14 tháng 8, 2016

"Thăng Long hoài cổ"


Tạo hoá gây chi cuộc hý trường, 
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương. 
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, 
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. 
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, 
Nước còn chau mặt với tang thương. 
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ, 
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Bà Huyện Thanh Quan
......................................................................

HÀ NỘI CÓ PHỐ K.T

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến Thanh Niên  - KT là viết tắt của Khâm Thiên. Thời Pháp thuộc, các ông trốn nhà, giấu vợ rủ nhau ra Khâm Thiên hát cô đầu, hút thuốc phiện hay nhảy đầm thường nói là 'đi KT'. 
Phố Khâm Thiên năm 1973.
“Nhiều tiền ra Khâm Thiên”
Đầu năm 1920, khi các nhà hát ca trù (hay ả đào, cô đầu) ở ấp Thái Hà bị Trần Văn Tiến, con trai trùm du côn Trần Vương đến quấy phá, khách ngại không dám vào nên một số nhà hát lên Khâm Thiên thuê nhà, nhờ Cửu Khê che chở. Cửu Khê là dân anh chị có nhiều đất cần bán và nhà cho thuê. Thời gian này, phố mới hình thành, nhà thưa, dân vắng. Lập tức Cửu Khê nhận lời ngay vì có quán cô đầu ắt đám khách giàu có sẽ đến, phố đông lên đất sẽ có giá.

Khâm Thiên khi đó thuộc tỉnh Hà Đông, do vậy không theo luật lệ của cảnh sát Hà Nội nên các nhà hát thoải mái trống phách tới sáng. Sự phồn thịnh của Khâm Thiên bắt đầu từ năm 1930 kéo dài đến năm 1945 nhờ hát cô đầu và tiệm nhảy. Việc làm ăn phát đạt đến mức hễ có ngôi nhà nào mới xây lập tức có người đến thuê với giá cao. Những chủ ít vốn không chịu nổi tiền nhà ngày càng tăng buộc phải đi xa hơn, xuống Ngã Tư Sở, đường Tàu Bay, Vạn Thái (phố Bạch Mai)...

Đầu những năm 1930, khách hát là tổng lý, lái buôn, lái xe các tỉnh về thì đến năm 1935 chỉ còn khách sang. Vì thế mới có câu: “Nhiều tiền ra Khâm Thiên/Ít tiền ra Vạn Thái/Ngứa dái ra Ngã Tư Sở”. Bày trí các nhà hát thường theo hai kiểu: có tràng kỷ, sập gụ, tủ chè hay theo lối mới là sa lông nhưng không thể thiếu sập để khách nằm hút thuốc phiện. Thời kỳ đầu, khách chuộng con hát hay, thạo tay phách, nhưng lối sống Tây đánh bật kiểu truyền thống, nhiều nhà thay đổi để chiều khách. Khi có khách thích cô đầu biết hát thì họ đi “mượn”. Nhà Kỳ Văn và Trường Bẩy có nhiều đào hát lành nghề, họ dạy cho các cô hát lối cổ. Trong số nhà hát theo lối truyền thống có quán bà Năm, tụ hội nhiều cô có giọng hay. Đây là nơi nhà văn Nguyễn Tuân thường đến. Nhà hát theo lối mới sang nhất phố, lúc nào cũng đông khách là của cô Đốc Sao. Chồng cô Đốc là bác sĩ người Hoa tên Lưu Nam Sao, vì thế người ta gọi là cô Đốc Sao. Nhà hát Đốc Sao chuyên chọn gái quê nghèo tầm tuổi 15 - 16 trông xinh xắn, hay mắt rồi thuê thầy dạy vài bài, dăm ba câu tiếng Pháp. Đốc Sao cũng huấn luyện các cô biết uốn éo, liếc mắt, lại cho dùng phấn sáp của Pháp, tơ lụa tốt. Con hát nhà Đốc Sao có kỷ luật, cấm không nói chuyện riêng và cười với nhau trước mặt khách. Ban ngày ra phố có xe tay của nhà chủ đưa đi, vừa để kiểm soát vừa làm sang.

