20 tháng 3, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 14

Posted: 06/07/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong khi Giang Thanh, thành viên độc lập nhất trong chuỗi cộng tác viên gần gũi của Mao, thì Diệp Tử Long lại là người đắc lực nhất. Người nào xung quanh Mao cũng đều có một chức năng nhất định.
Về mặt tổ chức, Diệp chính thức là người phụ trách Văn phòng thư ký, kiêm Trưởng ban thư ký riêng của Mao. Ông lo thu xếp các cuộc họp, hoàn thành các biên bản với tư cách, người trợ lý cao nhất của Mao, ông còn quan tâm đến sinh hoạt cá nhân của Mao, như ăn, mặc và tiền bạc.
Sau này tôi được biết từ Uông Đông Hưng, chính Diệp Tử Long cũng đã từng kiếm gái cho Mao. Ông không những lấy gái từ Văn phòng thư ký riêng do ông phụ trách, từ Văn phòng bảo mật hoặc từ các đội văn công thuộc Cục bảo vệ trung ương, ngoài ra ông còn để mắt đến tìm những cô gái trẻ, ngây thơ, không có ý thức chính trị và tuyệt đối trung thành với Mao ở các cơ quan khác.

Diệp ở ngay trong tư dinh của Mao để tiện công việc cần vụ và thư ký riêng cho Mao. Nhưng Diệp lại dùng nhà ở của mình để giấu các cô gái trước khi ông dẫn họ đến gặp Chủ tịch. Diệp tìm cách đưa các cô gái trẻ đẹp vào Trung Nam Hải. Khi Giang Thanh vừa chìm vào giấc ngủ và Mao đã sẵn sàng tiếp các tố nữ, Diệp Tử Long dẫn các cô gái rón rén đi qua phòng ăn, rồi lẻn vào phòng ngủ của Mao. Đến gần sáng, ông mới quay trở lại đưa các cô ra.
Diệp còn là người quản lý tài khoản đáng kể mà Mao dành để chi cho những công việc đặc biệt trong văn phòng.
Vào năm 1966, trước khi có cuộc Cách mạng văn hoá không lâu và ngay trước khi hàng trăm triệu sổ tay bìa đỏ trích những câu nói của Mao được bán ra chưa kể đến, chỉ tính riêng Tuyển tập của mình, Mao đã kiếm được ba triệu nhân dân tệ. Trong những năm 1950, ông là một trong những người giàu nhất Trung Quốc và cũng là người rộng rãi trong chuyện tiền bạc. Ông đã giúp đỡ trợ cấp những thày giáo, bạn bè và những đồng chí cũ của ông, giúp họ một cuộc sống dễ chịu hơn sau khi bị chính quyền cộng sản mới tước mất quyền sở hữu và khả năng hành nghề. Ngoài ra, ông còn dùng tiền để trả ơn những phụ nữ đã ngủ với ông. Mao không đụng đến số tiền ông có, mọi việc do Diệp Tử Long thu xếp một cách kín đáo. Số tiền đó dao động từ một vài trăm đến một vài nghìn nhân dân tệ tuỳ từng trường hợp.
Tôi được biết Diệp Tử Long là một người bẳn tính, ít học và hầu như mù chữ. Ông là một trong những người nông dân theo đảng từ khi còn trẻ, tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh ít lâu, Diệp bắt đầu làm cần vụ cho Mao từ những năm 1930. Trước khi đến Bắc Kinh vào năm 1949, Diệp chưa hề đặt chân đến một thành phố lớn nào, không biết cách sử dụng điện, chưa một lần nhìn thấy ánh đèn neon. Việc đảng nắm quyền tại Bắc Kinh chính là sự giải phóng thực sự đối với Diệp, chính Diệp đánh giá cao Mao ở chỗ đó. Mao đã đưa Diệp từ bóng đêm nghèo đói ở nông thôn tới nơi thiên đường thịnh vượng. Nhưng Diệp không thuộc loại nông dân ngờ nghệch, dễ bị loá mắt trước ánh đèn rực rỡ ở thành phố. Tôi chắc rằng, trước khi đến Bắc Kinh, từ lâu ông đã có nhiều tham vọng. Có điều trước đây ông chưa có điều kiện thực hiện.
