồng thời lăng xê ông Trọng đến tận thiên đàng. 

Huy Đức tố cáo ông Dũng là: “Vơ vét cho đến khi thừa mứa”, “ông hoàng bà chúa”, “độc tài”... Những thành công ngoại giao của ông Dũng cũng bị Huy Đức đổi trắng thay đen. 

Cơn thịnh nộ của dư luận về tham nhũng đang lang thang không địa chỉ, nay bỗng hướng vào ông Dũng. Sự nghiệp chính trị của ông tan nát. Ông Dũng cáo từ bằng lá thư dài chín trang gởi cho Bộ Chính trị kèm lời đoạn tuyệt: Quyết không xin, cho cũng không nhận tái cử. 

Tôi không nghĩ ông Trọng quá tham quyền cố vị muốn ở lại thêm khóa nữa. Người ta phải đội ông lên, kéo ông lại, lách Điều lệ Đảng, không để “tên y tá- X” ngồi vào chỗ đó. 

Ông Sang thắng. Ông Dũng thua, rời sân khấu chính trị vào thời điểm mà uy tín của ông trong đảng, trong dân và cả trường quốc tế khá cao. 

Xảo thuật tinh vi 



Nếu ông Đinh La Thăng không làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn, thì có bị thanh tra không? 

Cách nay hơn một năm, ông Trọng cùng Ban Tổ chức Trung ương điều ông Thăng vào Sài Gòn. Nhiều người tin rằng: Đó là một quyết định đúng. Nó là lời tuyên chiến với nạn cát cứ, vua một cõi, trên bảo dưới không nghe. 

Dư luận lờ mờ nhận ra: Với ông Sang, mất ghế Chủ tịch nước là mất ít, nhưng mất Sài Gòn là mất trắng. Nhiều người tin một tay Bắc kỳ rặt như ông Thăng không thể sống sót ở thánh địa nơi mà nhiều bậc cao thủ phải âm thầm khăn gói quả mướp ra đi. Nhưng ông Thăng không những trụ được mà còn thiết lập lên uy tín. Không có dấu hiệu gì ông Thăng rời Sài Gòn sớm như dự đoán. 

Huy Đức lại có mặt tại hiện trường. Lần này, anh không rón rén, chẳng nể nang, tay đập facebook rầm rầm, miệng quát: “Thanh hay Thăng”.

Tiếp theo là một xảo thuật cực kỳ tinh vi. Họ chụp lên đầu ông Thăng một cái mũ gắn phù hiệu “X”. Cả thiên hạ tin rằng ông Thăng là tay chân, là cánh hẩu, là đồng bọn, cùng nhóm lợi ích với đồng chí X. 

Hình ảnh một thủ tướng X bạo tàn, vơ vét cho đến khi thừa mứa, độc tài, bất tài, cha truyền con nối, giờ đây chuyển cả cho Thăng. Ngọn lửa hận thù tham nhũng của “toàn đảng, toàn dân, và toàn quân”, nhất là các đồng chí đã nghỉ hưu cháy ngùn ngụt, hừng hực, phút chốc trùm lên đầu Thăng vì ông Dũng đã bị loại. 

Cơn Đại Hồng thủy ập đến, ông Thăng vẫy vùng, ngụm lặn trong tuyệt vọng. Thử hỏi, còn tay Bắc kỳ to gan nào dám mơ mộng để kiến tạo Sài Gòn - Hòn ngọc Viễn Đông. 

Hiện tượng Huy Đức 

Theo dõi thời tiết chính trị Việt Nam những năm gần đây, người ta có cảm giác như Huy Đức là Tổng Bí thư, hay ít nhất cũng cỡ hàng thứ hai, thứ ba trong Bộ Chính trị. 

Huy Đức vẫy bút vu vơ trên không gian ảo. Thủ tướng Dũng phải bỏ Ba Đình về lại Cà Mau - Rạch Giá. Huy Đức quát “Thanh hay Thăng”: Thanh, Phó Chủ tịch tỉnh, Đại biểu Quốc hội, bỏ của chạy lấy người, chấp nhận kiếp lưu đày nơi phương trời vô định. Thăng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, chờ ngày hành quyết. 

