18 tháng 12, 2016

Hiệu Minh - Người đẹp Ngọc Trinh đi lấy chồng


Kết quả hình ảnh cho người mẫu ngọc trinh

Tin Ngọc Trinh định lên xe hoa với một tỷ phú lan tỏa nhanh hơn cả Tổng thống Trump tốc váy đàn bà hay chỉ định nội các Hoa Kỳ. Cua Times viết vài dòng câu views.

Đôi lần tâm sự với Osin Huy Đức, anh có nói, nếu bị bắt, an ninh chỉ cần đưa Ngọc Trinh với thân hình bốc lửa, anh sẽ khai tuốt tuồn tuột mà không cần tra tấn.

Nay nàng định lấy chồng, tôi viết mấy dòng chia buồn với anh. Có lẽ Osin sẽ không bao giờ khai nữa.

Quay lại chuyện Ngọc Trinh, cũng là chuyện đôi lứa của người ta, xía vô là không hay.

Nhân loại ấy nhau cả ngàn năm nay có tình yêu, có tính toán, có tiền bạc, có trái tim vàng và túp lều tranh, có vàng tấn, kim cương tạ. Lôi chuẩn của nhà mình ra áp cho nhà người khác là không nên.

Năm 2008 lên New York chơi với anh Mẫn (Vũ Duy Mẫn) được anh đưa đi chơi bên khu Queens có nhiều nhà tỷ phú mà từ cổng vào tới nhà phải đi xe hơi. Phim God Father (Bố già) được dựng trong khung cảnh ở Queens.

Có một nhà anh giới thiệu là tài sản của tỷ phú J. Howard Marshall II đẹp và thơ mộng nhìn ra biển New York.

Cô Anna Nicole Smith là người mẫu Playboy chuyên hở hang để chụp ảnh. Trong một lần đi xem nàng múa cột, tỷ phú mê và liên tục gửi hoa và quà tặng.

Nàng bỏ chồng và cưới tỷ phú như nàng nói với báo giới là vì tình yêu. “Anh” John khi đó 89 tuổi ngồi xe lăn cưới nàng Anna 26 tuổi (1994) dù con cái ra sức phản đối vì cho Anna cưới ông vì tiền.

Theo tin đồn, nàng không ngủ với “chàng” lần nào, chỉ hôn môi không quá 10 lần, ít khi ở nhà cùng với tỷ phú.

Một năm sau “chàng” ra đi, cuộc chiến về tài sản 14 tỷ đô la của Marshall bắt đầu giữa các con và Anna Smith. Các phe phái tranh nhau và kết thúc Anna chẳng được một xu nào cho dù cô nói, tỷ phú từng hứa bằng “mồm” sẽ cho một nửa số tiền 1,6 tỷ đô la.

Anna bị chết năm 2007 do dùng ma túy quá liều, một phần do hôn nhân và tranh chấp tài sản, con bị chết yểu, mang tình yêu xuống mồ cùng tỷ phú Marshall, và chẳng biết họ có gặp nhau.

Anna và John. Ảnh: Internet
Anna và John. Ảnh: Internet
VN có chuyện tương tự nhưng kết có hậu. Có một em 16 cũng tính như Anna và lấy cụ 70 tỷ phú. Nàng nghĩ, với sức mình thế này, mấy sức lão kia chịu được. Thế là lấy nhau và huỳnh huỵch ngày đêm.

Lão kia không chết, gặp gái trẻ lão càng trẻ ra. Nàng có chửa và đẻ con. Lão sống tới 95 tuổi và thêm 1 đứa nữa.

Nàng ở vậy nuôi hai con vì đã quá lứa “chó nó lấy”. Nhân tính không bằng trời tính🙂

Nhân thể bonus cho bạn đọc câu chuyện xóa đói giảm nghèo ở vùng cao do anh Phúc rỗ ở Bộ KH Đầu tư kể hồi tham dự hội nghị WB và VN tại Sapa năm 2003. Kể rồi nhưng kể lại cho vui.


Giấc mơ xoá đói giảm nghèo (CPRGS dream)

Trong lớp cấp một, cô giáo hỏi, lớn lên các em mơ uớc gì. Có em mơ là BS, kỹ sư, nhà khoa học, nhà báo và cả blogger.

Một em gái chỉ mơ có đầy lông trên ngừơi. Cô giáo hỏi tại sao.

Em kể là bên cạnh nhà em có nhà rất giầu vì có một chị làm cave ngoài tỉnh. Một hôm sang tắm nhờ, nhìn thấy chị ấy cũng tắm và có chút lông ở dưới.

Em hỏi: tại sao chị có lông mà em không có. Chị trả lời, lớn lên em cũng có thôi, nhưng chỉ nhờ chút lông ấy mà chị ấy nuôi cả nhà đấy.

Em nghĩ có một tý lông mà nuôi được cả nhà, nếu em có đầy lông trên người chắc nuôi cả nhà và làm giầu cho cả xóm cũng nên.

Hiệu Minh

(Blog Hiệu Minh)

Chủ Nhật, ngày 18 tháng 12 năm 2016


Hết tiền, Cuba đề nghị « Trăm năm rượu Rhum » cho CH Sec



(AFP 16/12/2016) Do đã cạn tiền, La Habana muốn trả một phần nợ cho Cộng hòa Sec bằng thứ hàng hóa đặc biệt là rượu Rhum. Nếu toàn bộ số nợ của Cuba được trả bằng cách này, người dân CH Sec sẽ có được trữ lượng rượu Rhum để dùng trong 130 năm tới.

Chính quyền Cuba đã đề nghị Cộng hòa Sec cho trả một phần nợ cũ bằng hàng hóa, trong đó có rượu Rhum. Bộ Tài chính CH Sec hôm thứ Sáu 16/12 tiết lộ như trên. Theo thông cáo mà AFP nhận được, « Phía Cuba giới thiệu một danh sách nguyên vật liệu, trong đó có nhiều nhãn hiệu rượu Rhum ».

Báo chí CH Sec ước lượng số nợ Cuba còn thiếu là khoảng bảy tỉ cua-ron (260 triệu euro), nhưng theo bộ Tài chính thì tổng số tiền chưa được xác định, vì các cuộc thương lượng về con số cụ thể và phương thức hoàn trả chỉ mới được mở ra từ cuối năm ngoái.

