30 tháng 3, 2016

Chuyện ít biết về 12 thành viên Tổ tư vấn Thủ tướng

Tác giả: Nguyên Khôi

Tổ tư vấn của Thủ tướng gồm những ai? Công việc của họ thế nào? Đó là những thông tin không phải ai cũng biết. 

——————– 

Kết thúc phiên họp Chính phủ tháng 3.2016, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói chia tay với các thành viên Chính phủ trước khi Quốc hội bầu tân Thủ tướng vào đầu tháng 4 tới. Thủ tướng chúc 15 người nghỉ chính sách cố gắng giữ gìn sức khỏe, tiếp tục đóng góp cho Đảng, cho dân. Thủ tướng đã tặng quà cho tất cả các thành viên Chính phủ (các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan trực thuộc Chính phủ) và tiếp đó là tất cả các thành viên của Tổ tư vấn của Thủ tướng.
 chuyen it biet ve 12 thanh vien to tu van thu tuong hinh anh 1
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3.2016. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Riêng về Tổ tư vấn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: “Đồng chí Trương Đình Tuyển nói với tôi hôm nay Chính phủ chưa phải kết thúc, nhưng về nhiệm vụ thì Tổ tư vấn đã hoàn thành, nên tổ tư vấn cũng xin thôi”.
Tổ tư vấn này gồm những ai? Công việc của họ thế nào? Đó là những thông tin không phải ai cũng biết. Thực tế, theo tìm hiểu của Dân Việt, Tổ tư vấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có 12 chuyên gia ở tất cả các lĩnh vực và một người đặc cách theo dõi tổ này. Tổ tư vấn thường xuyên có các báo cáo đánh giá, tư vấn gửi cho Thủ tướng.
.
Trong số này, có rất nhiều chuyên gia tên tuổi, uy tín và có ảnh hưởng lớn. Đó là TS Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế T.Ư; TS Nguyễn Sỹ Dũng – nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; TS Nguyễn Đức Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (Đại học Quốc gia Hà Nội); TS Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện Kinh tế (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam); ông Trương Đình Tuyển – nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại…
.
“Tổ tư vấn họp 1 tháng 1 lần, vào trước phiên họp Chính phủ thường kỳ 2-3 ngày. Ông Trương Đình Tuyển là nhóm trưởng, là đặc phái viên của Thủ tướng, được Thủ tướng rất tín nhiệm, phụ trách Tổ tư vấn này” – TS Nguyễn Đức Thành, thành viên Tổ tư vấn cho phóng viên Dân Việt biết vào chiều 29.3.
.
Theo TS Nguyễn Đức Thành, trước khi diễn ra phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3, Tổ tư vấn cũng đã họp buổi cuối cùng. Để chia tay tổ, Thủ tướng cũng đã lên lịch gặp và tổ chức một bữa cơm chia tay với các thành viên Tổ tư vấn.
.
Phóng viên Dân Việt hỏi, trong nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng, tư vấn nào cho Thủ tướng của tổ khiến ông tâm đắc nhất, TS Nguyễn Đức Thành cho biết: “Tổ tư vấn thường họp và thống nhất quan điểm, sau đó ông Trương Đình Tuyển thay mặt nhóm chấp bút viết báo cáo của Tổ, gửi cho Thủ tướng trước phiên họp Chính phủ hằng tháng. Nội dung tư vấn có rất nhiều, nhưng tôi cho rằng những điểm mà chúng tôi tâm đắc thì liên quan đến việc quyết tâm duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách hành chính, môi trường kinh doanh, cải cách doanh nghiệp nhà nước, v.v…
.
Nên biết là có giai đoạn nền kinh tế của Việt Nam nguy cơ vào trạng thái bất ổn, tăng trưởng kinh tế cao nhưng thiếu sự ổn định. Tổ tư vấn thường có các khuyến nghị chi tiết về các vấn đề liên quan đến những giải pháp vĩ mô, tài chính, điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ… Nhưng tôi cho rằng, kết quả thực sự đến từ quyết tâm của chính Thủ tướng và các Bộ trưởng, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan, trong nhiệm kỳ vừa rồi, đã đưa nền kinh tế dần đi vào ổn định”.
.
Hỏi về những dự định khi chia tay Tổ Tư vấn, TS Nguyễn Đức Thành chia sẻ: “Tân Thủ tướng (được Quốc hội phê chuẩn vào đầu tháng 4 tới) sẽ có lựa chọn và thành lập một Tổ tư vấn cho riêng ông. Tân Thủ tướng có thể mời người đã từng tham gia Tổ tư vấn trước đây, và cả những thành viên mới. Cái đó phụ thuộc vào quyết định của tân Thủ tướng. Đến thời điểm này, tôi cho rằng, Tổ tư vấn chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Kể cả việc không còn làm thành viên của Tổ tư vấn, nhưng trên cương vị của mình, mỗi cá nhân trong tổ vẫn sẽ cố gắng đóng góp hết sức mình cho sự phát triển của đất nước”.
.
Được biết, vào năm 1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có quyết định thành lập Tổ chuyên gia tư vấn cải cách kinh tế và cải cách hành chính. Tổ này có nhiệm vụ lập hoặc góp ý kiến về chương trình nghiên cứu cải cách kinh tế, cải cách hành chính để Thủ tướng duyệt và giao nhiệm vụ cho các cơ quan thực hiện. Ngoài ra, Tổ còn góp ý kiến phản biện các đề án, các dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định và chính sách về cải cách kinh tế và cải cách hành chính do các cơ quan chức năng của Chính phủ soạn thảo trình Thủ tướng…
.
Thời điểm đó, Tổ này có 10 thành viên, trong đó Tổ trưởng là ông Lê Xuân Trinh – Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; Tổ phó là ông Trần Đức Nguyên – Trợ lý Phó Thủ tướng Phan Văn Khải. Các thành viên có các chuyên gia Lê Đăng Doanh, Trần Việt Phương, Lê Đức Thúy, Nguyễn Trung, Vũ Quốc Tuấn, Đào Công Tiến…
.
Đến năm 1996, Tổ tư vấn cải cách được tổ chức lại thành Tổ nghiên cứu đổi mới kinh tế, xã hội và hành chính (gọi tắt là “Tổ nghiên cứu đổi mới”). Ông Trần Đức Nguyên được bổ nhiệm làm Tổ trưởng Tổ nghiên cứu đổi mới.
.
Đến ngày 30.5.1998, Thủ tướng Phan Văn Khải nâng cấp Tổ nghiên cứu đổi mới thành Ban Nghiên cứu của Thủ tướng. Ông Trần Đức Nguyên được cử làm Trưởng ban và giữ cương vị này cho đến khi nghỉ hưu vào đầu năm 2003. Người kế nhiệm ông Nguyên trong cương vị Trưởng ban là nguyên Bộ trưởng Bộ KHĐT Trần Xuân Giá…
.
Danh sách Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (các chức danh tương ứng với thời gian đang tham gia Tổ trong nhiệm kỳ 2011-2016 của Thủ tướng):
Ông Trương Đình Tuyển (Đặc phái viên Kinh tế của Thủ tướng, Trưởng nhóm/Tổ trưởng)
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng (Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam)
TS Vũ Viết Ngoạn (Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia)
TS Cao Viết Sinh (Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
TS Nguyễn Sỹ Dũng (Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội)
TS Nguyễn Đình Cung (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
TS Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam)
TS Đặng Kim Sơn (Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT)
TS Võ Trí Thành (Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
GS.TSKH Nguyễn Quang Thái (Tổng thư ký kiêm Phó Chủ tịch thường trực Hội Kinh tế Việt Nam)
TS Trần Du Lịch (Đại biểu Quốc hội, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế TP.HCM)
TS Lê Xuân Nghĩa (Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, sau đó là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh)
TS Nguyễn Đức Thành (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội).
————-

