4 tháng 4, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 56

Posted: 15/10/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau ba tháng ở Tiên Sơn, đầu tháng 11-1965 Uông Đông Hưng bị triệu về Bắc Kinh để dự một cuộc họp khẩn cấp. Hẳn cuộc họp này liên quan đến một vấn đề quan trọng nào đó, nhưng chúng tôi ở trong làng, tách rời với thế giới bên ngoài, chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Uông Đông Hưng cho rằng, chỉ vài ngày sau ông sẽ trở lại.
Hàng tuần trôi qua. Mùa đông kéo tới cùng với cái lạnh và những cơn mưa ảm đạm. Công việc ngoài đồng cũng ngưng lại. Tôi bất đầu tỏ ra chán nản, lo lắng và cảm thấy mình ở không đúng chỗ. Uông Đông Hưng mãi vẫn chưa về.

Rốt cuộc, cuối tháng 12 ông ta cũng xuất hiện. Ông chọc tôi:
– Chắc đồng chí không nghĩ tôi lại đi lâu như vậy phải không? – Nhưng bỗng nhiên ông tỏ vẻ nghiêm trọng – Có chuyện lôi thôi đã xảy ra.
Uông Đông Hưng không về Bắc Kinh. Ông đến gặp Mao ở Hàng Châu.
Nhiều cán bộ cao cấp – Bí thư thành uỷ Bắc Kinh, Bành Chân, Tổng tham mưu trưởng La Thuỵ Khanh, Chánh Văn phòng đảng Dương Thượng Côn và Chủ nhiệm Uỷ ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất – đang vướng vào những rắc rối về chính trị. Đảng triệu tập nhiều phiên họp kín để giải quyết từng trường họp. Nhưng đến nay, người ta vẫn chưa đưa ra những biện pháp cụ thể. Trong những trường hợp đó, đã có một trường hợp được quyết định.
Dương Thượng Côn, kẻ đầu tiên làm Mao tức trong vụ Lá Cờ Đen và người chịu trách nhiệm trong việc gắn hệ thống nghe trộm trên đoàn tàu của Mao, bị cách chức. Uông Đông Hưng được bổ nhiệm làm người kế nhiệm. Uông vẫn đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Văn phòng của các lực lượng an ninh, nhưng rời ghế thứ trưởng Bộ công an. Với tư cách Chủ nhiệm Tổng văn phòng, ông có ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Uông kể:
– Tôi nói rằng không xứng đáng với chức vụ này, đề cử Trần Bá Đạt, nhưng Chủ tịch từ chối. Khi đề nghị Hồ Kiều Mục làm Chủ nhiệm Tổng văn phòng, tôi sẽ làm phó cho ông ta, Mao nói, Hồ Kiều Mục thuộc loại người nhỏ nhen, không thích hợp với công việc hành chính. Chủ tịch cứ nhất quyết đề nghị tôi phải đảm nhận chức vụ này.
Tôi nói:
– Xin chúc mừng đồng chí được thăng chức.
Dĩ nhiên, tôi lập tức tự hỏi, cuộc thay đổi chính trị này sẽ ảnh hưởng đến tôi ra sao. La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn đã ủng hộ khi người ta đề nghị tôi làm bác sĩ riêng của Mao. Nếu cuộc thanh trừng lan xuống cấp dưới, tôi chắc cũng sẽ bị vạ lây. Thế nhưng, người thực sự bênh vực tôi, Uông Đông Hưng, lại được thăng chức. Có lẽ nhờ vậy tôi thoát hiểm, nhưng vẫn có cảm giác không được tốt lành cho lắm. Đây là lần đầu tiên cải tổ thành phần cấp lãnh đạo cao nhất từ khi cộng sản nắm chính quyền, chắc chắn gây tiếng vang lớn tới tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Uông Đông Hưng đã nhìn thấu tình hình, ông quay lại Giang Tây không chỉ để hoàn tất chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của chúng tôi mà còn để né tránh những cuộc phản công, phân tranh quyền lực chính trị, ông muốn đứng ngoài, quan sát trận đấu cho đến khi tất cả các vấn đề trở nên rõ ràng. Chúng tôi cũng nên ở lại Giang Tây, vì các cuộc thanh trừng cũng chẳng chừa cấp dưới. Ở nông thôn, an toàn hơn.
Tôi ngày càng cảm thấy khó chịu. Mặc dù luôn luôn không muốn dính đến chính trị. nhưng thấy cần phải biết những biến động chính trị đang diễn ra. Tuy vẫn đang ở nơi yên ổn, nhưng phải biết rõ hơn những gì đang diễn ra ở trung tâm quyền lực, Mao đang nghĩ gì, có những kế hoạch gì, nhưng sống trong làng quê, khó mà biết những gì đang diễn ra ở Bắc Kinh.
***
Việc bốn cán bộ lãnh đạo của đảng bị công kích chẳng làm tôi ngạc nhiên. Sau vụ đặt “bọ” nghe trộm, Mao không còn tin Dương Thượng Côn. Mặc dù, thực ra lỗi của giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng – những người như Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ, nhưng bao giờ cũng vậy, trước tiên Mao tấn công các cán bộ trung cấp.
Đã từ lâu, Mao nghi ngờ Bành Chân, bí thư thành uỷ Bắc Kinh. Mấy năm trước, Mao kể cho tôi nghe, Khang Sinh nghi ngờ Bành Chân có xu hướng “chống Mao”. Theo nhận biết của tôi, Bành Chân lúc nào cũng tỏ ra trung thành, thường xuyên hỏi tôi về tình hình sức khỏe Chủ tịch. Khang Sinh quả quyết Bành Chân đã phê phán chính sách Ba ngọn cờ hồng của Mao trong Đại nhẩy vọt và yêu cầu xét lại tính cách mạng của chính sách này.
Việc Lục Đỉnh Nhất gặp rắc rối về chính trị cũng không làm tôi sửng sốt. Với tư cách Chủ nhiệm Ban tuyên truyền. Lục Đỉnh Nhất chịu trách nhiệm lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Bởi vì Giang Thanh và Kha Thanh Thế tuyên truyền chống trường phái lãng mạn được Mao ủng hộ, vấn đề của Lục Đỉnh Nhất hầu như không thể tránh được.
Tôi biết rất rõ La Thuỵ Khanh, chúng tôi cộng tác chặt chẽ với nhau ngay từ khi đảm nhận nhiệm vụ làm bác sĩ cho Mao. La gặp rắc rối lần đầu tại Bắc Đới Hà khi ông ngăn Mao đi bơi lúc biển động. Đối với La Thuỵ Khanh, vấn đề an ninh của Mao bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và đúng ra, chưa bao giờ ông bất trung với Mao. Nhưng ông có nhiều quan điểm khác với Lâm Bưu, vì thế khác luôn cả với Mao.
Tôi được biết La gặp chuyện lôi thôi về chính trị vào tháng 6-1964 khi ông mở cuộc tập trận quy mô lớn gần khu lăng mộ nhà Minh, ngoại ô thành Bắc Kinh. Cuộc tập trận tham gia của các binh lính Bắc Kinh và Tế Nam do La Thuỵ Khanh, Dương Vĩnh và Dương Đắc Chí cùng chỉ đạo. Lâm Bưu được mời đến với tư cách quan sát viên, nhưng từ chối, ông bảo, không tin tưởng những cuộc diễn tập quân sự.
Mao đã chứng kiến vài buổi tập trận, cuộc tập trận lần này lại chứng minh hùng hồn cho thuyết của Lâm Bưu, “con người và lý tưởng còn quan trọng hơn cả vũ khí”. Một tiểu đội chiến sĩ tay không đánh chiếm được cả một toà nhà năm tầng làm Mao rất hài lòng. Cuộc tập trận đã khiến ông nhìn nhận rằng, chính nước Trung Hoa lạc hậu và kém phát triển có thể chiến thắng được kẻ thù mạnh nhất, được trang bị tối tân nhất, kể cả kẻ thù hùng mạnh to lớn ở phương Bắc. Mao nói với La Thuỵ Khanh sau khi xem xong:
– Liên Xô là người khổng lồ, nhưng không phải là không có điểm yếu. Chừng nào chúng ta biết cách chống người khổng lồ, chừng đó chúng ta không có gì phải sợ dù chúng to lớn và hùng cường đến đâu.
