15 tháng 4, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 59

Posted: 22/10/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau cuộc họp với Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất, Mao trở nên cáu kỉnh và cảnh giác. Ngay cả những viên thuốc ngủ cũng không thể giúp được gì. Mao làm việc 24 giờ một ngày, cho tới khi kiệt sức hoàn toàn. Điều này ảnh hưởng tới khẩu vị, cả ngày ông ăn có một bữa và ăn rất ít. Tôi tăng một chút liều lượng trong thuốc ngủ cho ông. Việc này làm tôi không yên tâm, nhưng càng lo hơn khi biết con người ta càng có tuổi càng ít ngủ. Sau một tuần lễ, khẩu vị và giấc ngủ của Mao trở lại bình thường, tôi bắt đầu bình tâm.

Ngay lúc sự mối lo nghề nghiệp của tôi đang giảm đi, tôi đụng phải vấn đề mới với Trương Ngọc Phượng.
– Chủ tịch nghĩ rằng ban đêm có ai đó ở trên trần nhà. Đêm đêm ông nghe thấy trên trần có một tiếng động di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác.
Tôi gần như bật cười. Vâng, chuyện vô lý. Làm thế nào người ta có thể chui vào trần nhà được? Chủ tịch được bao bọc bởi một bức tường an ninh chắc chắn. Nhưng Trương Ngọc Phượng không yên tâm, huống chi Mao.
Tôi biết, người chẳng có thể chui trong trần nhà? Chuột hoặc mèo hoang? Một anh bảo vệ nhớ lại điều này, khi thảo luận biện pháp an ninh cho Mao. Người lính này đã để ý nhìn thấy dấu chân, có thể thuộc mèo hoang.
Bảo vệ đặt bẫy, dùng cá làm mồi. Ngày thứ hai chiến công đã không phụ công sức của họ. Bắt được hai con mèo rừng – Con lớn to gần bằng con báo con, còn con kia bằng con mèo nhà to. Biệt thự ở Vũ Hán xây dựng trong một cánh rừng, dành cho Mao và thường bỏ hoang. Những con mèo rừng lang thang cũng tận dụng cơ hội này, chẳng ai biết.
Khi người ta trưng bày những con vật chết cho mọi người xem, tôi nghĩ, giờ đây chắc Mao yên tâm. Nhưng sự lo sợ không dễ mất đi. Mao vẫn còn bồn chồn lo lắng, ông cho vẫn còn ai đó trên trần nhà. Mao đòi đi ngay.
Sau vài giờ bẫy được mèo rừng, chúng tôi đã trên đường đến Hàng Châu.
Mao chưa trở lại bình thường ngay cả khi ở Hàng Châu. Tôi cảm nhận, dù không có tin tức cụ thể, nhưng tin bầu không khí chính trị không được cải thiện. Ngay sau khi đến, tôi hiểu, Mao gọi Diệp Quần từ Quý Châu, nơi bà và Lâm Bưu thường ở đó.
Ngày hôm sau, Diệp Quần bay đến, ngồi lại với Chủ tịch sau cánh cửa kín ba giờ liền, sau đó quay về. Không ai có mặt trong cuộc trao đổi mật, Mao và Diệp Quần không thông báo cho bất kỳ người nào của Nhóm Một biết họ bàn về cái gì. Chính trong ngày hôm ấy, trong bữa cơm chiều cùng ăn với Chủ tịch, ông bảo:
– Tôi không biết Đặng Tiểu Bình điều hành Ban bí thư Trung ương kiểu gì ráo trọi! – Mao nói trong bữa ăn – Chỗ ông ta có nhiều người tôi rất khả nghi, bây giờ tôi nghi cả ông ấy. Bành Chân khả nghi số một. Bành Chân kiểm soát đảng bộ thành phố Bắc Kinh chặt đến nỗi không ai có thể xuyên qua dù một lỗ nhỏ, thậm chí dùng kim hay giỏ giọt nước cũng không qua nổi. Lục Đỉnh Nhất kiểm soát Ban Tuyên giáo chặt chẽ như quản ngục, không cho một bài viết tả khuynh nào thoát lưới kiểm duyệt. Lại cả La Thuỵ Khanh, người ra sức quấy đảo ngăn cản khẩu hiệu “Lấy chính trị làm thống soái”, lại còn tuyên truyền chủ nghĩa cơ hội. Cả Dương Thượng Côn bận rộn thu thập và phổ biến những tin tức.
Từ khi phát hiện hệ thống nghe lén, Mao quy kết Dương Thượng Côn làm gián điệp, cả bí thư trung ương nữa, Đặng Tiểu Bình, Mao giận dữ kết luận.
Những ngày sau, Giang Thanh gặp Mao. Tôi để ý, bà bắt đầu thay đổi từ năm 1962 nhưng bây giờ thay đổi hoàn toàn. Bà bước những bước chắc nịch, lưng cố giữ thẳng, không nhận thấy một chút biểu hiện nào bệnh tật của bà trước đây. Giang Thanh phớt lờ sự có mặt của tôi, đôi khi kiêu kỳ nghiêng đầu khẽ gật khi đi ngang qua hoặc chạm trán nhau. Gần đây bà giảm người phục vụ, còn một y tá, một cần vụ và một vệ sĩ người Thượng Hải. Bà cũng hết phàn nàn về sức khoẻ, cô y tá của bà nói với tôi trong lúc chờ bà quay ra. Giang Thanh giờ đây chẳng quan tâm ánh đèn quá sáng, tiếng ồn và gió lùa. Cơn đau đầu cũng tan biến. Bà không đeo cả hoa tai, cũng chẳng cần bác sĩ phục vụ nữa.
Cuộc viếng thăm chồng thật ngắn ngủi, Giang Thanh lập tức đi ngay Thượng Hải. Vài ngày sau, bà đến lần thứ hai, tôi hiểu, họ có chuyện gì đang bàn luận.
Lâm Bưu và Giang Thanh liên minh với nhau. Hai người triệu tập ở Thượng Hải một cuộc họp từ 2 đến 20 tháng 2-1966, để thảo luận sự phát triển văn hoá nghệ thuật do quân đội ủng hộ. Giang Thanh tham khảo ý kiến Mao, báo cáo về cuộc họp. Mao đưa tôi đọc qua các tài liệu tóm tắt.
Bài phát biểu có lẽ do chính Chủ tịch viết. Đó là cuộc tấn công vào Lục Đỉnh Nhất, cảnh cáo rằng từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân “trong lĩnh vực văn hoá, hầu hết các giáo sư như một lực lượng đen tối, mưu toan thống lĩnh chính sách của chúng ta”. Cái làm tôi ngạc nhiên không phải vì nội dung văn kiện mà là mối quan hệ mới giữa Giang Thanh và Lâm Bưu: Con đường của vị nguyên soái đi đến quyền lực phải qua tay vợ Chủ tịch. Lâm Bưu chiếm được sự ủng hộ của Mao, bằng cách o bế, lấy cảm tình của vợ Mao trước tiên. Một cách thường dùng trong lịch sử Trung Quốc, đó là con đường lắt léo, tôi chưa khi nào tin vào những người theo con đường ấy. Lâm Bưu muốn đưa vợ Chủ tịch đến quyền lực. Ngay từ buổi đầu, tôi đã khó chịu, vì khi đạt được quyền lực Giang Thanh có thể trở nên cực kỳ nguy hiểm.
