22 tháng 7, 2016

Ngày xưa - Ải Nam Quan


Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan: "Ải Nam Quan cách
 tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu
 Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam 
Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà 
Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Ðại Nam Quan",
 phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch 
làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", 
dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có 
công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại 
nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có
"Chiêu đức đài", đằng sau đài có "Ðình tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh;
 phía nam có"Ngưỡng đức đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, 
mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."



Theo "Ðịa dư các tỉnh Bắc Kỳ" của Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư và Ðỗ Ðình Nghiêm 
(Nhà in Lê Văn Tân xuất bản, Hà Nội, 1926): "Cửa Nam Quan ở ngay biên giới 
Trung Quốc và Việt Nam. Kể từ Hà Nội lên đến tỉnh lỵ Lạng Sơn là 150 km; 
đến cây số 152 là chợ Kỳ Lừa; đến cây số 158 là Tam Lung; đến cây số 162 là Ðồng-Ðăng;
 đến cây số 167 là cửa Nam Quan đi sang Long Châu bên Tàu. Như vậy từ Ðồng Ðăng
lên cửa Nam Quan có 5 km; từ Kỳ Lừa lên Nam Quan mất 15 km [về phía tây nam
chợ Kỳ Lừa có động Tam Thanh, trước động Tam Thanh có núi Vọng Phu hay tượng 
nàng Tô Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng Sơn] và từ tỉnh lỵ Lạng Sơn lên 
Nam Quan là 17 km."




Các bức ảnh trong entry này sắp xếp không theo trình tự thời gian, mà theo trình tự
 không gian của chuyến đi từ Đồng Đăng sang Long Châu - Trung Quốc. Trong số đó
 có các bức ảnh do vợ chồng Imbert chụp vào khoảng thời gian cuối năm 1906, trong
chuyến đi tới vùng biên ải Trung Hoa.
Hình 1: Thị xã Đồng Đăng nhìn từ đỉnh cao của trạm quan trắc, nơi đóng quân của 
một đội trưởng bộ binh bản xứ và một trung úy Pháp. Ảnh: Imbert Edgard 
(cuối 1906 - trang Ecpad)
Hình 2: Ga Đồng Đăng, ga cuối trên biên giới của tuyến đường sắt đường sắt 
Hà Nội - Vân Nam. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906).
Hình 3: Một trong những bức ảnh của tạp chí LIFE về Việt Nam thời thuộc Pháp. Hình ảnh
 chuột Mickey cầm súng đứng gác giúp ta ước đoán bức ảnh được chụp vào những năm 30,
 khi hình tượng chuột Mickey trở nên nổi tiếng khắp thế. Bảng chỉ dẫn mang dáng hình
 cửa ải ghi rõ khoảng cách từ Đồng Đăng đến Nam Quan là 4 km. Hoạt động canh giữ
 cửa khẩu biên giới thể hiện qua số lượng binh sĩ và các xe quân sự
Hình 4: Chỉ dẫn ghi trên tường: Đường sang Trung Hoa qua cửa Nam Quan
Hình 5: Ảỉ Nam Quan nhìn từ phía Đồng Đăng























Hình 6: Đường lên biên giới Việt - Trung đi qua những ngọn núi. 
Đường mòn quanh co, gập ghềnh qua những sườn dốc nguy hiểm. 























Hình 7: Cùng một góc chụp với bức trước

Hình 8: Đồng Đăng - Đồn canh của Pháp trên đường biên giới. Nhìn về phía Ải Nam Quan.
 Đã hiện ra vệt mờ của bức tưòng thành trên sườn dốc của ngọn núi bên phải 
dẫn tới điểm cao nơi đặt đồn canh của Pháp
Hình 9: Đồn Pháp nhìn từ Ải Nam Quan
Hình 10: Một bức trong loạt bưu ảnh "Đồn và lô cốt địa đầu Bắc Bộ" - Nam Quan:
 Cửa khẩu sang Trung Quốc. Đồn biên giới Trung quốc và lô cốt Pháp

Ai Nam Quan (5)

Hình 11: Hình chụp từ cao điểm thấy rất rõ hai cửa quan 

Ai Nam Quan (6)