Nhưng Mao cũng biết, La Thuỵ Khanh yêu cầu hiện đại hoá quân đội Trung Quốc, bác bỏ thuyết của Lâm Bưu. Có lần Mao nói đùa:
– Đối với La Thuỵ Khanh, chỉ có quần áo mặc trên người có giá trị, ngoài ra chẳng còn có gì nữa.
Tôi được biết thêm về chuyện phiền toái của La Thuỵ Khanh qua tài liệu của hải quân do Uỷ ban quân sự chuyển cho Mao và bây giờ được Uông Đông Hưng mang từ Hàng Châu về. Vợ Lâm Bưu, Diệp Quần, đã phát động chiến dịch công kích La Thuỵ Khanh. Tháng 11-1965, trước khi Uông Đông Hưng được triệu về Bắc Kinh ít lâu, bà ta bay đến Hàng Châu tố với Mao rằng La Thuỵ Khanh cưỡng lại khẩu hiệu “Lấy chính trị làm thống soái” của chồng bà.
Mao đứng về phía Diệp Quần. Ông đã ghi trong tài liệu mà Uông Đông Hưng đưa cho tôi xem:
– Kẻ nào không công nhận lấy chính trị làm thống soái, chỉ biết dẻo mồm kiểu ấy, kẻ đó đã tuyên truyền cho chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta phải cảnh giác trước thái độ này.
Chính uỷ không quân Vũ Từ Tuấn đã liên kết với Diệp Quần chống lại La Thuỵ Khanh, quả quyết rằng, ngay từ đầu La Thuỵ Khanh đã phản đối việc bổ nhiệm Lâm Bưu làm người thay thế Bành Đức Hoài, bây giờ lại đòi Lâm Bưu từ chức. Khi Lâm Bưu ốm, không thể thường xuyên gặp La Thuỵ Khanh như quy định. La Thuỵ Khanh nói rằng:
– Nếu đồng chí ấy hay ốm như vậy, làm sao đảm đương được việc gì? Nên có một người khác đảm nhận công việc của đồng chí ấy. Đừng đứng cản đường người khác.
La Thuỵ Khanh bực về tham gia trực tiếp vào chính trị của Diệp Quần, khuyên bà ta nên quan tâm nhiều hơn đến ông chồng mắc bệnh kinh niên. La cho rằng, nếu sức khỏe của Lâm Bưu tốt hơn, ông có thể chuyên tâm hơn vào những công việc quan trọng trong Bộ quốc phòng. Vũ Phát Tiên khẳng định, La Thuỵ Khanh tìm cách để Lâm Bưu từ chức, nên La Thuỵ Khanh đã thuyết phục Lưu Nha Lâu, tổng tư lệnh không quân, tác động đến Diệp Quần để bà khuyên chồng nghỉ hưu. La Thuỵ Khanh từng tranh luận: “Ai cũng đến lúc phải rút khỏi chính trường, cả Lâm Bưu cũng vậy”. Chính La Thuỵ Khanh muốn đoạt cái ghế trong Uỷ ban quân sự của Lâm Bưu. Nếu Diệp Quần thuyết phục được chồng từ chức, La hứa sẽ có trọng thưởng. Chuyện này thực hư ra sao tôi không rõ.
Diệp Quần và Vũ Phát Tiên không chấp nhận đề nghị của La Thuỵ Khanh, còn Mao lại đứng về phía hai người này. Giữa tháng 12-1965, La Thuỵ Khanh bị tước hết tất cả những chức vụ quan trọng trong quân đội.
Đối với tôi việc La Thuỵ Khanh bị hạ bệ báo hiệu một điều chẳng lành.
Qua Uông Đông Hưng, tôi nhận thấy Chu Ân Lai, người đứng ra bênh vực La Thuỵ Khanh trong vụ này và bất đồng với Lâm Bưu, cũng tỏ ra lo lắng. Thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu Uông Đông Hưng phải khẩn cấp trở về Bắc Kinh. Hàng ngày Chu giải quyết hầu hết công việc của chính phủ. Đầu năm 1964, Chu Ân Lai đã phàn nàn với Uông Đông Hưng về tình hình thiếu nhân sự có khả năng điều hành công việc hành chính ở cấp cao nhất trong chính phủ, Chu nói “Chúng ta rất thiếu những người có năng lực”. Bành Chân lo về công việc hành chính của đảng, La Thuỵ Khanh đảm nhiệm công việc hành chính của quân đội, còn Chu Ân Lai lo về chính phủ. Bây giờ, Bành Chân và La Thuỵ Khanh đều bị công kích, nên Chu ân Lại lo ngại việc ổn định tình hình ở Bắc Kinh sẽ còn khó khăn hơn nhiều. Ông giục Uông Đông Hưng phải nhận chức vụ mới càng sớm càng tốt. Nhưng Uông đã cố tình ở lại Giang Tây cùng với các nhân viên Nhóm Một đến tháng 4-1966.
Tôi cảm thấy vui vì được ở lại, bởi trong hoàn cảnh này, chẳng ai có thể biết trước cái gì sẽ chờ tôi khi trở về Bắc Kinh?
Chẳng bao lâu sau, tôi cũng biết. Sau khi Uông Đông Hưng quay lại được ít hôm – tôi vẫn chưa hoàn toàn nắm bắt được hết những biến động chính trị – tôi bị Mao gọi về.
Hôm ấy là ngày 1 tết dương lịch năm 1966, các nhân viên Nhóm Một muốn được ăn mừng ngày lễ kha khá một chút. Buổi sáng, tôi và y tá trưởng Ngô Tự Tuấn vật lộn với mưa lạnh và bùn lầy để tới làng Uông Đông Hưng đang ở. Chỉ những người thành thị chúng tôi mới tổ chức đón năm mới dương lịch, vì nông dân trong làng vẫn cứ theo tết âm lịch. Đối với họ, dương lịch không có ý nghĩa gì.
Uông Đông Hưng chỉ thị cho chúng tôi chuẩn bị thứ bánh cổ truyền mà người ta hay làm vào dịp Tết Tây. Một số người chúng tôi băm thịt và trộn nhân bánh, số khác nhào bột hoặc nặn bánh. Khi chúng tôi làm gần xong, bỗng nhiên một nhân viên an ninh của huyện Thang Nghiên xộc vào phòng. Anh ta thở hổn hển và mồ hôi mồ kê vã ra như tắm. Có người nào đó nói đùa:
– Làm gì mà nhắng lên thế. Đủ bánh mà.
Anh ta kéo tôi, Uông Đông Hưng và Ngô Tự Tuấn ra một bên, nói:
– Tôi cố gọi điện cho các đồng chí suốt hai tiếng đồng hồ liền mà không được.
Lúc ba giờ sáng anh ta nhận được một cú điện thoại của tỉnh uỷ tỉnh Giang Tây. Chủ tịch bị ốm, ông đang ở Nam Xương, thủ phủ của tỉnh. Y tá Ngô Tự Tuấn và tôi phải lập tức đến chỗ ông.
Đi bằng xe Jeep cũng phải mất 11 hoặc 12 tiếng mới tới nơi. Chúng tôi phải lập tức khởi hành.
Tôi muốn quay lại Thạch Tư để gói ghém một ít đồ, nhưng Uông Đông Hưng cấm, bảo, mọi thứ cần thiết có thể mua ở Nam Xương, chuyến đi phải được giữ bí mật. Uông Đông Hưng quyết định đi theo. Ông muốn biết bệnh tình của Mao nghiêm trọng đến mức nào và cũng muốn tranh thủ xem ở Bắc Kinh có chuyện gì mới không. Nếu không phải Chủ tịch ốm nặng, Uông sẽ lập tức trở về làng.
Thế là chúng tôi chẳng được ăn món bánh bao nhân thịt, Uông yêu cầu lên đường ngay lập tức. Xe chạy trên con đường đất lầy lội dưới trời mưa tầm tã. Bùn bắn cả lên kính, đến nỗi chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Chúng tôi nghỉ một chút ở nhà khách Thang Nghiên, rồi lại tiếp tục đi với tốc độ như sên bò. Đến khi xe ra đến một con đường trải đá răm, mới chạy nhanh hơn. Nửa đêm, chúng tôi tới Nam Xương.
