21 tháng 3, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 22

Posted: 25/07/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [21], [22]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh đã thành cả một vấn đề rắc rối cho tôi. Tháng Tư trước khi Mao gọi tôi về không lâu, Giang Thanh từ Liên Xô trở về, ở lại Thanh Đảo với chúng tôi. Việc trị xạ bằng tia Cobalt 60 đã thành công, nhưng từ khi bị căn bệnh ung thư này, càng ngày càng bẳn tính. Chưa đầy hai ngày sau, đã đuổi hết đám tuỳ tùng của Mao ra khỏi lâu đài, vì bà không chịu nổi sự ồn ào do chúng tôi gây ra. Ngay cả tiếng giật nước trong cầu tiêu cũng khó chịu, bà chất vấn: “Ở đây ai cần nghỉ ngơi, các đồng chí hay tôi?”

Bà vẫn có hai bác sĩ phụ khoa chăm sóc. Tuy nhiên, từ cuối năm 1956 khi Hứa Đạo ra đi, không còn bác sĩ nội khoa nào chăm sóc bà, vì thế yêu cầu tôi. Tôi rất ngại, lấy cớ, nhiệm vụ của tôi chăm lo sức khỏe cho Chủ tịch, lại thường phải đi tháp tùng trong khi bà ít khi đi theo. Giang Thanh hiểu, nhưng vẫn yêu cầu tôi chăm sóc sức khỏe nếu cả hai gần nhau, nói:
– Thỉnh thoảng tôi mới cần đến đồng chí. Khi nào đồng chí không có ở đây, y tá của tôi có thể gọi điện cho đồng chí để xin đơn thuốc và chỉ dẫn cách dùng.
Tôi đành phải chấp nhận đề nghị của bà.
Chẳng bao lâu sau sự thoả thuận này đã gây ra bao phiền toái. sau khi chúng tôi bị đuổi ra khỏi lâu đài vài ngày, cô y tá của Giang Thanh gọi điện cho tôi. Lúc đó vào khoảng 11 giờ đêm. Trời mưa như trút. nhưng Giang Thanh vẫn muốn gặp tôi ngay. Giang bị ngạt mũi, khó thở. Qua điện thoại của y tá, tôi được biết mạch của bà vẫn bình thường, không sốt. Tôi bảo ý tá khuyên bà nên dùng thuốc chống dị ứng chữa ngạt mũi, hứa sáng hôm sau tôi sẽ đến ngay lập tức. Tôi không có ô tô và cũng chẳng muốn đội mưa chỉ vì cái mũi ngạt của Giang Thanh.
Vài phút sau chuông điện thoại lại reo. Giang Thanh tức tối, bảo cô y tá nói lại với tôi, một bác sĩ chưa hề thăm khám bệnh nhân đã kê đơn, đúng là vô trách nhiệm.
Tôi cũng bực mình. Lúc này đã khuya và Giang Thanh cũng biết rằng trời mưa rất to. “Bệnh” của bà chẳng có gì hơn là ngạt mũi sơ sơ, còn cách cư xử của bà chứng tỏ chẳng coi tôi ra gì. Tôi bảo cô y tá:
– Nếu đồng chí ấy không muốn, chẳng cần dùng loại thuốc nào cũng được. Ngày mai tôi sẽ đến.
Hôm sau Giang Thanh công khai trách tôi. Hai bác sĩ phụ khoa phải trở về Bắc Kinh, bà tổ chức một bữa tiệc để chia tay. Theo thông lệ, bữa tiệc phải có mặt tôi, nhưng bà cố tình lờ không mời và nói qua các nhân viên, đó là sự trừng phạt đối với lối cư xử tệ bạc của tôi. Còn tôi rất mừng. Phải dùng bữa với Giang Thanh là điều bất đắc dĩ. Bà ta thường uống thuốc trong bữa ăn. Khách mời buộc phải ngồi nghe giải thích từng loại thuốc, nào là thuốc chống tiêu hoá kém, thuốc bổ máu, viên bồi bổ thần kinh, các loại sinh tố. Người ta đến dự tiệc hy vọng được chiêu đãi của ngon vật lạ, nghe những câu chuyện phiếm vui vẻ hài hước, đằng này chỉ một mình Giang Thanh tuôn ra tràng giang đại hải những chứng bệnh bắt mọi người nghe, làm mất cả hứng.
Rồi đến lượt Mao bị cảm. Ở Thanh Đảo tháng 7 tiết trời vẫn lạnh và mưa. Mặc dù vậy, sáng nào Chủ tịch cũng đi bơi ở bãi tắm riêng ở Sơn Đông. Sau cuộc họp đảng, ông bị ho, ăn kém ngon, hay bị mệt. Những loại thuốc Tây của tôi cũng vô hiệu, nên mấy ngày sau tôi không cho dùng nữa. Bí thư thứ nhất tỉnh Sơn Đông – Trụ Đông, đã thuyết phục Mao để cho bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, một bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng về đông y cổ truyền Trung Quốc ở Vân Nam điều trị.
Lần đầu tiên Mao sẵn sàng chịu điều trị theo phương pháp y học cổ truyền. Ông chẳng tin vào y học Trung Quốc lắm, mặc dù bề ngoài vẫn cổ vũ, khuyến khích, nhưng ông lại ghét thứ nước sắc từ thảo dược vừa nóng vừa đắng, vốn là phương thuốc nổi tiếng của phương pháp điều trị truyền thống này. Vì bệnh cảm nặng làm ông khó chịu, nên quyết định thử dùng một lần xem sao. Mao bảo tôi:
– Đồng chí không muốn tôi uống thêm thuốc Tây, thôi được, tôi uống thuốc đông y thử xem sao.
Tôi chưa nắm được công dụng thuốc Đông dược Trung Hoa, nhưng những phương pháp điều trị bằng cây cỏ cũng có vẻ mang lại hiệu quả. Cũng có lần, bố tôi được một bác sĩ nổi tiếng của Trung Quốc chữa khỏi bệnh bằng phương pháp này sau khi cách điều trị bằng y học phương Tây bất lực. Tôi nghĩ Mao cũng nên thử chữa bệnh bằng phương pháp này. Mao bảo:
– Thôi được, cứ mời bác sĩ đến điều trị, nhưng dưới sự kiểm tra của đồng chí đấy.
Bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, 60 tuổi, một người cao lớn, gầy gò, giản dị và trung thực. Mao đón tiếp ông rất ưu ái, như mỗi khi ông đón tiếp những người mới gặp gỡ lần đầu. Ông giải thích ý nghĩa của tên của người bác sĩ:
– “Huệ Mẫn” có nghĩa người mang lại hạnh phúc cho mọi người. Xin bác sĩ hãy mang lại hạnh phúc cho tôi bằng sự điều trị của bác sĩ.
Bác sĩ bắt mạch và khám lưỡi Mao. Ông nói với vẻ quan trọng. “Chủ tịch bị cảm nhập tâm. Chúng ta phải cho Chủ tịch uống thuốc giải cảm”.
Mao biết rằng ông bị cảm lạnh, chẳng cần phải nói, ông chỉ muốn được chữa khỏi bệnh, nói: “Tôi chẳng hiểu gì về y học Trung Quốc. Đồng chí hãy bàn với bác sĩ Lý về cách điều trị”, rồi bỏ đi.
Bác sĩ Lưu tỏ ra cung kính cúi đầu vái Mao theo truyền thống cổ xưa, sau đó tôi đưa ông và Trụ Đông vào phòng bàn cách chữa bệnh cho Mao.
Bác sĩ Lưu muốn sắc hai hỗn hợp thảo dược để Mao uống trước khi đi ngủ. Sau đó Mao phải chùm kín bằng chăn dày để ra mồ hôi. Tôi biết Chủ tịch sẽ chẳng ưa gì cách chữa bệnh theo kiểu này. Ông không thích thuốc đắng, chỉ thích ở những nơi mát mẻ và thích đắp chăn mỏng.
Mao đành chấp nhận đề nghị của tôi:
– Được, tôi sẽ thử một lần xem sao.
Vợ ông Trụ Đông chuẩn bị thuốc. Tôi kiểm tra thành phần của thuốc và khẳng định thuốc là vô hại. Vì thứ thuốc này không thể mang đi kiểm tra mức độ an toàn kỹ lưỡng ở Phòng Kiểm tra thuốc của Phó Liêm Phương, tôi phải đảm bảo thuốc an toàn với Ban y tế trung ương ở Bắc Kinh trước khi sử dụng. Mao có hệ thống điện thoại đặc biệt, khoảng 6 hay 8 đường dây, trực tiếp nối với Ban an ninh Trung Nam Hải, tôi sử dụng một đường dây trong hệ thống này để báo cáo. Ban chấp hành trung ương bảo, đồng chí Trụ Đông là uỷ viên trung ương, kiêm bí thư thứ nhất của tỉnh Sơn Đông, người bác sĩ do Trụ Đông tiến cử là người đáng tin cậy. Nhưng Ban chấp hành trung ương băn khoăn làm sao có thể đảm bảo thuốc không độc.
Cuối cùng, bốn thang của thứ thuốc này đã sắc ra được một loại nước đắng mầu nâu sẫm. Một thang được niêm phong và cất giữ cho Ban y tế trung ương. Sau đó tôi và Trụ Đông lấy mình làm những con thỏ thí nghiệm để nếm thử loại thuốc này. Khi không thấy có triệu chứng ngộ độc nào, mới đưa Mao uống thứ thuốc đó.
Mao đã trải qua một đêm khổ sở, mồ hôi vã ra dưới lớp chăn dày và hôm sau ông vẫn không hề thấy đỡ. Bác sĩ Lưu thuyết phục Mao tiếp tục dùng thuốc.
Vào buổi sáng ngày thứ ba, Mao vẫn không thấy đỡ. Bác sĩ Lưu bắt mạch và khám lưỡi Mao. Ông nghĩ Chủ tịch đã khỏi bệnh.
Nhưng Mao lại nghĩ khác. Ông vẫn ho và sổ mũi. Những triệu chứng vẫn như cũ và ba ngày tiếp theo vẫn không có một dấu hiệu bình phục nào.
Bác sĩ Lưu kinh ngạc, khám lại cho Chủ tịch lần nữa. Lần này ông kết luận nguyên nhân bệnh tật của Mao không phải do cảm, mà do suy nhược nói chung. Ông kê một toa thuốc gồm hỗn hợp nhân sâm và những thảo dược truyền thống của Trung Quốc để tạo ra cho Mao sự cân bằng về dữ trữ dinh dưỡng. Đó là những loại thảo dược thông thường theo cách đĩều trị của Trung Quốc, tôi thấy toa thuốc vô hại nên chẳng có ý kiến ngăn cản việc kê đơn. Ngay cả Ban y tế trung ương cũng đồng ý, bốn thang lại được sắc. Tôi và Trụ Đông lại tiếp tục làm những con thỏ thí nghiệm.
Tình trạng sức khỏe của Mao vẫn chẳng khá hơn chút nào trước sự kinh ngạc của vị bác sĩ kia. Tôi cho rằng, một nơi có khí hậu ấm áp hơn sẽ giúp Mao và tôi cũng chẳng tin vào phỏng đoán của Trụ Đông là khí hậu ẩm ướt, lạnh sẽ thay đổi hàng ngày. Cuối cùng tôi đề nghị Mao trở lại Bắc Kinh. Ông đồng ý. Đầu tháng Tám, khi chúng tôi chưa tới Trung Nam Hải, sức khỏe của ông đã khá hơn nhiều.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [23]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 21

Posted: 23/07/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Chúng tôi đi chuyến tàu đặc biệt và sang trọng như thông lệ, lịch trình điều chỉnh theo giấc ngủ bất thường của Mao. Tuy nhiên, những biện pháp an toàn từ thời Uông Đông Hưng đã được thay đổi hoàn toàn. Đoàn hộ tống rút dần xuống đến một phần mười cơ số. Trưởng ban an ninh Vương Kính Tiên, một người nhút nhát, miễn cưỡng lãnh nhiệm vụ khó khăn này. Ông răm rắp tuân theo mọi yêu cầu của Mao từng chi tiết, giảm bớt lực lượng bảo vệ ở Trung Nam Hải xuống mức tối thiểu và chủ yếu sử dụng các đơn vị an ninh ở cơ sở vào việc bảo vệ.

Sau khi Mao quyết định trả đũa, ông đã nhanh chóng bình phục. Bệnh cảm đã khỏi hẳn, tinh thần và thể lực trở lại bình thường. Trên đường, Mao và Lâm Khắc đã dành nhiều thời gian trò chuyện với nhau. Những cuộc trò chuyện của hai người đã giúp tôi lấp những lỗ hổng thông tin của mình. Những cuộc nói chuyện ban đêm giữa tôi với Mao thường được Mao đúc kết lại một hoặc hai ngày sau đó.