Hình 12: Toàn cảnh Ải Nam Quan nhìn từ phía Đồng Đăng. Đã thấy rõ hai cửa quan: 
cửa của Việt Nam nhỏ bé, khiêm nhường, một tầng mái, cửa của Trung Hoa lớn hơn, 
hai tầng mái. Một dải tường thành chạy lên núi từ hai bên cửa quan Trung Hoa. 
Trên con đường chạy về cận cảnh bức ảnh có một số nhân vật đang di chuyển. 
Rõ ràng, mặc dù về mặt tự nhiên đây là vùng rừng núi, nhưng cả người Pháp và 
nhà Thanh đều chủ ý để khu vực cửa khẩu trơ trọc nhằm theo dõi mọi biến động.

761b
Hình 13: Ải Nam Quan (trước) năm 1905. Dù hướng chụp chính diện làm cho 
cửa quan của Việt Nam 
lẫn vào công trình đồ sộ của nước lớn Trung Hoa, nhưng vẫn thấy rõ
 ba tầng mái của hai cửa quan. Hai phía Ải Nam Quan của Việt Nam cũng có
hai bờ tường chạy về hai ngọn núi, nhưng ngắn hơn và có hình bậc thang.

Ai Nam Quan (33)

Hình 14: Khoảng cách chụp gần lại, phân biệt rất rõ hình dáng của hai cửa ải
Ai Nam Quan (8)
Hình 15: Hướng chụp từ trên điểm cao cho thấy giữa hai cửa quan là một vùng đệm. 
Bưu ảnh gửi đi ngày 6.03.1907

Ai Nam Quan (7)

Phụ ảnh với chú thích của người sử dụng

Ai Nam Quan (9)
Hình 16: Vị trí chụp từ đường đi.

Ai Nam Quan (11)

Hình 17: Việc ghi thời điểm chụp bức ảnh này là ngày 2 tháng 8 năm 1940 như 
phụ ảnh dưới hoàn toàn không có cơ sở. Đến cuối năm 1906 cửa quan của 
Trung Hoa chỉ còn một mái lầu (xem hình 2...6), nhưng trong bức ảnh này 
ta vẫn thấy rõ hai mái lầu giống như các bức ảnh chụp trước đó.

Ai Nam Quan (10)

Hình phụ: có thể suy luận ngày 02 tháng 8 năm 1940 là ngày đăng bức ảnh này trêm
một tài liệu (báo) nào đó, chứ không phải ngày chụp. 

Ai Nam Quan (14)

Hình 18: Khoảng cách từ phía người chụp rút ngắn lại

Ai Nam Quan (12)

Phụ ảnh:  Bức tô mầu hình 16


Ai Nam Quan (18)

Hình 19: Một bức bưu thiếp rất đẹp và có giá trị bởi dòng lưu bút của người sử dụng cho biết vị trí Ải Nam Quan cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 17 km, được tu sửa vào năm 1908...

Ai Nam Quan (16)

Hình 20: Một tốp lính và sĩ quan Pháp trước Ải Nam Quan

Ai Nam Quan (17)

Hình 21: Cận cảnh

Ai Nam Quan (20)

Hình 22: Hoạt động bang giao diễn ra nơi cửa khẩu có vẻ rất hòa hảo. Còn nhớ sau Công ước Thiên Tân 1885, người Pháp đã xúc tiến một dụ án rất tham vọng: xây dựng mạng lưới đường sắt từ phần lãnh thổ Đông Dương sang Vân Nam. Tuyến đường này khánh thành ngày 31 tháng Ba năm 1910.

Ai Nam Quan (19)

Hình 23: Một bức ảnh vô cùng quý hiếm với cận cảnh hình trang trí trên cửa ải, các vòm cổng của hai bên, cũng như bức bình phong chắn ngang phía Trấn Nam Quan 

Ai Nam Quan (13)

Hình 24: Đây là một bức ảnh gây tranh cãi bởi sự khác biệt trong hình dáng
 của Ải Nam Quan

Ai Nam Quan (15)

Hình 25: Vùng đệm nằm giữa hai cửa quan. Hướng chụp vẫn từ phía Việt Nam.
 Người chụp đứng trên sườn núi, ngay sau phia bức tường đá. Quả là người 
Trung Hoa rào rậu rất kĩ. Trấn Nam Quan (cửa quan của Trung Hoa) xây liền 
sau bờ tường thành chạy từ trên ngọn núi đá vôi xuống. Chỗ cao nhất của
bờ thành gần tới mái của cửa quan. Bên trái bức ảnh, ở lưng chừng núi có 
một công trình giống ngôi miếu (ở hình số 15 ta đã có thể nhìn thấy nó). 

