28 tháng 4, 2016

Vụ cá chết: Tứ Trụ Triều Đình ở đâu?


 Ảnh minh họa (Ảnh Internet)
CHU XUÂN PHÀM : Các vị chọn thép thì thôi cá, chứ không thể có cả hai


Cá biển chết dọc theo biển miền trung Việt Nam từ Hà Tĩnh  đến Thừa Thiên Huế , bắt đầu từ 06/4/2016
Ông Võ Tuấn Nhân thứ trưởng bộ TN&MT tại buổi họp báo ngày 27/4/2016. Nguồn: internet 

 Một nữ nhà báo đặt câu hỏi: 
“Thưa ông trong cái kiểm nghiệm gần đây nhất của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên – Huế, chỗ có một loạt các bè cá chết, thì họ có nói trong nước kiểm nghiệm ra có kim loại nặng. Vấn đề ở đây là trong thời gian tới, chúng tôi muốn là mình có thể trong một thời gian ngắn, vì mùa du lịch sắp tới rồi, mà cá thì…” 

Nghe tới đây, ông Võ Tuấn Nhân liền khoát tay ra hiệu dừng lại và nói: “Tắt máy. Tắt máy nghe. Xin lỗi. Không, không, để anh nói riêng với em. Đừng hỏi câu đó. Hỏi câu đó tổn hại cho đất nước của mình. Nhá. Em hỏi câu đó làm tổn hại cho đất nước của mình”. 



Phỏng vấn GS.TS Nguyễn Đăng Hưng: Việt Nam nhiều tiến sĩ, ít thành tựu: Sao lại bất ngờ?

