23 tháng 4, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 61

Posted: 26/10/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59], [60], [61]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi thường xuyên xa gia đình, nhất là trong tình hình nước sôi lửa bỏng của cuộc đấu đá chính trị. Việc tôi trở về đoàn tụ vui mừng khôn xiết, bữa cơm tối xum họp với vợ con buổi đầu tiên trở về. Nhưng Lý Liên lo lắm. Tôi biết vợ tôi rất ngại Giang Thanh tham gia công tác chính trị, tin sự thù hận của Giang nhân dịp này sẽ trút lên đầu chúng tôi. Nhưng hình như còn có một cái gì đó làm vợ tôi bất an thì phải. Khi lũ trẻ đi ngủ, Lý Liên nói nhỏ:
– Em nhận được tin khủng khiếp lắm.
Vợ tôi thì thầm. Từ khi tiến hành Cách mạng văn hoá, chúng tôi thậm chí ở trong nhà riêng cũng buộc phải thì thầm.
– Điền Gia Anh đã tự sát.

Tin ấy làm tôi kinh hoàng. Điền Gia Anh, một trong số những người bạn thân nhất của tôi, đã chết. Điền Gia Anh, một trong số những thư ký chính trị của Mao, ông thường thông tin cho tôi những vụ việc xảy ra ở trung ương, giữa chúng tôi có nhiều điểm giống nhau. Mấy tháng gần đây, tôi thường nghĩ đến Điền Gia Anh, đặc biệt khi biết Trần Bá Đạt và Giang Thanh tham gia “Tiểu tổ Trung ương Cách mạng văn hoá” mới. Điền Gia Anh và Giang Thanh không hợp nhau. Sự ủng hộ của Trần Bá Đạt trong Đại nhảy vọt, dẫn đến Trần và Điền mâu thuẫn nghiêm trọng.
Điền Gia Anh không bao giờ ủng hộ Đại nhảy vọt, sự bất mãn của ông tăng lên sau khi Bành Đức Hoài bị thanh trừng năm 1959. Tôi biết, anh bạn Điền sẽ bị rắc rối, nhưng không thể ngờ anh tự huỷ hoại đời mình khi cuộc Cách mạng văn hoá mới sơ khai. Nhiều người trong số bạn thân của tôi chết trong Cách mạng văn hoá, nhưng Điền Gia Anh là người đầu tiên.
Tôi rất sốc, khi không một ai báo tin Điền tự tử. Dĩ nhiên, nhân viên quanh Mao ở Hàng Châu và Vũ Hán chắc chắn biết. Vì sao họ giữ kín cả với tôi?
Lý Liên cho biết sau khi bắt đầu “Cách mạng văn hoá vô sản vĩ đại” chính thức phát động ngày 16-5, Uông Đông Hưng, mới được cử làm giám đốc Tổng Văn phòng, có nói chuyện với Điền Gia Anh, sau đó cử một số nhân viên tới tịch thu các tài liệu của Điền – dấu hiệu đầu tiên cho thấy người ta xếp Điền Gia Anh vào diện thanh lọc. Lệnh thu hồi tài liệu ở một quan chức cao cấp cần phải có sự chỉ đạo từ một thủ trưởng rất cao. Hoặc từ Chu Ân Lai, hoặc từ chính Mao. Ngay đêm ấy, sau khi các tài liệu bị tịch thu, Điền Gia Anh treo cổ.
Lý Liên lo ngại cho tôi. Tại sao Mao cử tôi quay về Bắc Kinh trước khi ông có mặt? Vợ tôi cho rằng đang Mao kiểm tra, thử thách tôi. Ông muốn biết thái độ của tôi với Cách mạng văn hoá như thế nào, đứng bên nào, liệu còn trung thành nữa hay không? Nhà tôi yêu cầu từ nay phải kín đáo, đừng thổ lộ bất cứ với ai, e rằng chẳng bao lâu nữa tôi lại nằm trên thớt, rồi không chịu nổi sự nhục mạ, suy sụp tinh thần có khi cũng tự vẫn.
Đảng viên đảng cộng sản không được phép tự sát. Việc đó được xem như sự phản bội đảng. Người thân trong gia đình những người tự sát đến hết đời mình cũng phải mang cái mác “vợ kẻ phản bội” “con kẻ phản bội” và phải cắn răng chịu đựng suốt đời. Lý Liên có thể bị đuổi việc, bắt buộc phải lao động làm thuê. Hơn thế, cả vợ tôi, các con thơ dại cũng có thể bị đi đầy. Đêm ấy, vợ tôi thì thầm, van xin:
– Nếu anh tự tử, cả nhà cũng chết theo!
Tôi hứa, không bao giờ tự tử. Nhưng tôi hiểu, có thể sẽ bị công kích, gia đình tôi cũng sẽ phải chịu đau khổ. Một người trong gia đình bị lăng nhục, cả nhà bị nhục. Không có con đường nào trốn thoát.
Trong đầu tôi vụt ra một ý, chỉ có một cách duy nhất hoá giải. Tôi khuyên Lý Liên:
– Trong ngày mà họ bắt anh, em phải nộp đơn ly dị ngay.
Nghĩ lại, sao tôi lại xuẩn ngốc đến như thế. Ly dị không thể cứu được gia đình tôi. Trong những năm Cách mạng văn hoá, tôi chứng kiến rất nhiều gia đình, chết, ly dị, ly thân cũng chẳng thay đổi, hoãn lại bản án đã đưa ra.
Tôi chuẩn bị đương đầu với thử thách đầu tiên. Lý Liên nói đúng: Mao cử tôi về Bắc Kinh để kiểm tra độ trung thành.
Hôm sau, tôi báo cáo Uông Đông Hưng, Chủ tịch ra lệnh cho tôi gặp Đào Chú và tìm hiểu bước đi của Cách mạng văn hoá. Đào phải có mặt ở Bắc Kinh ngày hôm sau. Uông Đông Hưng yêu cầu tôi gặp Đào tại sân bay, thu xếp nơi ăn chỗ ở cho Đào trong khu Trung Nam Hải.
Trên đường từ sân bay về, tôi thông báo cho Đào biết về sự phân công của Mao. “Dễ ợt, không thành vấn đề” – Đào trả lời và đề nghị hôm sau sẽ thăm Trường Đại học Liên hợp Y khoa Bắc Kinh, giờ đây được đổi tên thành Đại học Y khoa Trung Quốc. Đào bảo:
– Tôi sẽ bảo người trong nhóm “Tiểu tổ Trung ương Cách mạng văn hoá” đưa anh đến đó.
Tôi ngần ngại. Tôi rất khó chịu sự tả khuynh của nhóm này. Gặp họ nghĩa tôi hoà nhập với họ, quan tâm dính líu vào chính trị, điều tôi không muốn. Người ta có thể cho tôi là người của họ, “phái hữu khuynh”. Với tôi, gặp Đào Chú không ngại, vì chính Mao thu xếp việc này. Nhưng gặp người hữu khuynh có thể tôi vào vòng nguy hiểm. Tôi gặp bất cứ ai trong phe hữu khuynh ngoài Đào ra có thể gặp rắc rối sau này mà không có người bảo vệ. Mao có thể nói, chỉ ra lệnh gặp Đào Chú, không gặp người khác.