Ở Việt Nam, ai thò tay ra nhổ một cọng lông chân lãnh đạo, người đó được an ninh mời đi uống cà phê. Vậy mà, một mình Huy Đức được chơi xả láng. Một mình Huy Đức được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt, quyền được biết. Một mình Huy Đức nắm vững những hoạt động của đảng và chính phủ, thậm chí đến từng chi tiết, từng con số.

Ngót một ngàn cơ quan truyền thông với hai chục ngàn phóng viên không được bàn tán, chém gió, bình loạn chuyện cơ mật, chuyện nhân sự, nhưng Huy Đức được. Ngót hai năm, Huy Đức chém gục hai Ủy viên Bộ Chính trị, hai chính khách sáng giá, đang ở thời phong độ.

Vậy, Huy Đức là một hiện tượng. Bình thường hay bất thường? Chúng ta tự hỏi. 

Làm người tử tế

Trước khi nghỉ hưu, ông Dũng tự nhủ mình cùng các chiến hữu và cả với đối thủ: “Làm người tử tế”. 

Đấy là bài diễn văn ngắn nhưng hay nhất trong cuộc đời chính trị của ông. Ông thoáng hiện lên như hình ảnh của Bồ Tát hay của Chúa Giê Su. 

Ấy chết! Xin bạn đừng nổi nóng bảo tôi là kẻ ngoại đạo, tà giáo báng bổ các bậc thánh linh. Xin bạn đừng bảo tôi là tên nịnh bợ. Xin bạn đừng mắng tôi là kẻ lộng ngôn, ấu trĩ hay thiển cận. Trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ của Chúa Giê Su trên đất, một trong những điều quan trọng nhất mà Ngài rao giảng: Tha thứ, yêu thương kẻ thù nghịch, giải quyết mọi xung khắc bằng lòng bác ái. 

Cả khi ông Dũng còn nắm quyền lực và lúc về hưu, người ta không thấy dấu vết của sự trả đũa, mặc dù ông đã bị đánh đến tả tơi. Đấy chẳng phải là một hình ảnh của nhân văn, của lòng cao thượng, của bậc chí thánh sao? Bởi vì, ai cũng sợ âm vang của tiếng súng K59 trên núi rừng Yên Bái.

Ông Trọng lẩy Kiều: “Nghĩ mình phận mỏng cách chuồn. Khuôn xanh có biết vuông tròn hay chăng?” Phận ông không mỏng, mà ngược lại rất dầy và sự thực thì đất không vuông mà trời cũng chẳng tròn. 

Thứ Năm, ngày 4 tháng 5 năm 2017

Sông Hồng 

Vũ Ngọc Hoàng - Tư duy của K.Mark không phải cái gì cũng đúng và phù hợp


 Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII khai mạc vào sáng 5/5. Ảnh: TTXVN. 

Tư duy chưa đúng về kinh tế thị trường đã chịu ảnh hưởng của tư duy không đúng về vấn đề CNTB và CNXH.

Hôm nay, 5/5 Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ khai mạc tại thủ đô Hà Nội. Một trong những nội dung quan trọng là thảo luận về kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân. Với mong muốn góp một tiếng nói, ông Vũ Ngọc Hoàng gửi tới Tuần Việt Nam bài viết này như một cách trao đổi ý kiến. Mời bạn đọc tham khảo.

Từ sau đại hội XII đến nay, các cơ quan trung ương và các đồng chí lãnh đạo đã quan tâm đáng kể đối với vấn đề doanh nghiệp, khởi nghiệp, kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân. Tôi nghĩ thế là rất đúng. Nếu như trước đây, trong thời chiến tranh giữ nước, việc xây dựng các đơn vị bộ đội “Cụ Hồ” để làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân đã có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi, thì ngày nay, trong hòa bình phát triển kinh tế, việc xây dựng các doanh nghiệp Việt Nam để làm nòng cốt trong kinh tế thị trường cũng có ý nghĩa quan trọng tương tự.