Tôi chưa gặp Lâm Bưu bao giờ, thậm chí chưa một lần giáp mặt. Mặc dù Lâm Bưu nắm giữ một số chức vụ cao, nhưng sống ẩn dật, ít có mặt nơi làm việc, thậm chí không đến Thiên An Môn dự lễ ngày 1-5 hay quốc khánh. Trong “Hội nghị Bẩy ngàn cán bộ” tôi ngồi sau hậu trường, nghe bài phát biểu của ông ta. Đó là lần duy nhất tôi nhìn thấy lưng ông. Nhưng ông, một trong mười nguyên soái nổi tiếng, xuất sắc, mạnh mẽ, cương quyết và tàn bạo. Trước kia, tôi ngưỡng mộ thiên tài quân sự của vị tướng quân. Giờ đây, liên minh của Lâm Bưu với Giang Thanh cho phép tôi có điều kiện gặp ông thường xuyên.
Tháng 3-1966, ngay sau khi thăm chồng, Giang Thanh bị cảm, gọi tôi đến Thượng Hải.
Mao động viên:
– Tôi sẽ đến Thượng Hải ngay – ông ta nhắc – Chẳng thích thú gì ở lâu một chỗ.
Chứng hoang tưởng cục bộ của ông lại xuất hiện. Sau vài ngày ở đâu đó, ông bắt đầu lo ngại, yêu cầu đi tiếp, ngay ở Hàng Châu ông cũng cảm thấy không an toàn.
Sự thay đổi trong vai trò tham gia chính trị đã giúp chứng suy nhược thần kinh của Giang Thanh giảm nhiều, chính bà cũng xác nhận, chỉ cảm cúm qua loa, chẳng có gì nghiêm trọng. Nhưng ngay ngày hôm sau tôi đến Thượng Hải, Lâm Bưu đã xuất hiện. Lâm bảo, nghe tin Giang Thanh mệt, ông đến thăm.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp Lâm Bưu. Ấn tượng đầu tiên với tôi là bộ quân phục ông mặc. Bộ quân phục may vừa khít như dán sát thân hình ông. Lâm Bưu vào phòng đón tiếp cùng với viên thư ký tháp tùng, cởi chiếc áo khoác dạ. Ông gày gò, dáng người nhỏ thó, nước da xanh xám. Chiếc mũ vải mềm bộ đội Lâm Bưu không bao giờ rời, thậm chí trong phòng khách để che cái đầu lơ thơ dăm sợi tóc. Ông đi đôi ủng da dày. Lâm Bưu chỉ khẽ gật đầu về phía tôi, không nói một lời nào, đến chỗ Giang Thanh. Mắt ông ta đen đến mức, dường như con ngươi và mống mắt hoà vào nhau, toát lên vẻ thần bí.
Giang Thanh ra lệnh không ai được phiền nhiễu, cả hai đàm luận trong vài giờ trong phòng đóng cửa kín. Khi đó, tôi nói chuyện với thư ký của nguyên soái, Lý Văn Phúc, qua anh ta tôi cũng biết vài thứ về thói quen và quá khứ của Lâm Bưu. Lâm Bưu và Giang Thanh có nhiều cái giống nhau. Lâm Bưu cũng mắc chứng suy nhược thần kinh, sợ gió và ánh sáng đến nỗi rất ít ra khỏi nhà. Giống như Giang Thanh, việc cuốn hút vào chính trị làm ông năng động lên. Căng thẳng đã biến mất. Bệnh tật Lâm Bưu, như tôi đoán, chủ yếu là chính trị.
Nhưng ông vẫn thường ốm đau. Tôi phát hiện điều này vài tháng sau, tháng 8-1966, khi Cách mạng văn hoá đến cao trào điên loạn, Lâm Bưu đã leo lên đỉnh cao quyền lực, Uông Đông Hưng cố gắng xây dựng liên minh với Lâm, người mà Mao dự kiến thừa kế ông. Lâm Bưu ốm, Uông yêu cầu tôi đi cùng tới thăm nguyên soái trong tư dinh ở Mao Tần Vũ.
Khi dẫn chúng tôi vào buồng, Lâm Bưu ngồi trên giường, trong vòng tay vợ và đầu ép vào ngực bà. Ông khóc, Diệp Quần an ủi, động viên như dỗ dành một đứa trẻ. Chỉ một điều này tức khắc làm thay đổi cách nhìn của tôi về Lâm Bưu – từ vị tư lệnh quân đội tài năng, cứng rắn ông biến thành kẻ thiếu tự chủ, kém bản lãnh. Hai bác sĩ Hứa Định và Vương Thế Vinh xuất hiện ngay sau khi chúng tôi đến. Diệp Quần đưa Uông Đông Hưng và tôi sang phòng khách, để các bác sĩ mới tới khám bệnh chồng bà. Họ phát hiện ra nguyên soái có sỏi thận, đưa thuốc cho ông. Cơn đau giảm nhanh chóng, ông trở lại bình thường, nhưng cái nhìn của tôi về ông không thay đổi. Việc sỏi thận đi xuống niệu quản thường gây rất đau đớn, nhưng tôi cho rằng, vị nguyên soái cần dũng cảm nén cơn đau mới đúng.
Trong khi chúng tôi đợi, Diệp Quần kể về chồng. Lâm Bưu năm 1940 nghiện thuốc phiện, sau chuyển sang morphine. Cuối năm 1949, ông sang Liên Xô điều trị. Bệnh nghiện hết, nhưng tính tình thay đổi. Lâm Bưu sợ ánh sáng, sợ gió nên ít khi ra ngoài, vì thế thường không đi hội họp. Tiếng nước chảy cũng gây cho ông đau đớn. Ông nói chung ít uống nước, Diệp Quần thường thả thịt viên vào nước, cho chồng vừa ăn vừa uống, giúp cơ thể ông nhận được nước bằng cách ấy.
Lâm Bưu không bao giờ dùng nhà cầu. Khi phát sinh cần thiết, ông dùng bô do vợ để ở nhà kho, đôi khi són ra cả quần lót, vợ phải thay giúp.
Tôi thật sự choáng, rất kinh ngạc. Lâm Bưu rõ ràng mắc bệnh tâm thần, nhưng Mao đưa Lâm Bưu lên bậc thang cao nhất của quyền lực. Chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ chào đón ông như “người bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi nhất” của Chủ tịch. Liệu có xảy ra điều bất hạnh gì không, một khi Lâm Bưu trở thành người lãnh đạo tối cao dân tộc.
***
Tôi ở lại Thượng Hải đến tháng Ba sau khi Giang Thanh khỏi bệnh, tại đây tôi trở thành người chứng kiến các hoạt động chính trị của bà. Lần lượt đến thăm bà là những người mang khuynh hướng cực tả, cuộc gặp gỡ tiến hành sau cánh cửa đóng chặt, sự bí mật được giấu kín, một âm mưu gì đó rất đáng ngờ. Diêu Văn Nguyên, Ban Tuyên giáo Thượng Hải viết bài phê phán Ngô Hàm về vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan, người không được Lâm Bưu tin cẩn, đã tự im hơi lặng tiếng với vợ Chủ tịch. Thích Bản Ngư, người giữ chức giám đốc Tổng thư ký Văn phòng Trung ương, tiếp theo Quan Phong, kẻ cực tả trong ban biên tập tạp chí Hồng Kỳ.