Uông Đông Hưng đoán được sự tiến thoái lưỡng nan, ông bảo vệ tôi, nói với Đào:
– Chủ tịch yêu cầu bác sĩ Lý nói chuyện với đồng chí, không phải với các thành viên khác. Tôi không nghĩ anh ấy cần gặp một ai khác.
Đào Chú đồng ý. Ông yêu cầu tôi đi cùng Giang Huy Chung Bộ trưởng Bộ y tế, khi ông thăm Đại học Y khoa. Một số nhân viên trong Ban Tuyên giáo của Đào Chú tháp tùng chúng tôi.
Trường Đại học Y khoa Trung Quốc trong tình trạng hỗn loạn, khi chúng tôi đến khu Đại học đang có biến cố lớn. Giang Huy Chung chịu trách nhiệm trực tiếp về tình hình ở trường Đại học. Sinh viên bãi khoá, các đại tự báo (báo chữ to) phê phán, chỉ trích cán bộ công nhân viên nhà trường, được treo, dán đầy mọi nơi. Tôi không còn hồn vía nào nữa, khi thấy một trong số các khẩu hiệu nhằm thẳng chống chính Bộ trưởng Giang Huy Chung. Người ta gọi ông là “cặn bã của Quốc dân đảng”. Giang từng là bác sĩ phẫu thuật trong quân đội Tưởng Giới Thạch, nhưng gia nhập cộng sản từ năm 1934, sau khi bị bắt làm tù binh ở An Huy. Trong quá khứ, đảng đã từng hân hoan chào đón “những người đảo ngũ” từ Quốc Dân đảng trở về. Với tôi, Giang đã vào đảng rất sớm trong thời gian kháng Nhật, trước cả nội chiến Quốc-Cộng. Từ trong tâm can, tôi tin Giang hoàn toàn vô tội. Không khí ở khu Đại học chứng minh đầy đủ sự khủng bố chính trị.
Tôi tự hỏi, những người không ủng hộ tôi trong Nhóm Một, nếu họ điều tra lý lịch, chắc chắn cũng bị tấn công không thương tiếc. Quá khứ sẽ tiêu ma sự nghiệp và đời tôi. Tôi mới vào đảng sau giải phóng. Cha tôi từng giữ chức vụ cao cấp trong Quốc dân đảng, vợ tôi con đại địa chủ. Mặc dù lý lịch tôi đã được điều tra kỹ, không vướng mắc gì từ năm 1953 nhưng cũng vô nghĩa trong tình hình hiện nay.
Khi chờ Giang, sinh viên mít tinh ở hội trường. Sinh viên tụ tập từng nhóm, bàn tán hăng hái. Tôi nghe thấy các khẩu hiệu sinh viên thét vang khi chúng tôi bước vào. Tôi ngồi phía sau, chẳng ai biết tôi là ai, Giang Huy Chương lên bục, đồng chí Hứa đại diện Ban Tuyên Giáo, người mà Đào Chú cử đi cùng, lẩn vào đám đông, biến mất tăm. Đám sinh viên vô tổ chức la hét, đấu tố người đứng trên bục, tôi nghe thấy họ buộc tội Bộ trưởng y tế phục vụ cho các “quan”, phớt lờ sức khỏe quần chúng nhân dân. Họ trích dẫn “Chỉ thị 26-6 (1965)” của Mao để chứng minh đều họ lên án.
Bỗng nhiên tôi hiểu, bản chỉ thị 26-6 này chính là bức giác thư Mao ra lệnh tôi viết tóm tắt sau cuộc trò chuyện, trước đêm tôi với Uông Đông Hưng đi Thạch Tư. Lúc đó, tôi gửi bản ấy cho Bành Chân và Bộ trưởng Giang Huy Chung. Nội dung của cuộc nói chuyện giữa Chủ tịch và tôi đã biến thành “Chỉ thị 26 tháng Sáu”, được sử dụng để tấn công Giang Huy Chung, bạn tôi.
Tôi khổ sở lắm. Tôi quý, rất ngưỡng mộ Giang Huy Chung. Giá như tôi không gửi bài viết của Mao chỉ trích Bộ y tế, có lẽ ông đã tránh được cuộc đấu tố như thế này. Tất cả mọi người trong hội trường, chỉ có Bộ trưởng Giang biết tôi là người viết bản chỉ thị, đi cùng ông đến đây theo đề nghị của Đào Chú, theo phán bảo của Mao và cũng là người duy nhất biết tôi bác sĩ của Mao. Rời cuộc họp tôi chưa hết bàng hoàng, thề không bao giờ tham gia những cuộc họp như thế nữa. Giờ đây tôi hiểu, tôi quá may mắn, quá khứ không bị phanh phui. Nếu phải trả lời những câu hỏi về quá khứ, về thành phần gia đình, chắc chắn đời tôi tiêu. Uông Đông Hưng biết tôi rất lo lắng.
Vận hạn chính trị Đào Chú phải trả quá lớn, quá nhanh. Ông bị mất chức vào tháng 12 năm ấy, chỉ vì không chịu lệ thuộc dưới trướng Giang Thanh, lại ủng hộ những người lãnh đạo khác, kể cả Giang Huy Chung và tỉnh đảng bộ Hồ Bắc, Vương Nhiệm Trọng, những người đã rơi tầm ngắm sẽ bị thanh trừng.
Sau khi Đào Chú và Giang Huy Chung bị thanh trừng. Đồng chí Hứa bên Ban Tuyên Giáo, người đi kèm chúng tôi đến Trường Đại học Trung Quốc rồi lẩn mất vào đám đông, đột nhiên tái xuất hiện, rồi tấn công tôi. Ông viết thư cho giám đốc “Tiểu tổ Trung ương Cách mạng văn hoá” Trần Bá Đạt, tố cáo tôi, đồng minh thân cận của Đào Chú, người bị thanh trừng, đã đến Đại học Y khoa để bảo vệ Giang Huy Chung. Trần Bá Đạt chuyển bức thư đó cho Mao. Mao cho tôi xem thư này.
Tôi nhắc với Chủ tịch:
– Nhưng chính Chủ tịch đề nghị tôi về Bắc Kinh gặp Đào Chú.
Mao cười, bảo:
– Nếu họ buộc tội anh có mối quan hệ chặt chẽ với những người ấy, có lẽ tôi cũng nên thông báo với họ, anh và tôi có quan hệ rất gần gũi, thân thiết lắm.
Ông khuyên tôi nên viết một tờ báo khổ chữ to, tố cáo Giang Huy Chung. Tôi không làm, nhưng Mao cũng chẳng biết. Chủ tịch đã cứu tôi, ông gạch tôi khỏi danh sách những người cùng phe Đào Chú. Nhưng những người khác, hoàn toàn vô tội, vô can như tôi, không có được một sự che chở may mắn như thế, sẽ chết.
***
Mao muốn tôi tham gia tích cực vào Cách mạng văn hoá. Ông không cho phép tôi đứng ngoài cuộc chiến. Việc thử thách lòng tin của tôi được tiếp tục. Hai tuần sau khi quay về Bắc Kinh, ông gọi tôi vào buồng ngủ trong khu Hương Cúc.
Mao muốn tôi và y tá trưởng Ngô Tự Tuấn sáng hôm sau đi cùng con gái ông, Lí Nạp, vào Đại học Bắc Kinh.
– Hãy xem những tờ báo chữ to, thảo luận trao đổi với sinh viên, xem họ bị buộc tội phản cách mạng đúng hay sai! – Ông ra lệnh.