Món nợ này phần lớn là do các trao đổi thương mại giữa Cuba với Tiệp Khắc – quốc gia từ năm 1993 đã tách làm hai Nhà nước là Cộng hòa Sec và Slovakia.



Một thế kỷ rượu Rhum cho người Tiệp

Nhật báo lớn nhất CH Sec là Dnes dẫn lời bà thứ trưởng Tài chính Lenka Dupáková, cho rằng khả năng trả nợ bằng rượu Rhum Cuba là « thú vị », tuy nhiên không thể thanh toán toàn bộ khoản nợ theo cách này. Bà nói : « Đó là những nhãn hiệu tương đối ít được biết đến, có thể là rượu ngon, nhưng chúng tôi phải làm cả công việc quảng bá và thường là phải tung ra thị trường ».

Tờ báo nhấn mạnh, CH Sec – một đất nước nổi bật nhờ tỉ lệ tiêu thụ bia trên đầu người cao nhất thế giới – năm ngoái đã nhập khẩu 892 tấn rượu Rhum Cuba với tổng giá trị hai triệu euro.

Nếu toàn bộ số nợ của Cuba được trả bằng rượu, người dân CH Sec sẽ có được trữ lượng rượu để dùng dài dài trong 130 năm tới.
Theo Rfi

Chính sách "Một Trung Quốc" là gì?

pic

Tổng thống Jimmy Carter, trong ảnh chụp với lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình năm 1987, chính thức hóa quan hệ Mỹ-Trung

Với việc Tổng thống tân cử của Hoa Kỳ Donald Trump tỏ ý cho thấy chính sách "Một Trung Quốc" có thể bị đặt câu hỏi, BBC giải thích chính sách hết sức nhạy cảm này.

"Một Trung Quốc" là gì?
Đó là sự công nhận trên phương diện ngoại giao quan điểm của Trung Quốc rằng chỉ có duy nhất một quốc gia Trung Quốc, còn Đài Loan là một phần của Trung Quốc.
Theo chính sách này, Hoa Kỳ có quan hệ chính thức với Trung Quốc thay vì có quan hệ với Đài Loan, nơi mà Trung Quốc luôn coi là một tỉnh ly khai và rồi sẽ có một ngày trở về với Trung Hoa đại lục.
Theo chính sách này, Washington duy trì một mối quan hệ không chính thức nhưng gắn bó với Đài Loan, gồm cả việc tiếp tục bán vũ khí cho Đài Bắc.
Chính sách thừa nhận quan điểm Một Trung Quốc không những là nền tảng then chốt trong quan hệ Trung - Mỹ mà còn là nền tảng cho việc hoạch định đường lối chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.
Mặc dù chính quyền Đài Bắc tuyên bố Đài Loan là một quốc gia độc lập với tên gọi "Trung Hoa Dân quốc", bất kỳ nước nào muốn có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đều phải cắt đứt quan hệ chính thức với Đài Loan.
Điều này dẫn đến Đài Loan bị cô lập về mặt ngoại giao trong cộng đồng quốc tế.
Chính sách này bắt nguồn từ đâu? 

pic
Cờ Đài Loan mang biểu tượng của Quốc dân đảng, là đảng đầu tiên thành lập ra chính quyền Đài Loan
Chính sách này có từ 1949, vào lúc cuộc nội chiến ở Trung Quốc kết thúc. Quốc dân đảng thất bại, chạy về Đài Loan và lập chính phủ riêng, trong lúc phe Cộng sản tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại đại lục. Cả hai đều tuyên bố mình đại diện cho toàn bộ Trung Quốc.
Kể từ đó, Trung Quốc đã đe dọa dùng vũ lực nếu Đài Loan tuyên bố độc lập một cách chính thức. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng duy trì chính sách ngoại giao mềm dẻo hơn với Đài Loan trong những năm gần đây.
Lúc đầu, chính phủ nhiều nước kể cả Hoa Kỳ công nhận Đài Loan và xa lánh Trung Quốc cộng sản.
Nhưng rồi làn gió ngoại giao đã đổi hướng khi Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng có nhu cầu phát triển quan hệ với nhau trong đầu thập niên 1970. Nhiều nước đã cắt đứt quan hệ với Đài Bắc để lập quan hệ với Bắc Kinh.
Tuy vậy, nhiều nước vẫn tiếp tục quan hệ không chính thức với Đài Loan qua những văn phòng thương mại hay viện văn hóa, và Hoa Kỳ vẫn là đồng minh an ninh quan trọng nhất của Đài Loan.
Hoa Kỳ bắt đầu theo chính sách Một Trung Quốc từ khi nào? 
Tổng thống Jimmy Carter, trong ảnh chụp với lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình năm 1987, chính thức hóa quan hệ Mỹ-Trung
Sau nhiều năm có quan hệ nồng ấm hơn, Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Bắc Kinh vào năm 1979 dưới thời Tổng thống Jimmy Carter.
Kết quả là Hoa Kỳ phải cắt đứt quan hệ với Đài Loan và đóng cửa sứ quán tại Đài Bắc.
Nhưng năm đó, Hoa Kỳ cũng thông qua Luật Quan hệ với Đài Loan (Taiwan Relations Act), theo đó đảm bảo giành sự ủng hộ cho hòn đảo này. Về cơ bản, điều luật này quy định Mỹ phải giúp Đài Loan tự vệ - đó là lý do vì sao Mỹ tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan.
Mỹ tiếp tục duy trì sự hiện diện không chính thức ở Đài Bắc thông qua Viện Hoa Kỳ ở Đài Loan, một công ty tư nhân qua đó Hoa Kỳ thực hiện các hoạt động ngoại giao.