Mao đến Thượng Hải hôm 15-3-1966. Hai hôm sau ông triệu tập một phiên họp mở rộng thường vụ Bộ chính trị, tiến hành cuộc nói chuyện về những kết luận của Giang Thanh, trong lĩnh vực Đại học, học viện và giáo dục, do các phần tử trí thức tư sản chiếm ưu thế, trong nhiều năm đã huỷ hoại tất cả những cái gì còn lại của văn hoá. Để phân tích Mao dẫn ra vở kịch của Ngô Hàm, tác giả vở kịch gây tranh cãi lớn trong dư luận “Hải Thuỵ Từ Quan”, giáo sư sử học Giang Bật Dương, Đặng Tường và chủ tịch Mặt trận thống nhất của thành phố Bắc Kinh Liêu Mạt Sa. Những trí thức đầu ngành này là đảng viên cộng sản, Mao nói, nhưng họ lại là đảng viên Quốc dân đảng trong ý nghĩ và tư cách. Ông đề nghị bắt đầu cuộc Cách mạng văn hoá trong văn hoá, lịch sử, luật học, và kinh tế. Tôi quá ngây thơ để tin rằng cuộc “cách mạng” này chỉ bó gọn trong lĩnh vực văn hoá và tưởng rằng mình biết cách đứng ngoài trận cuồng phong.
Cuối tháng 3-1966, vài ngày sau cuộc họp Bộ chính trị mở rộng, tất cả chúng tôi còn ở Thượng Hải, Mao mấy lần gặp Giang Thanh, Khang Sinh và Trương Xuân Kiều. Mao nói với họ muốn huỷ bỏ “Dự thảo báo cáo tháng Hai” của Bành Chân. “Dự thảo” làm rối tung đường lối giai cấp của đảng. Mao muốn Thành uỷ Bắc Kinh, do Bành Chân lãnh đạo, Ban Tuyên giáo do Lục Đỉnh Nhất nắm, và “Tiểu tổ Ngũ Nhân của Cách mạng văn hoá” gồm Bành Chân, Lục Đỉnh Nhất, Khang Sinh, Chu Dương và Ngô Lĩnh Hy phải giải tán, Mao nhấn mạnh, có khá nhiều nhân vật đáng nghi ngờ trong ba tổ chức trên. Mao muốn thúc đẩy, mở rộng Cách mạng văn hoá.
Mao quyết định tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất giành lấy Ban thường vụ Bộ chính trị, phê bình những trí thức đầu đàn. Hướng thứ hai – bồi dưỡng thế hệ kế nhiệm, những người nằm ngoài Ban thường vụ Bộ chính trị và quan chức đảng, tập hợp quanh thành những đồng minh gần gũi nhất của ông như Giang Thanh và Khang Sinh, nhóm này sẽ vạch mặt kẻ thù của Mao kể cả trong Ban thường vụ Bộ chính trị và Ban Bí thư trung ương đảng. Hành động này không ai có thể lường trước sẽ như thế nào. Từ trước đến nay, chưa bao giờ Mao ra đòn với các nhân vật cao cấp như thế này.
Đầu tháng 4-1966 chúng tôi trở về Hàng Châu. Ở đó Mao triệu tập cuộc họp mở rộng Thường vụ Bộ chính trị. Trong cuộc họp, Mao công khai mở rộng phê phán kể cả người đứng đầu thành đảng bộ Bắc Kinh, Bành Chân. Bằng cách từ chối đọc và bình luận bản “Dự thảo báo cáo tháng Hai” của Bành Chân, bản dự thảo yêu cầu hạn chế thảo luận phê phán những vấn đề học thuật, Mao đã giăng bẫy để Bành Chân đào hố tự chôn mình. Bây giờ Chủ tịch công khai buộc Bành Chân vào tội có quan điểm chống đảng và Mao đòi giải thể “Tiểu tổ Ngũ nhân Cách mạng văn hoá” và hình thành nhóm lãnh đạo mới. Cuộc họp tháng Tư trong bầu không khí cực kỳ căng thẳng.
Tôi cảm thấy mình trong vòng nguy hiểm. Nhóm Một thay đổi nhiều, khác xưa, tôi không hiểu và cũng không tin những người mới. Mao trở thành khó tiếp cận sau bức tường, được chặn đứng bởi người đứng đầu an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu. Uông Đông Hưng vẫn chưa thấy quay lại, tôi không gặp Uông từ buổi chia tay ở Nam Kinh ngay sau tết. Không có Uông bảo vệ, tôi dường như lạc trong biển cả.
Tôi cần gặp Uông Đông Hưng đang họp ở Hàng Châu, hỏi xem có biết những chuyện gì đang xảy ra không và nhờ Uông cố vấn. Tôi muốn khuyên Uông trở về Nhóm Một.
Một đêm khuya, tôi đến tìm Uông ở khách sạn Chí Linh. Khi tôi đến, ông đang trao đổi với thủ tướng Chu Ân Lai. Thấy tôi, thủ tướng khó chịu, không vui, hỏi:
– Anh có biết bây giờ mấy giờ không? Sao anh đến muộn thế này.
– Tôi muốn báo cáo cho đồng chí Uông Đông Hưng về sức khoẻ của Chủ tịch, chúng tôi mấy tháng rồi chưa gặp nhau.
– Vì sao phải báo cáo vào đêm khuya thế này? – Chu ngạc nhiên.
– Tôi đề nghị anh ta đến, thưa thủ tướng – Uông Đông Hưng can thiệp để yên lòng Chu.
– Thôi được, nhưng nhanh lên – Chu đồng ý – Đồng chí Khang Sinh và Trần Bá Đạt cũng đang ở đây. Chúng tôi không thể bắt họ chờ – Chu quay sang tôi – Khi xong việc, đề nghị đồng chí nhanh chóng quay về nhà khách Vương Trung.
Tôi không ngờ Chu Ân Lai có thể dễ nổi cáu đến thế và tự giải thích tính khí của Chu phát sinh do những lo lắng trầm trọng về chính trị. Khi tôi hỏi Uông cái gì đã xảy ra, ông từ chối trả lời.
– Anh biết đủ rồi – Uông đáp – Cái này dính đến quyền lực trung ương. Tốt hơn cả, anh đừng hỏi thêm nữa. Hãy kể cho tôi nghe sức khoẻ của Chủ tịch.
Tôi đoán, chắc đang có cuộc tranh giành quyền lực quyết liệt khó hiểu, dễ gì biết được. Tôi kể cho Uông Đông Hưng về sức khoẻ Mao, yêu cầu Uông quay về phụ trách Nhóm Một. Tôi giải thích, Trương Diêu Tự, anh chàng nhát như cáy, giờ tự phong xếp, điều hành an ninh mà chẳng được tích sự gì. Tôi không yên tâm, chừng nào Uông Đông Hưng chưa trở lại giữ vị trí này.
Nhưng Uông cảm thấy bị bắn ra khỏi Nhóm Một từ lâu. Ông muốn quay lại, nhưng không thể, chừng nào Mao chưa yêu cầu. Tuy nhiên Uông hứa đến nhà khách Vương Trung gặp nhau, khi cuộc họp kết thúc.