Gieo vần Facebook (#2): Tháng Ba - hoa gạo


Bến sông mùa trở gió 
Tháng ba khắc khoải chờ 
Nàng Bân ngồi đan áo 
Dệt tình yêu vào thơ 

Bao năm rồi vẫn nhớ 
Ngày em đi lấy chồng 
Bến sông chiều đỏ ứa 
Hoa gạo buồn mênh mông 

                                                                                     Qua rồi một mùa đông 
                                                                                     Ngỡ tình yêu chớm nở 
                                                                                     Tháng ba như bão giông 
                                                                                     Mộng tình đầu tan vỡ. 
                                                                                     (16.3.16

*** 
Tháng ba tan vỡ mối tình 
Để hoa gạo khóc một mình bên sông 
Ngày nào hết nhớ lại mong 
Ngẫn ngơ bến vắng chờ trông một người 

Thế rồi mỗi đứa một nơi 
Từ ngày em bỏ lại tôi theo chồng 
Ai đưa con sáo sang sông 
Cả chiều đỏ ứa một dòng xác hoa. 
(12.3.16

***



Trưa đem nắng đổ ra đường 
Vẫn xuân mà thấy phố phường lặng thinh 
Vài con sẻ nhỏ đầu Dinh 
Núp trong vòm lá tỏ tình với nhau 