Posted by adminbasam on 28/04/2016
Đôi lời: Bài này do báo Đất Việt phỏng vấn GS.TS Nguyễn Đăng Hưng, nhưng ông cho biết, bản đăng trên báo Đất Việt đã bỏ bớt những phần quan trọng. Xin được đăng bản gốc của GS Nguyễn Đăng Hưng gửi tới.
___
27-4-2016
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
PHÓNG VIÊN: Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ đã thống kê ở Việt Nam đang có hơn 24.000 tiến sĩ. Thế nhưng, theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996-2011) Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái Lan, một phần sáu của Malaysia, và một phần mười của Singapore.
Ông có bất ngờ trước thực trạng trên hay không? Theo ông, vì sao chúng ta có nhiều tiến sĩ mà lại ít công trình công bố như vậy?
GS.TS NGUYỄN ĐĂNG HƯNGLà người đã bỏ ra 20 năm lo giúp Việt Nam đào tạo các lớp thạc sỹ, tiến sỹ quốc tế cho Việt Nam, rất am hiểu tình trạng giáo dục tại Việt Nam, tôi không hề bất ngờ trước những thông tin trên… Tại Việt Nam số tiến sỹ chân chính, có trình độ thực thụ quá ít ỏi so với số lượng tiến sỹ “dỏm”…
Mới đây có mấy ngày, dư luận Việt Nam xôn xao về một Học viện Khoa học xã hội tại Hà Nội có khả năng cho ra lò mỗi ngày 1 tiến sỹ. Rồi những luận án tiến sỹ với các đề tài khôi hài, ngớ ngẩn vẫn nhan nhản ra đời từ gần nửa thế kỷ nay… Thử hỏi một đất nước cho phép tồn tại những chuyện “oái oăm” như vậy thì làm sao có công bố khoa học, có phát minh công nghệ được? Một nền giáo dục từ trung đến cao cấp đã đi lạc đường từ lâu, dựa trên quan điểm giáo dục sai lầm từ gốc: Dùng cơ sở giáo dục làm chỗ để tuyên truyền chính trị, thì nếu không có những biện pháp cải cách giáo dục đổi mới triệt để, nếu không thay đổi triết lý giáo dục một cách can đảm và quyết đoán, khoa học công nghệ sẽ khó có cơ may phát triển… Tôi đã có nhiều kỳ vọng, thậm chí trực tiếp “xăn tay” tham gia chạy chữa từ những năm 90, mà nay tôi cũng phải nói là bó tay… Một vài cánh én không thể làm nên mùa xuân…
PHÓNG VIÊN: Thực tế, những việc rất cần sự tham gia của các tiến sĩ thì lại không có kết quả, cụ thể, như vụ cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng (Hà Tĩnh), theo đó là cá biển chết dạt vào bờ khu vực miền Trung từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế đến nay chưa có kết quả, thậm chí phải mời chuyên gia nước ngoài tìm nguyên nhân.
Thêm vào đó, nhiều vụ việc khác như khi làm giống cây trồng, nhiều tiến sĩ nhưng không hiểu được cấu trúc đặc tính của từng loại để xây dựng chọn tạo giống nên đã đưa ra giống không có tính mới, không có hiệu quả kinh tế. Chúng ta phải nhìn nhận nghịch lý trên ra sao, thưa ông?
GS.TS NGUYỄN ĐĂNG HƯNGVụ cá chết hàng loạt tại vùng biển Vũng Áng thật ra cũng chẳng cần chuyên gia. Công ty Đài Loan Formosa là một công ty đã từ lâu có nhiều tai tiếng về những việc làm bừa bãi của mình bất chấp môi trường, sinh thái. Chính họ cũng đã chấp nhận tác hại đến từ nhà máy và tuyên bố thẳng thừng là Việt Nam phải chọn lựa thép hay cá tôm, không thể có cả hai. Vấn đề là lãnh đạo phía Việt Nam đã chọn lựa hướng sai trái bất chấp tác hại cho người dân Việt Nam. Còn thép thì nay rất ế ẩm trên thị trường thế giới, sẽ chẳng đem lại lợi lộc gì cho Việt Nam..
Trở lại với điểm chính của câu hỏi, nghịch lý là ở chỗ không phải Việt Nam không có nhà chuyên môn, nhà khoa học thực thụ tài ba mà lớp người này không có chỗ đứng trách nhiệm cho công việc cần thiết. Các chuyên gia Việt Kiều càng không có chỗ đứng tại quê nhà. Chế độ cơ cấu cán bộ chuyên môn theo chỉ tiêu thân hữu, lý lịch, phe nhóm, đã trở thành phổ biến một cách có hệ thống thì tai họa sớm muộn cũng sẽ xảy ra. Những điều nhà báo nhắc đến chỉ là chuyện nhỏ. Sẽ có những tai họa lớn hơn…
Cũng nói ngay vụ Vũng Áng chính là một tai họa lớn. Nếu những ngày đầu, đảng và chính phủ giao quyền quyết định cho các chuyên gia thực thụ, không ham hố không trục lợi, có tri thức và am tường thông tin, thì Formosa làm gì có thể có hợp đồng, làm gì vào đươc Vũng Áng.…
PHÓNG VIÊN: Trong khi đó, theo các NCS, nếu tính theo mức học phí qui định thì tổng chi phí cho một nghiên cứu sinh chỉ khoảng 50 triệu đồng, bằng 1/10- 1/20 so với chi phí thực tế. Mức chi phí thực tế để có tấm bằng tiến sỹ ở Việt Nam tùy theo ngành, ngành hot như kinh tế hơn 1 tỷ đồng, kém hot hơn thì vài trăm triệu. Có bằng nhưng lại không áp dụng được vào với thực tế, theo ông, có phải là lãng phí hay không? Vì sao ạ?
GS.TS NGUYỄN ĐĂNG HƯNGTừ lãng phí là quá nhẹ trong trường hợp này. Phải nó đây là hành động phá hoại, phá hoại môi trường học thuật, phá hoại tương lai của đất nước… Tại sao tôi dung từ “phá hoại”, bởi vì các tiến sỹ này sẽ hiển nhiên chiếm lĩnh những vị trí trọng yếu theo con đường cơ cấu và sẽ không làm được gì mà thậm chí còn làm hại cho xã hội, ngăn cản những người tài đóng góp giải quyết những vấn đề thực tế, giúp xã hội phát triển.
PHÓNG VIÊN: Thực tế hiện nay, chúng ta có tới 9000 tiến sĩ không tham gia giảng dạy nghiên cứu, chúng ta phải nhìn nhận thực tế này ra sao? Đây có phải là nguyên nhân dẫn đến việc Việt Nam tuy nhiều tiến sĩ nhưng lại ít công bố khoa học hay không? Vì sao ạ?
GS.TS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG: Trên thế giới có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có tình trạng này. Các quan chức muốn có cái “mác” tiến sỹ để “lòe” dân đen, để che đây mặc cảm dốt nát của mình… Ở các nước phát triển, tiến sỹ là một yêu cầu trình độ cần thiết trong việc giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học…
Việt Nam làm ngược đời và hậu quả là sau 42 năm hòa bình, Việt Nam ngày càng tụt hậu và theo các nguồn khảo sát quốc tế, Việt Nam đang dứng sau Campuchia và cả Lào. Thảo nào các chuyên gia kinh tế quốc tế bảo Việt Nam là nước “không muốn phát triển..” Họ muốn nói Việt Nam có rất nhiều điều kiện nhưng đã lãng phí tất cả và cam chịu với nỗi nhục thua kém triền miên…
Leo Tolstoy  đã nói: “Không sợ sự dốt nát, mà đáng sợ sự hiểu biết giả. Tất cả cái ác trên thế giới đều bắt đầu từ đó”.   Tôi tự hỏi các nhà lãnh đạo Việt Nam có biết điều đó hay không?
Liège ngày 26/4/2016