Tôi rất lo lắng vì đã đến khách sạn Chi Linh. Chu Ân Lai khó chịu, có thể còn có chuyện gì hơn thế nữa mà tôi không rõ. Không loại trừ vì có cuộc gặp trước với Khang Sinh và Trần Bá Đạt, hai kẻ cực tả đang khuấy tung mọi chuyện lên. Để phòng xa, tôi quyết định kể cho Mao tất cả. Nếu người ta kể với Mao về cuộc gặp gỡ của tôi, có thể ông nghĩ tôi hoạt động lén sau lưng.
– Họ làm cái gì ở đó? – Mao ngạc nhiên. Nụ cười thoáng qua môi ông, khi tôi kể hết mọi chuyện việc đến gặp Uông Đông Hưng, Chu Ân Lai yêu cầu tôi báo cáo nhanh gọn, ông có vẻ lo lắng và tôi sợ mọi người nghi ngờ tôi có điều gì mờ ám.
– Chỉ là chuyện đến thăm, tôi chẳng thấy trong cuộc gặp của đồng chí có cái gì đáng để ý cả – Mao động viên tôi.
Sự lo xa cảnh giác của tôi đã cứu mạng sống của tôi sau này. Cuối năm 1966, khi “Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá Trung ương” mới được thành lập, đã mở rộng mục tiêu nhằm cả Uông Đông Hưng, có âm mưu cố ý kéo tôi vào. Trong khi mỗi cuộc gặp gỡ đều được coi là âm mưu, kể cả gặp bạn, gặp người quen gặp đồng nghiệp của người bị buộc tội, đều bị họ đặt dưới sự nghi ngờ. Tay bảo vệ khách sạn, thấy tôi đến khách sạn Chí Linh, viết báo cáo cho Khang Sinh, khẳng định tôi cùng với Uông Đông Hưng và Chu Ân Lai tham gia vào một âm mưu gì đấy tại khách sạn, có thể tôi chuyển cho họ tin tức bí mật. Khang Sinh viết thư cho Chủ tịch.
Mao cho tôi xem thư, yêu cầu chuyển Uông Đông Hưng cất kín. Mao nói:
– Anh đã báo cáo với tôi về cuộc viếng thăm này.
Mao bảo vệ cả tôi và Uông Đông Hưng. Vụ việc bị chôn luôn.
Thường vụ Bộ chính trị mở rộng lại họp ngày 24 tháng 4 năm 1966. Mao đưa ra thảo luận một tài liệu mới, do Trần Bá Đạt thảo ra. Đó là “Chỉ thị của Ban chấp hành Đảng cộng sản Trung Quốc”, được Mao chấp bút. Mục đích chính của chỉ thị, thủ tiêu bản Dự thảo Báo cáo tháng Hai của Bành Chân đã nhấn mạnh cuộc tranh luận có tính chất “học thuật” và nghệ thuật thuần tuý thông qua nhân vật Hải Thuỵ để giải tán tổ chức Tiểu Tổ Ngũ Nhân Cách mạng văn hoá do Bành Chân lãnh đạo. Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá mới thành lập, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban thường trực Bộ chính trị. Mục tiêu của Cách mạng văn hoá thay đổi. Phong trào không đưa ra vấn đề học thuật, Mao phát động chiến dịch, với khẩu hiệu “Tấn công trực diện không khoan nhượng” vào các phần tử tư sản trong đảng, chính quyền và quân đội.
Chỉ thị được trình Bộ chính trị xem xét trong cuộc họp mở rộng ban thường trực Bộ chính trị từ ngày 4 đến 26 tháng 5. Chỉ thị được thông qua ngày 16-5, trở thành ngọn đuốc dẫn đường của Cách mạng văn hoá, người ta gọi “Chỉ thị 16 tháng 5”.
Mao không dự hội nghị, chúng tôi vẫn ở Hàng Châu. Khi Mao cho tôi xem danh sách các thành viên mới của “Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá Trung ương”, tim tôi rụng rời. Lãnh đạo nhóm là Trần Bá Đạt, kẻ cực hữu, Khang Sinh giữ chức cố vấn. Giang Thanh được bổ nhiệm phó ban thứ nhất của Trần Bá Đạt. Những người nịnh nọt Vương Trọng Nhiệm, thị trưởng Thượng Hải, Trương Xuân Kiều làm phó, các thành viên gồm Vương Lí, Quan Phong, Khắc Kỳ Hữu và Diêu Văn Nguyên, tất cả đều thuộc phái cực tả. Vương Trọng Nhiệm do Mao bổ xung thêm.
Sự trao việc Giang Thanh làm tôi đặc biệt lo ngại. Bà ta đã nhận được sự thoả mãn lớn là phát hiện “những phần tử tư sản” trong đảng và giờ đây, được mang quyền lực thực sự, có thể sử dụng chiến dịch chính trị để thanh toán kẻ thù của mình. Mối quan hệ của chúng tôi tiếp tục xấu đi bắt đầu từ 1960, giờ đây Giang Thanh có thể gây cho tôi và gia đình tôi nhiều rắc rối.
Mao biết, Giang Thanh có tính thù hận và trả thù vặt như thế nào. Ông khuyên tôi làm lành với bà ta cũng như đã làm điều này với Mao Viên Tân, cháu ông. Chàng trai này từ lúc còn trẻ rất ghét Giang Thanh, nghỉ hè thường chạy vào Trung Nam Hải, nhưng chẳng thèm chào hỏi bác gái. Nhưng khi bắt đầu có cuộc Cách mạng văn hoá, Viên Tân viết cho Mao một bức thư xin lỗi. Trong thư viết, Viên Tân nhận ra rằng Giang Thanh, người học trò trung thành nhất của Mao rồi kết luận, chàng ta biết ơn bà với lòng kính trọng sâu sắc.
Mao hài lòng, đưa thư cho Giang Thanh xem.
Viên Tân, hồi ấy là sinh viên Trường kỹ thuật quân đội Đông Bắc Trung Quốc, đã thể hiện một chính trị gia xảo quyệt. Giang Thanh chấp nhận lời xin lỗi của đứa cháu, kéo nó vào sự che chở và ít lâu sau phong chức thiếu uý. Khi Giang Thanh tiến hành chiến tranh với các đối thủ của mình. Mao Viên Tân trở thành cánh tay đắc lực, nhanh chóng được thăng tiến qua các cấp bậc quân đội. Qua một vài năm, người ta đề bạt anh ta làm chính uỷ quân khu Xương Sơn ở Mãn Châu Lý.
Mao bóng gió rằng tôi cũng nên cố gắng chiếm lấy sự bảo trợ của vợ ông. Nhưng sự bất đồng của tôi với Giang Thanh không thể giải quyết dễ dàng như thế. Mao Viên Tân là cháu của chồng, Giang Thanh kiểu gì đi nữa cũng phải tính đến điều này.
Tôi cũng không thể cho phép mình quỵ luỵ trước bà ta. Tôi biết bà ta cũng chờ đợi cơ hội thuận lợi để quật. Điều này dẫn tôi đến cái chết không tránh được. Tôi cần phải tìm được sự bảo vệ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [60]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 58