Trong lịch sử nhân loại, khi con người bắt đầu xuất hiện, hoạt động kinh tế lúc bấy giờ là hái lượm. Nói cách khác, là kinh tế hái lượm. Sau đó, do tác động của thực tiễn, nhận thức của con người tiến bộ dần, công cụ lao động được cải tiến, sản xuất (kinh tế) tự cấp tự túc bắt đầu. Khi sản xuất có dư thừa và nhu cầu của cuộc sống đa dạng hơn, con người đã thực hiện trao đổi các sản phẩm làm ra, thì kinh tế hàng hóa xuất hiện.

Khi kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định, trong xã hội hình thành các phạm trù giá trị và giá cả, quan hệ cung cầu và cạnh tranh, không phải cá biệt, đơn lẻ mà thành các xu hướng, thì đó là lúc kinh tế thị trường bắt đầu, cùng với các quy luật khách quan, vô hình, nhưng mạnh mẽ, tác động chi phối nền kinh tế, thay thế cho những ý muốn chủ quan của các chủ thể có quyền lực trước đó.

Có nhiều loại kinh tế thị trường. Như kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng XHCN… và các tên gọi kiểu khác nữa. Việc thảo luận, tranh luận về các tên gọi khác nhau này dài dòng và phức tạp, kể cả về học thuật và chính trị, với những nhận thức đúng và chưa đúng, với những ý kiến khoa học và sự dung hòa thỏa hiệp.

Ở Mỹ, suốt một thời kỳ dài, người ta luôn nhấn mạnh kinh tế thị trường tự do, mọi việc của nền kinh tế do thị trường quyết định, nhà nước không can thiệp. Cho đến một lần, khi nước Mỹ bị khủng hoảng tài chính, chính phủ Mỹ bị buộc phải chi ra nhiều ngàn tỷ USA để can thiệp vào thị trường. Từ đó, người ta không nhấn mạnh kinh tế thị trường tự do như trước nữa.

Tại một số nước Châu Âu, nhất là nước Đức, vào những năm 50 của thế kỷ trước, đã có những cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học về kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng vẫn không có thắng thua, nhưng từ những cuộc tranh luận ấy đã làm nảy sinh và xuất hiện một cụm từ- khái niệm mới về “kinh tế thị trường xã hội” mà trong đó, nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước vì các mục tiêu xã hội. Tôi nghĩ đây là một khái niệm, một loại hình đang và sẽ thịnh hành nhất trong tương lai.

Tại Trung Quốc, với tư tưởng xây dựng một xã hội XHCN đặc sắc Trung Quốc, người ta đã nghĩ ra kinh tế thị trường XHCN, trong khi họ chưa có CNXH. Việt Nam thì mềm hơn, phù hợp hơn so với Trung Quốc, đã chọn cụm từ “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Vậy là thế giới đã có nhiều tên gọi khác nhau về các loại kinh tế thị trường. Tuy nhiên, rộng rãi nhất, phổ biến ở các văn bản quốc tế, đó là cụm từ-tên gọi “kinh tế thị trường”. Chỉ gọn vậy thôi. Thế giới đã thống nhất cao đối với cụm từ đó.

Việt Nam, mặc dù viết trong các nghị quyết và văn bản là “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nhưng cũng vẫn phải kêu gọi thế giới công nhận ta là nước có nền “kinh tế thị trường”. Ta không thể yêu cầu họ công nhận ta là “kinh tế thị trường định hướng XHCN” vì thế giới chưa hiểu về khái niệm này, mà có công nhận cũng chẳng để giải quyết vấn đề gì giữa ta với họ. Đó là một thực tế.

Từ ngữ cũng quan trọng, nhưng quan trọng hơn là nội hàm của khái niệm. Cần hiểu đúng để không làm sai. Suốt một thời gian dài, trên thế giới, không ít người, nhất là ở các nước theo định hướng XHCN, cho rằng kinh tế thị trường là đặc điểm của CNTB, còn CNXH thì phải là kinh tế kế hoạch hóa tập trung.