27 tháng 4, 2016

Người phụ nữ ôm hôn nhiều nguyên thủ nhất thế giới

Trong suốt 11 năm nắm quyền, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã ôm hôn rất nhiều chính trị gia hàng đầu thế giới và Tổng thống Obama là người mới nhất trong số đó.
Hôm 25/4, Tổng thống Mỹ được chào đón bằng một vòng tay rộng mở khi đặt chân xuống Hannover, Đức. Nhà lãnh đạo Mỹ đã được Thủ tướng Đức chào đón bằng cái ôm ấm áp và nụ hôn lên má.
Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ không phải là nhà lãnh đạo thế giới duy nhất được Thủ tướng Đức bày tỏ tình cảm. Thủ tướng Anh Cameron cũng từng nhận được một nụ hôn từ người phụ nữ mạnh mẽ nhất nước Đức.
Khoảnh khắc đáng nhớ nhất với bà Merkel có lẽ là lúc chính trị gia người Anh Gordon Brown định ôm hôn bà, song môi ông này lại trượt xuống mũi bà Merkel.

ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với cựu Thủ tướng Anh Tony Blair
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với Tổng thống Mỹ Obama
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với cựu Tổng thống Pháp Sarkozy 
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với cựu Tổng thống Mỹ Bush
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với Thủ tướng Anh David Cameron
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với cố Tổng thống Pháp Francois Mitterand
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với Tổng thống Pháp Hollande
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với cựu Thủ tướng Anh Gordon Brown
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với Thủ tướng Hà Lan Balkenende
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
 Với Thủ tướng Tây Ban Nha Rajoy
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với Thủ tướng Hungary Orban
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela Merkel
Với Chủ tịch Ủy ban châu Âu Barroso
ôm hôn, Thủ tướng Đức, Angela MerkelVới cựu Tổng thư ký LHQ Kofi Annan

  • Hoài Linh - Ảnh: Express

26 tháng 4, 2016

Khang Sinh, một quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Đảng. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, ông ta đã bức hại rất nhiều người vô tội, vậy nên lúc cuối đời ông phải chịu sự báo oán kinh hoàng.