Giá một chầu hát ở những nhà hát sang năm 1936 - 1940 khoảng 20 đồng, thêm rượu Tây, thuốc phiện hộp, gọi ăn đêm thì một cuộc chơi tốn bạc trăm trong khi lương tri huyện tập sự là 80 đồng. Các cô đầu Khâm Thiên đẹp nổi tiếng có Hải, Xuyến, Sâm “già”... còn cô Hồ được ví là “liêu trai” KT. Khâm Thiên không chỉ là nơi tập trung nhiều nhà hát mà còn là nơi có nhiều sàn nhảy như: Du Hí trường, Nữ Thần, Cảnh Tiên, Cảnh Chùa... cùng hai nhà chuyên dạy gái nhảy. Năm 1938, đốc lý Hà Nội Henri Virgitti đã nhận xét:“Khâm Thiên là một xóm ăn chơi nhất, hiện đại nhất và đắt khách nhất. Đó là một xóm giàu có nhất trong khu vực này. Trên một đoạn phố không đầy 800 m mà có tới 40 nhà hát với trên 200 con hát, thêm 5 tiệm khiêu vũ với khoảng dăm chục gái nhảy và có hai nhà săm cho thuê buồng. Các chủ xuất thân từ cô đầu, nhân tình của các quan lại An Nam cao cấp”.
Hát Ca trù. Ảnh: T.L

Cái nôi của văn nghệ Hà Nội

Trong bài Xóm Khâm Thiên: Cái nôi của văn nghệ Hà Nội ba chục năm về trước của nhà văn Vũ Bằng đăng trên một tờ báo ở Sài Gòn năm 1973 có đoạn: “Thực tình đến bây giờ (năm 1973) cố moi trí nhớ tôi cũng chưa thấy nhà văn, nhà báo đất Bắc nào mà lại không ra vào nhà hát cô đầu”. Các văn nghệ sĩ hội họp uống rượu, ngâm thơ, đánh một khẩu trống để thưởng một câu hay, một tiếng đàn khéo bấm, hay một giọng ca buông bắt thật tài tình. Đôi khi tức cảnh, họ tạo nên những câu, bài hát nói hay những vần thơ bát cú, lục bát thật hay. Nhà văn đã không ngần ngại khi gọi phố cô đầu Khâm Thiên là Cái nôi của văn nghệ Hà Nội. Các nhà văn, nhà báo: Phùng Bảo Thạch, Vũ Đình Chi, Nguyễn Triệu Luật, Lưu Văn Phụng, Hy Sinh, Vũ Liên, Ngô Tất Tố... lúc làm cho các báo Việt Nữ, Công Dân, Vịt Đực mỗi khi bàn về số báo ra kỳ tới vẫn thường hội ý và kẻ ma-két ở nhà hát vào đêm khuya, lúc im ắng tiếng đàn giọng ca.

Khâm Thiên không chỉ là chốn chơi mà nó gợi cảm hứng cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ. Trong tiểu luận Ca trù Thăng Long - Hà Nội: Những diễn biến trong tiến trình lịch sử, nhà nghiên cứu Trần Thị Kim Anh viết: “Những bài viết sâu sắc với những từ ngữ đẹp đẽ nhất dùng để miêu tả ngợi ca nghệ thuật ca trù của Phạm Quỳnh, Nguyễn Xuân Khoát, Ngô Linh Ngọc đều bắt nguồn từ đây. Nhạc của Nguyễn Văn Thương, thơ của Vũ Hoàng Chương, Trần Huyền Trân lấy cảm hứng từ đây. Bản dịch Tương tiến tửu của Đái Đức Tuấn, tác phẩm Con voi già của vua Hàm Nghi của Lưu Trọng Lư đều bắt đầu viết ở đây trong những cơn cao hứng”. Đối với Nguyễn Tuân, ca trù có vị trí đặc biệt trong tâm hồn ông. Thuở nhỏ ông theo cha đi “đập trống” ở Hàng Giấy khi phố này tập trung nhiều quán ca trù (giá thuê nhà ở đây quá cao nên các nhà hát đã chuyển xuống ấp Thái Hà), lớn lên ông tự ra Khâm Thiên. Ca trù ám ảnh và xuất hiện trong nhiều truyện như: Chiếc lư đồng mắt cua, Đới roi, Chùa đàn... đầy đau đớn, khắc khoải của nhà văn mà Tố Hữu gọi là “Thợ kim hoàn của chữ”. Trần Huyền Trân sống ở ngõ Cống Trắng đã tặng Quách Thị Hồ những câu não lòng “Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca/Mênh mông trời đất vẫn không nhà/Người ơi mưa đấy?Hay sênh phách/Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa...”.