Một lần ông nói với tôi:
– Tôi để cho đối thủ tấn công trước sau đó mới đánh trả. Tôi thực hiện ba nguyên tắc. Thứ nhất, làm theo vị hiền triết Lão Tử, tôi án binh bất động. Nếu bị tấn công, sẽ thoái lui, cố thủ và yên lặng. Kẻ thù tưởng đã chiếm ưu thế.
Mao bảo, nếu phản ứng ngay kẻ thù sẽ không dám lộ bộ mặt thật của chúng. Vì vậy chúng ta phải chờ cho tới lúc chúng lộ mặt.
– Chỉ khi nào kẻ thù xuất đầu lộ diện, lúc đó chúng ta mới báo thù. Chúng ta sẽ ăn miếng trả miếng. Đó là triết lý của Khổng Tử.
Thật ra, việc này chẳng liên quan gì tới giáo lý của Khổng Tử, chỉ là một chiến thuật riêng của Mao. Mao không chỉ sử dụng nó để chống những người hữu khuynh, ông còn dùng nó để đối phó với cả những đối thủ trong đảng.
– Lúc đầu, mọi người chẳng biết bọn hữu khuynh là ai, diện mạo của chúng như thế nào, vì thế khó giải thích cho mọi người hiểu. Nhưng bây giờ chúng ta đã có thể mô tả chúng chính xác. Đó là những tên phản cách mạng! Không, chúng ta hãy gọi chúng đơn giản, những “phần tử hữu khuynh”.
Nguyên tắc thứ hai của Mao, chỉ bỏ tù những đối thủ của ông một khi họ phạm những tội nghiêm trọng và chống lại nhân dân. Tại sao ta lại giam giữ để lãng phí sức sản xuất của họ? Nếu không thích hợp với công việc lãnh đạo, họ cũng có thể làm cái gì đó có ích cho xã hội chứ? Cách xử thế như vậy theo truyền thống lâu đời của Trung Quốc.
Nguyên tắc thứ ba: đối thủ phải được cải tạo ngay tại nơi làm việc của họ. Đồng nghiệp phải theo dõi những hành vi, phải nghe ngóng xem họ nói những gì. Mao nói: “Với những chuyện bọn hữu khuynh hành động sẽ cho chúng ta hiểu thế nào là xấu xa, sai trái”.
Theo Mao, ai cũng có thể cải tạo được, ai cũng có cơ hội để trở thành người tốt. Một con bò không tự đi cày hoặc cung cấp sữa cho người. Một con ngựa chưa thuần, người ta không thể cưỡi nó. Một tên phản cách mạng, hay tên gián điệp chẳng hạn, chắc chắn chúng phải có một biệt tài nào đó. Phải tự hỏi vì sao chúng lại trở thành một tên phản cách mạng, tên gián điệp hay kẻ hữu khuynh cơ chứ? Tại sao chúng ta lại không cải tạo, tận dụng những khả năng của chúng.
Mao tỏ ra nổi giận với Nhóm Dân chủ, nói: “Bọn chúng chẳng có đứa nào tử tế cả. Tuy giải tán nhưng chúng ta muốn lôi kéo, đoàn kết với họ, nhưng đảng cộng sản lại muốn cải tạo Nhóm Dân chủ và các đảng phái dân chủ khác. Mặc dầu đã bắt hàng trăm ngàn tên thiên hữu nhưng không tử hình một ai, vì nếu chỉ cần tử hình một tên thôi ta phải tử hình tất cả. Đó là điều luật đã từng làm trong thời kỳ thanh lọc đảng đầu thập niên 1940 ở Hồ Nam khi Vương Thực Vị mở chiến dịch tấn công đảng, xuất bản cuốn “Bông Huệ Dại”. Sau khi mở cuộc điều tra, chúng ta phát hiện Vương là phần tử Trotskist, một tên đặc vụ, nhưng tôi yêu cầu không tử hình hắn. Khi quân Quốc Dân đảng tấn công, chúng ta phải rút lui khỏi Hồ Nam, lực lượng an ninh đã xử tử, vì sợ Vương trốn, tôi đã phê bình khiển trách việc này”.
Nhà văn Vương Thực Vị trong cuốn sách của mình, đã chỉ trích cuộc sống xa hoa vương giả của các nhà lãnh đạo của đảng trong khi họ lại cứ giao giảng thuyết khổ hạnh và quân bình. Khi các lãnh tụ vui thú trong những đêm khiêu vũ thì người dân đang phải vật lộn chiến đấu chống quân Nhật xâm lăng. Họ quy tội Vương, một phần tử Trotskist, nhưng hoàn toàn không đúng. Tôi đọc Bông Huệ Dại sau khi nghe Mao kể, tôi thấy sự chỉ trích, phê phán của Vương hoàn toàn đúng sự thật. Không những thế, Vương còn vạch ra sự tham nhũng mà sau này làm việc ở Trung Nam Hải tôi đã thấy. Tôi được biết sự thoái hoá của các đảng viên rất sớm, từ những ngày ở Hồ Nam.
Đầu tiên chúng tôi tạm nghỉ ở Thái An, tỉnh Sơn Đông, sau đó tiếp tục đi Thượng Hải, đến thăm Thị trưởng Kha Thanh Thế, một đồ đệ trung thành hăng hái nhất của Mao. Kha Thanh Thế, cán bộ đảng duy nhất đã từng gặp Lenin. Trong thời gian học tập ở Trường Đại học Đông phương, Liên Xô, và làm việc ở một nhà máy, nơi Lenin có lần đến nói chuyện. Mao kể rằng, không bao giờ Kha quên được cảnh tượng ấy chính vì thế Kha trở thành một nhà cách mạng lớn.
– Qua đấy mới thấy ảnh hưởng của một lãnh tụ vĩ đại đối với nhân dân lớn đến mức độ nào.
Mao kết luận như vậy sau khi kể chuyện với tôi.
Kha thu xếp cho Mao nghỉ trong một ngôi nhà lát đá cẩm thạch tráng lệ có mái bằng đồng. Nhà của một thương gia Do Thái, Silas Hardoon, người mà trong những năm 1910 đã bỏ một khoản tiền rất lớn xây ở Thượng Hải. Ngôi nhà ở ngay trung tâm thành phố, bao quanh là những bức tường cao bằng gạch nung. Khu vườn tạo ra một khung cảnh tuyệt vời, có đầm sen, hoa huệ, đầy ếch nhái và những cây cổ thụ mọc rải rác trên thảm cỏ thoai thoải. Trong sự sang trọng kiểu phương Tây này, Mao vẫn chẳng thấy thoải mái, bất chấp sự phản đối của Kha, ông muốn trở lại đoàn tàu.