  • tra tan, tâm linh, nhân qủa, kháng sinh,
Khang Sinh, một quan chức của Trung Quốc từng tham gia bức hại nhiều người vô tội. (Ảnh: Internet)
Đầu năm 1977, sau khi “Tứ nhân bang” bị đánh đổ chưa được bao lâu (“Tứ nhân bang” hay còn gọi là “Bè lũ bốn tên” do Giang Thanh – vợ thứ ba của Mao Trạch Đông cầm đầu, cùng 3 thành viên khác là Diêu Văn Nguyên, Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn thâu tóm quyền lực và khuynh đảo Trung Quốc trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa 1966-1976), Trần Tri Tiến, con gái của đại tướng Trần Canh đến Thượng Hải công tác.
Cô Trần và đứa em trong phòng hành chính của tôi là bạn thân. Một buổi tối nọ, chúng tôi hẹn cô đến văn phòng tán gẫu, nghe thử động thái chính trị của Bắc Kinh thời bấy giờ.
Cô là y tá ở bệnh viện 301 tại Bắc Kinh. Đây là bệnh viện chuyên khám bệnh cho những cán bộ cấp cao của chính quyền Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), rất nhiều người được gọi là “cán bộ lão thành cách mạng” đều trị bệnh lâu dài ở đó, mãi cho đến khi chết đi.
Chẳng cần suy nghĩ cũng có thể lập tức đưa ra hàng loạt danh sách những người chết ở đó gồm có: Chu Ân Lai, Trần Nghị, Hạ Long, Tạ Phú Trị,…..Khang Sinh đương nhiên cũng đã được hưởng đặc ân này.
Khang Sinh trước khi chết đã mắc bệnh hoảng sợ, mỗi ngày 24 giờ cần có cảnh vệ viên mở đèn và ở bên cạnh, phòng bệnh cần phải bật ti vi liên tục, chỉ cần trong bệnh viện không có người, ông ta sẽ hoảng loạn kêu la, rằng ai đó đến tìm ông ta đòi mạng, ai đó máu me khắp người, ai đó mang theo xiềng xích phát ra những tiếng kêu leng keng… Ông ta kêu thét nghe rất bi thảm, người khác nghe thấy cũng không khỏi rợn tóc gáy.
tra tan, tâm linh, nhân qủa, kháng sinh,
Nghĩ lại thời Cách mạng Văn hóa, ai đã từng trải qua cũng đều phải rùng mình kinh sợ. (Ảnh: Internet)
Cô Trần nói, Khang Sinh khi còn ở Diên An vì để giúp Mao Trạch Đông trừ khử các phần tử đối lập, không biết đã hại chết bao nhiêu người lương thiện. Vào thời “chấn chỉnh tác phong dẹp trừ phần tử phản động” ông ta đã đích thân dùng bàn ủi làm bỏng lồng ngực của người ta, dùng những cực hình tra tấn tàn bạo ngược đãi phạm nhân.
Theo bác sĩ khoa thần kinh, một người lúc còn sống đã từng làm những chuyện táng tận lương tâm, trước khi chết, ký ức trong đại não sẽ phản ánh ra, đây là cách giải thích của khoa học.
Thuyết nhân quả trong Phật giáo, cũng có thể giải thích được thông, bởi vì ông ta đã làm vô số chuyện thương thiên hại lý, vậy nên oan hồn muốn tìm ông ta đòi mạng.
Theo lý mà nói, Khang Sinh cũng là một người học sâu hiểu rộng về Tứ thư Ngũ kinh, nên cũng có thể nói là một thư sinh điềm đạm nho nhã. Nhưng dưới sự giáo dục đấu tranh giai cấp của ĐCSTQ đã khiến ông ta mất hết nhân tính, trở thành ma quỷ.
Nói đến đây không thể không nhắc đến trường đại học Moscow của Liên Xô, nguy hại của trường đại học này đối với Trung Quốc thật không phải nhỏ, rất nhiều nhân tài lật đổ chính phủ hợp pháp của Trung Quốc đều là từ nơi đó đào tạo ra. Theo hồ sơ của Liên Xô cũ cho hay, đại học này là trung tâm chuyên môn đào tạo các phần tử hoạt động khủng bố bạo loạn, tuyên dương bạo lực cách mạng.
Khang Sinh lúc còn sống làm đủ chuyện ác, trước khi chết bị dày vò tinh thần, sau khi chết ngay cả con cháu ông ta cũng bị vạ lây. Con trai ông ta là Trương Tiểu Thạch (tên giả), trong thời gian Hoa Quốc Phong nắm quyền đã từng đảm nhiệm chức bí thư và thị trưởng thành phố Hàng Châu.
Tôi đã từng gặp anh ta ở Hàng Châu, tướng mạo anh ta giống hệt như người cha của mình, chỉ cái bụng lớn hơn một chút. Nghe nói sau khi Hoa Quốc Phong rớt đài, anh ta cũng bị tống giam vào ngục, thật đúng là nợ cha con trả, oan oan tương báo.
Sau khi Khang Sinh chết không được bao lâu, hũ tro cốt của ông ta được chôn cất ở núi Bát Bảo bị đào lên, về sau không biết đã lạc đến nơi nào, cũng chỉ có thể nói là chết không có đất chôn.
Thời gian là “quan tòa” công bằng nhất. Chính tà, thiện ác được phán xét sẽ mãi trở thành quy luật của lịch sử. Chúng ta ngoảnh đầu nhìn lại năm đó, cái gọi là đấu tranh của các nhà cách mạng giai cấp vô sản khôi hài biết mấy, nực cười biết mấy, hoang đường biết mấy.
Đáng thương thay những người dân vô tội đã bị họ coi như thẻ bài trên bàn đánh cược, mặc cho họ tùy ý đùa cợt, trong đó có không ít người, mấy chục năm nay đã bị quay vòng chẳng còn biết trời đất gì nữa, tựa như một người đần độn bị kẻ ác cưỡng gian trong thời gian dài, trái lại còn thấy khoái cảm, còn bảo vệ cho lợi ích của kẻ thủ ác, thật không sao hiểu được.
Kết cục của Khang Sinh là tấm gương của lịch sử, bây giờ những “Khang Sinh” còn sống không biết đã nhìn được gì từ tấm gương lịch sử này đây?
Xem thêm: Bức hại người tu luyện, lần lượt gặp quả báo
Tiểu Thiện, dịch từ Epoch Times
(Tinh Hoa)