Náu mình bởi cuộc nghỉ hè ở Hàng Châu và Vũ Hán, Mao đẩy Lưu Thiếu Kỳ chịu trách nhiệm phát động cuộc Cách mạng văn hoá. Lưu Thiếu Kỳ đưa những đội quân công nhân đến các trường Đại học điều khiển phong trào chính trị đang bùng phát. Nhưng Mao lại nghi ngờ thay bằng sự ủng hộ, ông cổ vũ sinh viên nổi dậy, nhưng những người do Lưu cử đến ngăn chặn sinh viên, phê bình kết án họ là bọn phản cách mạng.
Tôi chẳng thích đi cùng Lí Nạp, nhiều người ở Đại học Bắc Kinh biết cô là sinh viên khoa lịch sử của trường. Tôi e rằng, nếu người ta nhìn thấy ba chúng tôi đi với nhau, họ sẽ nghĩ là Mao tham gia phong trào.
Nhưng Mao chẳng lo điều này.
– Cái gì cơ? – Ông trả lời – Thật là tuyệt, nếu ở Đại học Bắc Kinh người ta nghĩ rằng cả tôi bị cuốn vào cách mạng văn hoá. Theo tôi, các đồng chí nên ủng hộ sinh viên.
Lí Nạp mời một số bạn học và giáo sư gặp chúng tôi ở hội trường. Tôi nói dăm ba câu. Sau đó sinh viên bắt đầu phàn nàn về giới lãnh đạo Đại học Bắc Kinh. Lý Bình, phó hiệu trưởng, người tôi từng tiếp xúc, khi Lí Nạp bị cảm, phải đưa vào bệnh viện, lại là đối tượng chú ý đặc biệt của những người nổi loạn.
Sinh viên tố cáo, Đảng uỷ nhà trường đã ngăn cuộc cách mạng của họ, khi đội công nhân thay thế ban lãnh đạo đảng lại không ủng hộ sinh viên nổi dậy, còn buộc tội họ phản cách mạng. Sau khi nghe sinh viên tố cáo, chúng tôi đi bộ quanh khu trường Đại học, đọc báo chữ to dán khắp nơi. Tất cả sinh viên ở Đại học đổ xuống đường, tụ tập thành những nhóm nhỏ, tiến hành các cuộc thảo luận chính trị sôi nổi.
Những cái gì xảy ra ở Đại học Bắc Kinh, tôi không quá quan tâm. Vấn đề chính trị thật sự không phải ở khu trường Đại học, mà ở hàng ngũ các nhà chính trị chóp bu của đảng. Tôi cho rằng, bản thân các nhà lãnh đạo phải tìm ra phương cách giải quyết bất đồng của mình. Không cần thiết phải lôi sinh viên vào vạc dầu sôi này.
Mao, tất nhiên, nghĩ khác. Ông tuyên chiến với chính những người lãnh đạo đảng của ông, và giờ đây, thậm chí hơn cả năm 1957, không tin vào đảng có thể tự thay đổi. Ông không thể dựa vào trí thức, có thể thay đổi ý thức hệ của đảng. Khi ông kêu gọi “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, họ đã hưởng ứng, nhưng không những phê phán, chỉ trích đảng, họ còn phê phán, chống chủ nghĩa xã hội và cả Chủ tịch nữa.
Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, Mao vượt qua sự cản trở thói quan liêu trong đảng và chính quyền, đặt niềm tin vào cánh tay của thanh niên đang sùng bái ông. Chỉ có thanh niên mới có lòng dũng cảm đấu tranh với các lực lượng chính trị già cỗi, cổ hủ. Mao tâm sự với tôi, khi chúng tôi còn ở Vũ Hán.
– Chúng ta cần dựa vào họ để bắt đầu làm cách mạng. Nếu làm khác đi, chúng ta không thể đánh đổ được bọn yêu ma, quỷ quái.
Mao không cần tôi báo cáo về tình hình ở Đại học. Ông biết quá rõ cái gì đang xảy ra ở đó, nhưng đã cử tôi tới, như một lần nữa kiểm tra quan điểm của tôi với Cách mạng văn hoá.
Ông muốn biết liệu tôi có coi sinh viên là bọn phản cách mạng hay không.
– Không, dĩ nhiên là không rồi – Tôi trả lời không cần suy nghĩ – chẳng lẽ lại có nhiều bọn phản cách mạng đến thế trong đám sinh viên?
– Đúng – Mao tán thành – Đó chính là điều tôi muốn nghe ở anh.
Tôi đã thành công trong cuộc thử thách đầu tiên. Ngay sau đó, Mao cho giải tán đội công nhân do Lưu Thiếu Kỳ thành lập, buộc tội họ âm mưu tiêu diệt sinh viên, có ý đồ gây rối.
Việc quay lại Bắc Kinh, Mao muốn cho mọi người biết sự lùi bước đã kết thúc, ông sẽ trực tiếp chỉ đạo quần chúng. Ngày 29-6-1966, Mao triệu tập cuộc họp trong Đại lễ đường Nhân dân, có đến 10 nghìn học sinh sinh viên, trung học và Đại học để nghe tin về sự giải tán đội công nhân. Sinh viên bị kết án nổi loạn được tha bổng, miễn hình phạt. Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình bị buộc chịu trách nhiệm trước quần chúng vì đã cử đội công nhân trong khi Mao vắng mặt.
Bản thân Mao không có ý định tham dự các cuộc họp đặc biệt. Ông từ chối công khai mối quan hệ với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình trước quần chúng. Coi như không biết có các vị lãnh đạo khác, cũng như học sinh, sinh viên, ông lặng lẽ vào thính phòng, Trước khi cuộc họp bắt đầu, tôi tháp tùng và ngồi sát ông, sau bức rèm cánh gà, ông chăm chú lắng nghe, không nói một lời, cho đến khi Lưu Thiếu Kỳ tiến hành “tự phê bình”.
Bài phát biểu của Lưu “tự phê bình” rất giống bài tự phê bình của Mao năm 1962. Lưu Thiếu Kỳ công nhận ông không làm gì sai trái, chỉ chấp nhận ông và các đồng sự – “những nhà cách mạng lão thành đang đứng trước những vấn đề phát sinh mới” giải quyết chưa tốt. Do thiếu kinh nghiệm, không có sự nhạy cảm cần thiết để dẫn dắt cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản này đi đúng hướng.
Khi nghe đến điều đó, Mao cười lớn, mỉa mai:
– Các nhà cách mạng lão thành ư? Bọn phản cách mạng lão thành thì đúng hơn!
Tim tôi giật thót. Tôi từng coi cuộc Cách mạng văn hoá là sự lừa đảo, bây giờ thể hiện rõ nét. Mục tiêu chính nhằm vào Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, coi họ là bọn phản động chui vào đảng, “lấy danh nghĩa đảng, thao túng chính quyền đi theo con đường tư bản”. Chiến dịch cách mạng văn hoá được kêu gọi phát động để tiêu diệt họ.