Tôi biết Diệp Tử Long từ hồi ở bệnh viện trong khu Trung Nam Hải, trước khi tôi trở thành bác sĩ riêng của Mao và không có cảm tình đối với ông ta. Tôi còn nhớ, năm 1951 Diệp đã xin tôi năm lọ kháng sinh penicillin để cho người bà con của ông ở Hồ Nam bị bệnh giang mai. Thời ấy, các cơ sở y tế nông thôn chưa có các loại thuốc kháng sinh mới. Trong khi đó Trung Quốc vẫn chưa sản xuất được loại penicillin này, chúng tôi phải nhập ngoại và quản lý chặt những lọ penicillin ở bệnh viện, thứ thuốc thuộc loại quý hiếm. Diệp khá ngạc nhiên, vì tôi đã từ chối lời đề nghị của ông.
Cô y tá trưởng của bệnh viện cũng rất ngạc nhiên. Lúc đó, người ta đều biết, Diệp rất gần gũi và có ảnh hưởng lớn đối với Chủ tịch. Hầu hết mọi người đã phải đáp ứng yêu cầu để lấy lòng ông, nên cô y tá nghĩ, tôi đã xúc phạm Diệp. Tôi không hề nghĩ, đường đi của chúng tôi lại một lần nữa gặp nhau và càng không ngờ hầu như ngày nào chúng tôi cũng phải gặp nhau.
Như tất cả chúng tôi, đầu những năm 1950, Diệp Tử Long cũng được hưởng chế độ trợ cấp. Diệp thèm khát một cuộc sống xa hoa, vậy mà ông không có tiền. Nhưng là thư ký riêng của Mao, Diệp có được tất cả những gì ông muốn. Ai muốn Mao ban cho ân huệ chỉ cần nịnh thư ký riêng của Mao. Trong khi đảng kêu gọi phải sống thanh bạch và tiết kiệm, Diệp lại sống xa hoa và phung phí. Sau khi một câu lạc bộ khang trang được xây dựng dành cho các quan chức cao cấp, Diệp Tử Long đã kết bạn với nhiều người phụ trách nên thường xuyên được mời dự những bữa tiệc lớn, chẳng phải trả một xu nào.
Những nhân viên an ninh không cho thường dân Trung Quốc bén mảng đến những nơi mà Diệp mong ước lui tới, như câu lạc bộ dành riêng cho các quan chức cao cấp hoặc khách sạn Bắc Kinh, người ta lại không hề hỏi giấy tờ ông. Ai cũng cho rằng Diệp, một nhân vật quan trọng, một cán bộ cao cấp của đảng. Chỉ khi nào Diệp phát biểu mới lòi cái đuôi nhà quê kém văn hoá của mình. Ấy thế, bề ngoài ít ra trông Diệp cũng có vẻ thanh lịch. Da trắng, sáng sủa, trong khi ở Bắc Kinh mọi người mặc quần áo bằng vải bông bạc màu, vá víu, Diệp lại diện bộ đồ len kiểu Mao được cắt may rất khéo. Bởi vì mỗi khi Mao nhận được một bộ quần áo mới vừa vặn, Diệp có mặt ở đó và người thợ may của Mao cũng vui vẻ mở tủ tặng một bộ quần áo để tạ ơn ông.
Là người cần vụ cao cấp nhất của Mao, Diệp có trách nhiệm quản lý kho riêng của Mao. Trong kho cất giữ nhiều món quà biếu Mao nhận được từ khắp nơi, y giống như một hoạn quan của thời đại phong kiến. Mao thường phân phát các món quà biếu cho nhân viên phục vụ, hầu như ai cũng nhận được quà tặng. Uông Đông Hưng bảo tôi, Diệp có máy ảnh Đông Đức, đồng hồ Thuỵ sĩ, đài thu thanh bán dẫn Nhật từ trong số quà biếu của Mao. Diệp Tử Long mau chóng thành chuyên gia đồ dùng vì thuộc hết tên các hãng sản xuất đồ điện nổi tiếng của nước ngoài, mặc dù không thể đọc nổi tên nước sản xuất trên bản đồ hay tên của các vị nguyên thủ quốc gia.