25 tháng 4, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 64

Posted: 02/11/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59], [60], [61], [62], [63], [64]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tới tháng giêng 1967 cả nước trong tình trạng hỗn loạn. Những cuộc đụng độ đã nổ ra, một vài nơi đã có tiếng súng. Các cơ quan đảng, chính phủ tê liệt. Sản lượng các nhà máy tụt xuống, một số nơi đóng cửa. Giao thông đình trệ. Lâm Bưu và Giang Thanh đứng đầu đám nổi loạn, đưa ra các khẩu hiệu: “Lật đổ tất cả”, “Tiến hành nội chiến”.
Xí nghiệp, trường học phân hoá làm 2 phe phái. Các nhóm tạo phản vũ trang tiếp tục tấn công các cơ quan đảng uỷ. Những người phe cánh của đảng cộng sản – “phần tử bảo hoàng” – đánh nhau chống lại chúng. Dù vậy cả trong đảng bộ cũng không có hoà bình. Những người lãnh đạo cũng chia năm xẻ bẩy, hung hăng tấn công lẫn nhau, đồng thời mỗi người cũng hy vọng sẽ chiếm thế thượng phong và giành được quyền lực.

Hiện tại phe phái phần tử bảo thủ vẫn mạnh hơn. Các đảng bộ trong nhiều năm đã nhận được quyền lực rất lớn, nên khó có thể dễ dàng đánh đổ họ. Ý nghĩa tư tưởng và nguyên tắc trong cuộc tranh giành quyền lực này không có giá trị gì hết.
Cuối tháng giêng, Mao đứng về phía nổi loạn, yêu cầu trục xuất các đảng bộ phe bảo thủ. Mao kêu gọi quân đội ủng hộ phái tả khuynh nổi loạn. Mao làm điều này, như ông nói với tôi, Cách mạng văn hoá không thể thành công, nếu không ủng hộ những người tả khuynh. Nhiệm vụ của quân đội, phải ủng hộ lực lượng cánh tả, công nghiệp và nông nghiệp, cũng như trong việc quân sự hoá tất cả cơ quan chính phủ và huấn luyện quân sự cho tất cả học sinh, sinh viên. Sau một vài tháng, gần hai triệu binh lính đã được kêu gọi “ủng hộ cánh tả”.
Tại Bắc Kinh, Mao tìm sự giúp đỡ của Uông Đông Hưng và Sư đoàn cận vệ Trung ương. Sư đoàn cận vệ dưới bí số 8341, sư đoàn này không trực thuộc Bộ Tổng tham mưu. Mao có đường dây nóng riêng với Uông, có thể ra mệnh lệnh trực tiếp không cần thông qua văn phòng bộ Tổng tham mưu của Lâm Bưu và tư lệnh quân khu. Nhưng Mao không gặp Uông hàng ngày, chỉ tôi gặp, tôi trở thành mắt lưới của hệ thống. Mao lờ hết các nghi thức chính quyền, ông ra lệnh mồm cho tôi chuyển tới Uông.
Mùa xuân năm 1967, tôi thông báo cho Uông Đông Hưng biết, Mao muốn Uông cử một đội thuộc Sư đoàn Cận vệ trung ương đến một số nhà máy ở Bắc Kinh, bắt đầu từ Nhà máy dệt Bắc Kinh. Đến lượt Uông, ông lại ra lệnh cho viên phó ban, Dương Đức Trung, thành lập Văn phòng “ủng hộ phái hữu”. Văn phòng “ủng hộ phái hữu” lại thành lập “Uỷ ban quân quản” gồm 8 thành viên trong Sư đoàn cận vệ. Hai thành viên của Uỷ ban quân quản chịu trách nhiệm tiếp quản Nhà máy dệt Bắc Kinh, cựu chiến binh Vạn Lý Trường Chinh, Quý Vĩnh Sinh và phó chính uỷ Sư doàn cận vệ Tôn Yên. Quý và Tôn nhanh chóng dẫn đoàn đến tiếp quản nhà máy.