Bằng lăng chưa hé nụ đầu 
Tháng ba mới chỉ chấm câu đợi hè 
Còn lâu mới có tiếng ve 
Vậy mà nắng đã mang hè đi chơi. 
(01.03.16

*** 
Chông chênh một thoáng giao mùa 
Để cho phố bỗng thấy thừa cả trưa 
Chợt thèm nghe tiếng chèo đưa 
Của cô áo tím thủa chưa lấy chồng 

Ước gì bỏ phố về sông 
Bỏ phồn hoa để trải lòng mù u 
Để say đắm một lời ru 
Để không trống vắng một trưa giao mùa. 
(29.02.16

© 2016 Baron Trịnh
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet

29 tháng 3, 2016

Trương Quả Lão tiên đoán thế sự nhân loại ngày nay từ 1.000 năm trước 


“Người xưa nói ‘nhân tâm đảo lộn, đạo trời không dung’. Tám chữ đó của cổ nhân đúng là lời chú thích chính xác cho thời kỳ này”. Từ 1.000 năm trước, Trương Quả Lão đã tiên đoán thế sự nhân loại ngày nay như vậy.

Trương Quả lão, tiên đoán, dự ngôn, Bài chọn lọc,
Trương Quả Lão là một trong số 8 vị tiên của Đạo giáo
Trương Quả Lão còn có tên là Trương Quả, là một trong số 8 vị tiên của Đạo giáo, nhờ tu Đạo mà trở thành tiên. Ông là nhân vật có thật trong lịch sử.
Những năm cuối triều đại nhà Đường (618-907), Trương Quả Lão và Trương Thiên Sư tới gặp vua Linh Quan, trong buổi nói chuyện đã có đoạn khẳng khái dự đoán đến cảnh thế sự ngày nay.
Trương Quả Lão nói rằng 1.000 năm sau: “Quan không lo việc nước, chỉ biết nhận hối lộ, cứ hối lộ là giải quyết được mọi việc, đút lót cả ban ngày ban mặt, chính là trở thành ma quỷ bóc lột nhân dân. Thiên hạ trở nên vô đạo, phóng túng tình dục, người người chỉ lo cầu lợi cho mình, không kể gì đến liêm sỉ lễ nghĩa”.
Hiện nay, những sự tình này đều đã xuất hiện, trong các bài báo tin tức hàng ngày đều thấy các chuyện tham ô, hủ bại, khiêu dâm, chính là cảnh tượng bại hoại của thời mạt thế.
Trương Quả Lão trong dự ngôn thời mạt thế đã phân tích cụ thể như sau:
“Từ thực chất mà nói, con người thời mạt thế làm hại lẫn nhau, có thể đổi mạng người khác vì cuộc sống của mình, khắp nơi trong thiên hạ bất ổn, chiến tranh liên miên, có thể gọi là đại loạn, không lời nào diễn tả hết. Nhân thế như vậy, sự hỗn loạn ở thiên hạ trở nên bại hoại chủ yếu là do nhân tâm không còn, con người trở thành những con quỷ trong bộ da mới, đó mới thực sự là đại loạn kinh hoàng. Người xưa nói ‘nhân tâm đảo lộn, đạo trời không dung’. Tám chữ đó của cổ nhân đúng là lời chú thích chính xác cho thời kỳ này. Nhân thế loạn đến mức này ắt sẽ bị trừng trị, những linh hồn bất hảo sẽ bị đày xuống quỷ giới”.
Những thời kỳ loạn thế trong lịch sử hoàn toàn không phải loạn, nó chẳng qua chỉ là rối ren về chiến sự, khi kết thúc là thanh bình. Trong khi đó, cảnh đại loạn ngày nay là vì nhân tâm không còn, người hóa thành quỷ. Chính là lúc “nhân tâm đảo lộn, đạo trời không dung” mới thực sự là loạn thế mà trong dự ngôn của Trương Quả Lão nhắc tới.
Trương Quả lão, tiên đoán, dự ngôn, Bài chọn lọc,
Hình ảnh Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược, có hàm ý rằng tiến về phía trước chính là thụt lùi.
Trong cuốn Bát tiên đắc Đạo truyện có viết:
Trương Quả Lão nhìn Nhị Linh Quan cười nói: “Người tài có thể nghe mà hiểu rõ. Nhị Công sở nói quỷ thế ngập trời, con người sẽ giống như ác quỷ, lời nói này nghe thật kinh hãi, kỳ thực tương lai chắc chắn sẽ có ngày như thế, bất quá chỉ đến sau 1.000 năm nữa mà thôi”.