Kẻ thua người thắng là ai?


pic
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn điện đàm với ông Trump hồi đầu tháng 12/2016, phá lệ nghi lễ ngoại giao của Mỹ sau nhiều thập kỷ

Bắc Kinh rõ ràng là bên hưởng lợi nhiều nhất từ chính sách này, chính sách đã đẩy Đài Loan ra khỏi các kênh ngoại giao chính thức.
Đa số các nước trên thế giới, thậm chí cả Liên Hợp Quốc, không công nhận Đài Loan là một nước độc lập.
Đài Loan phải thực hiện nhiều động thái nỗ lực chỉ để được tham dự vào các sự kiện và tổ chức quốc tế như các kỳ Thế vận hội và Tổ chức Thương mại Thế giới.
Chẳng hạn đoàn Đài Loan thi đấu tại Thế vận hội được gọi là Trung Hoa Đài Bắc (Chinese Taipei) chứ không phải Trung Hoa Dân quốc.
Nhưng ngay cả khi bị cô lập, Đài Loan cũng không hoàn toàn là người thua cuộc.
Đài Loan duy trì quan hệ kinh tế và văn hóa năng động với các nước láng giềng, và dùng mối quan hệ nhạy cảm với Hoa Kỳ làm đòn bẩy để đạt được nhượng bộ.
Đài Loan tận dụng một nhóm nhỏ các nhà vận động hành lang có quyền lực ở Washington DC, trong đó có cựu Thượng nghị sĩ Bob Dole, người được truyền thông Mỹ đưa tin là đã giúp dàn xếp quan hệ dẫn đến cuộc điện thoại gần đây giữa ông Trump và Tổng thống Thái Anh Văn của Đài Loan.
Về phía Hoa Kỳ, nước này hưởng lợi từ mối quan hệ chính thức với Trung Quốc - đối tác cho vay và thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ - trong khi vẫn lặng lẽ tiếp tục ủng hộ Đài Loan.
Chính sách Một Trung Quốc là một động thái cân bằng rất tế nhị mà Hoa Kỳ đã hoàn thiện trong những thập niên qua. Chính sách này sẽ tiếp tục được áp dụng ra sao dưới thời ông Trump là điều cần phải được chờ xem.

(From donghoavangtt Blog/https://plus.google.com)

17 tháng 12, 2016

Một tay sát thủ ‘tự do báo chí’

Bùi Tín
17-12-2016
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Tự do báo chí vẫn còn là một món hàng xa xỉ phẩm ở Việt Nam. Thế giới vẫn xếp Việt Nam gần hạng chót (168) trong số 182 nước trên thế giới về tự do báo chí. Gần đây không những các nhà báo tự do thuộc “lề trái” bị lên án, bôi nhọ, hăm dọa, bắt giam dài dài mà các nhà báo của “lề phải”, trong biên chế Nhà nước cũng bị trừng phạt nặng nề, đến mất chức và mất nghề luôn.
Dẫn chứng không thiếu. Đó là trường hợp nhà báo trẻ Mai Phan Lợi, phóng viên của báoPháp Luật (Sài Gòn), làm việc tại Hà Nội. Khi xảy ra tai nạn 2 máy bay quân sự của Việt Nam mất tích, anh đưa tin một cách khách quan và phát động một sáng kiến mà anh gọi là một cuộc ”thăm dò, khảo sát dư luận về chuyện 2 máy bay bị tan xác” này. Thế là anh bị lên án là vô trách nhiệm, bị mất chức, bị thu hồi thẻ nhà báo, chỉ vì đã dùng 2 chữ ”tan xác”. Anh bị lên án vì họ cho rằng anh dùng chữ ”tan xác” cho cả các sĩ quan đi trên máy bay bị tai nạn chưa rõ nguyên nhân trên đường làm nhiệm vụ, không thông cảm với những đau buồn trong tang tóc của gia đình, đồng đội và đồng bào. Cũng có giọng điệu chụp mũ vu cáo rằng phải chăng anh Mai Phan Lợi đã “ăn phải bả bọn phản động” khi tỏ ý nghi ngờ rằng 2 tai nạn trên có thể là do bọn bành trướng Trung Quốc gây ra đúng vào lúc Bắc Kinh tiến hành tập trận hải lục không quân trong vùng. Nghi ngờ ông bạn vàng của đảng Cộng sản Việt Nam là tội rất nặng. Không cần tòa án, không cần luật pháp, không có xét xử, không có tranh tụng công khai, nhà báo trẻ Mai Phan Lợi bị tai họa như trời giáng, để ngậm đắng nuốt cay suốt cuộc đời còn lại.
Trước đó ít lâu, nhà báo Đỗ Hùng, Phó Tổng thư ký tòa soạn báo Thanh niên điện tử, bị kỷ luật, thu hồi thẻ nhà báo, mất chức chỉ vì đưa lên Facebook riêng của anh một bài viết ngắn gồm toàn các chữ có dấu sắc, nhân kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 70 (2/9/1945 – 2/9/2015).
Anh bị Bộ Thông tin và Truyền thông kết tội xuyên tạc và xúc phạm Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Xin dẫn ra đây cả bài viết ngắn ấy để bạn đọc đánh giá:
Bác Ái Quốc, tướng Giáp với mấy chú, mấy mế Pác Bó vác cuốc, vác giáo mác, vác súng ống xuống đánh phá phát xít, đánh Pháp, cướp lấy khí giới, cướp thóc, chiếm bót, cứ thế đánh tới bến.
Đánh tới cuối tháng Tám, bác Ái Quốc với các chú kéo xuống Giáp Bát chiếm phố, chiếm bót phát xít, chiếm hết. Bác ấy nói: “Các chú thắng phát xít, thắng Pháp quá xuất sắc”.
Tới tháng Chín, bác ấy xuống phố bố cáo Quốc khánh. Bác ấy nói: “Đất nước hết chiến đấu, hết đói kém, Phát xít cút, đế quốc cút, các mế, các chú, các cháu bé hết khóc lóc. Thế giới bác ái”.
Nói tới đó bác Ái Quốc thắc mắc: ”Bác nói thế, các chú, các mế, các cháu có thấy quá lí nhí?”. Bá tánh phía dưới đáp: ”Chúng cháu thấy bác nói rất lớn. Nói thế quá tốt”. Tướng Giáp đứng kế đó thét lớn: ”Quyết chiến! Quyết thắng!”.
Tất cả chỉ có thế.
Và chuyện gần đây nhất là nhà báo Phùng Hiệu, quyền đại diện báo Nhà báo và Công luận, cũng chỉ vì tính bộc trực cho rằng Fidel Castro là ”một nhà độc tài bảo thủ, tôn thờ chủ nghĩa Mác một cách mê muội”. Anh bị kỷ luật, bị dọa rút thẻ nhà báo vì dám xúc phạm một “lãnh tụ vĩ đại, người bạn thân thiết của đảng Cộng sản và của nhân dân Việt Nam”. Tổng Biên tập báo Nhà báo và Công luận Nguyễn Ngọc Nuôi cũng bị vạ lây, bị buộc nghỉ việc 1 tháng để ngồi làm kiểm điểm do bị coi là có liên quan đến sự cố trên đây.
Theo ý kiến của nhiều mạng tự do trong nước, trong số những kẻ sát thủ tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay, mạnh tay nhất là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn, người từng lớn tiếng bênh vực Công ty Formosa và gần đây được giao thêm một chức vụ đảng là Phó ban Tuyên giáo Trung ương. Viên bộ trưởng này không những chỉ nhằm vào các blog tự do lề trái mà còn rất mạnh tay trừng phạt thuộc cấp của mình ở lề phải. Đây là một sự mẫn cán kiểu tiểu nhân, nhằm lập công với đảng và quan thầy để may ra có thể lên chức thay Võ Văn Thưởng trên cương vị Trưởng ban Tuyên giáo, với hy vọng chui vào Bộ Chính trị trong tương lai.
Chỉ có dưới thời của sát thủ tự do báo chí của Bộ trưởng Trương Minh Tuấn mới có chuyện 50 tờ báo đưa tin không chính xác về nước mắm bị nhiễm độc arsen (thạch tín) bị phạt hàng chục tỷ đồng sau khi đã cải chính và xin lỗi bạn đọc. Báo Thanh Niên bị phạt nặng nhất – 200 triệu đồng – Tổng Biên tập Nguyễn Quang Thống bị khiển trách, Phó Tổng Biên tập Đặng Việt Hoa bị cảnh cáo, Tổng Thư ký tòa soạn Võ Khối bị cách chức. Tất cả những biện pháp trừng phạt này được áp dụng mà không cần có một phiên tòa hình sự nào, chỉ cần chữ ký của bộ trưởng kiêm Phó Ban Tuyên giáo Trung ương đảng là xong. Ông ta đứng trên luật pháp, tự cho mình cái quyền sát phạt bất kỳ nhà báo nào. Chính ông ta là kẻ kết thúc cuộc đời làm báo của nhà báo kỳ cựu Kim Quốc Hoa, từng làm tổng biên tập của 6 tờ báo: Chiến sỹ Hậu cần, Tuổi trẻ Thủ đô, Lao động Xã hội, Xây dựng Doanh nghiệp và Người cao tuổi. Kim Quốc Hoa là nhà báo đầy dũng khí từng khui ra 1.500 vụ tham ô tiền của và đất đai, dám lao mình vào vụ Nguyễn Trường Tô ở Hà Giang và Trần Văn Truyền ở Bến Tre để bị ”tử thương” một cách bi đát giữa trận tuyến oai hùng, bi đát đến mức bà Cù Thị Hậu, Anh hùng Lao động, Chủ tịch Hội người cao tuổi can thiệp bênh vực mà không cứu nổi.
Một cuộc sát phạt báo chí quy mô rộng lớn dưới bàn tay sắt của kẻ sát nhân tự do báo chí “mặt sắt đen sì” Trương Minh Tuấn đang làm rung chuyển cả làng báo Việt Nam giữa cái gọi là “thời kỳ đổi mới”. Thật ra thì ông Trương Minh Tuấn đang làm một việc dại dột, đẩy không ít nhà báo lề phải sang lề trái, vì ý muốn tự do là tự nhiên ở mỗi con người, nhà báo chân chính nào cũng muốn là chính mình, không phải bắt chước ai, nói theo ai, khi ký tên riêng của mình dưới mỗi bài báo, con đẻ tinh thần yêu quý của chính mình.