Mao không cho phép tôi đứng ngoài. Ông giao cho tôi nhiệm vụ cùng với quân đội tới nhà máy dệt như một quan sát viên và liên lạc viên, như theo cách ông nói, tôi là tai mắt của Mao, sau đó báo cáo lại tất cả tình hình cho ông. Nhiều thành viên Nhóm Một được cử tới các nhà máy khác.
Tôi không thích nhiệm vụ được giao. Nó chính là cạm bẫy. Tình hình chính trị hiện nay quá phức tạp đối với tôi, làm sao tránh được thiếu sót. Tôi oán Giang Thanh đã bày ra cái trò này. Bà ta thường vẫn buộc tội tôi chỉ đứng từ Trung Nam Hải ngó xem chứ không tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng. Thái độ trung lập, không tham gia dính líu tôi thấy là phương kế tốt, Giang Thanh coi đó là thái độ xấu. Mao cũng vậy, yêu cầu tôi tham gia “Đại cách mạng văn hoá vô sản”, ý ông muốn biết tôi đứng bên phía nào. Mao nói, đây là cơ hội để tôi cải tạo bản thân thông qua bão tố cách mạng.
Tôi cố tìm ra một sự thoả hiệp bằng cách giới hạn hoạt động của mình ở nhà máy trong lĩnh vực y tế. Tôi đề nghị tổ chức một đội y tế dưới sự lãnh đạo của tôi. “Như vậy chúng ta có thể gần gũi công nhân một cách tự nhiên và nhận được thông tin mà chúng ta cần” – Tôi báo cáo Chủ tịch. Ông đồng ý.
Tôi đến nhà máy đầu tháng 7, sau Uỷ ban quân quản mấy tuần.
Nhà máy dệt Bắc Kinh nằm ở phía đông thành phố, khoảng nửa giờ đạp xe từ Trung Nam Hải. Ngoài vải bông, vải pha nilon nhà máy còn sản xuất cả quần áo lót. Xuất khẩu chính sang Rumani là quần áo lót dệt kim nữ sang Rumani. Nhà máy có khoảng gần 1000 công nhân, chia làm hai phe. Đảng uỷ nhà máy bị xoá xổ, người ta giáng cấp trưởng và phó bí thư đảng uỷ xuống làm đốc công. Nhưng cuộc chiến đấu để xem ai sẽ điều khiển nhà máy vẫn tiếp tục. Tám trăm trong số một nghìn công nhân vẫn quan sát cuộc đấu đá của các phe phái, không chấp nhận phe nào cả. Tuy thế số người còn lại đã hiểu mối quan hệ với các cuộc đập phá không thể cắt nghĩa nổi. Chẳng ai làm việc, các vụ đấm đá bằng tay không đã bùng lên trong các cuộc đấu khẩu.
Quý Viễn Sinh và Tôn Yên thay mặt Uông Đông Hưng cũng chẳng thể nào dàn hoà được cuộc đấu tranh. Nhưng thấy tôi đến, họ lại tin có một khả năng đoàn kết được 2 nhóm. Họ quyết định và bày tỏ nguyện vọng để tôi báo cáo với Mao.
– “Chúng tôi được Mao chủ tịch cử đến đây” – Các sĩ quan trong Sư đoàn cận vệ nhấn mạnh với các người cầm đầu phe phái – “Mao chủ tịch muốn các bên đoàn kết lại”.
Khi những người lãnh đạo nhà máy không tin Mao cử nhóm quân đội, các sĩ quan đưa tôi ra làm chứng cớ: “Nếu các đồng chí không tin, hãy nhìn xem, cùng đi với chúng tôi là bác sĩ riêng của Chủ tịch”.
Các người cầm đầu phe phái không tin tôi chữa bệnh cho Mao. Bản thân tôi chưa bao giờ nói cho người khác biết công việc tôi làm. Ngoài đời, tôi chẳng nhất thiết cho họ biết mối quan hệ của tôi với Mao.