Ngày ấy, ai nói khác, ai chủ trương phải chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường thì bị Liên Xô và phe XHCN phê phán và quy chụp là xét lại. Thậm chí còn nâng lên là chủ nghĩa xét lại. Năm 1968, khi ban lãnh đạo Tiệp Khắc chủ trương cải tổ bằng cách chuyển qua kinh tế thị trường và thực hiện dân chủ hóa thì Liên Xô lập tức đổ quân vào Tiệp Khắc và tuyên bố ban lãnh đạo ấy là xét lại, phế truất họ và lập ban lãnh đạo mới để kiên định cách làm như cũ.

Những năm sau đó, nhất là sau khi Liên Xô bị đổ, mọi người đã nhận thức lại, với tư duy thoáng mở và đúng đắn hơn, cho rằng kinh tế thị trường không phải riêng của CNTB, mà các nước XHCN cũng cần phải thực hiện kinh tế thị trường thay cho kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Đó là giai đoạn cải cách, đổi mới ở các nước theo định hướng XHCN. Tư duy đó là đúng, nhưng lại chưa đi đến cùng, vẫn còn cho rằng kinh tế thị trường ở các nước XHCN phải khác về chất so với kinh tế thị trường ở các nước TBCN.

Với tư duy chưa đúng này đã dẫn đến những lúng túng trong xử lý công việc cụ thể, kể cả cách gọi tên. Tất nhiên việc lúng túng trong cách gọi tên cũng có thể một phần do sự dung hòa, thỏa hiệp khi có ý kiến khác nhau trong nội bộ. Đã mất một thời gian khá dài để tìm kiếm các điểm khác nhau đó.

Tư duy chưa đúng về kinh tế thị trường đã chịu ảnh hưởng của tư duy không đúng về vấn đề CNTB và CNXH.

Lúc đầu là tư duy của một bộ phận quan trọng trong giới chính trị, kể cả bên phe này và bên phe kia, từ đó lan rộng ra trong hai hệ thống chính trị của thế giới và tác động sang lĩnh vực khoa học xã hội và truyền thông.

Với tư duy sai lầm đó, người ta đã chia thế giới ra thành hai phần chủ yếu, hai phe, TBCN và XHCN, đi về hai hướng khác nhau, với tư tưởng và ý thức hệ riêng của mỗi bên, đối địch với nhau, chạy đua vũ trang đến mức chưa từng có, tạo ra kể cả các loại vũ khí giết người hàng loạt, đủ để có thể tiêu diệt nhiều lần trái đất, có lúc đã đối đầu xe tăng, đại bác và tên lửa mang đầu đạn hạt nhân vào nhau, đã gây nên một số cuộc chiến tranh làm chết nhiều chục triệu người. Để rồi bây giờ, sau gần một thế kỷ đối đầu như vậy, đã phải bắt tay nhau để cùng giải quyết nhiều việc của song phương, của khu vực và của toàn cầu, kể cả coi nhau là đối tác chiến lược, toàn diện. Từ cựu thù thành bạn giữa con người với con người là việc đáng mừng, đáng ủng hộ. Nhưng bản thân sự ấy cũng đã chứng minh sai lầm trước đó, chứng minh sự “lẩm cẩm” từng có ở tầm nhân loại.

Xét riêng ở một bên (một phe), thì có thể biện minh cho họ là không sai, vì chính bên kia đã đẩy họ đến đó. Nhưng xét cả hai bên cùng lúc, thì sẽ thấy sai lầm của họ- của cả hai bên. Sai lầm này, xét đến cùng, là do cả hai bên đều không chấp nhận sự đa dạng của tư tưởng, văn hóa và mô hình phát triển, trong khi họ đang và phải sống trong một thế giới ngày càng đa dạng và hội nhập. Sai lầm ấy là do tư duy không khoa học và thiếu biện chứng.

Vũ Ngọc Hoàng, Hội nghị Trung Ương 5, Kinh tế nhà nước, Kinh tế tư nhân
Quản trị quốc gia là cần thiết. Nước nào cũng vậy. Nhưng không thể tư duy rằng, có sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước là đương nhiên thành một đặc trưng của kinh tế thị trường trong CNXH.
Cũng với tư duy sai lầm nói trên, người ta cho rằng nhân loại có hai con đường riêng. Một con đường của chủ nghĩa tư bản lâu dài. Và một con đường khác, gần như khác hẳn, dẫn đến CNXH. Hai con đường này đi về hai hướng khác nhau, mãi mãi, không dung hòa, không chấp nhận, không gặp lại nhau. Đó là cách tư duy siêu hình, không phải biện chứng, khác với tư duy của K.Mark. K.Mark không tư duy như vậy.