Diệp thực hiện câu ngạn ngữ cổ “Giàu nhà kho, no nhà bếp”. Ông liên hệ được thực phẩm không mất tiền từ trại cải tạo nông trang Duyên Hà. Trại cải tạo Duyên Hà, một nông trang do tù nhân làm sản xuất các loại thực phẩm từ rau xanh, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả ao nuôi cá, trồng lúa, một trong những nguồn thực phẩm cung cấp cho Diệp và được trả bằng những phiếu phân phối. Sau khi đảng cộng sản nắm quyền, chính phủ mới đã dựng lên khắp cả nước nhiều trại cải tạo, dành cho tù hình sự và tù chính trị. Điều kiện sống trong trại rất hà khắc. Phần lớn tù chính trị là những người thuộc tầng lớp thấp như lính trơn hoặc các công chức nhỏ đã từng phục vụ cho Quốc đân đảng, Còn những quan chức cao cấp thường đã đào tẩu hoặc theo cộng sản như cha tôi. Khi quân giải phóng tiến vào Nam Kinh, Chu Ân Lai đã cử người đến khuyên cha tôi đừng chạy theo Quốc dân đảng. Sau này, nhờ sự giúp đỡ của Chu Ân Lai, cha tôi chuyển về Bắc Kinh, có việc làm với đồng lương khá cao, có nhà ở, cuộc sống ổn định.
Trại nông trang Duyên Hà do Sở công an Bắc Kinh quản lý và là trại cải tạo lớn nhất ở thủ đô. Cũng như hầu hết các đồng chí giữ chức vụ cao cấp khác, Diệp đã lợi dụng quan hệ bạn bè với trưởng trại Duyên Hà để lấy một khối lượng lớn thực phẩm cao cấp mà Diệp muốn. Thậm chí ngay trong thời kỳ có nạn đói lớn năm 1960-1962, đã làm hàng triệu người chết đói, Diệp vẫn nhận được số lượng thực phẩm cao cấp khổng lồ.
Mặc dù Diệp đã có vợ, chẳng bao giờ ly dị, nhưng đã yêu cô gái của Phòng bảo mật trong một buổi khiêu vũ của Mao tại Hội trường Xuân Sen. Khi cấp trên của cô gái trẻ biết chuyện, bạn thân của Diệp đã bí mật đưa cô xuống tàu rời Bắc Kinh. Không ai dám hỏi bạn gái của ông đã biến đi đâu.
Vào năm 1958, khi Diệp ở Vũ Hán cùng với Mao, tình cờ gặp lại cô gái đó trong một buổi khiêu vũ khác, hai người đã nối lại duyên xưa. Diệp đã tìm mọi cách giúp cô ly dị, thời ấy rất khó, rồi chuyển cô đến thành phố công nghiệp Thiên Tân, cách thủ đô Bắc Kinh khoảng 100 km về phía Đông. Thời đó chưa có đường cao tốc và đường xá rất trở ngại, khó khăn nên đi từ Bắc Kinh đến đó phải mất tới 6 giờ đồng hồ. Diệp đã tìm cho cô bạn gái chỗ làm việc và một ngôi nhà để ông bí mật thường xuyên lui tới. Đôi khi Diệp sử dụng xe của Giang Thanh, lúc bà rời Bắc Kinh. Trong thời gian nạn đói lớn, ông đã lo chu cấp đầy đủ thực phẩm cho người tình. Đến khi người ta bắt đầu tiến hành xét hỏi ông trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, ông mới cắt đứt quan hệ vừa được nối lại giữa hai người. Mãi đến năm 1980, khi Diệp Tử Long được phục hồi, được bầu làm phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, hai người mới quay lại với nhau. Lúc đó ông đã là một ông già hói đầu, còn cô bạn gái của ông đã là một bà già tóc bạc.