Khi Quý Viên Sinh và Tôn Yên chìa ra những bức ảnh, trong đó tôi đứng sau Chủ tịch trong khi, Mao duyệt Hồng vệ binh. Thái độ hoài nghi bắt đầu giảm. Về sau tôi hiểu, khi tôi rời nhà máy, một số công nhân theo sau bám đuôi, khi thấy ô tô đi vào Trung Nam Hải, họ mới tin tôi là bác sĩ riêng của Chủ tịch. Như vậy, với cương vị làm việc của tôi đã đóng góp tốt vai trò của mình. Các phe phái đang giao tranh, cuối cùng tin rằng, nhóm quân đội đúng là do chính Mao chủ tịch gửi tới, đồng ý chấp nhận vai trò trung gian giải hoà của nhóm quân sự. Sự xung khắc của họ nhanh chóng được giải quyết. Tháng 9-1967, “Uỷ ban cách mạng” mới thành lập, nắm quyền điều khiển nhà máy, công việc sản xuất hồi phục dần.
Tôi báo cáo cho Mao tất cả mọi diễn biến. Ông lộ vẻ vui mừng. Ông không tin giai cấp công nhân lại có những bất đồng nội bộ nghiêm trọng đến thế. Công nhân cần phải đoàn kết lại, Mao nhấn mạnh. Mao viết một thông điệp ủng hộ công nhân để chứng tỏ rằng phái bộ quân sự hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ông. “Tongzhimen, nimen hao ma?”, (Công việc của các đồng chí thế nào?), Mao viết, trao tờ thông điệp cho tôi.
Tôi chuyển thông điệp cho Uông Đông Hưng và ông chuyển nó cho Uỷ ban cách mạng nhà máy. Các thành viên của Uỷ ban phấn khởi đến mức, không trì hoãn, triệu tập hội nghị tất cả tập thể để xem lời dạy của Mao chủ tịch đối với công nhân. Người ta đề nghị tôi lên diễn đàn, nhưng tôi từ chối. Khi công nhân biết rằng Mao chủ tịch tự tay viết cho họ một vài lời, vỗ tay như sấm. Bức thông điệp Mao được treo trên bảng thông tin trong sân nhà máy để mọi người xem nó.
Sau đó lãnh đạo nhà máy cho chụp ảnh bức thông điệp, phóng to gấp nhiều lần, dán trước cổng ra vào để công nhân trông thấy.
Ít lâu sau Uỷ ban cách mạng được tuyên dương là Uỷ ban kiểu mẫu, làm việc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Mao chủ tịch. Oai quyền của Uông Đông Hưng và sự ngưỡng mộ trong vụ này ở nhà máy được tăng lên gấp bội. Tới mùa xuân 1968 năm xí nghiệp đầu đàn khác cũng dưới sự kiểm soát của Uông Đông Hưng – Nhà máy in Trung Quốc, Liên hiệp chế biến gỗ miền bắc, Nhà máy hoá chất số 2, Nhà máy ô tô Nam Châu và Nhà máy ô tô 7 tháng 2. Các nhà máy này trở nên nổi tiếng cả nước như những xí nghiệp gương mẫu, do chính Mao chủ tịch lãnh đạo.
Bỗng nhiên nhiều người muốn chuyển sang Sư đoàn 8341 và Nhà máy dệt Bắc Kinh, họ mong muốn làm việc ở đó để được dưới sự lãnh đạo trực tiếp và che chở của Mao chủ tịch. Trong nhóm đầu tiên của những người hăng hái có những phụ nữ trong nhân viên phục vụ Hội nghị đại biểu toàn Trung Quốc và bộ phận chung của Trung Nam Hải. Tất cả họ đều là các cô gái trẻ phục vụ phòng 118. Uông Đông Hưng và Mao chào mừng quyết định của họ. Những phụ nữ này mặc quân phục đến nhà máy trong tiếng sấm vỗ tay và tiếng vang của dàn nhạc. Công nhân nam giới tổ chức mit tinh. Để ghi nhận sự kiện này, các phóng viên kéo đến nhà máy. Báo ảnh Nhân dân Nhật báo và Báo ảnh Quân Giải phóng đều đăng ảnh các nữ chiến sĩ đến nhà máy dệt.
Nhìn thấy ảnh, Giang Thanh không hài lòng. Bà lên án nhân viên phục vụ Hội nghị đại biểu toàn Trung Quốc trá hình giả danh quân đội. Thời ấy nhiều người mặc quân phục, kề cả Giang Thanh. Nhưng Giang cho rằng giả danh mặc quân phục chỉ dành cho người có chức vụ cao chứ không dành cho những nhân viên thấp kém. Bà chỉ thôi càu nhàu khi Uông Đông Hưng nói, chính Mao chủ tịch cho phép những cô gái này mặc quân phục.