Đầu tiên chúng tôi gặp Phương Chí Xuân, chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Giang Tây và một vài cán bộ đảng khác của tỉnh. Phương nói:
– Chủ tịch đến đây từ hai tuần nay, hai hôm trước ông trở bệnh.
Chúng tôi được dẫn tới nhà khách Bân Giang, nơi Mao và đoàn tuỳ tùng ăn nghỉ. Thuộc hạ của Uông Đông Hưng, Trương Diêu Tự, vị tư lệnh quân đoàn trung ương đang ở đó cùng với Hứa Diệp Phụ, tay thư ký xảo quyệt đã đẩy được Lâm Khắc đi để chiếm chỗ. Một người phụ trách an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu chịu trách nhiệm bảo vệ Mao và một người phục vụ mới. Chu Phúc Minh, chịu trách nhiệm lo những nhu cầu cá nhân. Một số tì nữ của Mao cũng có mặt trong nhà khách. Trong số họ có một cô y tá, hai cô thư ký riêng và cô phục vụ trên đoàn tàu đặc biệt của Mao là Trương Ngọc Phượng. Mao đem theo ba đầu bếp, một tá vệ sĩ. Nhưng chẳng có ai trong số những người thuộc ban cũ, nên bầu không khí khác hẳn, tôi cảm thấy khó chịu thế nào ấy.
Người duy nhất ở đây tôi quen là Chu Phúc Minh, người phục vụ mới của Mao, quê ở Hàng Châu, người đã vài lần cắt tóc cho Mao trước khi anh ta được vào Nhóm Một (Vương Gấu lớn nghỉ hưu với khoản tiền hưu hậu hĩnh).
Thông qua Chu Phúc Minh, tôi biết những gì đã xảy ra. Ngày 26-12-1965, Mao tổ chức sinh nhật lần thứ 72 của ông. Buổi chiều, ông uống chút rượu vang, sau đó cùng một số phụ nữ ra bờ Châu Giang đi dạo. Lúc ấy mặc dù gió to, nhưng cảm thấy nóng bức Mao phanh cúc áo ngực. Trương Ngọc Phượng và ông vừa đi vừa cãi lộn chuyện cũ của hai người. Gần đây, Mao phát hiện Trương Ngọc Phương yêu một tay trong đám vệ sĩ, ông bắt Trương quỳ xin lỗi, còn tay vệ sĩ bị tống cổ ra khỏi Trung Nam Hải đuổi về Nam Kinh, câu chuyện mâu thuẫn vẫn kéo dài trong quan hệ giữa hai người, không ngờ rồi bùng nổ sau buổi chiều sinh nhật của ông.
Ngay buổi tối xảy ra sự việc, Chủ tịch bị cảm, đến đêm ông ho và sốt cao. Ông không cho các bác sĩ ở Nam Xương khám bệnh, hy vọng bệnh tự khỏi. Khi tình trạng bệnh tình ngày càng xấu đi, ông vẫn từ chối mọi sự chăm sóc y tế, làm giới lãnh đạo đảng ở Giang Tây lo ngại. Cuối cùng, Mao cho gọi tôi và y tá Vũ.
Khi tôi bước vào phòng, ông nằm trên giường, mặt ông đỏ lựng, thở nặng nhọc và ho liên tục. Ông nói:
– Tôi bị như vậy từ vài hôm rồi. Tôi tưởng sẽ khỏi nhưng không được. Vì vậy phải gọi đồng chí tới.
Trước sau tôi cũng vẫn là bác sĩ duy nhất được Mao tin tưởng. Ông bị sốt tới 40 độ, cơn cảm lạnh đã làm ông bị viêm phế quản. Tôi bảo phải dùng kháng sinh chữa viên phế quản và hạ sốt, ông chịu uống ngay.
Đến 5 giờ sáng, tôi và y tá Vũ trở về nhà khách ở Nam Xương, nơi Uông Đông Hưng và một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh Giang Tây đang chờ. Nếu ngày hôm sau tình hình sức khỏe của Mao tốt hơn, ba chúng tôi sẽ trở lại nông thôn.
Ngày hôm sau, tôi và Uông Đông Hưng cùng đến chỗ Mao. Thuốc kháng sinh đã có tác dụng, cơn sốt đã hạ, nhưng Mao vẫn còn ho. Ông yêu cầu chúng tôi tiếp tục điều trị thêm vài ngày nữa. Uông Đông Hưng phải quay về nông thôn, tôi và y tá Vũ ở lại.
Uông bối rối. Mao điều chúng tôi về nông thôn để chúng tôi làm quen với khổ cực, tham gia vào chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa, rồi báo cáo lại cho ông về công việc. Vậy mà bây giờ Mao chẳng hỏi một câu gì đến công việc. Uông tự hỏi không biết Mao đang nghĩ gì nữa.
Ngay tối hôm đó, Uông Đông Hưng trở về nông thôn mà những thắc mắc của ông chẳng tìm được một câu trả lời.
Việc tiếp xúc với Mao ngày càng trở nên khó khăn, vì những cô tì nữ thay phiên nhau vây quanh Chủ tịch. Lúc nào cũng có một cô trong số họ túc trực. Chu Phúc Minh rất ít khi bước vào phòng Mao. Anh ta chỉ lấy thức ăn hay trà cho ông từ dưới bếp lên, còn việc phục vụ ông được một trong những cô nhân tình đảm nhiệm. Vì tôi biết những cô gái này có quan hệ sâu kín với Mao, không muốn xen vào những chuyện riêng tư nên tôi rất ý tứ trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông.
Tình trạng sức khỏe của ông trở nên đáng lo ngại. Tuy nhờ thuốc kháng sinh, sau vài ngày bệnh ho và viêm khí quản đã giảm, nhưng trong quá trình điều trị, tôi nhận thấy Mao uống thuốc ngủ nhiều một cách bất thường – gấp mười lần liều lượng thông thường, liều lượng đủ để giết chết một người. Mặc dù với thời gian dùng thuốc an thần hết năm này qua năm khác, cơ thể Mao đã có một khả năng đáng kể chống lại tác dụng của thuốc an thần, nhưng tôi không thể xác định được giới hạn giữa khả năng quen thuốc và liều lượng dẫn tới tử vong ở Mao. Chừng nào tôi vẫn còn ở nông thôn, chừng đó người ta không thể đổ lỗi cho tôi, nếu Mao dùng thuốc ngủ quá liều lượng. Nhưng ở Nam Xương, tôi trực tiếp theo dõi tình trạng sức khỏe của ông, sẽ là người hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với bất cứ chuyện gì xảy ra.
Việc dùng thuốc tăng liều của Mao có quan hệ với tình hình chính trị căng thẳng. Một số nhân viên ở đây cho tôi hay, từ khi vợ Lâm Bưu, Diệp Quần đến gặp Mao hồi tháng 11-1965, báo cáo lại thái độ bất tuân lệnh của La Thuỵ Khanh đối với chồng bà, liều thuốc ngủ Mao dùng cứ tăng dần. Ngày 8-12-1965, trong một cuộc họp mở rộng của Uỷ ban thường vụ của Bộ Chính trị ở Thượng Hải, Mao đã cách chức Tổng tham mưu trưởng của La Thuỵ Khanh, bổ nhiệm người phó của La, tướng Dương Thành Vũ lên thay. Kỳ họp kéo dài một tuần và Mao căng thẳng đến độ không ngủ được, ông uống thuốc liên tục hơn, thậm chí khi không muốn ngủ ông vẫn uống thuốc.
Tôi phải giải thoát cho ông khỏi cơn nghiện này.
Sau khi về đây được một tuần, tôi đến chỗ ông vào lúc nửa đêm. Mao đang nằm trên giường, đọc lịch sử đời hậu Hán (25 đến 20 sau công nguyên). Để chuẩn bị cho một trận đánh trên chính trường, ông thích đọc những tác phẩm lịch sử hơn những tác phẩm của Marx. Cuốn lịch sử nhà Hán viết rất hay, đầy đủ những mưu mô thủ đoạn cuộc chiến nội bộ.