Về cơ bản, có thiện thì có ác, cũng là có âm thì có dương. Từ thủơ sơ khai còn hỗn độn, con người đều rất tự nhiên chất phác, không có xảo trá, đều là người lương thiện. Cho đến hậu thế sau này, thì con người càng ngày càng trở nên xảo trá, mỗi ngày một ghê gớm hơn, nhân tâm đời này qua đời khác nguội lạnh đi từng ngày. Đến lúc này đây là như băng giá, cũng là lúc dương khí thế gian suy kiệt, âm khí đang ở thời kỳ thịnh vượng.  Nhị công sở nói đó chính là lúc quỷ thế ngập trời.
Quỷ là thuộc về chí âm, con người trở nên quỷ quái, tất cả đều là đê tiện xấu xa và gian hiểm, giảo hoạt như những tên trộm. Trên thì quan không lo việc nước, chỉ biết nhận hối lộ. Cứ hối lộ là giải quyết được mọi việc, đút lót cả ban ngày ban mặt, chính là trở thành ma quỷ bóc lột nhân dân. Thiên hạ trở nên vô đạo, phóng túng tình dục, người người chỉ lo cầu lợi cho mình, không kể gì đến liêm sỉ lễ nghĩa. Con người tiến gần đến với quỷ mà không biết, tùy ý mà phá rối, tuyệt nhiên không ai ngăn cản được. Đó gọi là tâm địa của quỷ, lòng dạ của quỷ, mưu mô của quỷ, suy nghĩ của quỷ, tương lai từng việc từng việc sẽ bộc lộ ra. Cuối cùng là người và quỷ không còn khác biệt, vũ trụ to lớn hoàn toàn trở thành quỷ giới, nhưng đây đều là việc tương lai.
Kẻ bần đạo ước chừng trong khoảng 1.500 năm nữa, nhìn chung cảnh tưởng như thế sẽ tới. Hôm nay mà nói về nó thì hãy còn quá sớm mà thôi”.
Thiên Sư nghe xong, cười nói: “Bạn cũ đường xa đến thăm hỏi kỳ thực ra là muốn được nghe chia sẻ”. Nghe xong Trương Quả Lão lại nở nụ cười và nói: “Lời này mọi người hôm nay nghe xong chắc đều cho rằng ta nói hơi quá. Nhưng ta quả quyết đó không phải là những tuyên bố vui đùa, thật sự là tương lai nhất định có ngày đó. Hết thảy trời đất đều thuận theo Đạo, không ngoài hai chữ âm dương. Dương thịnh thì âm suy, âm thịnh thì dương cũng ngừng. Các triều đại ngày xưa cũng vậy, lúc ổn định lúc loạn lạc, lúc thịnh lúc suy, chính là đạo lý này.
Nhân thế loạn đến mức như vậy cũng là lúc những người tốt bị hãm hại, bị chà đạp đại diện cho dương khí của thời loạn thế, còn quỷ giới chính là âm khí của thời này. Trong đó phần dương khí ban đầu đã chuyển thành âm khí, trung gian chẳng thể tính là đã kinh qua mấy nghìn mấy vạn năm. Đến thời kỳ đỉnh điểm của đại loạn này thì chỉ còn âm khí. Dương khí suy kiệt, âm dương đảo lộn như thế so với từ cổ chí kim là hoàn toàn khác hẳn. Thái cực dương vốn lương thiện dù biểu hiện ra bên ngoài thì vẫn còn hào nhoáng đẹp đẽ, nhưng bên trong đã mục rỗng, cảnh tượng khó diễn tả hết bằng lời. Thái cực âm trở nên hỗn độn, vừa rối loạn vừa điên đảo, mơ hồ, không định rõ là gì, chỉ có chướng khí mịt mù. Nhân tâm thế gian lúc này đây có thể coi là cực loạn.
Cái loạn bắt nguồn trong nhân tâm mà không phải ở sự việc bề ngoài nữa. Đó gọi là loạn từ căn bản nhất, không phải là sự loạn nhỏ nhoi nhất thời, không có gì loạn bằng. Thời kỳ con người lương thiện như lúc thượng cổ đã qua, lúc này đây chính là thời kỳ đại loạn.
Từ lúc này về sau, thiên địa chắc chắn hợp lại làm một. Phải chờ đến một giai đoạn khai sáng mới, khôi phục lại bản tính thiện trong con người, để lại bắt đầu một kỷ nguyên mới. Đạo trời chính là như thế, không thuận có được chăng? Dù có trí tuệ to lớn như  Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Vương Mẫu Nương Nương, Tây Phương Phật Hòa Đông Phương Sóc, cũng không thể nào cứu vãn được sự biến hóa nhân tâm lúc này”.
Thiên Sư và Linh Quan nghe xong lấy làm kinh ngạc không thôi.
Theo Daikynguyenvn