Khác hẳn với những chuyến đi bí mật trước đây, chuyến viếng thăm Thượng Hải lần này là một sự kiện công khai đối với dư luận. Mao muốn cả nước biết rằng ông đang chỉ huy chiến dịch chống bọn hữu khuynh.
Chiến dịch chống thiên hữu ở Thượng Hải tiến triển rất tốt. Chúng tôi tới thăm một nhà máy, nơi công nhân đã dán những khẩu hiệu viết bằng chữ lớn kêu gọi chống bọn hữu khuynh. Mao đánh giá những khẩu hiệu dán trên tường là sự ủng hộ to lớn, ông phát biểu trước các cán bộ đảng ở địa phương, cán bộ quân đội, gặp gỡ những nghệ sĩ tả khuynh nối tiếng nhất của thành phố, như nhà văn Ba Kim, tài tử Triệu Đan cùng vợ Hoàng Tông Anh và tài tử Thanh Nghị.
Khi đấu tranh, lúc nào Mao cũng năng nổ. Chúng tôi rời thành phố Thượng Hải náo nhiệt, tới Hàng Châu yên tĩnh – thành phố đẹp nhất ở Trung Quốc, với Tây Hồ một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Chưa bao giờ tôi thấy một ngôi nhà nào tráng lệ như Liễu Chương, nơi chúng tôi đã lưu lại. Trước đây. ngôi nhà thuộc về một đại gia buôn trà, bây giờ nó được tân trang lại cho Mao ở. Liễu Chương nằm trên một bán đảo hẻo lánh đầy hoa cỏ, trải dài đến bờ biển phía tây, nhỏ hơn và hấp dẫn hơn so với cung Mùa hạ ở Bắc Kinh. Ngược lại, khu vườn của nó to hơn và đẹp hơn so với khu vườn tuyệt diệu của Tô Châu. Khu nhà xây theo lối cổ truyền, mái ngói nhiều tầng, chính giữa một chiếc hồ có dòng suối chảy róc rách nối liền bằng những chiếc cầu cong bằng đá cẩm bạch. Cá và hoa đầy hồ, thực đơn bữa nào cũng có món cá ngon tuyệt do nhà bếp đánh bắt chiêu đãi.
Phó thủ tướng Liên Xô Anastas Mikoyan có mặt ở Hàng Châu để thi hành một nhiệm vụ bí mật. Ông ta muốn trấn an Mao sau vụ Malenkov và Molotov bị phế truất. Ngoài ra còn có các cuộc đàm phán gay go về mục tiêu phát triển vũ khí nguyên tử ở Trung Quốc. Mao cho gọi tôi lên.
Mikoyan, một người mập mạp, dáng đi lom khom, trạc độ 60 tuổi. Ông mắc bệnh viêm khớp mạn ở lưng và chân. Ông hy vọng sẽ được chữa khỏi bằng châm cứu. Tôi liên hệ để ông gặp một chuyên gia châm cứu nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh. Trong khi chúng tôi đang nói chuyện về sức khoẻ, ông mời tôi một ly vodka và chuyển sang nói về những nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Ông có vẻ bực bội về cuộc gặp gỡ với Mao, muốn thổ lộ điều đó với tôi. Ông lo ngại khi Mao chẳng hề bận tâm tới việc chết người hàng loạt.
Mao phân tích cho Mikoyan luận thuyết “hổ giấy”, quả quyết rằng Trung Quốc có thể chiến thắng trong một cuộc chiến tranh nguyên tử dù có phải hy sinh hàng triệu người. Mikoyan cố gắng mô tả cho tôi về sức tàn phá ghê gớm của một quả bom nguyên tử. Ông hy vọng Trung Quốc sẽ học kinh nghiệm của Liên Xô, không nên chế tạo bom này, một quả bom tốn kém triệu triệu rúp (ruble), tốn kém chỉ là một mặt thôi. Ông cũng kể cho tôi nghe một cán bộ cấp cao của Liên Xô đã phải chịu hậu quả tệ hại như thế nào, sau khi điều hành việc thử bom nguyên tử, đã chết vì bệnh máu trắng – căn bệnh mà tuỷ không còn khả năng sản xuất ra hồng cầu nữa.
Tôi đáp:
– Tôi là thầy thuốc, tôi không biết gì nhiều về bom nguyên tử. Theo quan điểm đạo đức của mình, tôi không chấp nhận nó, bởi vì nó cũng giết người như tất cả những loại vũ khí khác.
Tôi không có quyền trao đổi với một chính khách cao cấp nước ngoài về một đề tài quan trọng như vậy, tôi nghĩ, tốt hơn hết, phải báo cáo lại cho Mao về cuộc nói chuyện này. Đối với ông việc tàng trữ bom nguyên tử chỉ là vấn đề quyền lực chứ không phải là vấn đề sinh mạng con người. Mao rùng mình nói:
– Mikoyan đảm bảo với tôi, vũ khí nguyên tử của Liên có đủ cho cả hai nước dùng. Hệ thống phòng thủ hạt nhân của Liên Xô trùm lên tất cả chúng ta. Liên Xô muốn kiểm soát chúng ta, vì vậy họ ngăn cản việc Trung Quốc có bom nguyên tử. Họ sợ chúng ta có thể không nghe lời họ, chúng ta có thể khiêu khích Mỹ. Nhưng chúng ta không sợ xung đột với các nước khác. Bằng giá nào tôi cũng cho chế tạo bom nguyên tử. Đồng chí cứ yên tâm. Chúng ta sẽ không để cho kẻ nào cưỡi cổ chúng ta được.
Một khi Mao đã sẵn sàng hy sinh chừng ấy người Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, tại sao ông lại không dám để mặc cho hàng chục nghìn người thiên hữu bị giết hại. Tuy ông không trực tiếp hành hình họ nhưng ông cũng chẳng ngăn cản việc đó.