Ai Nam Quan(46)

Hình 26: Vùng đệm nằm giữa hai cửa quan. Phía sau cửa quan Trung Hoa có 
một bức bình phong

Ai Nam Quan (26)

Ai Nam Quan (25)

Hình 27: Viên quan nhà Thanh phụ trách Trấn Nam Quan


Ai Nam Quan (37)

Hình 28: Một viên quan nhà Thanh chỉ huy quân đội trấn giữ cửa ải

Ai Nam Quan (38)

Hình 29: V.iên quan nhà Thanh cùng tùy tùng mang cờ phướn khi sang giao tế
vùng đất thuộc Pháp

Ai Nam Quan (23)

Hình 30: Sang địa phận Trung Hoa. Đối diện với cổng có một bức bình phong chắn ngang. 
Trong kiến trúc cổ, theo quan niệm phong thủy, bình phong có tác dụng khắc phục,
 hạn chế những yếu tố xấu, phát huy những yếu tố tốt về phong thuỷ. Bức bình phong 
chắn sự dòm ngó từ ngoài vào. Hoạt động ngoại giao nơi này diễn ra sôi động 
với chương trình khảo sát, hoạch định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh. 
Có thể phân biệt được quan chức Pháp trong bộ Âu phục trắng, cưỡi ngựa trắng 
và quan chức nhà Thanh đội nón, cưỡi ngựa ô trong số các nhân vật trong ảnh. 
Hãy chú ý đến cụm nhà ngói có tường bao ở góc trái bức ảnh.

Ai Nam Quan (24)

Hình 31: Bức ảnh có dòng lưu bút đề ngày 9.08.1907. Các quan chức Pháp - Hoa 
chụp ảnh kỉ niệm bên bức bình phong

La région de Dong Dang au début du XXe siècle.


Hình 32: Những đứa trẻ Trung Hoa trên cửa ải. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906)

Ai Nam Quan (22)

Hình 33: Thời gian trôi qua thể hiện qua chiều cao cây cối. Ta dễ dàng nhận thấy
 Trấn Nam Quan chỉ còn một mái lầu và xuất hiện hàng lan can. Có thể cuộc khởi nghĩa 
Trấn Nam Quan năm 1907 của Tôn Trung Sơn đã làm thay đổi diện mạo của cửa quan này.

Ai Nam Quan (21)

Hình phụ: Dấu bưu điện 1911Hãy để ý đến hai người đàn ông mặc Âu phục 
mầu trắng đứng gần bức tường bao của cụm nhà trước cổng quan. Vóc dáng,
 tư thế, và đồng phục cho biết họ có thể là những viên chức Pháp làm việc tại
văn phòng quản lý biên giới. Cụm nhà nhỏ nơi họ đứng trước kia Quan Đế Miếu 
(miếu thờ Quan Công) và Đền Chiêu Trung. Năm 1896 trong chương trình khảo sát 
biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9
điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 văn phòng được xây lại lần hai 
thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp, nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu”.
Công trình vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, nhưng thông tin không rõ ràng, 
có phần mâu thuẫn về niên đại lịch sử khiến Pháp Quốc Lầu có một lai lịch mờ ám
(Đọc thêm tại đây

Ai Nam Quan (32) 
Hình 34: Trấn Nam Quan nhìn từ điểm cao phía Trung Hoa. Vẫn thấy rõ bức 
bình phong và cụm nhà ngói trước cổng quan. Trên đỉnh núi bên trái có một
doanh trại khá lớn.