Ông Phùng Xuân Nhạ khai man học vị


Ngay sau khi nổ ra vụ các cơ giáo mầm non bị giới lãnh đạo Hà Tĩnh điều động đi tiếp khách, với yêu cầu về “nhiệm vụ chính trị” như thể “chăm khách như chăm bé”, Bộ trưởng giáo dục Phùng Xuân Nhạ đã khiến dư luận phẫn nộ khi tỏ ý bao che cho những kẻ điều động càn.


Trả lời báo chí về việc nữ giáo viên hầu rượu, ông Nhạ phát ngôn:

“Việc này hoàn toàn không phù hợp nhưng cũng chưa tới mức độ trầm trọng. Những cái không phù hợp với giáo viên đều không được chấp nhận. Các thầy cô phải tự xem xét lại chính mình, khi thấy không đúng thì phải đề nghị, kiến nghị. Còn lãnh đạo địa phương cứ ép thì mình phải kiến nghị lên, chứ mình thực hiện là vi phạm. Khi đã giữ nguyên tắc phẩm chất mà vẫn bị lôi kéo, ép buộc thì trước hết phải hỏi trách nhiệm của thầy cô đã, xong đó mới tính đến người ép buộc. Tôi đề nghị nghiêm túc từ trong ngành, từng thầy cô một phải nghiêm túc đã. (ngày 14.11.2016)

Một lần nữa, kể từ khi ông Phùng Xuân Nhạ tiếp nhận chức vụ bộ trưởng từ tháng 3 năm 2016, nhiều dư luận đặt dấu hỏi về “thành tích” mà ông đã đạt được, về văn bằng sau đại học của ông và ngày càng dấy lên những đòi hỏi về ông Nhạ phải từ chức.

Trong quá trình làm việc ở Bộ giáo dục và Đào tạo, ông Phùng Xuân Nhạ có tiếng là một người… im lặng. Mà trong hệ thống đảng và chính quyền, im lặng đã trở thành một tiêu chuẩn bất thành văn để tạo nấc thang leo lên cho các quan chức.

Mới đây, một nguồn tin trên mạng xã hội đã truy tìm hồ sơ học vị của ông Phùng Xuân Nhạ và đặt ra nhiều dấu hỏi:

Năm 2002, ông Phùng Xuân Nhạ khai là “Sau Tiến sĩ” (Fulbright Scholar), Georgetown University (USA). Nhưng chỉ là được nhận vào chương trình học bổng Scholarship trao đổi học sinh, do Đại Sứ Quán Mỹ tổ chức tại Việt Nam. Ông Nhạ có tên được nhận chương trình Scholarship trao đổi học sinh của Đại Sứ Quán Mỹ, nhưng chưa bao giờ học tại Mỹ. Do đó, ông khai là “Sau Tiến sĩ” là khai man.