Ở Hàng Châu, Mao phát biểu trước công chúng thêm một lần nữa trước khi ông nghỉ ngơi mấy hôm. Lưu lại đó ít lâu, chúng tôi lên đường đi Nam Kinh, trú trong một ngôi biệt thự trước đây của một chính trị gia Quốc dân đảng. Ở Nam Kinh, tiết trời tháng 7 vô cùng nóng nực, nhiệt kế thường chỉ trên 40 độ C. Mao ít bị cái nóng quấy rầy hơn tôi. Hàng ngày, những người phục vụ của Mao mang vào phòng ông những thùng đựng đầy nước đá.
Trong khi ông phổ biến về chiến dịch chống hữu khuynh, nước đá tan chảy, còn tôi toát mồ hôi.
Chiến dịch này lan ra khắp đất nước như một cơn lốc. Mao khoan khoái đọc Bản tin Nội bộ kín mít những bài chỉ trích phái hữu khuynh. Vào thời gian này, chúng tôi thường hay chuyện trò ban đêm nhiều hơn. Sự thiếu ngủ hình như có tác dụng kích thích ông.
Lâm Khắc – trong thời gian tôi ở bệnh viện Bắc Kinh, vẫn liên lạc chặt chẽ với Mao – đã kể cho tôi những nhận định của ông ta về quan điểm chính trị hiện nay của Mao. Theo Lâm, Chủ tịch phải tạm thời thoả hiệp với những đối thủ trong đảng một cách miễn cưỡng để cùng nhau tìm cách chống lại phái hữu khuynh đang to mồm phê bình đảng. Đặng Tiểu Bình chịu trách nhiệm tổ chức chiến dịch chống hữu khuynh. Tuy Đặng đã làm Mao bực, nhưng không phải kẻ ngáng chân gợi ý Mao từ chức trong Đại hội đảng lần thứ VIII, Đặng thuộc vào hàng những cán bộ Mao rất tin tưởng trong việc chống thiên hữu. Mãi sau này tôi mới biết Đặng đã điều khiển chiến dịch kháng hữu một cách cuồng nhiệt, đã tấn công tàn bạo như thế nào đối với những kẻ đòi xét lại địa vị của đảng.
Trong bối cảnh hiện nay, tôi cho rằng những chiến dịch trong năm 1956 và 1957 của Mao giống như một cuộc Cách mạng văn hoá đầy sai lầm. Ngày nay chúng ta liên tưởng lại năm 1957 chủ yếu với chiến dịch chống hữu khuynh khủng khiếp, mặc dù đối thủ của Mao ban đầu không phải những người thiên hữu ngoài đảng, mà là các cán bộ lãnh đạo của đảng cộng sản, những người đã xúc phạm Mao, đòi bớt xén quyền lực, cảnh cáo trước những giấc mơ viễn tưởng của ông về chủ nghĩa xã hội. Mao muốn trả đũa đối thủ, nhưng không muốn người ta động chạm đến chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhất là không muốn vị trí lãnh đạo của bản thân ông bị lung lay. Vì vậy, ông miễn cưỡng tạm thời liên minh với các đối thủ trong đảng. Những người này đã theo ông hết lòng, vì địa vị lãnh đạo của chính họ cũng bị đe doạ.
Tuy nhiên, Mao cũng đã cho những nhà lãnh đạo đảng thấy, nếu cần, ông có thể dùng thế lực bên ngoài để tấn công, lời đe doạ này như một lưỡi gươm lơ lửng trên đầu tất cả những ai muốn lay chuyển địa vị của ông. Lúc đầu, đa số cán bộ đảng đứng về phía Mao. Lo sợ Mao tấn công, tầng lớp trí thức cũng như lòng tin vào những suy nghĩ ảo tưởng của Mao đã khiến họ ủng hộ phong trào Đại nhảy vọt sau này.
Chủ tịch có ý muốn triệu tập một hội nghị đảng để nhận định tình hình. Ở Nam Kinh quá nóng nên Giang Vệ Thanh, bí thư thứ nhất tỉnh Giang Tô, Nam Kinh trực thuộc tỉnh này, đã triệu tập các tỉnh uỷ viên tới để cùng tìm một nơi dễ chịu cho hội nghị của đảng.
Họ quyết định chọn Thanh Đảo. Một khu nghỉ mát bờ biển tỉnh Sơn Đông, trước đây do người Đức kiểm soát, khí hậu ở đó mát mẻ, rất thích hợp cho việc tắm biển. Nếu đi tàu hoả chủ tịch sẽ không chịu được nóng. Vì vậy chúng tôi đi bằng hai chiếc máy bay Il-14 do Liên Xô chế tạo và nghỉ giữa chặng bay tại Thái An. Tại đây, Mao đã sôi nổi phát biểu trước một nhóm cán bộ đảng, quân đội của tỉnh Sơn Đông về việc chống bọn hữu khuynh, nội dung tóm tắt của cuộc chuyện trò ban đêm của chúng tôi.
Với khí hậu, gió biển mát mẻ, Thanh Đảo, một nơi nghỉ lý tưởng sau khi chúng tôi rời lò lửa Nam Kinh. Thành phố có những quả đồi khiến người ta liên tưởng đến San Francisco xây dựng theo phong cách Đức. Giữa những hàng cây cao, những lùm cây um tùm, hai bên những dãy nhà gạch lợp ngói rất đẹp, được bao quanh bởi những bức tường. Mao ở cùng với vệ sĩ của ông nghỉ trong một lâu đài tráng lệ nằm trên một quả đồi, nơi ở của viên thống đốc người Đức trước đây. Từ trên đó nhìn xuống thành phố và biển hiện ra thật là đẹp.
Mao đi thăm những kỳ quan quan nổi tiếng nhất của thành phố được coi là đẹp nhất Trung Quốc, trường Đại học Sơn Đông, nơi Giang Thanh đã được nghe Lương Thế Kỳ – nhà nghiên cứu Shakespear nổi tiếng – giảng bài và một nhà máy sản xuất đầu máy xe lửa. Tại đó, sự có mặt của Mao làm tất cả mọi người trở nên phấn khích, mặc dù Mao chẳng phải phát biểu gì, chỉ đứng lẫn trong đám đông. Những biện pháp bảo vệ ở Thanh Đảo thật nghiêm ngặt. Trong thành phố, người ta đã phong toả nhiều con đường dành cho người và cho xe chạy.