Ông nói:
– Lần này hình như đồng chí đã lại có thần dược mới. Tôi lại khỏe lại rồi.
Tôi đáp:
– Đó là loại thuốc rất bình thường nhưng đã có tác dụng.
Ông đưa tôi xem một tập tài liệu, hỏi tôi có muốn đọc không. Thực ra tôi tới để nói về việc ông dùng thuốc ngủ chứ không phải thảo luận về chính trị. Tôi đọc được hàng tít: “Bình luận vở kịch lịch sử Hải Thuỵ Từ Quan”. Bài báo này là một trong số bài báo ít ỏi mà tôi đã đọc qua ở Thạch Từ xa xôi và cách trở với thế giới bên ngoài. Bài này của “nhà lý luận” Diêu Văn Nguyên ở Thượng Hải, đăng trên tờ Văn Hối Báo của Thượng Hải ngày 10 tháng 11 năm 1965. Bài này phê phán một vở kịch của phó thị trưởng Bắc Kinh, Ngô Hàm. Vở kịch ca ngợi Hải Thuỵ, một quan trong triều đời nhà Minh người mà Mao thường lấy làm tấm gương sáng ngời để cán bộ đảng nơi theo.
Bài bình luận làm tôi phải suy nghĩ. Chính Mao đã quảng bá cho các vở kịch truyền thống về nhân vật Hải Thuỵ. Ngô Hàm, tác giả của vở kịch, không chỉ là phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, ngoài ra ông còn là giáo sư Đại học Bắc Kinh, một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử đời nhà Minh. Sự quan tâm của Mao về thời kỳ lịch sử này đã làm nảy sinh mối quan hệ của ông với Ngô Hàm từ nhiều năm nay. Từ khi Mao khuyên tôi nên nghiên cứu sâu hơn nữa về lịch sử Trung Quốc, thỉnh thoảng tôi có dự những cuộc mạn đàm của Mao và Ngô Hàm.
Mao từng phê phán những tác phẩm đầu tay của Ngô Hàm, cuốn tiểu sử người sáng lập triều đại nhà Minh, Chu Nguyên Chương, tiêu đề “Từ ăn mày thành Hoàng đế”, cuốn sách đánh giá sai lầm về lịch sử, ông phê phán Ngô Hàm đã tham gia đội quân Khăn Xếp Đỏ, qua nhân vật Chu Nguyên Chương ông phê phán Tưởng Giới Thạch thời hiện tại. Hàng loạt vấn đề tà giáo Mao vạch ra và cho rằng mọi người có thể mắc phải, ngoại trừ ông, nhưng vị Chủ tịch đảng cộng sản đã bảo vệ vai trò lịch sử của Tưởng Giới Thạch trong cuộc viễn chinh Bắc phạt năm 1926-1927, Tưởng đã kiên quyết từ chối không chịu chia cắt Trung Quốc dưới sức ép chính trị to lớn của Hoa Kỳ. Ngô Hàm tiếp thu ý kiến phê phán của Mao mặc dù tác giả vở kinh kịch Hải Thuỵ được chính Mao kêu gọi học tập, lấy nhân vật Hải Thuỵ làm tấm gương cho mọi người học tập. Tôi chẳng hiểu vì sao bây giờ Ngô Hàm và vở kịch lại bị phê phán.
Giờ đây Mao lại muốn nói chuyện với tôi về vở kịch của Ngô Hàm. Ông tán thành những lời phê bình của Diêu Văn Nguyên dựa theo ý của Giang Thanh và Trương Xuân Kiều.
“Ý tưởng” của bài phê bình này đi ngược lại dòng thời gian về hội nghị của Bẩy ngàn cán bộ hồi tháng 1-1962. Khi đó Mao đã phải “tự phê bình”. Việc cách chức Bành Đức Hoài khi đó là một đề tài thường được nhắc tới, vì nhiều người cho là không công bằng. Người ta bắt đầu so sánh giữa việc vua Gia Kính cách chức và tống giam Hải Thuỵ với việc Mao cách chức Bành Đức Hoài. Cả Bành Đức Hoài và Hải Thuỵ đều là những quan chức trung trực, họ đã phục vụ đất nước và người đứng đầu quốc gia một cách trung thành. Họ đã chỉ cho người đứng đầu quốc gia những sai lầm không phải với dụng ý trách móc, mà để quốc gia có một chính quyền tốt hơn, qua đó tiếng thơm của người đứng đầu quốc gia được nhân lên gấp bội. Bành Đức Hoài được xem là một Hải Thuỵ thời nay.
Cả Mao và ông vua nọ có cùng một điểm giống nhau, không chịu để người khác phê phán.
Tính đa nghi của Giang Thanh, vai trò chính trị mới và mối quan tâm đối với văn hoá và nghệ thuật đã khiến bà luôn luôn để ý đến những nhà soạn kịch cho là không trung thành với chồng bà. Có lẽ, bà nghi Ngô Hàm bất trung, khi bà xem vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan của ông.
Tuy nhiên, Thị trưởng thành phố Bắc Kinh Bành Chân, Trưởng ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất và Phó trưởng ban tuyên truyền Chu Dương đã từ chối đề nghị của Giang Thanh phát động một chiến dịch chỉ trích vở kịch. Ngô Hàm vừa là bạn, là đồng chí, là một trí thức đáng kính và một người được coi là trung thành với Mao. Nhưng Giang Thanh đưa ra câu hỏi, tại sao ông không thay đổi tiêu đề cuốn tiểu sử “Từ ăn mày thành vị Hoàng đế” thành “Tiểu sử Hoàng đế Chu Nguyên Chương”? Tại sao ông không trả lời Mao vở kịch “Hải Thuỵ Từ Quan” rút ra được bài học gì? Giới lãnh đạo Bắc Kinh thấy chẳng có cớ gì phải nghe theo chỉ thị Giang Thanh. Đã đành bà là vợ của Mao, nhưng bà chẳng có một chức vụ chính thức nào từ những ngày ở Hồ Nam. Giới lãnh đạo chính trị cao cấp đánh giá bà rất thấp. Tầng lớp diễn viên, đào kép theo truyền thống Trung Hoa người ta coi thường, xếp vào hạng “xướng ca vô loài”, Giang Thanh cũng từ cô đào có nhiều tham vọng chính trị, vận may vớ được và kết hôn với người lãnh lãnh đạo quốc gia, càng làm người ta ghét, không ưa.
Mao cần Giang Thanh trong bước ngoặt trên con đường danh vọng của ông. Thậm chí tham vọng chính trị của bà lại có lợi cho ông. Giang Thanh đã từng nói, bà là chiến sĩ trung thành tuyệt đối của Mao, nhưng nếu không có Mao, bà chả là cái đinh gì. Khi bí thư thành uỷ Thượng Hải, Kha Thanh Thế đột ngột qua đời tháng 4 năm 1965. Cái ghế của ông được Trưởng ban tuyên truyền của Thượng Hải, Trương Xuân Kiều đảm nhiệm. Cũng như Kha Thanh Thế, Trương Xuân Kiều, người nhất nhất tuân theo mọi chỉ thị của Mao. Trương Xuân Kiều đã bố trí cho thân hữu của ông ta, Diêu Văn Nguyên, Chủ nhiệm tờ Giải Phóng Quân Nhật Báo, trực tiếp cộng tác với Giang Thanh. Khi bài phê bình được đăng tải trên tờ Văn Hối Báo, Mao mới được biết nội dung. Bài đả kích nhằm tạo ra một chiến dịch chống Ngô Hàm và những đồng đảng còn lại của Bành Đức Hoài. Các tờ báo và tạp chí khác phải hưởng ứng phê bình.
Nhưng giới truyền thông ở Bắc Kinh lờ bài đả kích của Diêu Văn Nguyên. Mao cáu kỉnh, nói:
– Mãi 19 ngày sau, kể từ ngày bài này được đăng trên tờ Văn Hối Báo, cho tới khi tôi can thiệp, các báo chí ở Bắc Kinh mới tham gia. Đồng chí thấy họ cứng đầu ghê gớm không?