 Đề tài hiện đại rất hiếm thấy trong tranh dân gian Đông Hồ, và có nghệ nhân nào đó chắc đi hát ở Khâm Thiên vào sàn nhảy để rồi vẽ bức Nhảy đầm, rất hài hước và hóm hỉnh. Họa sĩ Cát Tường khi sáng tạo ra áo dài Le Mur đã mang đến Khâm Thiên nhờ cô đầu mặc thử. Từ đây những mẫu áo dài tân thời này mới lan ra khắp Hà Nội.

Sau 1954, ca trù bị hiểu sai, cô đầu bị dư luận buộc tội là hạng người bỏ đi. Các nhà hát phố Khâm Thiên bị đóng cửa. Dấu tích một chốn chơi nổi tiếng cách nay gần 100 năm chẳng còn gì, chỉ là con phố lem nhem đông đúc và kẹt xe.

https://toithichdoc.blogspot.com/2016/08/ha-noi-co-pho-kt.html



Thông tin “bắt cóc lấy nội tạng” là... lỗi đánh máy


TPO - Trao đổi với Tiền Phong ngày 11/8, Thiếu tướng Hồ Sĩ Tiến - Cục trưởng Cảnh sát Hình sự (C45) Bộ Công an khẳng định, thông tin bắt cóc lấy nội tạng tại Hà Giang là bịa đặt. Đại diện công an Hà Giang cũng cho biết, công an Lào Cai xác nhận họ... sơ suất trong soạn thảo văn bản.
Thiếu tướng Hồ Sĩ Tiến - Cục trưởng Cục Cảnh sát Hình sự (C45) Bộ Công an.

Thông báo Công an huyện Si Ma Cai xuất hiện trên mạng.

thusay : -Vấn đề đặt ra là tại sao công an Hà Giang lại biện minh cho công an Lào Cai
- Đây là thông báo của công an cấp tỉnh xuống cho huyện Si Ma Cai. Thông báo còn mang tính chất chỉ đạo, thì không thể có chuyện "Sơ xuất trong soạn thảo văn bản" được. Chẳng qua các ông sợ động chạm đến thiên triều cho nên lấy cớ để dẹp dư luận, dẹp sự cảnh giác đề phòng của Nhân Dân, tiếp tay cho Trung Quốc thả sức giết hại dân  mình. Các ông công an Lao Cai trong vụ việc này là có tội với Nhân Dân, với Tổ Quốc.
- Công an Si Ma Cai cũng không thể dựng chuyện mà ra cái văn bản trên đây được


13 tháng 8, 2016

Lương của Chủ tịch nước, Thủ tướng hiện tại là bao nhiêu?


Lương của Chủ tịch nước (15.730.000 đồng/tháng), Chủ tịch Quốc hội (15.125.000 đồng/tháng), Thủ tướng Chính phủ (15.125.000 đồng/ tháng).
Thông tin về tiền lương của các vị lãnh đạo được cập nhật đến thời điểm này theo tinh thần Nghị quyết 730/2004/NQ-UBTVQH11 và Nghị định 66/2013/NĐ-CP, thì các chức danh lãnh đạo quy định một mức lương.
Cụ thể, Chủ tịch nước (15.730.000 đồng/tháng), Chủ tịch Quốc hội (15.125.000 đồng/tháng), Thủ tướng Chính phủ (15.125.000 đồng/ tháng).
Lương của các vị lãnh đạo tính theo mức lương cơ bản hiện hành áp dụng từ 1/5/2016 là 1.210.000 đồng.
Các văn bản này cũng nêu rõ mức lương đối với các chức danh lãnh đạo quy định hai bậc lương như: Phó chủ tịch nước; Phó chủ tịch Quốc hội; Phó Thủ tướng Chính phủ; Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch Hội đồng dân tộc; Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Cụ thể như sau:

Lưu ý, toàn bộ mức lương trên được tính theo công thức hệ số lương nhân với lương cơ bản (1.210.000 đồng/tháng), chưa trừ bảo hiểm và các khoản khác.
Theo VOV
http://giadinhphapluat.vn/
Hãy xem lớp hậu sinh vạch trần chân tướng của Giáo Sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu như thế nào, qua hai bài viết của Hoàng Tuấn Công trên Blog TCTP


THỬ ĐI TÌM TÁC GIẢ ĐÔI CÂU ĐỐI THỦ TƯỚNG TẶNG GS VŨ KHIÊU (I)

Thủ tướng và GS Vũ Khiêu trong lễ mừng thọ
Ảnh: Dân trí
Hoàng Tuấn Công

Năm trước (2014) ông Hoàng Minh Tuyển-Phó ban liên lạc họ Hoàng Việt Nam có gửi đến TCTP đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu, nhân dịp Cụ mừng thọ 100 tuổi:

“Sơn hà linh khí tại
Kim cổ nhất hiền nhân.”

 Tuy đã viết một bài khá dài [nhấn vào đây để đọc] gọi là “cắt nghĩa” theo đề nghị của ông HMT, nhưng thú thực, cho đến bây giờ chúng tôi cũng chưa hiểu rõ tác giả muốn gửi gắm ý tứ gì trong đôi câu đối trên. (Thế nên, tôi có kết thúc bài viết ấy bằng câu: “mong sẽ được GS Vũ Khiêu-Bậc thầy về cổ văn, hoặc chính tác giả câu đối Chúc thọ GS giảng giải tường tận những chữ nghĩa mà chúng tôi và độc giả còn băn khoăn, chưa biết hiểu thế nào cho đúng, cho hay!”

Phần I
Từ mấy đôi câu đối của GS Vũ Khiêu ở Thanh Hóa

Đứng trước một đồ vật, công trình nào đó mà không hiểu chúng được tạo ra để làm gì, hoặc được tạo ra như thế nào, người ta thường đi tìm chủ nhân, tác giả tạo ra nó. Vì không hiểu đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu nói gì nên không ít lần chúng tôi tự hỏi: Vậy, ai là tác giả đôi câu đối?

Thử đặt ra một trong 3 khả năng sau:

1.Câu đối của Thủ tướng:
Thời “lều chõng”, câu đối là thể văn đầu tiên mà “học trò là học trò con...” đã biết làm. Tuy nhiên, ngày nay không phải người cầm bút nào cũng có thể làm được câu đối. Huống chi Thủ tướng là một chính khách, không thuộc lớp Nho học, tuy có tài hùng biện, nhưng không thường viết, lại trăm công ngàn việc, đâu có thời gian ngồi tìm ý tứ, chữ nghĩa soạn câu đối mừng thọ. Bởi vậy, soạn câu đối mừng thọ cho một cá nhân nào đó nằm ngoài khả năng, và không phải việc của Thủ tướng.

2.Câu đối do một tác giả X nào đó:
Liệu bộ phận tham mưu (hoặc chính Thủ tướng) có tự làm khó cho mình khi chủ động lựa chọn món quà mừng thọ một người nổi tiếng giỏi về câu đối, là một đôi câu đối? Soạn thế nào để vừa hợp ý Thủ tướng, vừa hài lòng GS Vũ Khiêu? Nếu là bậc túc Nho, uyên thâm chữ nghĩa, liệu có chịu nhận hoặc soạn một đôi câu đối “thất đối” như vậy để ca ngợi GS Vũ Khiêu? Ngược lại, với kẻ vô danh tiểu tốt, liệu có được “chọn mặt gửi vàng” hoặc dám cầm bút để soạn câu đối cho đương kim Thủ tướng tặng vị GS lừng danh chữ nghĩa như cụ Vũ Khiêu?