Ông Phùng Xuân Nhạ khai năm 2000: Tiến sĩ; Viện Kinh tế Thế giới; Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế.Vào thời điểm này ông Nhạ chỉ là giáo viên ở Đại Học Tổng Hợp Hà Nội (cũ), tức Đại Học Quốc Gia Hà Nội khi đã đổi tên. Trong năm 1999, ông được cấp bằng Tiến Sĩ Kinh Tế nhưng lại chưa học qua thạc sĩ?

Ông Phùng Xuân Nhạ khai năm 1994: Sau Đại học Manchester University (UK); Chuyên ngành: Kinh tế phát triển. Thực tế là năm 1994, ông Nhạ ghi danh học trường Manchester University (UK) chi nhánh ở Nga, chứ không phải ở UK. Ông không hề ra trường cử nhân tại Manchester University (UK), mà chỉ là ghi danh học với Transcript là bằng Cử Nhân ở Đại Học Hà Nội.

Ông học trường Manchester University (UK) với Certificate kinh tế tương đương cấp Trung Học “Graduate diploma in economy from Manchester University in the UK”.

Ông khai có bằng Sau Đại học Manchester University (UK). Sự thật ông chưa đậu bằng Cử Nhân nào ở Manchester University (UK), thì không thể gọi là 

“Postgraduate Diploma in Economics” ở trường này. Ông chỉ có thể được gọi là “Postgraduate Diploma in Economics” ở Đại học Hà Nội mà thôi!

Ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam vẫn bết bát và lao dốc chưa từng có trong lịch sử của nó. Trước đây là Phạm Vũ Luận, và đến giờ là Phùng Xuân Nhạ. Không có một cải thiện nhỏ nào được làm, mà tất cả chỉ đều là hứa hẹn và sau đó là… đòi tiền ngân sách.

Đã đến lúc không chỉ một bộ trưởng như ông Phùng Xuân Nhạ phải bị thay thế, mà ngành giáo dục Việt Nam phải được “thay máu” toàn diện.

Lê Dung

“Khách quan, biện chứng” của TBT Nguyễn Phú Trọng ở đâu?


BÙI VĂN BỒNG
          Muốn biện minh, lý giải, đưa ra những ‘biện chứng, khách quan, bối cảnh, tình hình” kiểu gì; cho dù nhét lý luận vào ý định chủ quan rồi biện lý ‘quy luật’ này, ‘phạm trù’ kia để cho là ‘thực tiễn, khoa học’, thì cái Quyết định 244 quy định danh sách nhân sự sắp sẵn ‘dội từ trên xuống’ là sự trắng trợn tiếm quyền lãnh đạo cho cá nhân, phe nhóm, sự áp đặt chủ quan rõ nét. Làm như thế, vừa thẳng cánh vi phạm nguyên tắc, điều lệ đảng, lại mất dân chủ (ngay trong đảng) rất nghiêm trọng.
               Mới đây nhất, TBT Nguyễn Phú Trọng lại “bật mí” với ‘toàn đảng’ những từ chung chung, trừu tượng như: vì “Đại cục” (bắt chước Trung Quốc), “tự diẽn biến”, “tự chuyển hoá”…(Vậy, đã “khách quan, biên chứng” chưa? Quan điểm thực tiẽn ở đâu?).
            Nghị quyết của đảng xưa nay nặng về ‘thuyết minh câu chữ’ cho kêu, cho hay, tự ca ngợi thành tích một chiều, thắng lợi, thành công tốt đẹp…nhưng không sát thực tế nền kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều vẫn đề khác trong cuộc sống. Nhưng ngay cái cách khóa trước chọn nhân sự cho khóa sau, không cần qua đại hội, lập ‘danh sách đóng đinh, kẹp chì’ rồi bắt bên dưới phải bầu. Không một đảng viên nào, kể cả Ủy viên Ban chấp hành Trung ương, Thường vụ các cấp từ trên xuống dưới  được đề cử hay ứng cư thêm ai ngoài danh sách đã chốt chặt, mặc định sẵn.
Thế thì nguyên tắc, điều lệ gì? Sao mà đến nhân sự cũng cố tình thoát ly khỏi thực tế, chỉ từ một hoặc vài mấy cái đầu phe nhóm chụm lại, bàn xong thì “Number One”, xong, tuy chỉ nằm trên giấy, nhưng thuộc diện ‘bỏ cối không trật’.
Đó là sự nguy hiểm khi lãnh đạo đảng coi thường thực tiễn, nhất là thực tiễn cơ sở. Bộ chính trị cũng như các cấp Thường vụ khóa mới thì chỉ khoanh trong ‘bộ sậu’ cũ, như diễn viên chuyên nghiệp đoàn kịch-phim, chỉ khác: Thay vai mà thôi!
Vậy, hoá ra, khi học về triết học Mác-Lê, thầy dạy cứ nhân mạnh “Thực tiễn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Mác”, nhưng nay họ coi thực tiễn chẳng là cái đinh gì?  
Có những vấn đề lý luận thấy phân tích cũng hay, nhưng khi nhìn vào thực tế lại thấy lý luận vẫn một đường, thực tế lại nằm ở nẻo khác. Đọc Nghị quyêt thì hầu như cả chục năm sau nhiều nội dung vẫn thấy giống nhau, sự rập khuôn, công thức, na ná, phần nhiều soạn lai kiểu ‘tầm chương trích cú’ rất khó chịu, nhàm! Trong khi thực tiễn cuộc sống lại không ngừng biến đổi. Cho nên, mỗi khi tự đem soi lý luận với thực tự cuộc sống, thấy vẫn còn nhiều tắc, vướng, có những điều còn khó lý giải, nhất là từ cảm thụ, nhận thức, suy lý đến quan sát.
Tôi vẫn ghi nhận cái lý đúng đã được đức kết: “Lý luận thì xám xịt, mà cây đời mãi mãi xanh tươi”. Một suy nghĩ khác mà tôi cũng phải tự nhắc mình phải rất thận trọng, phải nghĩ đi nghĩ lại. Đó là khi nói đến cộng sản, một chủ nghĩa, một lý tưởng thường chỉ được ngợi ca một chiều như phụng sự. Một thời khá dài, cả mấy chục thập niên, mỗi khi nói đến Đảng cộng sản cần phải biết có chạm ‘vấn đề nhạy cảm’ hay không? Nói đụng đến còn e dè, sợ sệt hơn đụng vào bệ Thánh, tượng Phật,  “đụng” đến sự thiêng liêng nào đó ghê gớm lắm. Mà nếu nói đến Đảng cộng sản phải nói và viết theo những gì người ta (ý kiến bí thư, thường vụ, nhà lãnh đạo, nhà giáo huấn, nhà tổ chức) đã nói và viết, phải đúng đường lối, đúng nghị quyết, không cẩn thận sẽ bị đánh giá là sai quan điểm, đường lối, sai nguyên tắc quy định, nói sai nghị quyết, và không khéo bị truy chụp là chống Đảng, bị nhắc nhỏ, xem xét, nặng hơn là đưa ra kỷ luật, thậm chí lập tức hốt liền, nhốt ngay, truy tố, lôi các điều 258, 88, 79 trong Bộ luật hình sự ra chụp thẳng lên đầu.
Thử hỏi các nhà ăn lương chuyên viết nghị quyết đảng: khi đặt ra yêu cầu mọi người phải tin và làm theo đường lối, liệu đã chắc chắn rằng đường lối như thế là đúng nhất, là chuẩn xác, là hay nhất, sát với thực tiễn đời sống xã hội hay chưa? Nếu chỉ là ‘suy ngẫm trên đường phố, viết lách trong phòng lạnh, mắt dán vào đống sach, giấy’ thì rõ ràng thiếu hẳn thực tiễn đời sống đang diễn ra sội động hàng ngày. Cái bản chất vốn có như trời sinh ra là cuộc sống xã hội sinh động, phong phú, không ngừng biến động, lại bị đưa vào những câu chữ lý luận khô cứng, sáo mòn, rập khuôn đến mức bị đứng im, đóng khung bất động. Chỉ riêng như vậy cũng là sự thể hiện không biện chứng về các quy luật, phạm trù: Vận động và đứng im; sự  thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; về nguyên nhân và kết quả…Mà những thứ quy luật, phạm trù này có lẽ ít ai thuộc làu làu bằng nhà giáo triết-chính trị, GS.TS Xây dựng đảng Nguyễn Phú Trọng.