Việc tôi được nhận vào Nhóm Một đã làm cho Diệp Tử Long phật ý. Diệp vẫn không quên chuyện tôi đã từ chối không cho người bà con của ông penicillin. Là một cự chiến binh, một nông dân thuần tuý, từng tham gia Vạn Lý Trường Chinh, Diệp coi tôi là viên trí thức tầng lớp trung lưu thấm đậm ý thức hệ tư sản của xã hội cũ. Đối thủ của ông là Uông Đông Hưng lại chọn tôi càng làm tăng thêm ác cảm của ông. Sau khi Phó Liêm Chương và ông biết tôi được bổ nhiệm làm bác sĩ riêng của Mao, họ đã lập kế hoạch làm sao loại tôi ra một cách nhanh nhất. Giang Thanh đã cho tôi biết, bọn họ đã báo cáo trực tiếp với Mao rằng, cần phải lưu ý đến lý lịch tư sản của tôi, rằng tôi không đảm bảo chắc chắn về mặt chính trị, nhưng Mao đã không đồng ý.
Là thành viên của Nhóm Một, tôi buộc phải làm việc cùng với Diệp Tử Long, khiến mối ác cảm của tôi đối với ông ngày càng tăng.
Ngay cả những vệ sĩ của Mao cũng chẳng có thiện cảm với Diệp. Văn phòng của họ nằm ngay sát phòng của các nhân viên y tế, nên khó thấy được sự khác nhau giữa hai nhóm. Các cô y tá thường tập trung vào công việc và chỉ trao đổi về công việc của họ. Hứa Đào là người rất kín tiếng. Lại bị dán nhãn hiệu trong nhóm chống đảng cộng thêm gần đây ông bị buộc tội hủ hoá, ông hiểu ra rằng chỉ cần lỡ lời có thể gây cho ông những chuyện rắc rối lớn.
Ngược lại, đám vệ sĩ lại lắm lời. Họ thường oang oang, công khai kháo nhau những chuyện mà các cô nhân viên phục vụ rất xấu hổ không dám hé răng. Chuyện tình dục là đề tài mà họ ưa thích.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Mao thản nhiên nói chuyện làm tình. Mao không hiểu hệ thống sinh dục của con người, nhưng tôi nhanh chóng phát hiện ra ông rất quan tâm đến vấn đề tình dục. Chẳng hạn, ông thường xuyên nhắc đến cuộc sống tình dục của Cao Cương, một thời là thủ lĩnh vùng Mãn Châu, tự vẫn năm 1954 sau khi bị quy tội âm mưu “liên kết chống đảng”. Cao Cương từng nói, y nắm tất cả quyền lực tối cao, đến nỗi bạn thân Stalin đã gọi ông là “ông vua Mãn Châu”. Uông Đông Hưng nói với tôi, Cao đồng mưu với Giao Xương Trí tạo phản, cả hai đã bị thanh trừng vì họ ủng hộ Lưu Thiếu Kỳ trong cuộc chống đảng.
Ít khi Mao nói với tôi về sai lầm chính trị của Cao Cương. Thay vì việc đó, ông có ý quả quyết rằng, Cao đã ngủ với trên một trăm phụ nữ và ông băn khoăn tự hòi, làm sao Cao lại tán tỉnh giỏi đến thế, kể cả các cô gái trong vũ hội mà Cao tổ chức. Mao bảo: “Vợ Cao đã thú nhận, cái đêm Cao tự vẫn, đã hai lần làm tình. Đồng chí có thể tưởng tượng nổi dục vọng lớn như vậy không?”
Mao kể tiếp:
– Thói trăng hoa của Cao thực ra lỗi lầm không quá lớn. Giá như Cao không phạm những sai lầm chính trị nghiêm trọng, điều đó cũng chẳng đáng quan tâm. Ngay cả khi đã mắc sai lầm, chỉ cần Cao thành khẩn nhận khuyết điểm trước đảng, đảng vẫn có thể tha thứ, đồng chí ấy vẫn có ích đối với cách mạng.
Giang Thanh cũng công khai đề cập đến tình dục. Sau khi tôi trở thành bác sĩ riêng của Mao ít lâu, tôi ngạc nhiên thấy, nhiều lần bà đã tự hào khoe đêm hôm trước bà đã làm tình với Mao và khen ngợi hết lời khả năng tình dục của Chủ tịch.