3. Từ "Vô danh thị" đến "Hữu danh thị".
Khi tạm loại trừ hai khả năng (1) và (2) chúng tôi thử xếp Câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu vào diện “vô danh thị” (khuyết danh). Vậy, có cách nào để tìm ra tác giả của một tác phẩm khuyết danh không? Thưa là có thể. Ấy là vận dụng khoa Văn bản học. Lấy một (hoặc một số) tác phẩm đã biết tác giả (gọi là tác giả A) đối chiếu với tác phẩm X (khuyết danh), từ đó tìm ra những đặc điểm chung về: bút tích; hành văn; từ ngữ tác giả quen dùng, ưa dùng; hình tượng, điển tích tác giả hay vận dụng; thậm chí là những từ ngữ tác giả hay dùng sai,v.v...Qua đó, có thể xác định một cách khá chính xác tác phẩm X có phải cùng tác giả A hay không.

Đối chiếu nội dung đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu với các câu đối, chúc văn, văn tế, văn bia... khác của GS Vũ Khiêu chúng tôi thấy có một số đặc điểm chung, dễ nhận thấy như:

[1]-GS Vũ Khiêu ưa dùng và hay dùng sơn hà đối với kim cổ:
-Câu đối Thủ tướng mừng thọ GS Vũ Khiêu:

SƠN HÀ LINH KHÍ TẠI
KIM CỔ NHẤT HIỀN NHÂN.

So sánh với một số câu đối, chúc văn của GS Vũ Khiêu:

-Câu 1: Câu đối của GS Vũ Khiêu về Thanh Hóa:
“Khí vượng sơn hà, đế bá vương hầu hoa mãn địa
Danh oanh kim cổ, anh hùng hào kiệt thế xung thiên.”

Ở đây, kiểu đối sơn hà-kim cổ giống hệt câu đối Thủ tướng mừng thọ GS.

-Câu 2: câu đối của GS Vũ Khiêu về Tổ quốc, Bác Hồ ở Đền thờ các Anh hùng liệt sĩ tại Hàm Rồng- Thanh Hóa:

“Thu hết tinh hoa kim cổ lại
Vươn cao khí thế nước non này.”

-Câu 3: câu đối của GS Vũ Khiêu đề Văn miếu Trấn Biên -Đồng Nai:

“Thu hết tinh hoa kim cổ lại
Xây cao văn hiến nước non này.”

Hai đôi câu đối trên có hơi khác một chút: “kim cổ” được đối với “nước non”. Điều này cũng dễ hiểu, GS Vũ Khiêu không dùng: “Xây cao văn hiến “sơn hà” này” vì đây là câu đối Nôm (câu 1 và câu 2 là câu đối Hán) Tuy nhiên “nước non” hay sông núi, giang sơn cũng có nghĩa tương đương như “sơn hà”.  Như vậy, dù “kim cổ-sơn hà” hay “kim cổ-nước non” vẫn là cùng kiểu đối, cách đối quen thuộc của GS Vũ Khiêu.

Có người sẽ nói: đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. GS Vũ Khiêu đối được thì người khác cũng có thể dùng các chữ ấy được. Đúng thế! Vậy, chúng ta thử đi tìm xem người khác có đối, hoặc hay đối như vậy không. Ấy là tra cứu trong sách “5.000 hoành phi câu đối thường dùng” (Chủ biên Trần Lê Sáng-NXB Văn hóa thông tin-2006). Đây là cuốn sách sưu tầm, tập hợp 5.000 hoành phi câu đối thường dùng (tron đó hoành phi chiếm 350 bức), nguồn khá đa dạng: các tư gia, từ đường, các dòng họ, đền nghè, miếu mạo, chùa chiền, lăng mộ, danh lam thắng cảnh,...; từ câu đối Nôm đến câu đối Hán; từ loại câu đối dân gian, khuyết danh, không rõ tác giả, nguồn gốc, đến câu đối có tác giả, chú thích rõ hiện đang treo ở đâu,v.v...Nội dung câu đối cũng vô cùng phong phú: câu đối chúc tụng, mừng thọ, phúng viếng, câu đối thờ, ca ngợi non sông đất nước, các anh hùng hào kiệt, từ cổ chí kim...Kết quả: chúng tôi không thấy có cặp từ: “sơn hà” đối với “kim cổ” nào.