Hội nghị các bí thư tỉnh uỷ và đảng uỷ các cấp bắt đầu vào ngày 17-7-1957, ngay sau khi chúng tôi đến, kéo dài nhiều ngày. Các cuộc thảo luận tập trung chủ yếu vào chiến dịch chống hữu khuynh và vấn đề cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội. Tờ Nhân dân Nhật báo đăng báo cáo của Mao trong hội nghị dưới nhan đế “Bối cảnh chính trị mùa hè 1957”. Trong đó, ông lại công kích những người hũu khuynh, bộc lộ rõ hơn viễn tưởng về xã hội chủ nghĩa, bức tranh một nhà nước công nông hiện đại được thiết lập bởi một đội ngũ đông đảo những nhà khoa học kỹ thuật xã hội chủ nghĩa. Mao nói về cặp mâu thuẫn, sự tập trung quyền lực và dân chủ; kỷ luật và tự do; Sự thống nhất tư tưởng và nguyện vọng của mỗi cá nhân. Nhiệm vụ đề ra là trong vòng 40-50 năm kể từ năm 1953 trở đi, phải vượt Mỹ về kinh tế và từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Đó là những ý trưởng trong mơ của Mao, thực tế chẳng có gì rõ nét.
Bị những vệ sĩ của Mao quây kín, lại ở nơi cách biệt với thế giới nghèo nàn bằng sự xa xỉ khôn tả, tôi không thể hiểu được nội dung thực của chiến dịch chống hữu khuynh, cách xử lý, cách giải quyết như thế nào và ra sao. Ngay cả trong những cuộc chuyện trò của tôi với Mao cũng có những điều không thực tế.
Ngoài ra ở Thanh Đảo, tôi rất bận, phải đối phó một vài vấn đề không liên quan gì tới chính trị.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [21]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 20

Posted: 20/07/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Lâm Khắc thuật lại cho tôi những sự kiện xảy ra trong khi tôi vắng mặt đi học.
Mao giận dữ về những đề nghị cho là xúc phạm ông trong Đại hội đảng lần thứ VIII: kêu gọi một sự lãnh đạo tập thể, tuyên bố Trung Quốc sẽ xoá bỏ tệ sùng bái cá nhân, gạch bỏ một điều trong hiến pháp, trong đó những lời nói của Chủ tịch dẫn lối chỉ đường cho nhà nước nhân dân, và chỉ trích “sự phiêu lưu” của Mao. Ông cho rằng, nhiều cán bộ cao cấp của đảng quá bảo thủ và nhút nhát trong việc áp dụng những thay đổi có tính cách mạng. Trong kỳ họp thứ hai của Ban chấp hành trung ương khoá VIII giữa tháng 11, ông vẫn chưa nguôi. Trong bài phát biểu, ông nhấn mạnh ý nghĩa của cuộc đấu tranh giai cấp và công bố ý định của ông sẽ phát động một chiến dịch làm trong sạch đảng, nhằm loại bỏ “chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa quan liêu” ra khỏi đảng.

Ngay sau cuộc họp tháng 11, Lâm Khắc kể, trong ba tháng liền Mao suốt ngày nằm trên giường, một hiện tượng thường thấy ở Mao mỗi khi gặp một xung đột chính trị hóc búa. Ông chỉ rời khỏi giường khi đi tắm hoặc đi đọc diễn văn ở đâu đó. Mao lợi dụng trạng thái mệt mỏi này để sắp đặt kế hoạch cho những bước đi chính trị tiếp theo.
Bài phát biểu của Mao trong ngày 27-2-1957 một phần nằm trong chiến lược. Ông rời khỏi giường đến nói chuyện ở Hội nghị Tối cao của quốc hội ông làm chủ toạ với tư cách Chủ tịch nước. Thành phần tham gia hội nghị không chỉ có các thành viên của Bộ chính trị, các quan chức cao cấp trong quân đội, những đại diện cao cấp của chính phủ, còn có những người đứng đầu cái gọi là “các đảng phái dân chủ”. Trong bài phát biểu, ông lên án gay gắt thói quan liêu trong đảng, kêu gọi đảng viên của “các đảng phái dân chủ” hãy vạch những sai lầm của đảng cộng sản và đưa ra những đề nghị cải cách. Ông coi cuộc cách mạng đã thắng lợi, chủ nghĩa xã hội đã thành công và tuyên bố thời kỳ đấu tranh giai cấp đã qua. Mặc dù vẫn còn bọn phản cách mạng, nhưng chỉ là thiểu số – như những đám cỏ dại trong cánh đồng lúa – nên chúng không thể làm gì được. Những mâu thuẫn trong xã hội hiện nay “không mang bản chất đối kháng”, chủ yếu là những mâu thuẫn nội bộ có thể giải quyết bằng những biện pháp thích hợp.
Bài phát biểu đóng vai trò tối quan trọng trong chiến lược làm trong sạch đảng của Mao sắp tới. Phong trào làm trong sạch đảng chẳng có gì mới đối với đảng cộng sản. Năm 1942, Mao đã phát động phong trào này lần đầu ở Diên An. Nhưng lần này nó sẽ không chỉ giới hạn trong nội bộ đảng. Mao chằng còn tin vào việc đảng tự làm trong sạch. Ông muốn tất cả quần chúng, nhất là giới trí thức trong những cái đảng gọi là dân chủ cũng tham gia vào việc góp ý phê bình đảng. Một cách làm rất khác thường, bởi vì đảng cộng sản, một tổ chức chặt chẽ về nội bộ, bí mật và đầy quyền lực mà những thành phần ngoài đảng chưa bao giờ dám hé răng phê bình. Ai dám cả gan phê bình, người đó sẽ phải tính đến việc bị chụp mũ phản cách mạng như hàng trăm nghìn tấm gương khác.
Hơn thế nữa, Mao chẳng tin giới trí thức Trung Hoa một chút nào. Tuy nhiên, vẫn công khai nói ông muốn hợp tác và tận dụng kiến thức của họ, song vẫn nghi ngờ lòng trung thành. Những trí thức phải nghiên cứu đường lối của đảng. Việc cải tạo trí thức Trung Quốc đã được bắt đầu ngay sau khi giải phóng. Những trí thức cứng đầu hoặc những người đã học khoa lý luận không chịu học tập cải tạo sẽ bị công kích.
Nạn nhân gần đây nhất của những vụ công kích đó là nhà văn Hồ Phong. Hồ Phong, đã thẳng thắn phê bình việc kiểm duyệt, cả gan trình bày với Bộ văn hoá những đề nghị có tinh chất xây dựng. Dĩ nhiên, ông chỉ thổ lộ những chỉ trích gay gắt nhất qua thư từ trong phạm vi bạn bè thân thiết. Trong số đó, có người trung thành với đảng đã nộp những bức thư của ông cho chính quyền. Do những điều tâm sự Hồ dại dột viết ra chỉ có tính chất riêng tư này, năm 1955 ông bị tống tù với danh nghĩa thủ lĩnh của một “tố chức bí mật chống đảng’. Hồ Phong bị bắt không làm cho giới trí thức im lặng, họ càng lên tiếng phê phán công khai trên diễn đàn, chứ không chỉ trong những bức thư bày tỏ trong phạm vi bạn bè.