Trong bối cảnh như vậy, thật không lấy gì làm ngạc nhiên khi tình dục là đề tài tán gẫu ưa thích nhất đối với đám vệ sĩ của Mao.
Một đề tài khác cũng không kém phần thú vị đối với nhân viên an ninh là Giang Thanh. Cứ khi vắng tai bà, câu chuyện lại xoay quanh và họ chẳng nể nang gì mà không chế nhạo. Đặc biệt cậu vệ sĩ trẻ, Tiểu Chương, có thể bắt chước cực giống điệu bộ của vợ Chủ tịch. Tiểu Chương, một chàng trai thông minh, có tướng phụ nữ, người sắm vai rất giỏi. Vì áo quần của Giang Thanh (cả áo quần lót bằng lụa) để trong phòng của nhân viên an ninh, nơi đám vệ sĩ tắm rửa, giặt giũ và là quần áo, nên Tiểu Chương đã khoác áo mưa, đội mũ rơm của bà, đi vênh váo lắc hông quanh trong phòng, làm mọi người phá lên cười. Ngay cả Mao, một lần tình cờ được chứng kiến cảnh đó, cũng chỉ tủm tỉm cười mà không nói gì.
Tôi cảm thấy không thích thú gì những trò đó và cố lánh xa bộ phận an ninh. Trước mặt họ, tôi thường nín thinh, người ta nghĩ rằng tôi không ủng hộ tư cách của họ. Bởi vậy, Diệp Tử Long khi biết điều đó, đã chỉ trích tôi tự kiêu tự đại và coi thường ông.
Sau lưng tôi, Diệp Tử Long trực tiếp đến gặp Mao nói tôi là kẻ ngạo mạn, vì là bác sĩ, nên coi thường những cán bộ xuất thân từ những gia đình công nhân và nông dân thuần tuý – bằng chứng chứng tỏ sự bấp bênh về quan điểm chính trị của tôi.
Mao khoái những lời tố cáo như vậy. Ông cố tình tạo ra sự hiềm khích giữa những người cộng sự của ông. Ông thường thu thập những tin tức làm cho chúng tôi chống đối nhau, để ngăn cản chúng tôi liên kết chống lại ông. Ông thường làm cho nội bộ Nhóm Một ở trong bầu không khí căng thẳng. Chẳng hạn, Giang Thanh thường xuyên va chạm với Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều. Trước đây, Giang Thanh và Diệp vốn thân nhau, nhưng khi bà phát hiện ra Diệp đóng một vai trò quan trọng đối với chồng bà, mối quan hệ giữa họ trở nên nguội lạnh trông thấy. Bà cũng không chịu thông cảm với Lý Ẩm Kiều vì Lý đã một lần xúc phạm bà và trong một cuộc phát động chính trị, bà đã chuyển đến Hàng Châu để thoát ra khỏi sự theo dõi. Uông Đông Hưng và Diệp Tử Long là hai kẻ cừu địch. Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều cũng không hoà hợp, vì cả hai đều ganh tị nhau trước những ân huệ của Mao. Mao lợi dụng những bất hoà đó nhưng khi nào có nguy cơ xô xát, ông lại đứng ra hoà giải và sự hoà hợp cũng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Một hôm ở Hàng Châu, Mao nói với tôi:
– Người làm ngành y thường tự kiêu. Tôi không thích thế.
Tôi đáp:
– Có thể với những người khác, nhưng đối với Chủ tịch thì không dám thế.
Mao phản bác:
– Tôi không tin điều đó. Đồng chí chưa bao giờ tự cao tự đại chứ?
Lúc đó tôi mới biết Diệp Tử Long đã tố cáo tôi.
Thực ra nếu so sánh với đám người phục vụ quanh Mao, tôi cũng có chút tự kiêu. Bởi vì xét cả hai mặt, địa vị xã hội của gia đình lẫn quá trình học hành trở thành bác sĩ, một nghề được trọng vọng và người bác sĩ đáng được mọi người kính trọng. Theo quan điểm cách mạng của Mao, mọi quan điểm đã thay đổi. Địa vị cáo quý hiện nay là nông dân và công nhân. Nhưng tôi khó thay đổi quan điểm, tôi luôn tự hào về công việc và cảm thấy khó chịu với những tiếng xì xèo thô thiển trong đám nhân viên của Mao.