Chỉ có từ trong thực tiễn mới thể hiện những diễn biến nội tại trong những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội. Viết như trên đây, nếu như ai đó đánh giá là có động cơ xấu với Đảng, trước hết tôi không tán thành cách nghĩ và cách nhìn áp đặt đầy chủ quan, phiến diện ấy, vì thực chất người viết bài này xuất phát từ ý thức xây dựng Đảng. Tôn trọng tự do tư tưởng chính là bản lĩnh cần có ở những người cộng sản, bởi đó chính là vấn đề từ trong thực tiễn, quy luật của tự nhiên. Tư tưởng con người không phải là bất di bất dịch, mà luôn luôn thay đổi tùy bối cảnh xã hội và những tác động khách quan từ cuộc sống. Miệng cứ nói ra rả những “khách quan, biện chứng” nhưng thoát ly hẳn, xa rời thực tế, ngay trong đảng cũng không biết phân biệt, đánh giá tốt-xấu, phải-trái, thẳng thắn và nịnh hót, …coi như đi ngược quy luật, tự phá ngang quy luật.
Người cha Các Mác, ông Heinrich Mordechai, cũng rất nhạy cảm khi ông biết phải tự chủ, đổi mới, coi trọng những phát sáng mới về tư tưởng sao cho phù hợp nhất với chính kiến của mình, trong đó thể hiện tính xu hướng khá rõ. Ông là con người rất thực tiễn. Ngay như việc theo đạo của ông Heinrich cũng thể hiện chữ “thời” và quan điểm tự cải biến tư duy rất rõ. Ông có nguồn gốc nhiều đời là giáo sỹ Do Thái, đã cải đạo sang Ki-tô giáo, dù ông có nhiều xu hướng thần luận. Nhưng khi luật của nước Phổ không cho phép người Do Thái làm về luật pháp, ông đổi sang đạo Lutheran. Sự thường trực của chí quyết tự chủ cải biến tư tưởng suy cho cùng là con người cách mạng. Ông không khô cứng, đã xác định theo đạo nào là không thay đổi, mà cải đạo nhiều lần trong đời H.Mordechi chính là sự làm gương về ý thức cách mạng của Các Mác.
Với Các Mác, mọi việc trên dời đêu phải được nhìn nhận và xem xét từ trong thực tiễn cuộc sống xã hội. Vì thế, “thực tiễn là sợi cho chỉ đỏ” xuyên suốt trong toàn bộ học thuyết của Mác. Với phẩm chất ấy, Các Mác là người rất nhanh nhạy và ưa đổi mới, con người thực sự cách mạng. Các Mác viết “Tư bản luận” vào nửa cuối thế kỷ 19, là dựa trên cấu trúc hiện hữu của nền tảng xã hội thời kỳ đó, dưa trên hạn định tư tưởng và phương thức sản xuất cũng như diễn biến xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ thẩm định và tiếp cần xã hội thời kỳ đó. Nhưng nếu như Các Mác có viết “Tư bản luận” vào thời kỳ đầu thế kỷ 21 này chắc chắn ông ta sẽ lược bỏ những lý giải nhât thời mà thêm vào những luận thuyết mới rất sát với thực tế các nước tư bản trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Bởi vì hơn 200 năm trước, Các Mác lấy đâu ra thực tiễn xã hội hiện nay để đưa vào học thuyết? Nếu như bê nguyên xi những câu Các Mác nói và viết thời đó, không đem soi vào thực tế xã hội mà bản thân mình đang sống hiện nay thì rất dễ bị đem cái đã quá xưa, hợp thời lúc đó, tại bối cảnh đó mà áp đặt vào cái tân thời, nghĩa là sẽ bị lạc hậu hóa từ suy lý và hành động.
Cho nên, cần tránh những xem xét, nhìn nhận nặng về bảo thủ, giáo điều, một chiều, đánh giá những biểu hiện tự do tư tưởng, những đề xuất hoặc hành động cải cách, những tư tưởng sáng tạo, mạnh dạn vận dụng lý luận chính trị-xã hội vào thực tiễn là biểu hiện của “xét lại”, là chống Dảng (như vụ ông Kim Ngọc là một trong những vị điển hình). Cách nhìn nhận, đánh giá như vậy là biểu hiện đi trật nguyên lý chủ nghĩa Mác, là sự tự tách rời thực tiễn, quan liêu cũng từ đó mà ra. Một thực tế cũng cần được ghi nhận là phân biệt Chủ nghĩa Mác-Lê-nin với câu nói của nhà minh triết.
Chỉ có những người chuyên tâm lý luận đơn thuần, xa rời thực tế, đem chủ nghĩa Mác phổ truyền một cách khô cứng, rập khuôn, máy móc, công thức hóa chủ nghĩa Mác-Lê-nin, giáo điều và bắt chước theo kiểu con vẹt, mới tham mưu cho lãnh đạo những điều mà lẽ ra phải để cho lãnh đạo sáng tạo, phát huy năng lực từ trong thực tiễn. Bản chất của cách mạng là đổi mới. Bảo thủ, không đổi mới, hoàn toàn không phải làm cách mạng. “Hệ thống lý luận mở liên tục”, như Các Mác đã khẳng định trong luận thuyết của mình chính là sự thể hiện tính cách mạng của lý luận chủ nghĩa Mác-Lê-nin trên những tầm cao mới, với mỗi biến thiên phát triển tất yếu của các thời đại mới. Do đó, sức sống của chủ nghĩa Mác là trường tồn và kim chỉ nam cho mọi thời đại. Khi coi lý luận chủ nghĩa Mác là hệ thống liên tục mở, không chỉ bó hẹp trong các câu chữ một thời, vấn đề là phải xem các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản, kể cả các đảng viên cộng sản, các vị đứng đầu cấp ủy, chính quyền có thấy cần mở, dám mở, có biết cách mở hay không mà thôi. Nhận rõ quan điểm này của Các Mác, trên cái nền gọi là “mở” ra từ lý luận cơ bản ấy, giáo sư Tương Lai đã khẳng định: “Trí tuệ của Các Mác đang chắp cánh cho chúng ta”.
Theo Các Mác, thực tại không phải là một cảnh trạng do ai có thể tự tạo ra nó theo ý định chủ quan, mà là một tiến trình lịch sử diễn biến mãi không ngừng. Mấu chốt để nắm bắt thực tại là nắm bắt bản chất của biến đổi lịch sử. Cho nên, Chiến lược phát triển kinh tê-xã hội của Đảng ta vạch ra, cần được thường xuyên xem xét, bổ sung cho phù hopwj thực tế trên thế giới và trong nước, không nên cứ giữ nguyên cái bất biến trong nghị quyết để áp vào cái biến động thưởng nhật. Người lãnh đạo phải biết sự ra đời và vận hóa của các quy luật, nếu không, như trong 3 bài học quy luật mà cố Chủ tịch nước Trường Chinh đã đúc kết là “Làm trái quy luật, đi ngược lịch sử sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát”. Luận giải biện chứng của Các Mác là : “Quy luật có thể phát hiện được về sự biến đổi là biện pháp chứng, với sự vận động tạm thời lặp  đi lặp lại của tiền đề, phản đề và hợp đề. Biến đổi lịch sử không phải là ngẫu nhiên mà tuân theo một quy luật có thể phát hiện được. Điều giữ cho quy luật đó hoạt động không ngừng là sự phóng thể, chính nó bảo đảm rằng mỗi tình trạng kế tiếp sau cùng sẽ chấm dứt bằng những mâu thuẫn nội tại của nó”.