Ai Nam Quan (28)

Hình 35: Toàn cảnh Trấn Nam Quan bên phía Trung Hoa. Ngôi làng trong thung lũng
 nằm hai bên con đường nhỏ, phía trước là khu doanh trại. Cuối con đường chính
 dẫn về phía Trấn Nam Quan vẫn thấy cụm nhà nơi đặt văn phòng quản lý biên giới
 Pháp - Trung. Thời điểm này văn phòng chưa được xây lại thành toà nhà 2 tầng
 mà người ta quen gọi là Lầu Pháp Quốc.

Ai Nam Quan (29)

Phụ ảnh: Dòng lưu bút ghi ngày 17.04.1911. Bưu cục Lạng Sơn
đóng dấu ngày 19.04.1911

Ai Nam Quan (27)

Hình 36: Ngôi làng Trung Hoa ở Nam Quan (trong khung mầu vàng của phụ ảnh 34). 
Hai dãy nhà lá nằm bên con đường lát  đá. Đây có lẽ là khu dân cư, cuối đường 
có một khu nhà ngói khang trang hơn có lẽ là doanh trại hoặc khu gia binh

La région de Dong Dang au début du XXe siècle.

Hình 37: Ngôi làng nhìn từ điểm cao
Ai Nam Quan (30)

Hình 38: Xử trảm một người Hoa tại khu vực Ải Nam Quan
47

Hình 39: Một lễ hội người Hoa ở Lang Cang Tchap gần Ải Nam Quan

Xen vào loạt ảnh của Union Commerciale Indochinois, chụp cùng một thời gian,
 đánh số từ 228 đến 233, miêu tả con đường từ Ải Nam Quan sang Long Châu,
là những bức ảnh của vợ chồng Imbert Edgard chụp cuối 1906

La région de Dong Dang au début du XXe siècle.

Vợ chồng Imbert được những người Trung Hoa đưa tới ngôi làng Loc Kan Thiap.

233x

233Đường đi Long Châu chạy qua khu vực những đồi cỏ

232b

232. Phong cảnh đường đi Long Châu

229

229. Một dinh thự trên đường đi Long Châu. Không rõ Loc Hang Thiap 
là địa danh gì?

La région de Dong Dang au début du XXe siècle.

Vợ chồng Imbert chụp ảnh trước dinh thự của chỉ huy tên Sen ở Loc Hang Thiap

Ai Nam Quan (5)

Cùng người đồng hương và chủ nhà Trung Hoa đến thăm
 một nhà hát ở Loc Hang Thiap

228v





















228. Những ngôi miếu....

Hơn 100 năm đã trôi qua từ lúc người Pháp chụp những bức hình trên.
 Vạn vật đã đổi thay. Một mầm cây non có thể đã trở thành cổ thụ. 
Một con sông có thể đã cạn khô hay đổi dòng. Một ngọn núi có thể 
đã trở thành bình địa. Các triều đại cũng vậy. Ải Nam Quan xưa có phải là 
Hữu Nghị Quan ngày nay? Người ta sẽ chẳng tranh cãi khi xung quanh nó
không có những bức màn bí ẩn. Dù thế nào, trong tâm thức mỗi chúng ta 
dải đất hình chữ S bắt đầu từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Bấm vào đây
 để bắt đầu hành trình thời hiện tại.


Cướp diễn đàn để định hướng cho Quốc hội :

Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư 

Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc

 kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV




Thứ Tư, 20/07/2016, 18:26:15
      
NDĐT - Sáng 20-7, Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV đã khai mạc trọng thể tại Hội trường Diên Hồng - Nhà Quốc hội. Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đến dự và có bài phát biểu. Báo Nhân Dân điện tử xin trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Toàn văn như sau:
Kính thưa Quốc hội,
Thưa các vị khách quý,
Thưa các vị đại biểu,
Thưa đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước,
Cách đây gần 2 tháng, ngày 22-5-2016, trên đất nước ta đã diễn ra một sự kiện chính trị trọng đại; đó là cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021. Hơn 67 triệu cử tri khắp mọi miền Tổ quốc đã nô nức đi bầu cử, sáng suốt lựa chọn, bầu được 494 đại biểu Quốc hội và 321.392 đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp- những người thay mặt nhân dân gánh vác trọng trách ở cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân từ Trung ương đến địa phương. Cuộc bầu cử đã diễn ra trong không khí dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, thực sự là ngày hội lớn của toàn dân.
Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi nhiệt liệt chào mừng thắng lợi toàn diện, to lớn của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021; nhiệt liệt chúc mừng các vị đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cả nước vừa trúng cử; hoan nghênh và cảm ơn toàn thể cử tri, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, Hội đồng Bầu cử quốc gia, các cơ quan, tổ chức liên quan đã hoàn thành tốt trọng trách của mình trong cuộc bầu cử này.
Nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII đã khép lại với nhiều hoạt động sôi nổi và những thành tích nổi bật, góp phần làm giàu thêm truyền thống vẻ vang 70 năm Quốc hội Việt Nam, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cả 3 lĩnh vực lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội đều đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam với Quốc hội và nhân dân các nước trên thế giới.
Những kết quả đó là một trong những tiền đề quan trọng và là bài học kinh nghiệm quý báu cho Quốc hội khoá XIV và các nhiệm kỳ Quốc hội tiếp theo. Tôi nhiệt liệt chúc mừng những kết quả mà Quốc hội khoá XIII đã đạt được.
Thưa các vị đại biểu và các đồng chí,
Quốc hội khoá XIV bắt đầu hoạt động trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; ở trong nước có những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực, phấn đấu rất cao, quyết tâm rất lớn, đoàn kết đồng lòng để đưa nước ta vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển nhanh và bền vững. Quốc hội có vinh dự và trách nhiệm lớn trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu, kinh nghiệm của Quốc hội các khoá trước, thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo Hiến pháp và luật định để hoàn thành tốt hơn nữa trọng trách trước nhân dân, trước đất nước. Với tinh thần đó, tôi xin kiến nghị với Quốc hội quan tâm thực hiện một số định hướng lớn sau đây :
Một là, Tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi để tiếp tục thể chế hoá Cương lĩnh chính trị, các quan điểm, đường lối của Đảng, cụ thể hoá Hiến pháp, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Muốn thế, cần bám sát, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và phân tích, nắm chắc yêu cầu thực tiễn cuộc sống; đồng thời tiếp tục tăng cường năng lực và nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật. Nỗ lực phấn đấu để đến năm 2020 nước ta có đủ những đạo luật cơ bản cần thiết điều chỉnh các quan hệ xã hội; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung vào các lĩnh vực: tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với yêu cầu phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Coi trọng hệ thống pháp luật về đất đai, tài nguyên, tài chính, tiền tệ, đầu tư, kinh doanh, môi trường, tạo điều kiện quản lý và sử dụng mọi nguồn lực của đất nước một cách có hiệu quả; khắc phục tình trạng thất thoát, tham nhũng, lãng phí trong các lĩnh vực này... Đồng thời, quan tâm đến các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hoá - thông tin, dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế...
Trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp của nước ta phải luôn kiên định lập trường tư tưởng, giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng, chú trọng nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình, điều kiện Việt Nam. Tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác để cho các thế lực xấu, thù địch lợi dụng chống phá chúng ta bằng cách hướng lái hệ thống luật pháp của chúng ta đi con đường khác, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Hai là, Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Thông qua giám sát kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung, phát huy tính tích cực, giảm thiểu những hệ luỵ nảy sinh từ chính sách; chấn chỉnh kịp thời các sai sót, khuyết điểm trong quá trình thực hiện, góp phần thúc đẩy thực hiện tốt chính sách, pháp luật và các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Nghiên cứu, bổ sung, từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động giám sát theo hướng xác định rõ phạm vi, đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội; thẩm quyền giám sát của các chủ thể; cách thức, trình tự, thủ tục tiến hành; chú trọng hơn nữa vấn đề hậu giám sát. Hoạt động giám sát không dàn trải, tập trung vào các vấn đề quan trọng, bức xúc mà nhân dân và cử tri quan tâm. Tăng cường hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội.
Tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bảo đảm phát huy dân chủ, tăng tính tranh luận, đi sâu phân tích vấn đề một cách tập trung và thực chất, qua đó làm rõ hơn tình hình và nguyên nhân, chỉ rõ trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo ra những chuyển biến thực sự trong thực tiễn.