Diệp nghĩ tôi nên từ chức, nhưng Mao đóng vai người giải hoà. Ông lệnh cho Diệp không được gây khó dễ đối với tôi và chỉ thị cho tôi hãy xích lại gần Giang Thanh hơn. Bà khuyên tôi nên kính trọng và niềm nở với ông ta một chút. Cuối cùng bà nói, Diệp Tử Long phục vụ Chủ tịch lâu hơn tôi và thậm chí ngay cả bà cũng phải chiều Diệp.
Nhưng tôi không muốn lấy lấy lòng Diệp Tử Long nhưng phải chiều ý Giang Thanh. Tôi nói với Mao những suy nghĩ về Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, rồi kết luận rằng những người khác đều không có cảm tình đối với cả hai người. Mao đáp:
– Nhưng họ có ích đối với tôi. Đồng chí hãy cố hoà hợp với họ.
Lúc đó, tôi vẫn chưa hiểu tại sao cả hai lại hữu dụng đối với Mao. Mãi nhiều năm sau tôi mới biết được sự bí mật về lợi ích của họ đối với Chủ tịch.
Lúc nào tôi cũng cảm thấy mình ở trong tình trạng ngột ngạt – không phải vì Mao, người tôi luôn tôn kính, cũng không phải vì Giang Thanh người gây khó mà vì những cộng sự của Nhóm Một. Những kẻ nịnh bợ này làm cho tôi ghê tởm và chán ngấy những lời nhắc nhở nên bợ đỡ ai hoặc tôi phải sốt sắng với ai. Mặc dù tôi là người cộng sự gần gũi nhất của Mao, nhưng những thành viên của Nhóm Một lại coi tôi chẳng ra gì. Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều – nói chung, cả đám thư ký và vệ sĩ – có thể ví như các hoạn quan trong hoàng cung, suốt ngày tranh nhau lấy lòng vua, chuyển lệnh của vua và lợi dụng ảnh hưởng của họ để doạ nạt và làm nhục người khác. Người ta trông chờ tôi bỏ lòng tự trọng của mình đi và thành kẻ xu nịnh. Mặc dù là bác sĩ riêng của Mao, nhưng tôi vẫn bị Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đối xử thô lỗ.
Tôi đã cố gắng để tình hình của tôi sáng sủa hơn. Mao vẫn còn khỏe và không cần bác sĩ túc trực hàng giờ bên ông. Nếu tôi ở lại tất nhiên tôi không bao giờ trở thành một thầy thuốc tầm cỡ, trong khi ước mơ trở thành bác sĩ giỏi vẫn thôi thúc không ngừng.
Bởi vậy, tôi đã quyết định từ chức.
Trước hết tôi nói với Uông Đông Hưng. Ông ta hoài nghi:
– Đồng chí đã làm được nhiều việc cho Chủ tịch đấy chứ.
Rồi ông động viên tôi:
– Đồng chí đã giải quyết được vấn đề bạch cầu và kê toa thuốc ngủ mới cho Chủ tịch. Đồng chí không được xem xét mọi việc một cách khe khắt như thế, đồng chí phải nghĩ đến đảng. Không mấy ai dễ có được một chức vụ như đồng chí. Ngoài ra, nếu đồng chí không cân nhắc kỹ càng một cách toàn diện, đầy đủ mà xin thôi việc không có lý do chính đáng, sau này có thể đồng chí sẽ không tìm được việc làm đâu.
Câu nói cuối cùng của Uông làm tôi tỉnh ngộ. Những người rời khỏi Nhóm Một không có lý do cụ thể, trong số đó có một người là bác sĩ của Mao trước đây, đã phải cố gắng lắm mới tìm nổi việc làm. Người ta cho rằng nếu ai đó phải thôi việc chắc chắn phải vì lý do chính trị. Vì tại sao người ta lại muốn rời khỏi khu vực Trung Nam Hải danh giá như thế nhỉ? Không ai dám liều lĩnh trở thành một người có nghi vấn về chính trị. Với lý lịch gia đình, sự ra đi của tôi sẽ trở thành nhiều nghi vấn chính trị. Tôi kẹt trong tình thế lưỡng nan. Nhưng tôi cảm thấy rất nguy làm việc trong Nhóm Một. Mặc dù vậy, tôi vẫn luôn luôn nghĩ tới quyết định từ chức, đù chẳng đi đến đâu.