Vậy, trong “5.000 hoành phi câu đối thường dùng”, “sơn hà” (hoặc “giang sơn”) và “kim cổ” thường được đối với gì? Chúng tôi thấy như sau:

-SƠN HÀ: sơn hà đối vũ trụ (tỉ lệ nhiều); sơn hà đối nhật nguyệt (nhiều); sơn hà-xã tắc (nhiều) sơn hà-bạch nhật; sơn hà-thiên địa; sơn hà-miêu duệ; sơn hà-lăng miếu;; sơn hà-thảo thụ; sơn hà-điện các; GIANG SƠN: giang sơn-miếu mạo; giang sơn-nhật nguyệt; giang sơn-hà nhạc...

-KIM CỔ: kim cổ-hậu lai; kim cổ-sơn xuyên;; chí kim-tự cổ; tả hữu-cổ kim; đông tây-kim cổ; vũ trụ-cổ kim (nhiều)...

Nhìn chung, trong thể văn biền ngẫu hoặc câu đối, xưa nay “sơn hà” thường đối với “xã tắc”; “xã tắc” đối “giang sơn” (hoặc sơn xuyên) tức cùng nói về lãnh thổ, Tổ quốc, dân tộc...Điển hình như:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Tức sự-Trần Nhân tông)

Xã tắc dĩ chi điện an
Sơn xuyên dĩ chi cải quan”
( Trích “Bình Ngô đại cáo”)

-“Thục triều xã tắc tôn thiên trụ
Hương lĩnh sơn hà tráng đế cư”

-“Bảo Việt sơn hà vân trục Bắc
Phù trần miếu xã nhật thăng Đông”
 (Nguồn: “5.000 hoành phi câu đối thường dùng”)

[2]- GS Vũ Khiêu hay dùng các từ “kim cổ”; “sơn hà”, thích dùng “kim cổ”hơn “cổ kim” (dù hai từ này đồng nghĩa):

-Câu 1: câu đối GS Vũ Khiêu đề Văn miếu Trấn Biên:
“Xây cao Văn miếu, tiếp thu thành tựu bắc nam
Mở rộng học đường, khai thác tinh hoa kim cổ.”

-Câu 2: Văn tế đồng bào bị chết vì nạn đói năm 1945:
“Điêu tàn khắp cả 
Bắc Nam,
Đói rét chưa từng 
kim cổ”.

-Câu 3: GS Vũ Khiêu tặng Nghệ sĩ nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh (năm cụ 70 tuổi):
“Nửa mắt nhìn đời, thu cả tinh hoa trời đất lại,
Bảy tuần thưởng Tết, bày đầy cảnh sắc cổ kim chơi.”

-Câu 4: Chúc văn giỗ Tổ Hùng vương:
“Sánh đôi tài sắc: Kim cổ kỳ phùng
 Hợp một âm dương: Uyên ương tuyệt mỹ!”

-Câu 5: Đề đền thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu (thành Cửa Bắc):
“Trung vị quốc, nghĩa vị dân, lưỡng phiến đan tâm huyền nhật nguyệt
Sinh ư Nam, tử ư Bắc, thiên thu 
chính khí vượng sơn hà.”

-Câu 6: Văn bia tưởng niệm Lý Thái Tổ ở Hoa Lư – Ninh Bình (Nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Đông Đô –Hà Nội, chuẩn bị cho kỷ niệm 1.000 năm Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long):
Sơn hà Đại Việt, một dải hùng cường
Văn hiến Thăng Long, ngàn thu truyền tụng.”

-Câu 7: câu  đối nhà thờ họ Vũ phương Nam:
“Vũ tộc dựng cơ đồ, muôn dặm sơn hà lưu sự nghiệp
Nam phương xây miếu tổ, chân trời góc bể nhớ công ơn”.

[3]-GS Vũ Khiêu hay dùng “khí” hoặc “linh khí”:

-Câu 1: GS Vũ Khiêu “giáng bút” ở Đền Nội-Bình Đà:
“Lớp lớp cháu con, tu nhân, dưỡng trí
Đất Bình Đà ngút ngàn linh khí...”

-Câu 2: Chúc văn Giỗ Tổ Hùng Vương của GS ngày 10/3 năm Canh Thìn (2000):
“Trống đồng vang lên,
Trời đất ngút ngàn 
linh khí!”