Sau Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai lên diễn đàn. Ông cố gắng giải thích cho sinh viên ý nghĩa và mục đích Cách mạng văn hoá. Mao đứng lên, định bỏ về phòng 118, nơi ông ưa thích trong toà nhà Quốc vụ viện, cách không xa phòng họp.
Nhưng đột nhiên ông thay đổi quyết định, nói với tôi:
– Chúng ta cần phải ủng hộ cuộc cách mạng của quần chúng chứ.
Khi Chu Ân Lai kết thúc bài phát biểu. Cánh gà phía sau hậu trường được kéo ra, thật bất ngờ như có phép mầu nhiệm, Mao chủ tịch từ hậu trường, tiến ra khán đài. Đám đông rồ lên reo hò. Mao vẫy tay chào mừng tất cả mọi người, cả hội trường sôi động hô theo nhịp: “Mao chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!” Bản thân Mao lúc ấy đi đi lại lại trên sân khấu, từ tốn, nét mặt thản nhiên, tay vẫy vẫy.
Đám hò reo vẫn chưa ắng xuống, tiếng hô vẫn nghe rõ, khi Mao rời sân khấu, trong niềm vui hoan hỉ về phòng 118. Chu Ân Lai, như một con chó trung thành, lẽo đẽo theo sau.
Mao không thèm để ý Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, coi như họ không có mặt, cả hai người kinh ngạc, sửng sốt, ở lại sân khấu. Nhiều người vẫn không nhận ra khoảng cách giữa ông và Lưu, Đặng.
***
Ba ngày sau, 1-8-1966, Mao viết một bức thư gửi học sinh trường Trung học, trực thuộc Đại học Thanh Hoa. Nơi có một nhóm thanh niên lập ra ở đó một tổ chức nổi loạn, mang tên “Hồng vệ binh”. Mao khen ngợi, nhận xét rằng “nổi loạn là đúng đắn”. Lời của Mao được được in lại trong nhà in sinh viên và tức thời trở thành khẩu hiệu vang dội, kêu gọi tập hợp thanh niên toàn Trung Hoa. Các nhóm Hồng vệ binh bắt đầu ra đời ở các trường trung học và Đại học trong toàn quốc.
Để ủng hộ “báo chữ to”, dán khắp nơi trong khu trường Đại học, Mao viết một áp phích lớn của riêng mình, tiêu đề “Ném bom Tổng hành dinh” được chính quyền trung ương truyền bá nhanh chóng. Mao phê phán, ít nhất trong 50 ngày qua hoặc lâu hơn nữa, chính “các đồng chí” kể cả chính quyền trung ương lẫn địa phương đã chống đối đảng, đi theo bọn tư sản, phản động cố gắng dẫn tới độc tài tư sản. Họ ra sức – Mao khẳng định – phá hoại Đại cách mạng văn hoá vô sản. Do kích động của Mao, Cách mạng văn hoá tiến sâu thêm những bước mới. Thanh niên xông ra ngoài phố tấn công cơ sở đảng, tin tưởng rằng chính Mao ủng hộ họ, vì ông đã viết “nổi loạn là đúng đắn”, vì vậy việc họ tham dự là tốt, là đúng đắn.
Mao vẫn tiếp tục phớt lờ hệ thống quan liêu của đảng. Ngày 10-8-1966 Mao “đón tiếp đội quân quần chúng” ở cổng phía tây của Trung Nam Hải. Về sau này, ông chào đón hàng triệu Tiểu Hồng vệ binh, từ khắp nơi trong cả nước tiến về Bắc Kinh, trên quảng trường Thiên An Môn. Tính đến cuối năm 1966, tám lần tôi đứng với Mao trên lễ đài hoặc ngồi trong xe mui trần, khi ông gặp Tiểu Hồng vệ binh, từ các miền xa xôi đất nước để được nhìn thấy lãnh tụ vĩ đại.
Lâm Bưu cũng thường xuyên ở bên Mao, đương nhiên, chứng suy nhược thần kinh tiêu tan khi ông tham gia vai trò chính trị mới, chẳng còn sợ ánh sáng mặt trời, chẳng sợ gió. Ông thường xuyên tháp tùng Mao, mỉm cười và vẫy tay đám đông đứng dưới lễ đài.
Tới lúc này tôi biết được rõ sự đối đầu của Mao với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, mà lần đầu tiên cảm nhận trong đại hội đảng lần VIII, năm 1956, giờ đã trở nên đỉnh cao, hai người sớm muộn cũng bị loại bỏ. Dù vậy, đa số nhân dân vẫn chưa rõ mục đích thật sự Cách mạng văn hoá của Mao. Với người thân tín, tôi và vài người khác, Mao cả quyết Lưu và Đặng là kẻ phản động. Nhưng trước công luận ông tỏ ra ôn hoà. Khi tổ chức phiên họp toàn thể lần thứ 11, tiến hành từ 1 đến 12-8-1966, Chủ tịch bắt đầu nói về mối quan hệ này.
– Nếu như đảng ta là đảng duy nhất được tồn tại – ông nói – Nhà nước ta sẽ biến thành nhà nước quân chủ. Một điều hoàn toàn xa lạ, rất lạ nếu trong đảng ta không có mâu thuẫn nội bộ, có những ý kiến trái chiều.
Người ta cứ tưởng ông sẽ khoan dung với những người bất đồng chính kiến. Mao nói tiếp:
– Chúng ta không thể cấm người khác mắc khuyết điểm, nhưng chúng ta cần phải biết khoan dung, cho phép họ sửa chữa thiếu sót, sai lầm.
Nhưng đó chỉ là những lời lừa gạt, Mao không những không cho phép ai chống lại quan điểm của ông mà cũng chẳng khoan dung với ai bất đồng chính kiến. Bất cứ ai trước kia đã từng chống ông, phê phán ông, sớm muộn cũng sẽ bị trừng phạt không thương tiếc.
Nhưng lời của Mao chỉ làm người nghe hiểu sai. Mao thực tế không cho phép một bộ phận nào của dân chúng chống lại quan điểm riêng của ông. Ông không tha thứ cả những người có ý nghĩ khác.
Tục ngữ Trung Hoa có câu: “Muốn phủ giòng sông bằng nước đá dầy một mét, phải cần nhiều năm”. Đối với Mao, cũng phải cần nhiều năm để ông loại bỏ kẻ thù, ông tiếc, mãi đến bây giờ mới làm được điều này, mối hận thù ông theo đuổi rất lâu, từ trước khi giải phóng. Để tạo nên thắng lợi, ông sẵn sàng đẩy đất nước rơi vào hỗn loạn.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [62]