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 52

Posted: 05/10/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng 29-9-1962, hai năm sau khi hội nghị lần thứ 9. Lý do, gặp vợ tổng thống Indonessia Sukarno. Những bức ảnh về sự kiện này, bức ảnh đầu tiên về vợ Mao trên báo chí xuất hiện trên tờ “Nhân dân Nhật báo” ngày hôm sau. Khi Mao bắt tay vợ Sukarno, Giang Thanh, trong bộ âu phục trang nhã phương tây, đứng giữa, cười tươi, trong khi vợ Chu Ân Lai – Đặng Dĩnh Siêu đứng đằng sau. Tờ Nhân dân Nhật báo cũng đăng một số ảnh về Vương Quang Mỹ. Là người đứng đầu nhà nước trong buổi đón tiếp, Lưu Thiếu Kỳ cần phải đón tiếp Sukarno phu nhân ở sân bay. Uông tháp tùng vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ ra sân bay đón tổng thống Indonessia và phu nhân.

Sự xuất hiện công khai của Giang Thanh gây sự chú ý của đông đảo tầng lớp nhân dân. Điều này vi phạm sự cấm kỵ từ lâu không cho phép Giang Thanh dính vào chính trị. Nhưng với Vương Quang Mỹ lại khác, nghi lễ đòi hỏi sự có mặt của Chủ tịch phu nhân. Thực tế, sự xuất hiện của Giang Thanh có nghĩa vai trò hoạt động chính trị của bà bắt đầu. Giới văn hoá và nghệ thuật Trung Quốc chẳng bao lâu rơi vào tay bà. Như thế, chính văn hoá và nghệ thuật đã được đưa lên sân khấu từ cuộc “Cách mạng văn hoá vô sản vĩ đại” phát động.
Vai trò mới của Giang Thanh thoạt đầu làm cho cuộc sống của tôi dễ chịu hơn. Bà càng dính sâu vào chính trị, chứng ảo tưởng và chứng suy nhược thần kinh càng bớt. Tôi hiếm nghe thấy những lời phàn nàn hay các cuộc cãi cọ giữa bà và các cô y tá.
Nhưng Giang Thanh vẫn còn căm tôi, quyền lực chính trị cho bà điều kiện, phương tiện mới để trả thù. Cuộc trả thù đầu tiên của Giang Thanh xảy ra đầu năm 1963.
Tôi biết nhà hát kinh kịch Bắc Kinh mới cải biên và dựng lại vở “Hồng Mai”, thời trẻ tôi rất thích, bây giờ vở kinh kịch này đổi tên “Lý Huy Nhân”. Những người hoạt động văn hoá và nghệ thuật, bao gồm cả Điền Hãn, một trong số kịch tác gia hàng đầu Trung Quốc, viết những bài báo ca ngợi vở kịch, trong đó một phụ nữ trẻ đẹp thiết tha trả thù cho cuộc sống bị áp bức của mình. Liêu Mạt Sa, giám đốc Phòng văn hoá tổng hợp Bác kinh, bút danh Phạm Thắng ca ngợi vở kịch, xác nhận chẳng có gì sai lầm khi vở kịch thể hiện vai ma quỷ.
Tôi xem vở “Hồng Mai” lần cuối cùng từ khi còn nhỏ và ký ức của tôi về nội dung đã phai mờ nhiều. Tôi nhớ mang máng có cảnh hồn ma cô gái đẹp nhảy múa duyên dáng trong bộ quần áo lụa trắng trong suốt. Là người say mê kinh kịch Bắc Kinh, tôi muốn xem vở dàn dựng mới. Nhưng công việc với Mao không dành cho tôi thời gian.
Tại đây có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, một đêm, Mao nói chuyện với tôi về vở kịch. Mao không thấy thích thú vở kịch vì lẽ trong đó có nhiều phụ nữ trẻ đẹp, đối với kinh kịch, nam diễn viên đóng thế thường trung niên mới hay. Nhưng tôi nhớ trong vở Lý Huy Nhân có cả nam nữ diễn viên lớn tuổi tham gia. Tôi nói rằng Mao nên thưởng thức những cảnh các nghệ sĩ trẻ đẹp lượn lờ dọc sân khấu, gợi ý ông xem xét vở này này.
Mao đồng ý:
– Hãy bảo họ diễn ở đây, trong Hội trường Hoài Nhân, khu Trung Nam Hải, như thế tất cả chúng ta có thể xem. Bảo Uông Đông Hưng thu xếp buổi diễn.