Posted: 19/10/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi chờ hơn một tháng liền. Sau đó, ngày 8-2-1966, Mao cho phép tôi tới dự thính cuộc họp ở phòng khách đồ sộ của khách sạn Mỹ Viên, nơi chúng tôi ở lại Vũ Hán. Ông luôn luôn khuyến khích các nhân viên phải thường xuyên dự những buổi họp để nắm được tình hình. Tôi có mặt lẫn trong đám đông đến dự, nghe được hết mọi chuyện. Ba uỷ viên của một Uỷ ban mới được thành lập có tên “Tổ Ngũ nhân của Cách mạng văn hoá” vừa từ Bắc Kinh tới. Uỷ ban này thành lập từ năm 1964, được giao nhiệm vụ trực tiếp viết bài phê bình vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan của Ngô Hàm. Thành viên của Uỷ ban gồm Trưởng ban Tuyên huấn Lục Đỉnh Nhất, Uỷ viên bộ chính trị Khang Sinh, Bí thư trung ương Đảng kiêm Thị trưởng thành phố Thượng Hải là Bành Chân, phó trưởng Ban tuyên truyền Chu Dương và Tổng biên tập Nhân Dân Nhật Báo Ngô Lĩnh Hi. Cùng đi với họ có Hồ Sinh, phó tổng biên tập nguyệt san Hồng Kỳ của đảng.