Sau đó, Diệp Quần và Tổng tham mưu Hoàng Trung Thành đến thăm nhà máy. Mục đích của họ, cổ vũ hình mẫu điều khiển trực tiếp của Mao chủ tịch. Để tỏ lòng tôn kính đặc biệt, họ chọn Tôn Yên, phó ban Quân quản, hứa với ông cùng kết hợp trong hoạt động, yêu cầu Tôn Yên tiến hành các cuộc đàm phán của các phe thù địch bằng cách tăng cường Uỷ ban về vấn đề quân sự và đại bản doanh không quân. Với sự liên kết chặt chẽ với Tôn Yên, Diệp Quần và Hoàng Trung Thành chỉ đạo hoạt động ở nhà máy, cử người thân tín đến theo dõi lâu dài.
Với sự quan tâm đặc biệt của Diệp Quần và Hoàng Trung Thành, liên lạc trực tiếp của Mao với nhà máy không còn nữa, thực hiện qua đường dây trung gian.
Tôi cảm thấy cả Uông Đông Hưng và Tôn Yên đều trung thành với Mao, không hề tin “sự lãnh đạo” của Diệp Quần đưa người vào nhà máy. Tôi lo ngại việc Diêp Quần can thiệp sẽ gây khó khăn cho Uông Đông Hưng với Tôn Yên. Nếu Tôn Yên lộ chuyện nói có mối quan hệ mật thiết với Diệp Quần và Hoàng Trung Thành cái gì sẽ xảy ra? Mao có nghi ngờ hay không?
Tôi bày tỏ sự nguy hiểm của mình với Uông: “Tôn Yên cũng là thuộc hạ của anh, Mao có thể nghĩ là anh ngả sang người khác”.
Uông Đông Hưng không đồng ý với cảnh báo của tôi. Dưới bão tố Cách mạng văn hoá, Uông muốn tăng quyền lực bằng cách liên minh với tất cả những ai có khả năng giúp. Chỉ có Giang Thanh, Uông vẫn ghét từ trước, mong muốn loại bỏ bà ta từ lâu nên không liên kết. Với Lâm Bưu, Uông đối xử khác. Đây là người mai kia sẽ kế vị Mao, Uông không bỏ lỡ cơ hội chiếm niềm tin và sự ủng hộ của Lâm Bưu.
Tháng 8-1966, khi nguyên soái nguyên soái Lâm Bưu ốm, tôi cùng với Uông tới thăm. Uông Đông Hưng nói với tôi, ông tiến hành cuộc thăm viếng có tính chất cá nhân, chứng minh mối quan hệ của mình với Mao. Tin rằng liên minh Lâm Bưu với Giang Thanh mang tính chiến thuật, Uông kể cho Lâm Bưu về sự xung khắc không thể dàn hoà được của mình với vợ Chủ tịch. Uông đã tin vị thế Lâm Bưu vững chắc, không cần dựa vào Giang Thanh.
Tới tháng Tám, Lâm Bưu và Uông Đông Hưng đã thoả thuận được. Nguyên soái hứa giúp nếu Uông rơi vào cảnh hiểm nghèo. Uông Đông Hưng đồng ý thông báo cho Lâm Bưu tất cả những việc xảy ra quan trọng quanh Mao.
Chiến lược của Uông cực kỳ nguy hiểm. Tôi nói với ông:
– Nếu thậm chí tin bóng gió về sự thoả thuận của đồng chí lọt ra, đó sẽ là tai hoạ.
Uông nghĩ khác.
– Tôi thề làm tất cả những gì có thể làm được đánh đổ Giang Thanh – Uông cũng không nghĩ tới đường thoái – Rò rỉ tin? Ai bẩm báo? Không phải anh và không phải tôi. Thế thì ai đây?
Tôi, người duy nhất Uông nói cho biết về sự thoả thuận với Lâm Bưu. Nhưng mỗi lần, thấy sự thái quá của Uông dành cho nguyên soái và vợ ông ta, tôi phát nôn. Tôi không bao giờ an tâm dưới quyền lãnh đạo của Lâm Bưu, không tin sự trung thành tuyệt của Bưu đối với Mao. Uông Đông Hưng đang đùa với lửa.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [65]