Buổi diễn trở thành sự kiện ở Trung Nam Hải. Bởi vì chính Mao đặt diễn vở, tất cả những nhà lãnh đạo cao cấp kéo đến hội trường. Thậm chí Lý Liên cũng đến xem cùng chúng tôi.
Giữa buổi diễn, ngồi ngay phía sau Mao, tôi đột nhiên hiểu rằng mình đã phạm sai lầm kinh khủng. Nói chung tôi đã không nhớ cốt truyện. Cao điểm của vở kịch đạt được khi tể tướng Nhà Thương, Giả Thạch Đảo, một lão già, từ thuyền trên Hồ Tây ở Hàng Châu – một nơi Mao thích – ngắm nhìn đoàn kỹ nữ múa hát. Nhiều tỳ thiếp trẻ của Giả Thạch Đảo vây quanh ông ta. Họ theo dõi người đẹp Lý Huy Nhân, một trong số tì thiếp yêu của Tể tướng, chợt thấy anh học trò nghèo, cô thốt lên sự ngưỡng mộ: “Chao ôi, sao chàng điển trai đến vậy!” Giả Thạch Đảo nghe thấy, ông giận điên người, ra lệnh xử tử người ái thiếp. Màn kịch, tôi còn nhớ, người tỳ thiếp từ cõi chết – hồn ma – hiện về báo thù kẻ vừa là tình nhân vừa là kẻ thù.
Chính thời điểm này, khi cô tì thiếp xinh đẹp thốt lên về sự ngưỡng mộ chàng trai trẻ, thái độ Mao đột ngột thay đổi. Ngoại trừ đôi khi nổi giận bất thường, ông hiếm khi cho phép mình công khai thể hiện sự không hài lòng trước công chúng. Nhưng tôi quá hiểu ông, không cần nhiều lời, chỉ những thể hiện vẻ mặt bên ngoài – môi cong, mi mắt nâng lên, người cứng đờ ra… tôi hiểu, vở kịch vô tình đã lăng mạ ông. Vở kịch gần như công khai bóng gió đến cái gì đang xảy ra trong cung điện, những chàng trai ve vãn các tỳ thiếp xinh đẹp của Mao. Vở kịch gợi lại việc “người cầm lái vĩ đại” từ chối cho một trong những cô nhân tình của mình đi lấy chồng, chàng trai trẻ cô yêu. Cô gái ấy đã gào lên, buộc tội lãnh tụ mang tính cách của kẻ tư sản.
Buổi diễn kết thúc, rèm sân khấu buông xuống, trong phòng vang lên tiếng vỗ tay hoan hô, Mao đứng dậy, vẻ buồn rầu, nhăn nhó, phẩy tay 3, 4 cái rồi bỏ đi. Thông thường sau buổi diễn, ông lên chúc mừng nồng nhiệt, cám ơn các nghệ sĩ, hôm nay không thế, ông lẳng lặng bỏ về. Ý định của tôi giải khuây cho ông, không ngờ lại kết thúc một cách thảm hại.
Tôi biết ông sẽ cáu tôi và dĩ nhiên tìm cách trả thù.
Ngay sau đó, một tờ báo hàng đầu của Thượng Hải, “Văn Hối Báo”, bắt đầu in những bài phê bình tác giả vở kịch và Liêu Mạt Sa – một trong số những nhà phê bình ca ngợi vở kịch. Tờ báo đánh giá vở kịch sai lầm về tư tưởng, đấu tranh giai cấp. Sau đó chính phủ ra lệnh cấm tất cả các vở kinh kịch và kịch sân khấu đề cập tới hồn và bóng ma. Mao bắt đầu phê bình Bộ văn hoá về khuyết điểm lãnh đạo nhà hát, gọi bộ này ”phục vụ bọn vua chúa, quan lại, thanh niên nam nữ đú đởn và bọn ngoại bang đáng ghét”. Bỗng nhiên vở kinh kịch, tôi cho vô thưởng vô phạt về nội dung, có nhiều cảnh đẹp, không ngờ trở thành một vấn đề tư tưởng, chính trị nghiêm trọng trong cuộc đấu tranh giai cấp mới ở Trung Hoa do cách giải thích của Mao.
Sau vài tháng, người ta chưa lôi tôi vào cuộc đấu tranh này. Nhưng rồi một hôm Uông Đông Hưng gặp tôi, bảo:
– Nguy rồi, Giang Thanh cho rằng “Lý Huy Nhân” là vở kịch rất xấu, loài cỏ độc nguy hại. Bà ấy nói rằng vở kịch bóng ma truyên truyền mê tín dị đoan. Giang Thanh biết Mao chẳng muốn xem vở kịch, nhưng chắc ai đó đã khuyên Mao điều này. Chẳng có một nhà lãnh đạo cao cấp hay bí thư Trần Bá Đạt có liên quan đến việc này. Người thích kinh kịch Bắc Kinh trong chúng ta chỉ có anh thôi. Giang Thanh biết Mao thường nói với anh về mọi thứ có thể. Thế là phải chờ tai hoạ…