Ba là, Đề cao hơn nữa trách nhiệm và nâng cao chất lượng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là những vấn đề về kinh tế- xã hội, ngân sách nhà nước; về các dự án đầu tư quan trọng, nhạy cảm, tác động lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng sâu rộng đến quyền lợi, tư tưởng của đông đảo cử tri và nhân dân, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại; tổ chức và nhân sự bộ máy nhà nước; bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Xác định rõ trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội trong công tác thẩm tra các dự án, công trình, đề án. Chú trọng cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu và các điều kiện bảo đảm để Quốc hội xem xét, quyết định một cách chuẩn xác nhất.
Tại kỳ họp này, Quốc hội chúng ta tiến hành việc bầu hoặc phê chuẩn các chức danh lãnh đạo chủ chốt các cơ quan Nhà nước nhiệm kỳ 2016- 2021. Đây là một nhiệm vụ rất hệ trọng đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao của các vị đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở quán triệt và thực hiện nhất quán Phương hướng công tác cán bộ do Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra; căn cứ vào thực tế tình hình đội ngũ cán bộ hiện có và yêu cầu về cơ cấu tổ chức, nhân sự của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, Kiểm toán Nhà nước nhiệm kỳ XIV; căn cứ vào tiêu chuẩn chung của cán bộ, chú trọng năng lực, sở trường, chuyên môn được đào tạo, kinh nghiệm công tác và chiều hướng phát triển; kết hợp yêu cầu trước mắt với bước chuẩn bị cho các khoá tiếp theo, kết hợp tính kế thừa và phát triển; đề nghị các vị đại biểu Quốc hội dân chủ thảo luận, sáng suốt lựa chọn, bầu hoặc phê chuẩn những người xứng đáng vào các chức danh lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý có hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.
Bốn là, Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại của Quốc hội, góp phần thực hiện có kết quả đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tăng cường đối ngoại song phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác với Quốc hội các nước. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Chú trọng công tác thông tin đối ngoại của Quốc hội; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo ở tầm chiến lược, dài hạn. Thực hiện tốt công tác điều hoà, phối hợp trong hoạt động đối ngoại, tránh trùng lắp về nội dung, thời gian, địa điểm nghiên cứu của các đoàn đi thăm và làm việc ở nước ngoài.
Năm là, Về tổ chức, phương thức hoạt động và chế độ làm việc. Thực tiễn cho thấy, chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và cá nhân từng đại biểu Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội - cơ quan thường trực của Quốc hội và Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội là những cơ quan do Quốc hội bầu có trách nhiệm giúp Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Theo đó, các vấn đề trước khi trình Quốc hội phải được nghiên cứu, bàn bạc một cách kỹ lưỡng, xem xét cẩn trọng, tập thể, quyết định theo đa số tại các cơ quan của Quốc hội; và khi trình ra Quốc hội chỉ tập trung vào một số vấn đề lớn, quan trọng, còn có ý kiến khác nhau về quan điểm, chính sách để Quốc hội xem xét, quyết định. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tăng thẩm quyền, đề cao trách nhiệm và tăng cường năng lực hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban trong việc thẩm tra các dự án luật, các đề án, công trình quan trọng quốc gia. Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có mối quan hệ công tác chặt chẽ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do đó, cần tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan, kịp thời trao đổi về những vấn đề cần thiết để giải quyết có hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ chung và của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật.
Đối với cá nhân đại biểu Quốc hội - người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, chịu trách nhiệm trước cử tri và trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ của mình, dù ở cương vị công tác nào cũng cần ý thức đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm của người đại biểu nhân dân; thực hiện tốt chương trình hành động, thường xuyên liên hệ với cử tri; lắng nghe, phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri; chịu sự giám sát của cử tri; tích cực, chủ động đóng góp công sức, trí tuệ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Đồng thời, nêu cao phẩm chất đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; gương mẫu học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ và năng lực công tác; nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, tham nhũng, lãng phí và các hành vi tiêu cực khác.
Ngoài ra, cần thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn các cơ quan tham mưu, giúp việc theo hướng tinh gọn, tăng tính chuyên nghiệp, tương xứng với tính chất, yêu cầu của công việc. Đồng thời có cơ chế cụ thể khuyến khích, huy động đội ngũ cộng tác viên, các nhà khoa học, các chuyên gia tham gia đóng góp vào hoạt động của Quốc hội, nhất là trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí,
Yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới đang đặt ra trước Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội khoá XIV những nhiệm vụ rất nặng nề và cao cả. Cử tri cả nước đang kỳ vọng Quốc hội khoá mới sẽ kế thừa, phát huy những thành quả của Quốc hội các khoá trước, tiếp tục có nhiều giải pháp đột phá, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Đảng Cộng sản Việt Nam, với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, theo trách nhiệm và quyền hạn được Hiến pháp quy định, đã, đang và sẽ tiếp tục chăm lo xây dựng Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chúng ta tin tưởng rằng, Quốc hội khoá XIV với tinh thần dân chủ, đoàn kết và trách nhiệm sẽ thực hiện thành công sứ mệnh của mình, tiếp tục ghi thêm mốc son mới vào lịch sử vẻ vang và tiến trình phát triển của Quốc hội Việt Nam.
Xin chúc sức khoẻ các vị đại biểu Quốc hội và các vị khách quý. Chúc kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá XIV thành công tốt đẹp.
thusay : Rõ ràng Quốc hội Việt Nam chỉ là bù nhìn chứ còn gì nữa !
Sau đây là bài viết của nhà báo Nguyễn Thông, đăng trên blog Nguyễn Thông ,thể hiện quan điểm trên  :