Chiến thuật của Mao khởi xướng tranh luận trong giới trí thức, cho phép “trăm hoa đua nở và trăm nhà đua tiếng”, chấp nhận sự mạo hiểm, bởi vì chỉ có ít người thực sự “phản cách mạng” và những người gan dạ như Hồ Phong sẽ chẳng bao giờ lên tiếng được nữa. Những trí thức khác sẽ chỉ phê phán những cá nhân mà Mao chủ tâm cải tạo.
Mao có lý do tin tưởng “chiến thuật mạo hiểm” của ông sẽ thành công. Bởi vì, ngay cả trong những cuộc họp với các đại diện của “các đảng dân chủ”, ông luôn luôn ngập trong những lời xu nịnh thấp hèn – tôi đã chứng kiến trong chuyến du lịch hè năm 1956, khi ông gặp giới lãnh đạo đảng các tỉnh. Sau khi Hồ Phong bị bịt miệng, người ta phỏng đoán, những trí thức trung thành còn lại sẽ đi theo đường lối của Mao.
Trong Hội nghị Tối cao, Mao đã tự phê bình sự yếu kém về lãnh đạo của chính mình, liên quan tới sự xuống dốc của nền kinh tế nước nhà. Trương Thế Trung liền đỡ lời, bênh vực vị Chủ tịch. Trước đây, Trương Thế Trung, tướng của Quốc dân đảng, người đứng đầu trong cuộc đàm phán giữa những người cộng sản và những người quốc gia năm 1945. Năm 1949, do Chu Ân Lai lôi kéo, Trương đã chạy sang hàng ngũ cộng sản, từ đó trở đi, trở thành một đối thủ lừng lẫy của kẻ thù cũ.
Trương nói trong hội nghị: “Tôi thường so sánh Chủ tịch với Tưởng Giới Thạch”. Tưởng Giới Thạch lúc nào cũng đổ lỗi cho người khác, mỗi khi việc gì bị thất bại. Không bao giờ ông ta nhận trách nhiệm về mình. Ngược lại không bao giờ Mao Chủ tịch đổ lỗi cho người khác. “Thật là một trời một vực! Thật đáng kính phục!”
Phong trào phê và tự phê bình do Mao khởi xướng cứ ì ra. Hầu hết các trí thức không dám mở miệng. Tính cách cai trị của Mao cũng như vầng hào quang huyền bí của quyền lực, sự bất khả xâm phạm bao quanh, đã khiến cho ngay cả những kẻ to gan nhất và những người trung thực nhất cũng phải kính cẩn trước ông. Những thú nhận mà Mao cố gợi được ở người đối thoại trong những cuộc nói chuyện riêng tư chỉ là những lời xin lỗi đáng thương vì trước đây họ đã ngờ vực ông. Trước công luận cũng như trong phạm vi cá nhân, chẳng bao giờ Mao khuyến khích những người bất đồng chính kiến nói lên sự thật, tại sao ông lại tin được nhân dân ủng hộ hết lòng.
Khi các trí thức vẫn giữ thái độ im lặng, một lần nữa, Mao lại rời khỏi giường, bước lên bục diễn thuyết. Trong Hội nghị Tuyên huấn toàn quốc của đảng cộng sản về công tác tuyên truyền diễn ra từ ngày 6 đến 13-3-1957, với sự tham dự của các cán bộ lãnh đạo đảng, những “nhân tố dân chủ” ngoài đảng, Mao nhắc lại những câu quan trọng của bài phát biểu tháng hai của ông và cổ động cho phong trào “Trăm hoa đua nở”. Ông kêu gọi “các lực lượng dân chủ” đừng ngần ngại phê bình. Các báo chí tường thuật lại những luận điểm của ông, những người lãnh đạo đảng bộ địa phương trong toàn quốc đã hưởng ứng trào lưu, càng yêu đảng bao nhiều, càng phải thẳng thắn phê bình đảng bấy nhiêu.
Nhưng khi phê bình chỉ được nêu ra một cách chung chung, rất hời hợt và nhẹ nhàng. Trong một cuộc mít tinh tại quảng trường Thiên An Môn cuối tháng 4, Mao lại khuyến khích mọi người hãy phê bình đảng.
Cuối cùng những người dân chủ đã hưởng ứng đề nghị của ông, những tiếng nói phê bình ngày tăng lên.
Lúc đó, đầu tháng 5, thời điểm tôi trở lại với Mao. Dần dần, “những sai lầm” của đảng bị lên án càng ngày càng gay gắt, thậm chí người ta còn đặt vấn đề về quyền lãnh đạo của đảng. Không chỉ từng cá nhân đảng viên, mà toàn đảng bị công kích. Bỗng nhiên có tiếng nói, đảng cộng sản không thể độc quyền lãnh đạo, quyền lực phải được chia sẻ. Một số người đòi chế độ đa đảng hoặc nguyên tắc lãnh đạo luân chuyển, mỗi đảng đều có cơ hội lãnh đạo, thậm chí một vài kẻ lộn xộn còn đòi “các đảng dân chủ” phải có quân đội riêng.
Cuối cùng, ngay cả sự lãnh đạo của Mao cũng bị lên án cực lực. Người ta so sánh đảng cộng sản với một ngôi chùa đạo Phật, sư tổ (tức là Mao) “đọc kinh”, còn các sư sãi (các cán bộ đảng) tụng theo. Thậm chí một vài người còn phàn nàn, họ chỉ được phép phê bình các sư sãi chứ không được phê bình thượng toạ.
Dĩ nhiên, Mao bị “sốc”, ông không hề có chủ ý đem mình ra để người ta phê phán, hoặc để cho toàn thể bộ máy đảng bị công kích. Từ trước tới nay ông chỉ quen với những lời xu nịnh, chẳng hề biết các nhà trí thức bất mãn đến mức độ nào.