Mao chủ toạ cuộc họp, nói, ông đã thông báo cho Trần Bá Đạt và Khang Sinh vào ngày 21-2 năm ngoái rằng, ông đánh giá bài báo của Diêu Văn Nguyên, trong đó vở Hải Thuỵ Từ Quan đã bị phê phán, là đúng đắn. Tuy nhiên Diêu Văn Nguyên vẫn chưa nói toạc móng heo, Gia Kính, một ông vua triều Minh đã cách chức Hải Thuỵ và năm 1959 Mao đã cách chức Bành Đức Hoài. Như vậy có nghĩa là Bành Đức Hoài là một Hải Thuỵ hiện đại.
Mao quay sang Bành Chân, chủ nhiệm Uỷ ban Năm người, hỏi:
– Có phải Ngô Hàm thực sự là kẻ thù của đảng và của chủ nghĩa xã hội không?
Bành Chân chưa kịp trả lời, Khang Sinh đã lên án vở kịch của Ngô Hàm “chống đảng, chống chủ nghĩa xã hội, loài cỏ độc”.
Không ai dám phản đối ông ta.
Trong không khí im lặng kéo dài, Mao nói:
– Nếu ai có ý kiến gì khác cứ tự nhiên. Tất cả các đồng chí hãy phát biểu ý kiến đi.
Mao muốn biết quan điểm khác biệt rõ ràng, chính xác, để chúng tôi có thể so sánh, nhận định ai sai, ai đúng. Mọi người vẫn im lặng, Mao lại động viên:
– Tất cả chúng ta được tự do phát biểu. Ai có ý kiến gì khác cứ tự nhiên.
Cuối cùng, Bành Chân lên tiếng. Ông muốn bào chữa, tài liệu mà ông mang tới. Dưới tựa đề “Dự thảo báo cáo của Tiểu tổ Ngũ Nhân gửi Trung ương đảng”, tài liệu cho rằng, đề tài mà vở kịch của Ngô Hàm đề cập mang tính lịch sử, học thuật hơn là tính chính trị. Họ Bành nói:
– Tôi nghĩ, chúng ta phải theo lời của Chủ tịch, để cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, nếu chúng ta thảo luận về những vấn đề sử học mà vở kịch đề cập đến. Chúng ta cần có một cuộc tranh luận sôi nổi.
Bản dự thảo đã được Ban thường trực Bộ chính trị phê chuẩn, chỉ còn cần sự đồng ý của Mao.
Lục Đỉnh Nhất ủng hộ Bành Chân, nhấn mạnh vào tính khoa học trong buổi thảo luận. Theo ý ông, phải tránh những danh từ như “kẻ thù của đảng” hay “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”, nếu không, sự im lặng sẽ bao trùm tất cả.
Khang Sinh im lặng sau khi Bành Chân, Lục Đỉnh Nhất phát biểu quan điểm của họ. Chiến tuyến đã rõ ràng. Khang Sinh cho những tranh luận quanh vấn đề của Ngô Hàm là một cuộc đấu tranh giai cấp, yêu cầu phải có những biện pháp cụ thể đối với Ngô Hàm và những kẻ ủng hộ. Ngược lại Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất tìm cách giải quyết mâu thuẫn bằng cách cho rằng vở kịch chỉ mang tính nghệ thuật thuần tuý, hoàn toàn phi chính trị.
Thời gian trôi qua chẳng ai phát biểu thêm. Mao đành hoãn cuộc họp.
Những người tham dự vẫn không biết quan điểm của Mao ra sao. Bành Chân muốn biết, liệu Chủ tịch có cho phép ông viết một lời bình luận nào đó về vở kịch cho đảng không.
Câu trả lời của Mao: “Các đồng chí hãy làm đi. Tôi không cần xem trước”.
Tôi biết ngay nguy rồi, gió sắp nổi. Mao đã gài bẫy người ta. Việc từ chối không đọc trước lời bình của Bành Chân thực ra có nghĩa, Mao không đồng ý. Nhưng Bành Chân không hiểu rõ Mao như tôi, ông và Lục Đỉnh Nhất đã đùa với lửa. Nếu họ phân phát bản thảo lời bình, họ có thể sẽ gặp nguy hiểm khôn lường.
Bốn ngày sau, ngày 12-2-1966, bản “Dự thảo báo cáo của Tiểu tổ Ngũ Nhân về cuộc tranh luận mang tính chất học thuật hiện nay” cùng với lời bình luận của “Cơ quan trung ương” được phổ biến trong đảng. Nhưng Mao không đọc, cả trong cơ quan trung ương cũng có những ý kiến trái ngược về việc này. Trong đó chỉ có tên của Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất. Theo lời bình luận, các cuộc tranh luận về vở Hải Thuỵ Từ Quan chỉ nên dựa trên khía cạnh học thuật.
Mao coi tài liệu trên là sự phủ nhận quan điểm của ông. Ông đồng tình với Khang Sinh, vở kịch của Ngô Hàm là một loại cỏ độc, chính Ngô Hàm là “kẻ thù của đảng”, “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”. Do đó, việc Lục Đỉnh Nhất và Bành Chân không chịu lên án Ngô Hàm sẽ khiến họ có nguy cơ bị chụp mũ, kẻ thù của đảng và chủ nghĩa xã hội.
Tối hôm bản Dự thảo được công bố, Mao nói với tôi:
– Tôi nói đúng. Bọn phản cách mạng chỉ bị gục ngã khi người ta ra đòn thật nặng.
Mao chuẩn bị một trận đánh quyết định. Bài bình luận của Bành Chân sau này được coi là “Bản Dự thảo tháng Hai” mang tính thù địch, xấu xa với đảng và chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của Bành Chân chỉ còn vấn đề thời gian.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [59]
Giây phút âu yếm giữa Sư tử và Cáo