Nguyễn Thông - Cướp diễn đàn để định hướng

Người ta cứ bảo ông ấy lú chứ thật tình tôi thấy ổng chả lú tí nào. Lú gì mà bắt được bao nhiêu người phải răm rắp tuân theo. Lú gì mà chỉ hắt hơi cũng khiến kẻ khác run sợ. Đó không phải lú, đó là tầm cỡ của kẻ đại gian hùng cái thế, chọc trời khuấy nước, cầm đầu trăm vạn quân.

Chính những người cung cúc tuân lệnh ông ta mới lú, lú toàn diện, lú từ đầu óc đến tận lục phủ ngũ tạng. Ai đời họp quốc hội, nơi thể hiện ý chí của toàn dân chứ không phải của cá nhân, tổ chức nào, chưa có đại biểu nào kịp lên tiếng thì ông ấy đã vọt lên chỉ đạo định hướng mất mấy chục phút, rằng phải làm thế này, rằng phải làm thế kia, phải nhất nhất thực hiện theo đường lối của đảng của ổng. Mấy trăm con người được coi là tinh hoa dân tộc hớn hở nghe một ông già vượt ngưỡng cổ lai hy truyền lệnh. Vậy mà cũng ngồi nghe, cũng vỗ tay rào rào. Thế thì đây là đại hội đảng chứ đâu phải họp quốc hội. Lẽ ra chỉ cho phép ổng lên nói vài ba câu, chúc kỳ họp thành công, thế là xong, đằng này một người cứ quán triệt, chỉ đạo, hăm dọa, một phía cả 493 vị đại biểu (tất nhiên là trừ ông ấy ra) không ai dám có ý kiến gì.

Theo tôi, nên giải tán hết cả quốc hội, nhà nước, chính phủ đi, chỉ tồn tại một mình đảng là được rồi, vừa nhất thể hóa triệt để, vừa đỡ tốn kém. Đảng nếu mà tốt, vì dân vì nước, tôi cũng theo đảng, chả có gì phải lăn tăn. Còn quốc hội với nhà nước kiểu ấy thì tôi vái cả nón.

Trong vòng nhõn 4 tháng, mà "tái đắc cử", "lại tuyên thệ", "tuyên thệ lần thứ 2" (theo những cái tít mỉa mai trên báo chí) cũng chỉ loanh quanh vài chức danh thì đúng là đặc sản của xứ này, ngay cả xứ lụn bại như Triều Tiên nó cũng không làm vậy. Dân chúng thì cứ chống mắt coi và... cười. Thay mẹ nó đám dân nhẹ dạ, cả tin, vô trách nhiệm, vô tích sự đi.

Nguyễn Thông