Nhưng Giang Thanh chưa bao giờ nhớ đến tên tôi.
Có lẽ, Mao che tôi. Dĩ nhiên, không phải theo tình bạn, mà vì ông cần tôi, bác sĩ y khoa. Khi Giang Thanh hỏi ai đề nghị diễn vở kịch ở gian Hoài Nhân, Mao trả lời rằng không nhớ. Uông Đông Hưng cũng bảo vệ tôi, nói, ông chỉ tuân lệnh tổ chức buổi diễn, ý kiến của ai, ông không quan tâm. Ngoài ra, ông chẳng biết tí gì về vở kịch – cái gì xấu, cái gì tốt.
Nhưng Giang Thanh không nhượng bộ. Bà ra lệnh cho Uông Đông Hưng tìm ra kẻ khởi xướng.
– Giang Thanh muốn tống cổ anh đấy – Uông nhắc tôi – Bà ta kiếm cớ từ đã lâu, giờ đây đã tìm thấy cơ hội. Giang Thanh chưa buông tha đâu, chừng nào chưa gắn cho anh cái mác “hữu khuynh”.
Uông Đông Hưng và tôi quyết định nói chuyện với Mao, đề nghị Mao nói với Giang, chính ông quyết định muốn xem vở kinh kịch, sau khi bài ca ngợi của Điền Hãn. Mao đồng ý. Uông Đông Hưng đưa Giang Thanh bài báo này.
Vợ Chủ tịch tha cho tôi. Nhưng nước cờ của chúng tôi đem lại tai hoạ cho Điền Hãn. Bây giờ Giang Thanh nhận được lý do để loại bỏ ông.
– Đây rồi, người này trong văn hoá và nghệ thuật, đứng đằng sau vở diễn – bà nói với tôi, khi đọc qua bài báo – Tuyệt! Chúng ta để bọn quỷ lộ mặt rồi chúng ta tóm cổ bọn chúng. Họ không thoát khỏi tay chúng ta đâu.
Giang Thanh đi Thượng Hải, với Kha Thanh Thế, đồng minh của bà, vạch kế hoạch chiến lược tấn công văn học nghệ thuật Trung Hoa hiện đại.
Nhưng Giang Thanh không bỏ lỡ cơ hội một lần nữa cố gắng “lột vỏ” xơi tôi.
– Anh cũng xem vở “Lý Huy Nhân” diễn ở đây, có phải không? – Giang Thanh hỏi tôi trước khi đi – Anh có thích vở ấy không?
– Vở kịch có từ xa xưa – Tôi trả lời, thoái thác – Đây là sự tưởng tượng. Nó tương tự vở kịch cách mạng “Bạch Mao Nữ”. Họ đều là cô gái trẻ bị bọn địa chủ, cường hào bóc lột.
Giang Thanh xem ý kiến của tôi là lạ lùng và ngạc nhiên so sánh hai vở kịch giống nhau. Tôi giải thích rằng cả hai câu chuyện đều kể về những phụ nữ bị áp bức, đều cố gắng trả thù cho chính bản thân họ. Bạch Mao Nữ trong vở kịch hãy còn sống, đau khổ, tàn tạ như hồn ma. Lý Huy Nhân trở thành hồn ma ngay sau khi chết do tra tấn.
Giang Thanh cho rằng tôi nói nhảm nhí.
– Hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau – Giang Thanh dứt khoát – Các cuộc nói chuyện về hồn và bóng ma khuyến khích mê tín dị đoan. Hoàn toàn không có lợi cho dân chúng.
Tôi biện bạch:
– Nhưng kinh kịch là nghệ thuật sân khấu. Hồn ma là sự tưởng tượng của tác giả. Trong vở kịch “Hamlet” của Shakespeare cũng có hồn ma đấy thôi. Chẳng lẽ có thể xem “Hamlet” truyền bá mê tín dị đoan?
Giang Thanh lắc đầu không đồng ý.
Đối với Giang Thanh, hồn ma là mê tín dị đoan, là sự thể hiện mâu thuẫn giai cấp. Shakespeare chết từ đời nảo đời nào. Ông là người Anh, vở kịch của một người nước ngoài đã chết từ lâu không thể phản ánh đúng và không phải là tiến bộ.
– Hồn ma trong kịch Shakespeare, nói chung không có nghĩa là chúng ta cũng phải có hồn ma. – Giang Thanh cắt ngang – Chủ tịch phát hiện ra một lượng lớn các vấn đề trong văn hoá, nghệ thuật, các vấn đề ấy chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp nghiêm trọng. Anh cần phải chú ý nhiều đến lời tôi.