Giữa tháng 5, cuộc phê bình đạt tới tột đỉnh. Tư tưởng chống đảng của quần chúng ở Trung Quốc đã biến thành một cơn sóng lớn dữ dội. Ngay cả những thành viên của chính phủ, những người được coi là thủ lĩnh của “những đảng dân chủ” mà ý kiến của họ thường xuyên được chính phủ tham khảo, cũng lên tiếng phê bình. Tờ Nhân dân, cơ quan ngôn luận của đảng do Đặng Tước làm tổng biên tập được Hồ Kiều Mục, bạn tôi, cục phó Cục Tuyên truyền, kiểm duyệt cũng bị phê bình.
Về cơ bản. Mao đã tính sai. Ông chán ngán nằm lì trên giường và dưỡng bệnh cảm của ông, vì nó tôi lại bị triệu tới.
Bực tức trước những công kích ngày càng tăng, Mao soát lại chiến lược và lập kế hoạch trả đũa.
Ngày 15 tháng 5, vài ngày sau khi tôi trở lại, Mao viết một bài với tiêu đề “Sự biến hoá của vạn vật”. Bài này được lưu hành bí mật trong phạm các cán bộ cao cấp của đảng. Sau đó chiến dịch làm trong sạch đảng được chuyển hướng. Mao lập kế hoạch giáng trả những kẻ đã lớn tiếng phê bình ông. Các báo chỉ vẫn tiếp tục đăng những ý kiến phê bình, nhưng đồng thời đăng cả những bài cảm tình với đảng và những bài công kích “những phần tử khuynh hữu”.
Mao nói: “Trước hết, chúng ta phải nhử rắn rết bò ra khỏi hang sau đó mới đánh chúng. Chiến lược của tôi, trước tiên chúng ta hãy để cỏ dại mọc lên, rồi bứng từng cụm một làm phân bón”.
Trí thức vẫn tiếp tục được khuyến khích phê bình, nhưng các cán bộ cao cấp của đảng được đánh động và hiểu rằng, đòn phản công nhằm vào trí thức sắp được tung ra.
Mao nói: “Tôi muốn dựa vào các đảng dân chủ để đưa đảng cộng sản đi theo con đường đúng đắn. Nhưng tôi không ngờ họ lại có thể thay đổi đến như vậy”. Mao bực nhất với các thành viên của Liên minh Dân chủ, một liên minh được một nhóm trí thức thành lập trong những năm 40. Liên minh này đã vận động những người cộng sản và người quốc gia thoả hiệp. Mao chì chiết: “Chúng nó, một lũ cướp và đĩ điếm”. Theo nhận định của Mao việc Khrushchev chống lại Stalin vào tháng 2-1956 và cuộc nối dậy ở Hungary cuối năm ấy đã gây nên một làn sóng chống cộng lan rộng khắp thế giới. Nhiều người Trung Quốc, kể cả các cán bộ đảng cũng như thường dân, dưới con mắt của Mao họ là những kẻ đầu đất đã chịu ảnh hưởng của làn sóng này.
Ông nổi đoá với Hồ Kiều Mục, vì ông ta hình như chẳng chịu làm gì để chấm dứt việc phê bình đảng trên báo Nhân dân. “Nếu đồng chí không nắm được tờ báo này, đồng chí hãy từ chức để cho người khác làm”. Ông quát tháo, ra lệnh cho Hồ chuẩn bị công kích lại bọn hữu khuynh.
Ngày 8-6-1957, trên Nhân dân Nhật báo đã xuất hiện dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự chuyển hướng của chiến dịch làm trong sạch đảng. Bài xã luận do Mao viết với tiêu đề “Để làm gì?” đã quả quyết rằng có một nhóm nhỏ đang âm mưu lật đổ chính phủ xã hội chủ nghĩa. Bài này kêu gọi quần chúng hãy giáng trả nhóm người đó.
Ngày 19-6-1957, Nhân dân Nhật báo đăng lời phát biểu của Mao “Về phương pháp giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn trong nhân dân”. Đó là bản sao bài phát biểu phê bình đảng của Mao trong Hội nghị cấp cao nhà nước hồi tháng hai và được sửa đổi đôi chút. Thực ra, bài viết này có khác cơ bản với nguyên bản trong đó việc phê bình không bị hạn chế. Mao ra sức kêu gọi đề cao tự do ngôn luận và để cho trăm hoa đua nở.
Ngược lại, trong bài phát biểu được đăng báo ngày 19-6-1957, Mao đã đề ra 6 tiêu chuẩn phê bình được coi là hợp lệ: phải góp phần đoàn kết, không được gây chia rẽ, khuyến khích công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố nền chuyên chính dân chủ của nhân dân, bảo dám sự lãnh đạo của đảng cộng sản và khuyến khích sự đoàn kết của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Nếu Mao đã cảm thấy bị phản bội khi giới trí thức lớn tiếng phê bình, bây giờ giới trí thức lại cảm thấy cay đắng khi bị ông ruồng bỏ. Mao luôn khuyến khích họ phê bình. Thông điệp của ông được đăng trên tất cả các báo ở Trung Quốc và phân phát tới từng cơ sở sản xuất kêu gọi họ phê và tự phê bình. Thế mà giờ đây lại trở mặt.
Mao biết giới trí thức đã nhận ra họ bị mắc lừa. Sau khi bản sao bài phát biểu của ông được đăng báo ngày 19-6-1957, ông nói với tôi:
– Bây giờ một số người hữu khuynh quả quyết, tôi đã hối thúc họ tham gia phong trào Trăm hoa đua nở, khuyến khích họ phê bình đảng vô điều kiện và bây giờ lại trả thù họ. Nhưng ngay từ đầu tôi đã cảnh cáo họ, đừng có trêu ngươi. Tôi đã khuyên họ đóng góp và ủng hộ đảng cộng sản. Một số người đã nghe lời tôi, nhưng chỉ rất ít thôi.
Cho tới nay, tôi mới biết khi đó Mao đã giả dối. Chiến lược của ông, lợi dụng những phê bình của tầng lớp trí thức để chọi lại những đối thủ của ông trong đảng. Nhưng không ngờ mũi dùi phê bình đó lại chĩa vào chính ông.
Khoảng cuối tháng 6, vài tuần sau khi tôi trở lại, Vương Kính Tiên, người chỉ huy mới của Ban an ninh, yêu cầu tôi thu xếp đồ đạc. Mao sẽ rời Bắc Kinh đi đến một nơi nào chưa rõ. Thời kỳ Trăm hoa đua nở đã qua. Chiến dịch chống bọn hữu khuynh của Mao bắt đầu.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [21]