Tôi bối rối, vì tôi vẫn không làm sao hiểu nổi tại sao Hải Thuỵ và Ngô Hàm lại bị phê phán. Dĩ nhiên tôi không thể hiểu được rằng, bài báo của Diêu Văn Nguyên là tiếng súng mở đầu cho một cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản của Mao. Tôi cũng không hiểu, theo lời Mao, ai là kẻ cứng đầu ghê gớm. Mãi đến khi cuộc Cách mang Văn hoá bắt đầu, tôi mới biết rằng ông nói về Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và những đồng chí thân thiết nhất của ông trong ban lãnh đạo đảng và nhà nước.
Tôi vẫn giữ im lặng, cố tìm hiểu nội tình của Mao, hứa với Mao sẽ đọc bài báo của Diêu Văn Nguyên thêm một lần nữa. Mao đưa bài báo cho tôi, nói:
– Phải đấy, đồng chí hãy đọc qua một lượt nữa đi. Sau đó đồng chí hãy cho tôi biết ý kiến.
Tôi tìm cách lái câu chuyện sang đề tài sức khỏe của ông:
– Còn một vấn đề liều lượng dùng thuốc ngủ của Chủ tịch. Chủ tịch đang dùng một liều lượng gấp 10 lần liều lượng thông thường.
Mao hỏi lại:
– Nhiều đến thế sao?
– Đúng vậy. Tôi đã đọc y bạ của Chủ tịch. Với liều lượng thuốc ngủ như vậy có thể làm tổn hại đến sức khỏe của Chủ tịch.
– Theo đồng chí, phải làm sao bây giờ?
– Tôi nghĩ rằng phải giảm liều lượng này càng sớm càng tốt.
Tôi đề nghị dùng hỗn hợp của đường glucose với thuốc an thần nhồi vào những vỏ thuốc con nhộng để làm một loại thuốc tương dương với lượng thuốc ngủ thích hợp. Mao chấp thuận.
Nhưng ông còn cảm thấy một cái gì khác lạ, ông muốn trao đổi thêm:
– Có cái gì đó không bình thường ở nhà khách này. Hình như bị người ta xả khí độc. Tôi không thể ở lại đây lâu hơn được nữa. Đồng chí hãy nói với Trương Diêu Tự, anh ta phải chuẩn bị đi. Chúng ta sẽ lên đường đi Vũ Hán.
Nỗi sợ hãi bị đầu độc của Mao xét bề ngoài cũng không phải hoàn toàn vô lý. Có một lần ngủ trong một biệt thự của Mao, tôi cũng không thể nào ngủ nổi. Không hẳn chỉ vì nó quá rộng rãi và xa hoa, mà vì có một thứ mùi gì đó rất lạ. Một người bạn tôi cũng phát hiện ra một thứ mùi rất đặc biệt, khi ông đến ở một nhà nghỉ của Mao. Đa số các nhà nghỉ của Mao đều nằm ở những địa điểm nóng, ẩm ở miền Nam Trung Quốc và Mao thường nhiều năm mới tới ở một lần. Trong thời gian đó, chúng như những căn nhà hoang không ai ở. Tôi chỉ có thể phỏng đoán, qua nhiều năm như vậy những ngôi nhà bị ẩm mốc. Nhiều người đã chứng minh rằng những người nông dân hầu như quanh năm suốt tháng lao động ngoài trời và cư trú trong những ngôi nhà đơn sơ thường không thể ở nổi trong những ngôi nhà kiểu mới ngày nay, họ sợ bầu không khí ngột ngạt, ẩm mốc.
Chứng hoang tưởng cục bộ của Mao, lần đầu tiên phát hiện ở Mao hồi năm 1958 ở Thành Đô, khi ông tưởng nước ở trong bể bơi bị đầu độc, bây giờ lại gia tăng. Nhưng thứ độc thực sự chính là những mưu toan chính trị trong nội bộ giới lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi phải làm việc thận trọng.
Trước hết, tôi truyền lệnh của Mao cho Trương Diêu Tự chuẩn bị sẵn sàng đi Vũ Hán khi có lệnh lên đường. Sau đó qua đường đây đảm bảo không bị nghe trộm, tôi gọi điện cho Thạch Thụ Hán, Thứ trưởng Bộ y tế để báo cáo với ông về căn bệnh vừa rồi của Mao, nên giải quyết vấn đề dùng thuốc ngủ của Mao như thế nào. Những viên thuốc nói trên phải được điều chế ngay trong Bệnh viện Bắc Kinh.
Thạch Thụ Hán lo lắng. Ông sợ rằng cơn sốt của Mao có thể là một bệnh gì đó nghiêm trọng hơn bệnh phế-quản-phế viêm. Ông ta muốn bàn bạc với Chu Ân Lai, cử một đội chuyên viên tới khám bệnh cho Chủ tịch. Nhưng tôi chắc rằng, cơ thể của Mao đã bình phục trở lại.
Điều mà tôi không yên tâm, vấn đề nghiện thuốc ngủ và nỗi sợ bị đầu độc ở ông. Đâu đâu ông cũng nhìn thấy bọn cùng một giuộc. Nếu các chuyên viên y tế tới khám bệnh, biết đâu ông sẽ nghĩ, tôi đã nói dối ông về bệnh tình hoặc muốn trốn tránh trách nhiệm hay muốn cài gián điệp vào chỗ ông. Tôi đã thuyết phục Thạch Thụ Hán, tốt hơn hết không nên làm gì cả.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [57]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 55

Posted: 12/10/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Cuối tháng 6-1965, vài ngày sau khi tôi viết tóm tắt tổng kết của Chủ tịch lời phát biểu kêu gọi các bác sĩ giỏi đi xuống nông thôn, Mao gọi tôi đến.
– Đấu tranh giai cấp ở nông thôn đang trở nên gay gắt – ông nói – “Chiến dịch minh bạch” sẽ thổi bùng đám cháy rừng đấy. Nhưng tất cả Nhóm Một hãy còn ở đây, như thế là không được.
Mao muốn Uông Đông Hưng chỉ huy một đội của Nhóm Một tham gia chiến dịch học tập cải tạo xã hội chủ nghĩa ở vùng thôn quê hẻo lánh. Thủ trưởng của Uông, Bộ trưởng công an Tạ Phú Trị đứng đầu bộ đã lên đường.

Bây giờ đến lượt chúng tôi.
Chúng tôi cảm thấy chỉ thị của Chủ tịch như một hình phạt. “Chúng ta đã làm điều gì sai sót trong thời gian qua khiến Chủ tịch không hài lòng?” Uông Đông Hưng hỏi, khi tôi báo tin. Điền Gia Anh và tôi đã tin rằng, một đi sẽ không bao giờ trở lại. Mao thường dùng chiêu bài thay thế nhân viên bằng cách tạm chuyển người đó xuống vùng hẻo lánh để “sửa chữa”, sau đó chuyển công tác khác. Chính Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đã phải rời bỏ cương vị công tác từ mùa đông 1960 cũng theo cách này. Chúng tôi e sợ số phận tương tự sẽ dành cho chúng tôi.
Mao muốn toàn bộ Nhóm Một ra đi. Chỉ giữ lại thư ký Hứa Diệp Phụ và thường trực Chu Phúc Minh. Tuy vậy Giang Thanh không phải đi vì trước những khó khăn xảy ra, các thứ bệnh của bà đột nhiên tái phát.
Điền Gia Anh cảm thấy trong sự ra đi của chúng tôi có một cái gì đấy may mắn. Tình hình chính trị ở Bắc Kinh ngày càng căng thẳng. Không ai trong chúng tôi biết cái gì sẽ xảy ra ngày mai, nhưng tất cả sợ chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi chúng tôi. Ít ra, khi chuyện đụng độ phe phái xảy ra, chúng tôi không bị vạ lây. Dù vậy chúng tôi không vui vì chuyến công tác này. Vì Uông Đông Hưng chỉ huy nên đang lo cuống vó. Mao thúc chúng tôi. Cuối cùng Uông quyết định chúng tôi sẽ đến vùng Điền Sơn, quê ông.