Đối với Giang Thanh tôi là người khá bảo thủ, chịu ảnh hưởng nặng quá khứ tư sản. Cứ cố tranh cãi với bà, tôi biết sẽ bị dán mác tả khuynh. Tình hình này làm tôi chợt tỉnh. Tôi 43 tuổi, tóc của tôi từ chỗ còn đen, nay đã điểm bạc. Ở Nhóm Một tôi đã học được tính cẩn thận. Tôi cần phải cố sống, bằng mọi cách giữ mồm giữ miệng, phải biết im lặng.
***
Ở Thượng Hải Giang Thanh thử vai trò mới của mình theo dõi về văn hoá nghệ thuật. Kha Thanh Thế rất trung thành với Mao, cố gắng tìm mọi cách giúp đỡ Chủ tịch phu nhân. Kha Thanh Thế giới thiệu bà với Trương Xuân Kiều phụ trách tuyên huấn Thượng Hải. Giang Thanh rất bận rộn với công việc, thăm nhà hát kinh kịch, hoà nhạc, đoàn văn công, ban nhạc và dàn giao hưởng.
– Tôi là người lính trơn, lính canh của Chủ tịch trên mặt trận tư tưởng – Giang Thanh nói cho tất cả những ai có mặt ở đó – Tôi là người kiểm tra, theo dõi và thông báo cho Chủ tịch những gì tôi phát hiện ra.
Cái mà bà ta phát hiện ra, chẳng có gì đáng ngạc nhiên, văn học nghệ thuật chứa đầy sự thối nát của chủ nghĩa tư bản vẫn phá hoại ngầm do quá khứ để lại như người ta đã từng đánh giá.
Ngày 12 tháng 12 năm 1963 Mao đề nghị tôi đọc qua một trong số những nghiên cứu của Giang Thanh về văn hoá Trung Hoa – những bài báo mà Kha Thanh Thế gửi cho ông và gọi là “Những báo cáo kết luận chính thức về những thay đổi cách mạng trong ca nhạc và kịch Thượng Hải”. Mao viết bình luận cho tài liệu này.
– Nhìn xem – Mao nói – Chúng ta đặt nền móng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế, nhưng thượng tầng kiến trúc – văn hoá và nghệ thuật – gần như không thay đổi. Những người đã chết về linh hồn vẫn đang nắm văn hoá và nghệ thuật. Chúng ta cần phải ca ngợi những thành tựu của chúng ta trong phim ảnh, nhạc, hoạ, dân ca, nghệ thuật và tiểu thuyết, nhưng ngược lại, họ lại hạ thấp thành tựu ấy đi. Vấn đề là ở chỗ đó, đang hiện hữu. Đặc biệt nghiêm trọng, những vấn đề ấy chiếm trong lĩnh vực nhà hát. Chúng ta cần phải nghiên cứu chúng nghiêm túc. Thậm chí đảng viên còn hăng hái vỗ tay hoan nghênh nghệ thuật tư bản và phong kiến, phớt lờ nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Thật là ngu xuẩn.
Vài tháng sau, Mao hướng bực tức của mình trực tiếp chống Hội Liên hiệp Văn hoá và Nghệ thuật Trung Quốc. “Trong thời gian 15 năm gần đây, các tổ chức của nó và các tạp chí do Hội Liên hiệp lãnh đạo đã không thực hiện chính sách của đảng – Mao nói – Họ chỉ tác động như những người bề trên, do dự tiếp cận với công nhân, nông dân, quân đội. Họ không phản ánh cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tác phẩm, đi theo hướng của chủ nghĩa xét lại. Nếu những tổ chức này hoàn toàn không cải tổ, một ngày gần đây nó trở thành Câu lạc bộ Petôfi ở Hungary”.
Khi công nhân trẻ Hungary năm 1954 lập ra Câu lạc bộ Petôfi, chủ trương đòi hỏi tự do và dân chủ hơn nữa, ban đầu chính phủ xem tổ chức này trung thành với nhà nước. Hai năm sau, 1956, chính phủ ra tay đàn áp không thương tiếc. Hiểu điều này, Mao đã lên kế hoạch riêng của mình ngăn chặn những người ly khai ở Trung Quốc trước khi họ nghĩ đến phản kháng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [53]