40 câu châm ngôn sâu sắc của cụ bà Thái Nguyên khiến bạn giật mình suy ngẫm


Ảnh minh họa
01. Dạy con trẻ vạn lời hay, không bằng nửa ngày làm gương, làm mẫu.
02. Cha mẹ chỉ biết cho, chẳng biết đòi. Con cái thích vòi mà không biết trả.
03. Dâu, rể tốt cha mẹ được đề cao. Con cái hỗn hào đứt mười khúc ruột.
04. Cha mẹ dạy điều hay, kêu lắm lời. Bước chân vào đời ngớ nga ngớ ngẩn.
05. Cha nỡ coi khinh, mẹ dám coi thường, bước chân ra đường phi trộm thì cướp.
06. Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han, bước vào cơ quan cúi chào thủ trưởng.
07. Con trai chào trăm câu không bằng nàng dâu một lời thăm hỏi.
08. Khôn đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với trẻ.
09. Gọi cha: ông khốt, gọi mẹ: bà bô. Ăn nói xô bồ thành người vô đạo.
10. Mỗi cây mỗi hoa, đừng trách mẹ cha nghèo tiền nghèo của.
11. Cái gì cũng cho con tất cả, coi chừng ra mả mà cười.
12. Đồng tiền trên nghĩa, trên tình, mái ấm gia đình trở thành mái lạnh.
13. Gian nhà, hòn đất, mất cả anh em. Mái ấm bỗng nhiên trở thành mái nóng.
14. Bố mẹ không có của ăn của để, con rể khinh luôn.
15. Coi khinh bên ngoại, chớ mong có rể hiền.
16. Ăn ở mất cả họ hàng, chớ mơ có nàng dâu thảo.
17. Rể quý bố vợ vì có nhà mặt phố. Con trai thương bố vì chức vì quyền.
18. Đi với Bụt mặc áo cà sa, quen sống bê tha, thân tàn ma dại.
19. Ngồi bên bia rượu hàng giờ, dễ hơn đợi chờ nửa giây đèn đỏ.
20. Củi mục khó đun, chồng cùn sống bậy, con cái mất dạy, phí cả một đời.
Ảnh minh họa
21. Hay thì ở, dở ra tòa, chia của chia nhà, con vào xóm “bụi”.
22. Ngồi cùng thiên hạ, trăm việc khoe hay. Mẹ ốm bảy ngày không lời thăm hỏi.
23. Đi có bạn đường chân không biết mỏi, còn có mẹ cha sao không hỏi khi cần.
24. Nói gần nói xa, đừng biến mẹ già thành bà đi ở.
25. Bài hát Tây Tàu hát hay mọi nhẽ. Lời ru của mẹ chẳng thuộc câu nào.
26. Con trai, con rể bí tỷ say mềm. Nàng dâu ngồi chơi, mẹ già rửa bát.
27. Khỏe mạnh mẹ ở với con, đau ốm gầy còm tùy nghi di tản.
28. Thắt lưng buộc bụng, nhịn đói nuôi con, dâu rể vuông tròn, cuối đời chết rét.
29. Mẹ chết mồ mả chưa yên, anh em xô nhau chia tiền phúng viếng.
30. Khấn Phật, cầu Trời, lễ bái khắp nơi, nhưng quên ngày giỗ Tổ.
31. Vào quán thịt cầy, trăm ngàn coi nhẹ, góp giỗ cha mẹ suy tị từng đồng.
32. Giỗ cha coi nhẹ, nuôi mẹ thì không. Cả vợ lẫn chồng đi làm từ thiện.
33. Một miếng ngọt bùi khi còn cha mẹ, một miếng bánh đa hơn mười ba mâm báo hiếu.
34. Cha mẹ còn thơm thảo bát canh rau. Đừng để mai sau xây mồ to, mả đẹp.
35. Ở đời bất thiện, là tại nhàn cư. Con cháu mới hư đừng cho là hỏng.
36. Bạn bè tri kỷ, nói thẳng nói ngay. Con cháu chưa hay đừng chê đồ bỏ.
37. Bảy mươi còn phải học bảy mốt. Mới nhảy vài bước chớ vội khoe tài.
38. Phong bì trao trước, bia bọt uống sau, dâu rể ngồi đâu đố ai mà biết.
39. Tiếp thị vào nhà bẻm mép, cẩn thận cảnh giác, đôi dép không còn.
40. Cầu thủ thế giới tên gọi chi chi, thoáng nhìn tivi đọc như cháo chảy, ông nội ngồi đấy thử hỏi tên gì?

http://www.tin12.com/cau-cham-ngon-sau-sac-cua-cu-ba-thai-nguyen-khien-ban-giat-minh-suy-ngam-21021.html
(Chép từ Kì Duyên blog)

22 tháng 4, 2016

Nhân tướng học

Nhìn thấu tâm can con người qua 5 kiểu đuôi mắt phổ biến

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, vậy nên có thể nhìn thấu nội tâm của một người qua ánh mắt. Không chỉ vậy, nhìn vào đuôi mắt của người ta, cũng có thể biết được rất nhiều điều.

đuôi mắt, đầy đặn, nhân tướng, Bài chọn lọc,
Nữ giới có phần đuôi mắt đầy đặn, đa phần rất xinh đẹp, có sức quyến rũ lớn đối với cánh mày râu. (Ảnh: Internet)
1. Phần đuôi mắt đầy đặn, nhiều thịt
Nữ giới có phần đuôi mắt đầy đặn, đa phần rất xinh đẹp, có sức quyến rũ lớn đối với cánh mày râu. Hơn thế, họ còn dễ dàng nắm bắt được trái tim đối phương, một khi đã để ý ai đó thì người ấy khó mà thoát khỏi tay nàng.
2. Phần đuôi mắt bị lõm xuống
Nếu có tướng mắt mà phần đuôi mắt lõm xuống, xương lộ rõ chứng tỏ người này không giỏi thể hiện cảm xúc, thiếu sự lãng mạn, nhân duyên khác giới không tốt.
Bản thân người này ít nói, bề ngoài lạnh lùng, tâm địa có phần nham hiểm, suy nghĩ tiêu cực nhiều hơn tích cực.
3. Phần đuôi mắt xuất hiện một hay nhiều nếp nhăn
Trong trường hợp phần đuôi mắt xuất hiện nếp nhăn mà không phải do tuổi tác, nếu là một nếp nhăn hay đường vân nhỏ thì đó là biểu hiện của nhân duyên tốt lành, các mối quan hệ xã giao hữu hảo, cuộc sống hôn nhân viên mãn.
đuôi mắt, đầy đặn, nhân tướng, Bài chọn lọc,
(Ảnh: Internet)
Tuy nhiên, nếu là hai nếp nhăn hoặc nhiều hơn lại là dấu hiệu không cát lành. Tình duyên của người này không tốt, dễ yêu sai người, chọn sai đối tượng kết hôn. Người này tính tình nham hiểm, không được lòng mọi người xung quanh.
Ngoài ra, nếu phần đuôi mắt có nếp nhăn Ngư vĩ (đuôi cá) cũng không phải là quý tướng. Nếp nhăn này thường xuất hiện ở nam giới sau tuổi 40, nữ giới sau 35 tuổi. Nhưng dù là nam hay nữ, người này đều háo sắc, bản tính lăng nhăng, dễ đi ngoại tình.
4. Đuôi mắt xếch
Người có tướng mắt xếch thường ích kỉ, tư lợi cá nhân, chỉ làm những việc có ích cho bản thân, thậm chí có thể trở mặt với bạn bè nếu như liên quan đến vấn đề tiền bạc. Đây cũng là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng người nham hiểm, cần phải tránh xa.
đuôi mắt, đầy đặn, nhân tướng, Bài chọn lọc,
(Ảnh: Internet)
5. Phần đuôi mắt trễ xuống 
Đa phần người có nét tướng cách này hay tính toán chi ly, ki bo, keo kiệt, nhưng họ lại rất giỏi che giấu điều đó, mọi người khó mà phát hiện ra.
Thêm nữa, người này hay soi mói, thích xuyên tạc sự việc, nên cuộc sống nhiều sóng gió, hôn nhân khó mà hạnh phúc.
Theo lichngaytot

Cha mẹ làm chuyện ác nhân, con cái sinh ra chịu chung nghiệp quả


Một vị giáo sư nổi tiếng sinh ra 3 cô con gái đều bị câm, trong lúc tuyệt vọng đã tìm đến cao tăng. Không ngờ cao tăng lại giận dữ nhìn ông và nói: “Hết thảy đều là nghiệp do chính ông gây ra!”.