Tôi không an tâm, không biết ai sẽ thế chân khi tôi ra đi. Tôi muốn trong thời gian ấy, người chăm sóc sức khỏe Mao là Hoàng Thụ Trạch, một trong số thứ trưởng Bộ y tế. Nhưng Mao vẫn bất bình về hệ thống y tế nông thôn và hoài nghi các đồng nghiệp nên ông kiên quyết không cần bác sĩ riêng.
– Sức khoẻ tôi tốt hơn rồi – Mao khẳng định – Tôi không cần bất kỳ sự chăm sóc sức khoẻ nào cả. Tôi không phải là vua chúa, hễ sổ mũi nhức đầu cần người đo huyết áp và đếm mạch đập. Tôi không cần hệ thống phục dịch sức khoẻ, không cần Hoàng Thụ Trạch. Chỉ cần một y tá là đủ. Nhưng không phải từ bệnh viện Bắc Kinh.
Cô y tá Ngô Tự Tuấn đi trong đoàn chúng tôi. Mao muốn thay thế chỗ cô là một y tá mới từ Quân y viện 301, một bệnh viện quân y hàng đầu của hệ thống y tế của Giải phóng quân.
Bộ Thuỵ Thành, phó giám đốc quân y viện 301, nói nịnh Mao khi ông yêu cầu một cô y tá trong bệnh viện của ông. Bộ Thuỵ Thành thật thà khi tôi đến trao đổi công việc tuyển người, ông bảo: “Chỉ Bệnh viện Bắc Kinh hệ thống y tế mới tốt nhất”. Ông ta nói thật lòng. Ngay bản thân Bộ Thuỵ Thành cũng không được đào tạo bác sĩ một cách bài bản. Ông trưởng thành trong kinh nghiệm từ thời kỳ tham gia Hồng quân.
Bộ Thuỵ Thành yêu cầu tôi phỏng vấn, tự chọn một trong hai cô có kinh nghiệm đã từng phục vụ tướng lĩnh cao cấp. Cả hai đều xứng đáng – một cô kín đáo, e thẹn, cô kia khéo léo, nhã nhặn trong giao tiếp và cởi mở.
Chúng tôi cho Mao xem ảnh 2 y tá, yêu cầu ông quyết một trong hai cô đến với ông. Ông chọn cô gái ăn nói nhẹ nhàng Lưu Thảo Dương. “Cô ta trông dễ coi” – Chủ tịch nói.
Đội công tác của chúng tôi xuống nông thôn vào đầu tháng Bẩy. Trước khi chúng tôi tới Điền Sơn, đã có đội quân lao động học tập chủ nghĩa xã hội ở đó có hơn một trăm người khỏe mạnh. Lực lượng bổ xung gồm các nhân viên Ban bảo vệ trung ương, Sư đoàn của tỉnh đội, Sư đoàn pháo số 2, đảng bộ tỉnh Giang Tây cũng gửi đại diện của mình. Mao cho Lí Nạp theo đoàn, đi cùng với một nhân viên vừa làm nhiệm vụ bảo vệ vừa làm cần vụ.
Quan hệ của tôi với Lí Nạp căng thẳng từ “Hội nghị Bẩy ngàn cán bộ”, khi người ta gọi tôi về Bắc Kinh để khám cho cô. Lí Nạp học khoa sử, Đại học tổng hợp. Tôi tới, con gái Mao bị cảm nặng. Lý Bình, hiệu phó kiêm bí thư đảng uỷ nhà trường báo cáo cho tôi biết. Ông ta và bí thư đảng uỷ khoa Sử, gặp tôi, tỏ vẻ lo âu. Họ là những người lịch sự, luôn mồm xin lỗi đã không mời tôi sớm hơn. Chính họ cũng vừa mới biết về bệnh tật con gái Chủ tịch. Lí Nạp vẫn đang giận dữ. Cô ta tức tại sao tôi không đến sớm hơn, kêu không ai chăm sóc, không ai để ý xem cô ta sống hay chết. Lí Nạp la hét, khóc lối om xòm, tôi cảm giác rằng miệng cô ta không bao giờ đóng cả. Cuối cùng tôi không nhịn được.
– Cô hai mươi mốt tuổi rồi đấy – Tôi át giọng – không phải trẻ con. Cô ốm, cả ban lãnh đạo trường Đại học tới thăm cô. Cô còn muốn gì nữa? Ở Đại học Bắc Kinh có hơn 10 nghìn sinh viên, nếu ai cũng làm như cô, thử hỏi nếu cô là lãnh đạo, cô có thể điều khiển nhà trường được không?
Ngòi lửa của tôi làm cơn giận bùng cháy. Cô hờn dỗi, la hét to hơn trước, hệt như một đứa trẻ lên ba. Lí Nạp vẫn không nguôi, giãy giụa chửi bới khi tôi đẩy cô vào trong xe chở thẳng đến Bệnh viện Bắc Kinh. Trên đường Lí Nạp tiếp tục la thét, cấu xé, như muốn nhảy ra khỏi xe. Cảnh sát đã hai lần chặn xe kiểm tra, tưởng có điều gì bất thường.
Về sau, khi nghe tôi nói lại, Mao tức giận.
– Bệnh viện Bắc Kinh dành cho cán bộ cấp cao – Mao nhắc – Sao lại nhận chữa Lí Nạp?
Tôi giải thích rằng bệnh viện không nhận bệnh nhân bị cảm. Còn đưa cô vào Trung Nam Hải tôi e rằng có thể làm lây bệnh cho Chủ tịch. Bệnh viện Bắc Kinh nhận Lí Nạp vì cô là con gái Chủ tịch.
Mao không muốn con cháu ông được hưởng đặc quyên đặc lợi, bảo tôi lần sau không được chuyển đến Bệnh viện Bắc Kinh. Sau đó ông hỏi Lí Nạp, Lí Minh và Mao Viên Tân ăn ở đâu khi sống trong Trung Nam Hải. Tôi nói, họ ăn ở nhà ăn của ông, bếp trưởng của Chủ tịch lo nấu cho cả họ nữa.
Mao không hài lòng.
– Bảo Uông Đông Hưng từ nay trở đi không cho phép chúng ăn ở bếp của tôi. Chúng phải ăn ở nhà ăn tập thể!
Dù đây là lệnh của Mao, nhưng các con cháu ông nghĩ tôi xúi bẩy. Cả Giang Thanh cũng cáu, nói tôi đối xử với con gái bà thô bạo, vì tôi mà con bé mất đặc quyền. Giang Thanh đòi Mao sa thải tôi. Mao không nghe, nhưng mâu thuẫn về việc này chưa chấm dứt. Khi Mao đề nghị tôi cư xử tốt hơn với Giang Thanh và Lí Nạp, tôi trả lời rằng Lí Nạp rất hư, hỗn hào chả ai có thể làm cô hài lòng, khác hẳn cô chị hiền lành, ngoan ngoãn, có giáo dục. Mao không vui khi tôi nhận xét, dù rằng ông biết đó là sự thật. Giờ đây, chắc muốn chứng tỏ con cái ông không có bất cứ đặc quyền đặc lợi nào, ông cho Lí Nạp xuống nông thôn cùng với chúng tôi. Uông Đông Hưng đành sắp xếp người đi cùng bảo vệ Lí Nạp.
***
Ngay từ lúc bắt đầu, đoàn chúng tôi ở Giang Tây đã nhìn thấy sự sai lầm. Việc gửi các cán bộ nhân viên cao cấp hưởng đặc quyền từ Bắc Kinh ra hiện trường để tiến hành chiến dịch chống sự tha hoá và cổ vũ đấu tranh giai cấp là một điều ngớ ngẩn. Chúng tôi đi hàng nghìn dặm bằng tàu hoả và ô tô, bằng tiền của chính phủ. Chúng tôi sống trong nhà khách, chính phủ trả tiền, ăn uống do quỹ quốc gia trả tiền. Nói khác, con đường của chúng tôi về nông thôn và công việc ở đó tốn không phải ít. Việc đưa hàng trăm nghìn người cày đường nhựa xuống nông thôn rất tốn kém tiền của nhà nước, đặc biệt với “chiến dịch học tập chủ nghĩa xã hội”, trong khi không một ai trong chúng tôi muốn xuống nông thôn, chúng tôi bị đẩy đi, chứ đâu có muốn.