MUỐN ĐỔI MỚI VỀ KINH TẾ THÌ TRƯỚC HẾT CẦN ĐỔI MỚI VỀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ

Vào cuộc chơi chung, phải đổi mới!
Ông Bùi Quang Vinh đã để lại những dấu ấn đậm nét về tư tưởng phát triển của mình trong thời gian đảm trách vai trò bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ảnh: CTV
Đổi mới để đất nước phát triển tốt hơn, để người dân có quyền biết tiền của họ được chi tiêu thế nào.

LTS: Tuần trước, ông Bùi Quang Vinh là bộ trưởng - thành viên Chính phủ được Quốc hội lưu luyến nhất, khi nhiều đại biểu chưa muốn ông nghỉ lúc này. Cũng như vậy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII hồi đầu năm, ông cũng được nhiều đại biểu đề nghị tiếp tục tham gia trung ương.

Điều gì đã tạo nên sự hấp dẫn ở một chính trị gia như vậy? Bài phát biểu của ông Vinh, trong một hội thảo góp ý cho “Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Ngân hàng Thế giới soạn thảo, mà chúng tôi giới thiệu dưới đây có thể phần nào giúp giải đáp câu hỏi này.

Dư địa phát triển từ năm 1986 đến nay đã cạn dần, đặc biệt gần đây kinh tế Việt Nam bộc lộ nhiều khiếm khuyết, nhiều rào cản lớn xuất hiện. Có những khác biệt đang trở thành rào cản trong chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường đầy đủ, là nguyên nhân làm méo mó phân bổ nguồn lực, lãng phí tài nguyên, con người, làm thị trường không phát huy đầy đủ chức năng của nó. Thực tế đó đòi hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách, tạo hệ thống động lực để khuyến khích phân bổ lại nguồn lực quốc gia hiệu quả hơn.

Mặc dù có nhiều thành tựu nhưng chúng ta cũng thấy rằng nền kinh tế Việt Nam ngày càng kém cạnh tranh hơn, trong khi chúng ta đang hội nhập mạnh mẽ. Chúng ta đã quyết tâm hội nhập mà không đổi mới mình, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thì chắc chắn thất bại.

Phải đổi mới toàn diện

Việt Nam đã qua hơn 30 năm đổi mới, 40 năm sau ngày thống nhất đất nước. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu so với chính chúng ta nhưng so với bạn bè cùng điều kiện thì chúng ta chậm hơn, thậm chí có khoảng cách rất xa.

Động lực của 30 năm đổi mới, chuyển từ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường, dù chưa đầy đủ và hiện đại nhưng đã là một thành tựu vĩ đại. Đó là bước chuyển sang tự do, giúp cởi trói, khơi đậy động lực của nền kinh tế.

Nhưng rõ ràng chúng ta đã tới hạn, nếu tiếp tục như thế thì đất nước không phát triển thêm, thậm chí rối loạn.

Chúng ta đã tích cực hội nhập nhưng chưa có giải pháp cần để tận dụng cơ hội và hạn chế tiêu cực của hội nhập. Đây là điều rất đáng lo. Hội nhập là sức ép lớn để cải cách thể chế. Đây là sự thật. Chúng ta vào cuộc chơi chung thì phải đổi mới, nếu không sẽ thất bại.

Song, cải cách thể chế cần đi đôi với cải cách chính trị. Điều này không mới và chúng ta có chung nhận thức. Muốn đổi mới về kinh tế thì trước hết cần đổi mới về thể chế chính trị. Vấn đề này tôi đã suy nghĩ nhiều năm, ngay sau Đại hội XI và chúng tôi đã tổ chức hội thảo nhiều lần ở hội trường này.

Xin khẳng định rõ ở đây là đổi mới thể chế chính trị không có nghĩa là thay đổi Đảng hay thay đổi CNXH. Chúng ta khẳng định Đảng Cộng sản vẫn lãnh đạo, vì đó là lựa chọn của nhân dân, của lịch sử. CNXH cũng không thay đổi vì đó là điều tốt đẹp cho mỗi con người Việt Nam.

Qua các thời kỳ, Đảng đã chứng tỏ khả năng thay đổi, năng động, sáng tạo. Lịch sử của Đảng rút ra điều này rồi cho nên lúc này phải đổi mới.

Đổi mới thể chế kinh tế đi đôi với thể chế chính trị không có gì mới, vì đó là yêu cầu của Nghị quyết Đại hội XI được thông qua năm 2011. Chỉ có điều năm năm qua triển khai đổi mới trong kinh tế nhiều hơn, trong khi những đổi mới thực sự trong chính trị chưa được nhiều…

Chúng ta thống nhất là lần này, chúng ta phải đổi mới một cách toàn diện, phải thay đổi bộ máy để phù hợp với kinh tế thị trường.

Làm rõ vai trò cá nhân: Chọn người tài, loại người kém

Muốn đổi mới thì phải có dân chủ… Phải hướng đến dân chủ trực tiếp (Hiến pháp đã quy định) để chọn người tài.

Vai trò cá nhân phải rõ ràng hơn… Nếu không làm rõ vai trò cá nhân thì không thể xác định được ai hoàn thành nhiệm vụ, ai không. Cốt lõi vấn đề ở đây. Không làm rõ được vai trò cá nhân thì sao loại được người kém ra. Đây là cốt lõi sâu xa. Mà vấn đề dân chủ, trách nhiệm cá nhân thế giới đã làm.