  • suy ngẫm, nhân qủa, cam diec, báo ứng,
(Ảnh: Internet)
Vợ chồng giáo sư Quan đã 55 tuổi, sinh hạ được ba cô con gái dung mạo xinh đẹp, tuổi lần lượt là 25, 23, 20. Tuy đều đã là những thiếu nữ nết na kiều diễm, nhưng đều chưa tìm được ý trung nhân khiến hai vợ chồng họ vô cùng phiền não.
Ban đầu, các chàng trai thoáng nhìn thấy ba chị em, trong lòng rung động, gắng sức theo đuổi, nhưng khi phát hiện ra những thiếu nữ xinh đẹp này đều không biết nói, liền lập tức chùn chân từ bỏ.
Vợ chồng giáo sư Quan thân là phần tử trí thức, trước nay không tin vào thuyết nhân quả. Khi lần lượt sinh hạ ba cô con gái bị câm, loại đả kích tàn khốc này khiến hai người họ suy sụp, trống rỗng. Họ đã lĩnh ngộ được học vấn và của cải vốn không thể mang đến cho họ niềm vui. Sự khiếm khuyết của ba cô con gái, khiến họ cảm thấy sợ hãi, lo lắng và bất lực.
Vợ chồng giáo sư Quan đã bước vào cái tuổi xế chiều, lại phải chịu dày vò về tinh thần trong suốt một khoảng thời gian dài, vốn không phải là điều mà thuốc thang có thể chữa trị được, vậy nên dần dần cảm thấy hứng thú đối với tôn giáo. Được bạn bè giới thiệu, họ đến ngôi chùa ở vùng ngoại ô lắng nghe cao tăng giảng giải Phật lý.
Khi đó vị cao tăng đang thuyết giảng: “Quy luật nhân quả ‘thiện ác hữu báo’ tồn tại hết sức khách quan, vốn không phải là điều mà Đức Phật quy định hoặc sáng tạo ra, Ngài chẳng qua đã biết được và chỉ rõ chúng ra mà thôi. Bất kể các vị tin hay không tin, chúng ta đều sống trong vòng tuần hoàn của luật nhân quả.
Mỗi một người chúng ta đều cần phải chịu trách nhiệm đối với hành vi thiện ác của mình, mỗi một người đều có thể tạo nên vận mệnh cho mình. Nếu như việc ác là do bản thân các vị làm, thế thì các vị sẽ nhận phải quả báo đau khổ!”.
Lời này của vị cao tăng giống như một gậy cảnh tỉnh, đánh thẳng vào chỗ sâu thẳm nhất trong tâm của giáo sư Quan. Ông cảm thấy ánh mắt của cao tăng dường như đang nhìn vào mình.
Sau khi khóa giảng kết thúc, giáo sư Quan chủ động đi tìm vị cao tăng đó, không ngờ cao tăng vừa mở miệng đã hỏi: “Vào 25 năm trước ông đã làm chuyện gì…trong lòng ông vẫn còn rõ chứ? Hết thảy đều là nghiệp do chính ông gây ra!”.
Giáo sư Quan không khỏi chấn động. Nhớ lại 25 năm trước, ông đã từng làm một chuyện mà ông không sao quên được.
Chuyện là vợ chồng giáo sư Quan sau khi kết hôn được 2 tháng, vợ đã mang thai, giáo sư vui mừng khôn tả. Cứ mỗi khi vào dịp cuối tuần, ông thường lái một chiếc xe hơi sang trọng đi đến vùng biển hoặc các khu du lịch để thăm thú. Có một lần đi dự yến tiệc, ông đậu chiếc xe hơi ở bên ngoài bãi sân chùa.
Vừa mở cửa xe đã có một nhóm những đứa trẻ đường phố ùa đến ngửa tay xin tiền. Giáo sư Quan ghét nhất là những đứa trẻ ăn xin, bản thân không những không chịu bố thí, mà còn nói với mọi người rằng chớ có cho họ tiền, nếu không sẽ dưỡng thành thói xấu, không chịu làm những việc chính đáng, tạo thành tổn thất lớn đối với xã hội. Đám trẻ con nghe xong tự mình tản đi hết.
suy ngẫm, nhân qủa, cam diec, báo ứng,
(Ảnh: Internet)
Khi vợ chồng giáo sư Quan tham dự yến tiệc xong, lúc trở lại bãi đậu xe, phát hiện chiếc xe mới tinh bị rạch một đường dài. Giáo sư Quan lửa giận bốc lên, lòng nghĩ nhất định là đám trẻ con khi nãy, giương mắt nhìn quanh, thấy dưới gốc cây xoài không xa, thấy có 4, 5 đứa trẻ chừng 13, 14 tuổi chơi trò quăng tiền xu, ông bèn lao thẳng đến đó, chưa làm rõ trắng đen, đã đánh mỗi người một bạt tai, sau đó ép họ nói ra là ai đã làm trầy chiếc xe.
Giáo sư Quan thấy không có ai thừa nhận, bèn dọa bắt đưa bọn chúng đến đồn cảnh sát. Lũ trẻ bị bức ép đến không biết phải làm sao, một đứa trẻ xem có vẻ lớn tuổi nhất nhóm, chỉ về phía một đứa trẻ ăn xin người ngoại quốc áo quần rách rưới ở đằng xa, nói rằng chiếc xe là cậu bé ấy rạch. Giáo sư Quan ngay tức khắc nổi giận đùng đùng chạy đến đó, lôi cậu bé đến bên cạnh chiếc xe, còn những đứa trẻ khác thừa cơ chạy mất dạng.
Giáo sư Quan hung hãn tát vào mặt cậu hai cái, rồi tra vấn hỏi cớ sao lại làm trầy xe của mình? Hỏi một hồi rất lâu, thì ra là một đứa trẻ câm, giơ tay làm các ký hiệu, hai mắt lộ vẻ hoảng sợ, ánh mắt như van xin rủ lòng thương.
Giáo sư Quan không hiểu được ý nghĩa của các ký hiệu đó, ông không còn giữ được bình tĩnh nữa, cho rằng cậu nhất định là ôm hận chuyện ông tuyên bố không được bố thí cho những đứa trẻ ăn xin đường phố, vì vậy tức giận giơ chân phải lên, đạp mạnh vào ngực cậu bé bị câm ấy, một tiếng “bịch” cậu ngã lăn xuống đất, chân tay chổng vó lên trời, tiếp đó “ọc” một tiếng, trong miệng nôn ra một búng máu.
Mọi người xung quanh vội vàng kéo giáo sư ra rồi dẫn đứa trẻ câm chạy mất, để khỏi bị đánh nữa.
Trước khi thằng bé đi, đã ngoảnh đầu trừng mắt nhìn giáo sư Quan, ánh mắt chứa đầy nỗi uất hận. Về sau cậu bé đáng thương ấy đã nương thân trong chùa, căn bệnh cũ tái phát khiến cậu trở nên tàn phế. Mọi người đều biết cậu bé bản tính lương thiện, chiếc xe không phải là cậu ấy vạch hỏng, giáo sư Quan đã trách nhầm.
Cuối năm đó, vợ của giáo sư Quan đã sinh hạ một bé gái, mặt mày thanh tú, nhưng đến 2 tuổi vẫn không biết nói. Tiếp đó, cô con gái thứ hai ra đời, 3 tuổi cũng không nói được một câu. Đến cô con gái thứ ba, vừa sinh ra đã mời bác sĩ kiểm tra, lại là một đứa bé câm. Vợ chồng lo sợ đứa bé thứ tư, thứ năm sau này vẫn như vậy, nên đã nhờ bác sĩ làm phẫu thuật tuyệt dục.
“Đại sư…..sao ông biết?”.
“Không muốn người khác biết, trừ phi mình đừng làm, hãy làm nhiều việc thiện, để hoàn trả tội lỗi đi”. Vị cao tăng để lại lời này xong, liền phẩy tay áo bỏ đi.
Bản thân giáo sư chắc cũng không ngờ? Ông đã không chịu đi tìm chứng cứ mà tùy tiện đổ lỗi, làm tổn thương người vô tội, tội lỗi ông gieo không ngờ đã báo ứng lên thân của con cháu. Chỉ có thể nói, mọi chuyện đều đã có định số của nó! Cuối cùng xin hãy chia sẻ câu chuyện này với mọi người.
Tiểu Thiện, dịch từ Enews.com.tw