Theo K.Mark, CNTB sẽ phát triển lên, phát triển tiếp, và dần dần hình thành trong lòng nó, trong chính nó, những nhân tố mới, khác nó, không phải là nó, như một quy luật tất yếu. Đến khi nhiều nhân tố mới hợp lại, tích tụ lại, đến mức đủ nhiều, dẫn đến sự thay đổi về chất, khi ấy, CNTB không còn là nó như trước nữa, mà trở thành một xã hội khác nó, tiến bộ hơn nó. Đó là CNXH. Tư duy đó của K.Mark là biện chứng, có cơ sở khoa học. Mặc dù không phải cái gì ông nghĩ ra cũng đều đúng, và điều đó cũng là dễ hiểu. Mọi người, kể cả các nhà khoa học lớn, kể cả các vĩ nhân cũng vậy, vẫn có nhiều điều, ngay từ đầu hoặc khi thời gian đi qua, không đúng hoặc không còn phù hợp nữa.

Trong tư duy của K.Mark, một phần đáng kể thuộc về khoa học, một phần khác thuộc về tư biện, và trong đó, có những hạn chế của yếu tố lịch sử.

Nghiên cứu thực tiễn của thế giới cho thấy, CNTB hiện đại ngày nay đã khác rất xa so với CNTB thời K.Mark sống và viết tư bản luận. Nó đã không còn như trước nữa, đã có một bước tiến rất dài về mục tiêu xã hội và phương thức xã hội hóa. Tức là đã gần hơn một cách đáng kể với CNXH. Họ đã tiến gần hơn đến CNXH không chỉ so với chính họ trước đây, mà kể cả so với các nước đã từng hoặc đang định hướng XHCN trên thế giới. Cũng tức là thực tiễn lịch sử đã và đang chứng minh tư duy của K.Mark về CNTB và CNXH là có cơ sở. Đó là ta nói về CNXH chân chính, lành mạnh, hợp quy luật, chứ không phải cái CNXH hình thức, nhân danh, giả mạo hoặc do tư duy và cách hiểu sai lầm, duy ý chí khá phổ biến lâu nay trong thực tế. Những tư duy sai lầm đó mãi đến nay, dù đã có những đổi mới nhất định, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thoát ra khỏi tư duy cũ. Việc này xin sẽ tiếp tục bàn sâu hơn trong một chuyên đề khác.

Trở lại vấn đề kinh tế thị trường. Trong CNXH, kinh tế thị trường sẽ có gì giống hoặc khác so với kinh tế thị trường trong CNTB? Nói trong CNTB là nói cái thực tế đã có. Nói trong CNXH là nói về cái dự báo, chứ chưa có. Dự báo thì dù có cơ sở khách quan vẫn thường chứa đựng cùng lúc cả khoa học và tư biện, chưa được kiểm nghiệm trong thực tế.

Kinh tế thị trường thì dù trong CNTB hay trong CNXH vẫn phải là kinh tế thị trường, chứ không thể là cái khác, không để biến tướng thành dị dạng tật nguyền. Bản chất là giống nhau. Cơ bản không khác nhau. Điểm khác nhau chủ yếu là ở trình độ phát triển. Trong đó, năng suất lao động, hiệu quả kinh tế-xã hội, phạm vi của thị trường và tính chất xã hội hóa là những nội dung hàng đầu.

Cũng xin nói thêm rằng, các mặt ấy, tức là về trình độ phát triển, thì hiện nay kinh tế thị trường ở nước ta và Trung Quốc còn thua xa nhiều nước mà ta gọi họ là TBCN. Đáng lưu ý hơn nữa là trong vòng 40 năm qua, nước ta dù có phát triển khá nhiều so với chính mình, nhưng lại vẫn bị tụt hậu xa hơn so với họ. Ta muốn thành CNXH thì phải hơn họ. Mà muốn hơn họ thì trước tiên là phải phấn đấu cho bằng họ. Và muốn bằng họ, trong khi ta đang ở phía sau, thì chỉ có một con đường là phải phát triển với tốc độ, nhịp độ và hiệu quả cao hơn họ. Việc đó không hề đơn giản, có người còn cho là ảo tưởng. Tôi nghĩ vẫn có cách nếu đủ thông minh. Phải có cán bộ giỏi, thật sự có năng lực, hết lòng tâm huyết với việc chung, không tham nhũng và “lợi ích nhóm”, cộng với việc biết tập họp, phát huy trí thức và sử dụng tối đa kinh nghiệm và chất xám của nhân loại.