-Câu 3: Câu đối ở Thanh Hóa:
Khí vượng sơn hà, đế bá vương hầu hoa mãn địa
Danh oanh kim cổ, anh hùng hào kiệt thế xung thiên.”

Lại nói về từ “linh khí”:

Trong thực tế có quan niệm về cái gọi là “linh khí”. “Hán Việt từ điển” (Đào Duy Anh) giải nghĩa “linh khí” là “cái khí thiêng liêng”. Tuy nhiên, trong thơ văn, câu đối, người ta rất hiếm khi dùng “linh khí” để ca ngợi về con người hoặc vùng đất nào đó. Qua tra cứu “5000 hoành phi câu đối thường dùng” chúng tôi hay gặp: 
+nguyên khí (Thiên thu tổ quốc vượng nguyên khí; Nhất thống giang sơn vĩnh thái bình).
+thụy khí (Tạc dạ hòa phong lai mãn hộ; Kim triêu thụy khí đáo doanh môn).
+ anh khí (Nhật nguyệt tường quang điều ngọc chúc; Giang sơn anh khí ủng trùng vân); 
+thục khí (Xuân đáo chu thiên đào thục khí; Thời lai quán địa mộc vinh ba) hòa khí (Vi nhân hòa khí xuân vô hạn; Xử sự công bình lộc tự nhiên).
+ tráng khí (An Nam tráng khí sơn  hà tại; Bình Bắc dư linh thảo mộc tri) v.v...


Chúng tôi không dám chắc mình đã không bỏ sót bất kỳ một đôi câu đối nào trong số 4.650 đôi câu đối Hán Nôm trong sách. Tuy nhiên, chỉ cần tra cứu tới 90% mà không gặp “sơn hà-kim cổ”, không gặp “linh khí” thì đã có thể kết luận cách đối, cách dùng từ này rất hiếm gặp. Ấy thế mà nó lại khá đậm đặc trong văn chương, chữ nghĩa của GS Vũ Khiêu.

                                                                HTC/2015

                                           (HẾT PHẦN I)


THỬ ĐI TÌM TÁC GIẢ ĐÔI CÂU ĐỐI THỦ TƯỚNG TẶNG GS VŨ KHIÊU (II)


Phần II
MỘT ĐÔI CÂU ĐỐI, HAI LẠC KHOẢN KHÁC NHAU

          Hết phần I, nhiều bạn đọc cho rằng đã có thể nghĩ đến tác giả đôi câu đối chính là GS Vũ Khiêu. Nghĩa là GS Vũ Khiêu tự biên soạn, sau đó đưa cho Thủ tướng mừng thọ mình. Tuy nhiên, câu chuyện không dừng lại ở đây mà nảy sinh thêm tình tiết khá "ly kỳ". Số là một bạn đọc (xin được giấu tên) gửi đến cho chúng tôi mấy bức ảnh:


          -Bức 1+2: Ảnh đôi câu đối "Sơn hà linh khí tại; Kim cổ nhất hiền nhân", phía dưới là bức tượng GS Vũ Khiêu. (Có lẽ ảnh chụp lại màn hình nên khá mờ?). Tuy nhiên, nhìn kỹ dường như thấy mờ mờ dòng lạc khoản: "Dòng họ Vũ, Võ Việt Nam kính tặng GS.AHLĐ Vũ Khiêu" (?) [xem ảnh].


  -Bức 3: Hình như Thủ tướng (?) và GS Vũ Khiêu đang ngồi "đàm đạo". Vẫn là đôi câu đối "Sơn hà linh khí tại; Kim cổ nhất hiền nhân", phía dưới là bức tượng GS Vũ Khiêu, nhưng phần lạc khoản nhìn khác hẳn, nội dung dài hơn, rõ nhất là chữ ký của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng [xem ảnh].

 Giả thuyết được đặt ra như sau: có thể đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu vốn là đôi được chính GS Vũ Khiêu (?) soạn "giúp", để "Dòng họ Vũ, Võ Việt Nam" đem tặng GS (nhân dịp nào đó). Đôi câu đối này đã từng được bài trí trong nhà, khách khứa từng đến quay phim, chụp ảnh. Tuy nhiên, sau này GS Vũ Khiêu đổi ý, đem nội dung câu đối này "nhờ" Thủ tướng đứng ra tặng mình, nhân dịp mừng thọ 100 tuổi. Lẽ dĩ nhiên, trước nguyện vọng "giản dị" của một bậc "Quốc sư" khả kính đã 100 tuổi thì ai nỡ từ chối?