19 tháng 4, 2016

NẾU KHÔNG CÓ RƯỢU MỚI

Con số cơ cấu 35-40% đại biểu chuyên trách trong Quốc hội khóa tới là một bước đi đúng. Nhưng việc những người như Nguyễn Quang A, Nguyễn Cảnh Bình… bị loại bỏ bằng những công cụ hết sức võ biền cho thấy Đảng vẫn chỉ muốn, ngay cả những người tự ứng cử, cũng phải chắc chắn là người của họ.
Cho dù cách hành xử đó là “truyền thống” hay chỉ từ các mệnh lệnh địa phương, để hệ thống ứng xử như vậy, cho thấy Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chưa chuẩn bị tâm thế và chưa có bước đi quan trọng nào được coi là cải cách.
Khi ông Nguyễn Tấn Dũng bị loại bỏ, số người vui chẳng nhiều hơn bao nhiêu số người bị hụt hẫng. Không ai nghĩ Nguyễn Tấn Dũng là một nhà lãnh đạo anh minh nhưng nhiều người hy vọng nếu ông Dũng toàn quyền, ông sẽ giải tán hoặc làm cho Đảng này sụp đổ.
Không có bất cứ một bằng chứng khoa học nào cho thấy ông Dũng sẽ làm điều đó ngoài những bài viết vu vơ trên những trang mạng nặc danh.
Chỉ vì quá chán ngán cái thể chế đã kìm hãm sự phát triển của dân tộc này suốt hơn 70 năm người ta sẵn sàng đặt niềm tin vào một con người đang trục lợi nhiều nhất từ thể chế cả về châu báu và chức tước.
Không có ai đáng trách.
Khát vọng thoát cộng lớn đến nỗi làm lú lẫn không chỉ những cái nicks vô danh mà còn cả với nhiều trí thức.
Là người đứng đầu một Đảng đang cầm quyền nếu ông Nguyễn Phú Trọng không nhận thức đầy đủ khát vọng này của những người dân có học, để thúc đẩy cải cách chính trị, thì chiến thắng của ông trước Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị coi là chiến thắng của một người tham vọng quyền lực chứ không phải của một người vì đất nước.

Năm nay, ông Nguyễn Phú Trọng sẽ là người chủ trì những hoạt động kỷ niệm 30 năm đổi mới. Đừng cắt lát miếng nạc từ năm 1986 mà hãy quay về khúc xương khởi đầu từ khi Hồ Chí Minh mang chủ nghĩa Marx – Lenin đến Việt Nam. Để thấy, đổi mới đơn giản chỉ là một tiến trình Đảng gỡ bỏ dần dần những gông cùm mà Đảng từng áp đặt.
Từ “Chính sách kinh tế nhiều thành phần” đến “Kinh tế thị trường” là một bước tiến chưa đủ nhưng khá dài. Và khi, Đại hội XI bãi bỏ nguyên tắc “sở hữu công là chủ yếu”, thì các “đặc trưng của chủ nghĩa xã hội” ghi trong Cương lĩnh không còn dấu hiệu nào của chủ nghĩa cộng sản theo mô hình mà Marx và các cộng sự của ông thiết lập trong Tuyên Ngôn Cộng Sản.
Hiến pháp 1992, tuy còn dùng dằng giữa “hai con đường” đã vẽ cho Việt Nam một nền cộng hòa trên giấy. Ngay cả những tổng bí thư bị coi là bảo thủ nhất như Đỗ Mười hay Lê Khả Phiêu, sau Hiến pháp 1992, cũng đã phải chuyển dần từ một chế độ đảng trực trị sang một chế độ đảng cầm quyền thông qua nhà nước.
Việc tái lập các ban Đảng thời ông Nguyễn Phú Trọng là một bước lùi về chính trị.
Sinh thời, Nguyễn Bá Thanh là một người rất được công chúng tung hô nhưng nếu những người am hiểu nhà nước pháp quyền biết cách ông Trưởng ban Nội chính Nguyễn Bá Thanh ngồi sau cánh gà các phiên tòa “lãnh đạo án” như thế nào chắc chắn họ sẽ vô cùng thất vọng.
Chống tham nhũng bằng Ban Nội chính thay vì gỡ bỏ “vòng kim cô nội chính” cho các cơ quan tư pháp, để họ tiến hành tố tụng theo các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền, thì không chóng thì chày sẽ có Ba X tân thời thay cho Ba X cũ.
Dân chủ đơn giản chỉ là một phương thức cầm quyền theo nguyên tắc không để ai có quyền lực tuyệt đối. Dân chủ không phải là đích đến mà là một phương tiện được lựa chọn để tránh sự tha hóa tuyệt đối của những người cầm quyền. Dân chủ không phải là một cây gậy thần để quốc gia nào cầm nó trong tay cũng trở nên thịnh vượng. Nhưng, chưa có phương thức quản trị quốc gia nào ít rủi ro hơn dân chủ.
Vấn đề là đi tới dân chủ như thế nào.
Những người kỳ vọng Nguyễn Tấn Dũng “giải tán đảng” không chỉ là những nhà dân chủ nôn nóng mà còn là những người suy nghĩ đơn giản. Họ chờ đợi dân chủ theo cách của Đại Lãn. Họ nghĩ có ai đó sẽ dọn sẵn mâm cỗ dân chủ cho mình mà không thấy rằng dân chủ là một hành trình của chính mình.
Không thể có dân chủ trong một thể chế độc tài đảng trị. Nhưng, nếu như độc tài sụp đổ sau một đêm chúng ta có thể có đa đảng ngay thì tự do chính trị mà ta có đó chỉ mới là một tiền đề cần nhưng chưa đủ.
Chúng ta có thể buộc các nhà cộng sản phải chịu trách nhiệm về những gì đã làm trong quá khứ. Nhưng tôi không nghĩ là con đường đi đến dân chủ dứt khoát phải loại bỏ những người cộng sản đang nắm quyền. Thay vì đẩy họ về phía đối địch, dân chúng cần tạo áp lực đủ để họ thay đổi và nhận thức được rằng, dân chủ hóa là một tiến trình kiến tạo tương lai cho chính cả những người cộng sản.
Trong lộ trình đó, cần phải có những bước đi vững chắc để sao cho “nền cộng hòa trên giấy” hiện nay từng bước có thể vận hành. Hãy để Quốc hội tập dượt vai trò giám sát của mình và chuẩn bị để các cơ quan tư pháp thoát dần ra khỏi tình trạng bị địa phương cát cứ. Trước mắt, không để nhánh quyền lực nào, cơ quan nào nắm giữ quá nhiều quyền lực, mũi đột phá cần được chọn ngay là Bộ Công an.
Giờ đây, tuy đứng vị trí cao hơn nhưng chắc chắn sẽ có khi đại tướng Trần Đại Quang cảm thấy mình lơ lửng. Bộ Công an hiện đang có đủ quyền để biến, thậm chí, cả những người trong bộ tứ trở thành con tin. Do quyền lực của Bộ bao trùm lên các cơ quan tố tụng, không dễ để chống tham nhũng, rất khó để tránh oan sai.