Suy cho cùng, “cuốn theo chiều gió” là con người phải đi kịp tiến trình lịch sử nhân loại và ý nguyện đa số cộng đồng xã hội, trên cơ sở không được tách rời thực tiễn và vận dụng các quy luật cuộc sống để chủ động vận hóa cho phù hợp, với cái điểm đích là chất lượng, hiệu quả cao nhất. Tiến trình đó vượt ngoài sự kiểm soát của con người nhưng bị đẩy tới trước bằng chính những quy luật nội tại của nó và con người bị cuốn theo nó. Bảo thủ là sức ỳ lớn. Sức ỳ càng lớn thì sự trì trệ, chậm tiến càng rõ nét. Và đó cũng chính là nguy cơ dễ bị triệt tiêu, nhường chỗ cho sự ra đời và phát triển của cái mới phù hợp, tuân thủ quy luật hơn. Đem mớ lý luận cũ đem soi vào những biến đổi của thực trạng xã hội mà không tuân thủ để đổi mới lý luận cho phù hợp, lại bắt thực tế phải theo đúng như lý luận đã lỗi thời, đó là sai lầm lớn. Cho nên, thực tiễn chính là biết cách nắm đúng, nắm nhanh, theo kịp tiến trình phát triển của xã hội. Ở đó, tiến trình được diễn tả như thế sẽ tiếp tục cho đến khi đạt tới một hoàn cảnh mà trong đó tất cả những mâu thuẫn nội tại phải được giải quyết nhanh. Lúc ấy sẽ đủ sức vượt lên lực ma sát của sự khô cứng lý luận, sự ấu trĩ, bảo thủ, trì trệ, và do đó tự nó (thực tiễn) sẽ trở thành lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản là sự chỉ ra con đường duy nhất đúng  của học thuyết Mác nửa cuối thế kỷ 19,  khi chưa thực tế thành công của cách mạng vô sản. Nhưng khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản đã nắm quyền lực xã hội, thì cách vận dụng và nhìn nhận quan điểm về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản phải khác, phải chuyển hẳn sang phương thức mới, nếu không sẽ chuyên chính với ngay chính giai cấp mình, giai cấp đã giao quyền lãnh đạo cho mình, trở thành “nồi da nấu thịt”, dẫn tới vi phạm quyền dân chủ ngày càng nặng nề, nghiêm trọng, đảng tự tách mình thành tầng lớp khác, không còn tình giai cấp vô sản nữa.
Lãnh đạo, chủ trương cho đến biện pháp của đảng vì động cơ toàn trị, độc quyền, vì muốn giữ chặt ‘song quyền’ (quyền lực, quyền lợi) mà quay lại chuyên chính với người dân, thủ tiêu đấu tranh phê bình, tự phê bình, bóp chẹt tự do ngôn luận, bắt dân phải chấp hành răm rắp những mệnh lệnh khô cứng và sai lầm, thì vô hình trung nhà lãnh đạo tự mình sinh ra cái bệnh nói không trung thực, nói không đi đôi với làm, nới một dằng làm một nẻo.
Muốn ‘không ai đụng đến ta’ thì ta phải có uy, dùng công an, quân đội để chỉ biết nghe lệnh đảng, riết rồi thành kiêu binh, thành thể chế ‘công an trị’, ai đi trái ý, dù chỉ là cấp ủy viên, bí thư đảng ủy, chi bộ phường, xã đã có công an ‘dàn xếp’ ngay!
Hậu quả để lại là dân cứ trách móc, than phiền, thậm chí chửi thẳng đảng, nhà nước. Thế nên dẫn đến mất uy tín do người lãnh đạo đã làm sai quan điểm, đường lối, đi ngược lại mục tiêu, quyền lợi giai cấp. Chính quyền do dân dựng lên lại quay lại tranh giành quyền lợi với dân, đàn áp người dân, là hoàn toàn mất bản chất cộng sản “của dân, do dân, vì dân”.
Nước ta đã tốn biết bao máu xương tiến hành đấu tranh giai cấp. Đừng để tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống là những cái mầm “tự diễn biến” tai hại, hình thành một thứ giai cấp bóc lột mới ngay trong lòng của Đảng cộng sản chân chính, ngày càng nặng tính đối kháng với giai cấp vô sản. Để rồi chính giai cấp vô sản lại phải làm cuộc đấu tranh chống lại đặc quyền đặc lợi kéo dây thành hệ thống để thực hiện công bằng xã hội. Tham nhũng, đặc quyền đặc lợi là đi ngược lại với xu thé không ngừng phát triển tiến bộ, dân chủ, văn minh của lpoài người. Theo PGs.Ts Lê Bỉnh: Đặc quyền, đặc lợi là sản phẩm tất yếu của một chế độ xã hội độc đoán, chuyên quyền, không có dân chủ.
Cái tâm lý sợ làm sai nghị quyết, cũng như bắt phải làm đúng theo nghị quyết, suy cho cùng là sự kìm hãm sáng tạo và trái quy luật tự nhiên của quá trình nhận thức, tư tưởng. Có những vấn đề, những nội dung khi đưa vào nghị quyết thấy cũng đúng, chấp nhận được, nhưng khi cuộc sống thực tế đã khác xa nhiều, có những diễn biến không còn phú hợp, liệu có kịp thời dám bổ sung, thay đổi nội dung và cách thức, lấy gia trị thực tiễn làm trọng.
Quy trình ngược của sự ấn định, áp đặt là “Đưa nghị quyết vào cuộc sống”. Đúng ra phải đưa cuộc sống vào nghị quyết, khi thực hiện nghị quyết cũng soi rọi lai qua thực tế của cuộc sông.
Hậu quả do chất lượng lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội ngay từ cấp vĩ mô quá kém có nguyên nhân cơ bản là xa thực tế, xa chính nhân dân, xa rời giai cấp của mình - lực lượng cách mạng hùng hậu của Đảng. Các Mác cũng đưa ra đánh giá: “Khi đạt tới hoàn cảnh không xung đột, con người sẽ không bị cuốn theo những lực lượng nằm ngoài sự kiểm soát của nó, mà lần đầu tiên nó sẽ làm chủ số phận của mình”. Tại sao những yếu kém, những suy thoái, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn xa lạ với bản chất cộng sản đã xuất hiện khá rõ nét trong Đảng cả gần thế kỷ rồi, nay vẫn ngang nhiên tồn tại, thậm chí ngày càng nặng nề, nguy hại hơn? Lãnh đạo mà không biết thương dân, không đi sâu, đi sát nắm bắt thực tế, ngại đi cơ sở, chỉ nắm tình hình qua báo cáo, nặng về hành chính, quan liêu, giải quyết cái gì cũng đầy chủ quan tùy tiện, không có hiệu quả thực tế, thậm chí ủng hộ cho cái sai, làm mất lòng dân thì hoàn toàn không phải là người cộng sản. Đừng để những yếu kém trong Đảng kéo dài, thành thứ bệnh nan y, như chứng ung thư hết thuốc chữa.
Vậy, nhìn lại thực trạng Đảng ta hiện nay,  hơn 3,6 triệu Đảng viên, các nhà lãnh đạo từ địa phương đến Trung ương, Bộ, ngành,… đã hòa nhập vào thực tế đời sống, như cấu thiết thân, tâm tư nguyện vọng của người dân lao động được bao nhiêu? Các sai lầm, khuyết điểm của Đảng ta đang phải chính đốn chỉ có trong thực tế mới chỉ ra được. Không ai hiểu rõ, nắm chắc, luận giải, sáng tạo, có nguồn tổng lực tiền của, công sức bằng nhân dân. Đừng nói đến thanh trừng, mà đây phải là sự mạnh dạn thanh lọc, phải kiên quyết và nhanh chóng đưa ra khỏi Đảng những đảng viên đã thoái hóa, biến chất, chỉ rập khuôn công thức, bảo thủ, giáo điều, lý luận suông, hô khẩu hiệu.
Cái bài quen đã xưa cũ và không mang tính Đảng là “đóng cửa bảo nhau”,  “xử lý nội bộ”, “trong tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ”, “đánh chuột sợ vỡ bình”…là trò ụ xọe, bao che cho nhau, cố thủ bè cánh, nhóm lợi ích. Càng kỷ luật trong đảng kiểu như vậy càng thêm đã mất lòng dân. Nói Nhà nước pháp quyền mà thực thi pháp luật không chính xác, không nghiêm minh, sao cứ hô hào “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN”.

            Làm lãnh đạo mà chỉ có lý thuyết suông, tay ôm kè kè nghị quyết, không lo cho dân, không gần dân, xa thực tế, coi thường dân chủ, suốt nhiệm kỳ chỉ lo vun vén cá nhân, củng cố nhóm lợi ích, kéo bè kết cánh, lo xây vững ‘lô cốt song quyền’ lo đấu đá giành ghế nhau, thì có xứng danh xưng “đảng cầm quyền” hay không?
BVB

Bất ngờ lớn: Nguyễn Tấn Dũng sẽ lập đảng mới và tuyên bố VN không thể kh...