Ở Điền Sơn chúng tôi chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm đến một làng. Sau thất bại Đại nhảy vọt công xã nhân dân tan rã thành những đội sản xuất, y như mỗi làng ngày xưa. Đội bao gồm các tổ sản xuất. Vương Nhiệm Trọng, phó giám đốc Ban bảo vệ trung ương, và tôi phụ trách nhóm đến làng Thạch Tư, cùng với chúng tôi có 2 cán bộ địa phương, Trương Trần Hợi, công an trưởng và Thượng Tạo quận trưởng Điền Sơn. Tôi rất mến và có cảm tình cả hai người. Họ không phàn nàn khó khăn đang gặp, chúng tôi cư xử với nhau rất thân thiết.
Nông dân làng Thạch Tư nghèo nàn lạc hậu đến mức tôi không hình dung được. Tôi hồi hương về Trung Quốc 16 năm trước đây, 11 năm làm việc với Mao. Công việc cho phép cho tôi có điều kiện biết tất cả các tin tức bí mật. Tôi biết rõ sự thiếu thực phẩm và nạn đói, do Đại nhảy vọt gây ra. Tôi biết rằng các làng quê còn rất nghèo. Nhưng những người nông dân làng quê này còn nghèo dưới mức nghèo. Quần áo xác xơ, vá chằng vá đụp. Món ăn của họ khó có thể hình dung nổi, gạo xay lẫn đất cát, đôi khi có cả sỏi đá, với món rau nấu như cám lợn. Nhà của họ thật tồi tàn, một túp lều dột nát, không giường phản. Con đường làng duy nhất nhỏ hẹp, bẩn thỉu, sau mỗi cơn mưa biến thành vũng bùn lầy lội. Làng Thạch Tư không có trường, tôi không nhìn thấy một tờ báo, tạp chí hay một cuốn sách nào cả. Hầu hết người lớn mù chữ, số phận này sẽ tiếp tục truyền cho con cháu đời sau. Trường tiểu học gần nhất làng cách vài cây số, nhưng rất ít trẻ đi học.
Tổ “Bốn minh bạch” chúng tôi quyết định chiếu một bộ phim cũ từ những năm 50. Chúng tôi đặt máy chiếu giữa cánh đồng đã gặt, nơi rộng rãi nhất để cho nhiều người xem. Dân làng xã khác đi bộ hàng tiếng, đường xa vài cây số cũng cố gắng đến. Đây là lần đầu tiên trong đời họ được xem phim.
So với nông dân, mặc dù với điều kiện xuống nông thôn, chúng tôi xem ra vẫn quá giàu sang, ngoài sức tưởng tượng của họ. Để giảm bởi sự ngăn cách, chúng tôi đổi quần áo thành phố lấy những quần vải bông và xà cạp do quân nhu cấp cho. Những người dân thôn quê vẫn ghen tỵ, thèm muốn vì quần áo chúng tôi không có miếng vá.
Khi tôi nói chuyện với một ông già trong làng. Ông sờ sờ, vuốt ve chiếc áo khoác của tôi và nói: “Đây này, nếu như tôi có chiếc áo khoác như thế này, khi ấy tôi tin rằng chủ nghĩa cộng sản đã đến nước ta”.
Chúng tôi là nguồn tò mò không dứt đối với dân làng. Đặc biệt anh chàng Vương Nhiệm Trọng, phó Ban An ninh, thành viên nhóm, làm họ ngạc nhiên. Nông dân trong làng toàn người gày gò ốm đói, còm nhom, trơ xương sườn chưa từng thấy ai to béo, phương phi phì nộn bao giờ, vì thế, mỗi lần Vương béo xuất hiện, người lớn vây quanh hỏi xem ông ăn gì mà béo đến vậy, còn trẻ con rồng rắn chạy theo sau dường như ông là người từ hành tinh khác mới xuống. Những người dân thôn dã không nhớ nổi tên, họ gọi ông là “Phật Di Đà” – một người béo ị.
Theo tư tưởng “Ba cùng” của Mao, chúng tôi phải “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nông dân. Nhưng dân làng lại quá nghèo đến mức không thể nhận khách lạ trong nhà. Tuy rất hiếu khách, nhưng lực bất tòng tâm, họ xếp cho chúng tôi ở trong một nhà kho tồi tàn, xập xệ. Chúng tôi cố gắng kiếm chiếc chõng bằng gỗ, lấy rơm trải thay đệm, lấy quần áo, chăn trải lên trên. Chúng tôi tổ chức bếp ăn riêng, vì đến đây để gột bỏ khỏi đặc quyền, sống như quần chúng lao động, ăn những thứ mà nông dân ăn, nghĩa là gạo xay không giã, thứ gạo “lức” lẫn đất cát.
Chúng tôi lao động trên cánh đồng của 12 gia đình trong tổ. Họ cày cấy gần 50 “mu” đất (9 công mẫu). Ngoài ra, mỗi gia đình được chia mảnh đất nhỏ để trồng rau gia đình. Không có máy móc, không gia súc kéo cày, thiếu cả nông cụ cần thiết. Chúng tôi lao động bằng chân tay, bằng tất cả sức lực như súc vật. Công việc chán ngắt, mệt nhọc, quá vất vả. Đất đai ít, phương pháp canh tác thô sơ, thu hoạch vụ mùa rất thấp. Sau khi đóng thuế nông nghiệp, người nông dân hầu như trắng tay.
Mãi ở nơi xa xôi nào đó, nơi khoa học kỹ thuật phát triển, sức lao động giảm thiểu, năng xuất lại tăng cao, chứ ở đây, trong cái ao tù Giang Tây, nông nghiệp Trung Hoa vẫn thế, không hề thay đổi như đã có hàng ngàn năm để lại. Nói đến Đại nhẩy vọt chỉ là chuyện kỳ cục, vô lý. Tôi không thể hiểu tại sao Trung Quốc không tận dụng sử dụng tất cả khả năng trí tuệ của các nhà khoa học để sản xuất máy nông nghiệp, giảm sức lao động tối thiểu, giúp nông dân thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu như thế này. Khi tôi thú nhận với Uông Đông Hưng không hiểu vì sao lại như vậy, sau 16 năm cách mạng thành công, nhưng đời sống nông dân vẫn khốn khổ, nghèo đói. Uông bảo, nhiều nơi còn nghèo khổ, tồi tệ hơn thế này.
Tôi hiểu, Uông đã nói thật. Biết bao goá phụ trẻ tuổi làng Thạch Tư đã bỏ quê hương An Huy trong nạn đói mấy năm về trước khi chồng con họ chết đói. Tình hình An Huy ngày nay tuy khấm khá hơn, nhưng những goá phụ đó vẫn không trở về. Cuộc sống ở Giang Tây dễ thở hơn ở đây nhiều.
Trong cảnh nghèo nàn này, hoạt động của chúng tôi phải là cổ vũ cuộc đấu tranh giai cấp. Chiến dịch “Bốn minh bạch” đòi hỏi chúng tôi theo dõi, xác định những yếu tố tham nhũng của cán bộ và những người lãnh đạo nông nghiệp, chỉ có thể xảy ra nơi đời sống khấm khá chứ không thể xảy ra ở nơi nghèo khổ được, vì tham nhũng dẫn đến tai hoạ “Ba năm thắt lưng bụng bụng”, người ta cho rằng không phải do chính sách Đại nhẩy vọt gây ra. Nhiệm vụ phải tìm những người lãnh đạo tham lam độc ác cưỡng chiếm sản phẩm do nông dân sản xuất, chiếm dụng tài sản công hữu làm của riêng và lừa dối nông dân cách chấm công điểm trong công xã.