XHCN trước nhất phải là kết quả của hoạt động trí tuệ sáng tạo, chứ nhất định không thể là bảo thủ giáo điều. Đương thời khi còn sống, K.Mark đã từng không phải một lần có nói rằng, ông làm khoa học, muốn dự báo khoa học, chứ ông không định làm “chủ nghĩa”. Ông nói ông không phải là người Mác-xít. Sau này, khi K.Mark đã qua đời, một số đồng chí của ông cho rằng, để chiếu cố phong trào công nhân, cần có một ngọn cờ lý luận, thì không ai xứng đáng bằng K.Mark, vậy là từ đó, người ta gọi các quan điểm của ông là “Chủ nghĩa Mác”.

Vũ Ngọc Hoàng, Hội nghị Trung Ương 5, Kinh tế nhà nước, Kinh tế tư nhân
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Lê Anh Dũng
Đại hội XII của Đảng CSVN đã khẳng định sự cần thiết của một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Đó là quan điểm đúng đắn nhằm bảo đảm cho kinh tế thị trường không bị biến dạng bởi sự chủ quan duy ý chí. Tiếp đến, nếu phân loại sâu hơn thì, kinh tế thị trường trong CNXH sẽ là một nền kinh tế thị trường xã hội. Trong đó, có vai trò đáng kể của nhà nước đối với việc điều tiết nền kinh tế vì mục tiêu xã hội. Nhà nước điều tiết một cách khoa học chứ không phải can thiệp thô bạo vào thị trường, càng không làm thay hoặc chống lại thị trường. 

Chính sách của nhà nước phải phù hợp với kinh tế thị trường, dựa vào các quy luật của thị trường để điều tiết chính nó. Nhà nước không kinh doanh, không để các cơ quan hành chính đi kinh doanh, các cơ quan chuyên chính càng phải thế. Việc chính của nhà nước là tạo điều kiện cho mọi chủ thể trong xã hội được kinh doanh thuận lợi, bình đẳng thật sư, không bị thị trường ngầm, không có buôn gian bán lậu, càng không để cho cán bộ của nhà nước tham gia hoạt động trong và cho các “nhóm lợi ích”.

Trong nền kinh tế thị trường đó, năng suất lao động, trình độ ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiệu quả kinh tế-xã hội, phạm vi của thị trường và tính chất xã hội hóa phải cao hơn các nước phát triển hiện nay.

Quản trị quốc gia là cần thiết. Nước nào cũng vậy. Nhưng không thể tư duy rằng, có sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước là đương nhiên thành một đặc trưng của kinh tế thị trường trong CNXH. Cách suy nghĩ này có phần chủ quan, không biện chứng. Giống như cách lý luận rằng, cái do ta làm ra là cái tốt nhất. Chắc gì! Nếu lãnh đạo và quản lý đúng, phù hợp quy luật khách quan, thì mới có nền kinh tế thị trường trong CNXH. Còn nếu lãnh đạo và quản lý không đúng, bị sai lầm, thì sẽ không có nền kinh tế như ta mong muốn.

Sự lãnh đạo và quản lý chưa thể là một đặc điểm của nền kinh tế. Đặc điểm của nền kinh tế sẽ hình thành trong thực tế một cách khách quan, nó không phải là sự lãnh đạo và quản lý của ai, mà là kết quả của sự lãnh đạo và quản lý ấy thế nào.

Đón đọc tiếp kỳ 2: Ông Vũ Ngọc Hoàng bàn về lòng tin đối với nhà nước

Vũ Ngọc Hoàng 

(Tuần Việt Nam)