Đây là lúc, Tổng bí thư có thể đánh thức vai trò đồng minh từ ông Quang để tách Bộ Công an thành các cơ quan độc lập: Tình báo; Phản gián; Cảnh sát quốc gia – Cảnh sát địa phương – Cảnh sát giao thông; trả Trại giam về cho Tư pháp; lập Cơ quan Điều tra quốc gia.
Chức năng, nhiệm vụ của tình báo và phản gián không có gì tương thích với lực lượng cảnh sát. Đừng để lực lượng tình báo – phản gián tham gia quá sâu vào các cuộc chơi chính trị nội bộ mà sự “màu mỡ” của nó rất dễ làm họ sao nhãng nhiệm vụ chính là cảnh giác thù ngoài.
Cần có một Tư lệnh cảnh sát quốc gia để duy trì sự thống nhất quyền lực trung ương nhưng việc gìn giữ an ninh trật tự chủ yếu do cảnh sát địa phương đảm trách. Cảnh sát công lộ cũng nên là một lực lượng độc lập (vì điều tra không cùng một nhà họ sẽ không dám nhận mãi lộ phổ biến như hiện nay).
Nếu để điều tra trong Bộ Công an rất khó chống tiêu cực trong các cơ quan cảnh sát. Nên lập cơ quan điều tra quốc gia. Cảnh sát địa phương có thể điều tra các vụ án, trộm cướp… nhưng đã là án liên quan đến chức vụ, quyền hạn, liên quan đến tham nhũng phải do cơ quan điều tra quốc gia tiến hành [Tòa cũng lập thành tòa sơ thẩm, phúc thẩm… bố trí ở các khu vực; địa phương có tòa nhưng chỉ xử hình sự thường].
Điều mà nền kinh tế cần Chính phủ làm ngay là chấm dứt sự can thiệp bằng các công cụ hành chánh vào các quan hệ kinh tế, dân sự của người dân và doanh nghiệp.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nên ra ngay một quyết định yêu cầu các bộ ngưng ban hành các điều kiện kinh doanh mới (giấy phép con). Đồng thời, yêu cầu Tổ thi hành luật doanh nghiệp phối hợp với VCCI đưa ra một danh sách các giấy phép (trong số hơn 6000 giấy phép con ban hành dưới thời Nguyễn Tấn Dũng) có dấu hiệu lạm quyền, đình chỉ thi hành chúng cho đến khi Chính phủ có thời gian rà soát lại.
Để làm được việc này, Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc phải đủ dũng cảm để từ bỏ các bổng lộc mang lại do sự lạm quyền (hành chánh hóa các quan hệ dân sự, kinh tế) bằng cách tách ngay chức năng hành pháp chính trị và hành chính công vụ. Lập các vụ tham mưu chính sách bên cạnh các cục thực thi chính sách. Quan chức nào, vụ nào đã tham gia vào tiến trình ban hành chính sách thì không được dính vào quy trình thi hành (cấp phép, thanh tra, giám sát…).
Nếu chưa đủ sự ủng hộ chính trị để tư nhân hóa đất đai, Chính phủ cần sửa luật để đảm bảo đối xử với quyền sử dụng đất của người dân như quyền về tài sản. Bãi bỏ các điều luật cho phép chính quyền thu hồi đất (không thể dùng quyền hành chính để can thiệp vào quyền về tài sản). Chỉ khi thật cần thiết, chính quyền mới áp dụng quyền trưng mua, trưng dụng.
Mặc dù, đã từng có nhiều đại biểu ăn nói rất được lòng dân, nhưng Quốc hội không chỉ là một diễn đàn. Kể từ sau Hiến pháp 1959, lịch sử Quốc hội Việt Nam chỉ ghi nhận hai sự kiện đại biểu thực thi quyền: 1985, bà Đào Thị Biểu, đoàn Cửu Long, đòi quy trách nhiệm những người quyết định chính sách Giá – Lương – Tiền; 2010, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đòi lập Ủy ban điều tra độc lập, đình chỉ chức vụ và điều tra ông Nguyễn Tấn Dũng.
Tham nhũng sẽ không lúc nhúc như hiện nay, Chính phủ sẽ không thao túng như thời Nguyễn Tấn Dũng nếu có nhiều đại biểu như Nguyễn Minh Thuyết, Đào Thị Biểu…; Những người như Đào Ngọc Dung sẽ khó trở thành bộ trưởng nếu tuần trước ông ta phải điều trần ở các ủy ban cho báo chí tham gia và nếu Bộ chính trị không chỉ muốn Quốc hội hợp thức hóa quyết định của mình mà còn là nơi giúp loại bỏ những người tai tiếng.
Muốn như thế, không chỉ nâng số đại biểu chuyên trách lên 35 hay 40% mà phải mở cửa cho 15-20% những người thực sự tự ứng cử vào trong quốc hội.
Cần bãi bỏ ngay quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc để các nhân viên trong một bộ bỏ phiếu tín nhiệm cho bộ trưởng là một việc làm lố bịch [bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước dân, chính sách của ông nếu có lợi cho dân có thể làm cho nhân viên khó chịu].
Để tổ dân phố bỏ phiếu quyết định một người có thể trở thành ứng cử viên đại biểu quốc hội hay không lại càng phản khoa học và phi dân chủ. Tử tế với nơi mình sống là cần thiết, nhưng đánh giá họ là phải dựa trên khả năng tham gia của họ trong các chính sách ở tầm quốc gia chứ không chỉ chuyện cản con mèo ăn vụng cá nhà hàng xóm.
Hoặc Đảng cứ nắm toàn quyền Đảng cử. Hoặc sửa luật, để theo đó, ứng cử viên gồm những người có thể do đảng chính trị đề cử hoặc tự ứng cử (nếu thu thập đủ số chữ ký bằng một tỷ lệ luật định trên số cử tri).
Dân trí đã thay đổi, quan trí cũng phải theo; đừng tiếp diễn các trò hề dân chủ nữa.
Những người biết chuyện cung đình đánh giá cao sự giữ gìn của ông Nguyễn Phú Trọng và vợ con ông (ít nhất là cho đến nay). Nhưng, quản trị quốc gia (trong đó có chống tham nhũng) phải bằng thể chế chứ không thể trông chờ vào “tấm gương đạo đức” của một vài cá nhân hay việc bắt bớ, loại bỏ một vài con sâu chúa.
Tuy cảm phục mức độ liêm chính, về mặt vật chất, của ông Nguyễn Phú Trọng, dân chúng vẫn chưa thấy các dấu hiệu chứng tỏ sẽ có “đổi mới II” trong nhiệm kỳ cuối của ông. Nếu cho đến ngày nghỉ hưu, ông không đưa ra được một lộ trình chính trị để đất nước dân chủ hơn, sự sạch sẽ của ông sẽ là vô nghĩa.
Huy Đức