Dĩ nhiên, đó là tham nhũng, bằng chứng không thể chối cãi. Nhưng tìm nó trong đội nghèo đói này lại là điều xuẩn ngốc. Trong nhóm lao động học tập chủ nghĩa xã hội chúng tôi không thể kiểm tra sổ sách. Đội sản xuất này không có sổ sách thu chi, chấm công chia điểm. Người nông dân đảm nhận kế toán lại mù chữ, cũng chẳng biết tại sao phải có sổ sách ghi chép. Đội sản xuất quá nghèo, bà con sống liền kề, biết nhau chân tơ kẽ tóc, biết rõ thu chi của đội, của từng cá nhân, từng gia đình. Dân làng sống và làm việc với nhau bao đời, họ hiểu nhau, vì thế cán bộ xã hay ban chủ nhiệm hợp tác xã có muốn tham nhũng cũng không thể làm được. Người cán bộ quyền chức cao nhất là người chịu trách nhiệm thu thuế nông nghiệp, họ có thể trích số thóc nộp thuế, hoặc gian lận thu trực tiếp nông dân nếu họ có ý đồ. Đấy là cơ hội duy nhất để tham nhũng. Nhưng đội trưởng ở đây không thể kiếm lợi từ tham nhũng, thậm chí nếu anh ta muốn. Làm điều này chỉ có các quan chức cao cấp – công xã, khu, và tỉnh. Chính họ thu hoa quả trong điều kiện họ tạo ra, nhận hối lộ, kiếm lợi. Họ, xét theo bản chất, có quyền lực vô biên – đặt ra mức thuế cho nông dân, bắt nông dân phải làm cái gì mà họ cho rằng có lợi cho bản thân họ.
Đấu tranh giai cấp, theo Mao, vẫn còn tiếp tục, cuộc chiến đấu giữa địa chủ và nông dân nghèo, giữa phong kiến và chủ nghĩa xã hội, giữa tư sản và giai cấp công nhân còn thảm hoạ. Trong thời gian cải cách ruộng đất, ngay sau khi những người cộng sản nắm quyền lực trong nông thôn, tất cả dân làng đều được đeo mác giai cấp. Ai bị người ta gọi là địa chủ và phú nông, đều bị mất tất cả sở hữu tư nhân của mình. Và những người trong gia đình, đều phải chịu sự theo dõi của chính quyền địa phương. Theo như họ nói, thành quả đạt được, địa chủ và phú nông, cả vợ hay chồng cũng như con cái phải đi cải tạo lao động khổ sai. Theo chu kỳ, nhất là ngày lễ lớn, họ tập trung địa chủ và phú nông thành từng nhóm, cán bộ an ninh địa phương hoặc đội trưởng lại lên lớp, lên án những tội ác quá khứ của họ. Cứ mỗi lần xảy ra chuyện không hay, như bệnh lở mồm long móng trâu bò chả hạn, nghiễm nhiên các địa chủ, phú nông lại bị nghi ngờ. Người ta thẩm vấn, điều tra theo dõi họ sát sao.
Có một người nông dân chăm chỉ lao động trong làng, làm việc từ bảnh mắt đến tối mịt bị dán cái nhãn con địa chủ, được chia một mảnh đất cằn cỗi nhất. Ông không bao giờ dám mở miệng kêu ca. Nhưng nghịch lý ở chỗ, thực tế ông không phải con địa chủ. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo trong làng, người cha nghèo khó của ông, để cứu con khỏi chết trong nạn đói, cho ông làm con nuôi địa chủ. Giờ đây ông là con địa chủ, người ta bắt ông làm việc như cu-li, tước hết mọi quyền lợi, khinh bỉ bắt ông chào, gọi dân làng từ bé đến lớn là ông bà. ( Trong CCRĐ ở Việt Nam cũng có tình trạng này - kha duy ) .Trong cái làng nghèo này, ông là người nghèo nhất, khốn khổ nhất, bắt buộc phải ăn đói mặc rét. Thậm chí đến thóc người ta cũng chia cho ông ít hơn người khác. Ông mặc chiếc áo bao tải mà người ta đã quẳng đi.
Cha đẻ của một người được gọi là con địa chủ lại chưa bao giờ có ruộng đất. Nhưng ông nội thì có một mẩu ruộng. Cái mác “con địa chủ” mang tính thừa kế, cha truyền con nối, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đó là cái cùm, con người không thể chạy thoát được.
Chính sách quy kết dán mác cho con cái phải chịu trách nhiệm việc làm tội lỗi của cha ông, truyền hết đời này sang đời khác và đối sử với họ như kẻ phạm tội hoàn toàn bất công. Tôi tin chắc đã đến thời điểm phải thay đổi địa vị của những người đã chịu quá nhiều đau khổ kéo dài. Nhưng người ta phớt lời quan điểm của tôi, không những thế, còn cảnh cáo những hậu quả chính trị có thể xảy ra nếu như người ta biết tôi phát biểu đồng cảm như vậy.
Trong làng người ta biết tôi là bác sĩ Mao, nhưng điều này không che chở gì được cho tôi. “Anh nghĩ, nếu anh chữa chạy cho Chủ tịch, anh có thể nói những điều tốt cho con địa chủ được?” Một trong những dân làng cảnh cáo. “Tôi nói để anh biết, nếu ai đó trong số chúng tôi báo cáo chuyện của anh cho chính phủ, anh có thể dính vào rắc rối nhiều hơn đấy”. Cuộc đấu tranh giai cấp theo kiểu Mao như thế đấy. Mao dạy rằng, đấu tranh giai cấp sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể kéo dài 50 hoặc 100 năm. Cuộc đấu tranh cha truyền con nối không dừng lại ở thế hệ con cái địa chủ, mà còn tiếp tục ở đời cháu, đời chắt cho đến khi đạt được chủ nghĩa cộng sản. Năm 1966 khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, con cái của các vị lãnh đạo cao cấp hớn hở giơ cao khẩu hiệu: “Trứng rồng nở ra rồng; Trứng phượng hoàng nở ra phượng hoàng; Chuột cống sinh ra chuột cống”. Như vậy, họ đã mặc nhiên biến thành những con rồng và phượng hoàng thần thánh trong huyền thoại Trung Quốc. Thân phận con cái địa chủ và phú nông không bằng chuột cống. Tôi và các thành viên trong nhóm bất lực không thể làm thay đổi sự khủng khiếp và bất công thấm sâu trong tư tưởng của vùng nông thôn này.
Sự nghèo khổ cùng cực đang làm hại thôn xã Trung Quốc, sự bất công của cuộc đấu tranh giai cấp, tôi chứng kiến nhưng bất lực đã đè nặng tâm khảm tôi. Tôi cảm thấy rằng sau 16 năm cách mạng, Trung Quốc không tiến một bước nào lên phía trước nói chung. Cuộc sống cùng cực, chính phu tàn bạo dẫn đến thất vọng. Có thể dưới thời Quốc dân đảng cuộc sống cũng tồi tệ, nhưng công việc nặng nhọc luôn luôn được đền bù. Những người nghèo nhưng có năng lực, có khả năng vẫn có điều kiện vươn lên đỉnh cao nhất. Địa vị kinh tế, xã hội của con người không trở thành hòn đá, treo ở mạng sườn ở thế hệ. Con người có lòng tin những điều tốt hơn.
Tham gia chiến dịch học tập cải tạo xã hội chủ nghĩa, tôi cũng học được nhiều điều. Nhưng đó không phải bài học theo ý muốn của Mao. Sự khác biệt về quan điểm, nhận thức của tôi ngày càng tăng lên. Sự bất mãn của tôi đối với đảng cộng sản càng lắng sâu. Trong khi cán bộ cao cấp của đảng ăn uống no say, phè phỡn, sống sa hoa thì người nông dân đời sống xác sơ, vẫn phải cắn răng để tồn tại. Họ càng ngày càng nghèo hơn, bất hạnh hơn cái mà tôi có thể hình dung. Đảng cộng sản đã làm được điều gì tốt cho họ nào? Sự đổi thay to lớn ở nơi nào mà cuộc cách mạng của Mao đã hứa? Nhóm chúng tôi đã đến đây thực ra chỉ làm xấu thêm cuộc đấu tranh giai cấp. Đến để làm gì, ích gì? Chúng tôi sẽ rời làng nay mai, nông dân ở lại thậm chí sẽ nghèo hơn, ngân khố quốc gia bị thâm thủng nhiều hơn.
Sự bất mãn của tôi với chính sách của Mao tăng lên, nhưng tôi vẫn phải im lặng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [56]