Trong kinh tế, kinh tế tư nhân làm rất rõ vai trò cá nhân. Họ làm được thì ăn, không thì chết. Trách nhiệm cá nhân gắn với từng đồng bạc của họ.

Còn bên Nhà nước, không rõ ràng gì cả. Cá nhân mang danh tập thể tiêu tiền của Nhà nước. Có sai cũng không kỷ luật được ai vì không biết cá nhân ai sai.

Chúng ta bức xúc trước những vấn đề không giải quyết được như thế này. Đây là nguyên nhân sâu xa thuộc về nguyên lý quản lý, trong thể chế nên chúng ta phải đổi mới. Đổi mới để đất nước phát triển tốt hơn, để người dân có quyền biết tiền của họ được chi tiêu thế nào.

* * *

Thành tựu 70 năm hiện hữu trên quảng trường Ba Đình dịp lễ Quốc khánh 2-9 vừa rồi với diễu binh, diễu hành… Nhưng chúng tôi muốn bổ sung rằng dù thành tựu trên quảng trường như vậy thì vẫn còn rất nhiều vấn đề làm Việt Nam tụt hậu, còn nhiều vấn đề phải xem xét.

Khi chúng ta mở cửa lớn như vậy mà không tận dụng được cơ hội lớn, để rơi mất, vuột đi thì khi “tỉnh giấc” cũng chẳng lấy lại được. Đi ra ngoài, thấy họ làm được, sao ta không làm được? Đó là điều nhức nhối, xấu hổ!

Không ảo tưởng các chuyện này sẽ thay đổi một sớm một chiều nhưng nếu không ai nói, không đặt ra vấn đề thì xã hội sẽ đi đến đâu? Đây là trách nhiệm của cơ quan xây dựng chính sách, trong đó có bộ của tôi - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Sự khác biệt Bùi Quang Vinh!
Nhiều đại biểu Quốc hội và nhân dân đã bày tỏ sự lưu luyến đối với Bộ trưởng Vinh - người mạnh miệng nói về những cải cách mạnh mẽ cho kinh tế đất nước!
Ở Đại hội XII, sau khi có bài phát biểu làm dậy sóng hội trường, ông là một trong số 62 người được nhiều đại biểu tham dự đại hội đề nghị tái cử. Nhớ lại, trong bài phát biểu ấy, ông đã thẳng thắn: “Vì vậy, trong giai đoạn tới, việc đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới về kinh tế là yêu cầu hết sức cấp bách”. Trăn trở về con đường phát triển của quốc gia, ông khẳng khái nói: “Việt Nam phải đi trên con đường nhân loại đã đi”. Những điều ông nói có thể không mới nhưng lại là điều cần thiết trong bối cảnh vẫn còn những nhóm lợi ích lưu luyến với những gì cũ kỹ, vốn chỉ phục vụ cho một nhóm đối tượng.
Sức ép này như ông thừa nhận với báo chí: “Cái mới thì luôn bị phản đối. Đổi mới thì không thể tránh được việc đụng chạm lợi ích của từng ngành, từng cá nhân. Đổi mới mà không bị phản ứng thì không phải là đổi mới. Vì khi đổi mới, minh bạch thì nhiều người không thể lợi dụng để tư lợi nên họ phải phản ứng.” Chắc chắn chỉ có suy nghĩ về lợi ích chung của quốc gia, của dân tộc mới giúp ông đủ sức vượt qua những phản ứng.
Thể chế và con người, như ông nói là hai nhân tố quyết định để phát triển đất nước. Cũng như nhiều người tâm huyết với dân tộc, ông đồng quan điểm phải tuyển dụng được những người tài để đảm nhận những vị trí quan trọng ở nhiều tầng nấc xã hội. Bởi ông hiểu rằng chỉ có những người tài mới có thể sản sinh ra thể chế tốt và kiểm soát nó. Nếu không con đường phát triển của Việt Nam vẫn lạc điệu với những thể chế tiên tiến, hiện đại nhất của nhân loại.
Đôi lúc trong những cuộc trao đổi riêng, ông bày tỏ mình không muốn nói gì nữa trong lúc này. Thế nhưng những trăn trở về đất nước, về doanh nghiệp, cộng đồng luôn thường trực trong con người ấy. Ngay trong buổi họp, được xem như cuối cùng với tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà ông làm tổ trưởng, những phát biểu của ông vẫn thẳng thắn: “Nếu tất cả vì lợi ích chung thì xử lý không khó. Nhưng nếu lý sự kiểu quyền anh, quyền tôi, luật ngành anh, luật ngành tôi thì sẽ rất khó giải quyết những khó khăn phát sinh”.
Thôi thì chúng ta cứ tin vào điều mà ông nói về cải cách: “Đơn giản, muốn biến củ sắn to thành bột mịn thì cũng phải qua các công đoạn chặt nhỏ, xay thành bột, sau đó mới lọc sơ rồi lọc kỹ. Nếu dùng rây lọc mịn ngay từ đầu thì sẽ tắc”.
Ông sẽ nghỉ ngơi và có thể sẽ về làm ruộng như ông đã từng tâm sự với báo giới khi còn rất nhiều điều dang dở. “Tôi nghĩ rằng trách nhiệm với đất nước, với dân tộc phải được đặt lên trên lợi ích của bản thân, của ngành mình”. Lời tâm sự gần như là cuối cùng này của ông với báo giới cuối năm 2015 cho chúng ta niềm tin: “Tinh thần Bùi Quang Vinh” chắc hẳn sẽ vượt ra khỏi khuôn viên của Bộ KH&ĐT. Bởi tinh thần của ông là sự khác biệt và sự khác biệt ấy cần được hiểu ở góc độ tích cực nhất!

Tư Giang ghi

(Pháp luật TPHCM)