          Chúng tôi không nghĩ có khả năng ngược lại, tức "Dòng họ Vũ, Võ Việt Nam" sao chép, (hay mượn) đôi câu đối của Thủ tướng, thay lạc khoản rồi đem đến tặng GS Vũ Khiêu. Bởi đối với đương kim Thủ tướng không ai dám làm một việc như vậy, với người được tặng là GS Vũ Khiêu lại càng không.

          Dân gian có câu "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp". Lẽ dĩ nhiên, cũng một đôi câu đối, nhưng lạc khoản mang tên đương kim Thủ tướng sẽ danh giá hơn "người nhà" tặng nhau rất nhiều.

          Chuyện này khiến chúng tôi liên tưởng đến một câu chuyện khác. Hồi GS Vũ Khiêu 90 tuổi (2006), Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đôi dòng mừng thọ mà sau này GS Vũ Khiêu đã nhắc lại khi ghi sổ tang Đại tướng như sau:

          "Hôm nay toàn quốc khóc Anh như đã khóc Bác Hồ. Tôi còn khóc Anh nhiều hơn nữa. Anh là lãnh tụ của toàn dân, là hồn thiêng của sông núi. Đối với tôi, Anh còn là tài sản vô giá của đời tôi. Tôi khóc Anh mấy ngày hôm nay, đứt từng khúc ruột. Tôi nhìn lên tường, đọc lại những lời Anh viết tặng tôi năm tôi 90 tuổi: “Mừng anh Vũ Khiêu, một nhà triết học cách mạng, một chiến sĩ văn hóa anh hùng, năm nay thọ 90 xuân”.

Điều đáng ngạc nhiên là 5 năm sau, khi GS Vũ Khiêu 95 tuổi (2010), lại thấy báo chí đưa tin Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mừng thọ GS đôi câu đối: "Triết gia trong cách mạng, Nghệ sĩ giữa anh hùng".

Không khó để nhận ra đôi câu đối này chỉ là cách diễn đạt lại lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp thành hai vế ngắn gọn, "đối" hơn mà thôi.

Liệu Thủ tướng, hoặc bộ phận lễ tân của Văn phòng CP có lấy ý tứ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp 5 năm trước, sửa lại thành câu đối đem tặng GS Vũ Khiêu? Hẳn không ai dám làm một chuyện dại dột, ngớ ngẩn là "chôm" đồ vật nào đó, rồi sau đó lại đem đến tặng cho chính chủ nhân của nó. Vậy, tác giả của đôi câu đối "Triết gia trong cách mạng, Nghệ sĩ giữa anh hùng" còn có thể là ai?

Phải chăng, GS Vũ Khiêu tâm đắc với lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhưng vì nó chỉ là một câu đề tặng, nên rất khó "truyền bá"? Bởi vậy, mới đem "chuyển thể" thành câu đối? Rồi....?

Nếu quả là như vậy, thì cả hai "ý tưởng" của GS Vũ Khiêu đều thành công mỹ mãn. Bởi tuy cùng nội dung, nhưng đôi câu đối do Thủ tướng tặng nối tiếng hơn đôi do "Dòng họ Vũ,Võ Việt Nam" tặng nhiều; tương tự, cùng một ý tứ khen ngợi, nhưng lời chúc mừng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không thể sánh với sự "phổ cập", nổi tiếng của đôi câu đối Thủ tướng mừng tặng.

Phân tích, chứng minh là như vậy, nhưng theo chúng tôi, dù chỉ còn 1% nghi ngờ, thì  cuối cùng giả thuyết vẫn chỉ là giả thuyết.

"Thử đi tìm tác giả đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu" đến đây là HẾT CHUYỆN (không còn gì để nói nữa).

Cảm ơn bạn đọc đã quan tâm tới chuyện chữ nghĩa của TCTP.


                                                                                  HTC/2015


Trăm năm bia đá thời mòn
Ngàn năm Dê Cụ vẫn còn trơ trơ .