Tôi nghĩ lung lắm về tình trạng của tôi, nhưng câu trả lời vẫn như cũ, tôi vẫn muốn xin thôi việc, càng sớm càng tốt, dù hậu quả xấu như thế nào cũng kệ.
Rồi tôi đến gặp Giang Thanh, báo cáo:
– Tôi đã suy nghĩ kỹ về tình trạng của tôi ở đây. Tôi là một trí thức của xã hội cũ, không hợp với những đòi hỏi về chính trị được đặt ra đối với bác sĩ riêng của Chủ tịch. Tôi thiết nghĩ, chúng ta cần phải tìm ai đó thay tôi và người đó xuất thân từ giai cấp chuyên chính và có lý lịch trong sạch về chính trị.
Giang Thanh hỏi tôi đã báo cáo chuyện này với Mao chưa. Tôi giải thích rằng tôi đã báo cáo đầy đủ thành phấn xuất thân, nhưng chưa nói chuyện xin từ nhiệm.
Bà ta trầm ngâm suy nghĩ một lát, khuyên tôi đừng đến gặp Chủ tịch. Bà muốn đích thân đến nói chuyện với ông.
Hôm sau, Giang Thanh cho gọi tôi tới. Bà đã nói chuyện với Mao và đi đến một quyết định, những khó khăn về chính trị của tôi và gia đình tôi đều thuộc về quá khứ. Ngoài ra, Uông Đông Hưng, La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn đã kiểm tra kỹ lý lịch, tư cách và đã xếp tôi vào loại không có vấn đề. Nếu lấy thành phần gia đình đổ lên đầu đồng chí là hoàn toàn bất công. Chu Ân Lai cũng đã được báo cáo chuyện này. Giang Thanh bảo:
– Như vậy đồng chí có thể hoàn toàn yên tâm và trở lại công việc của đồng chí. Đồng chí hãy quên quá khứ vấn đề chính trị của đồng chí đi.
Uông Đông Hưng khá vui. Ông tự hào nói:
– Ít ra, chúng ta đã biết Chủ tịch nghĩ gì về đồng chí. Chủ tịch quý mến đồng chí, đúng thế không? Tôi đã bảo mà, hễ tôi tiến cử ai, người ấy rất xứng đáng, có phải không? Bây giờ đồng chí phải cố gắng làm việc. Đồng chí không còn gặp khó khăn gì nữa!
Thế là tôi không còn cựa quậy vào đâu được.
Sau sự việc này, Giang Thanh tỏ ra thân mật với tôi hơn trước nhiều. Bà thường gọi tôi đến để chuyện trò và pha trà mời tôi.
Bà bắt chước cách nói chuyện của Mao, thoải mái và không nặng nề. Bà động viên tôi nói thẳng và cố tìm hiểu nhưng suy nghĩ của tôi, mà không đánh giá một suy nghĩ nào. Giang Thanh có thể bắt chước giống hệt chồng, vì bà đã từng là diễn viên, nhưng thực ra lại không phải tác phong của ông. Quan điểm của bà ảnh hưởng trực tiếp từ Mao vì thế tôi thường bất đồng ý kiến, nhưng khi trò chuyện tôi rất cẩn trọng. Tôi không hề nghĩ, một lời nhận xét vô tư nhất về một cuốn tiểu thuyết hay một bài thơ, mười năm sau lại có thể trở thành nguy cơ đe doạ cuộc sống của người đó. Nhưng từ buổi ban đầu tôi không dễ gì cảm nhận thấy nhưng tôi đã có linh cảm như vậy và trước mặt Giang Thanh tôi luôn luôn cảnh giác mỗi lần đến viếng thăm.
Đầu mùa hè năm 1956, chúng tôi vẫn còn ở Quảng Châu, người y tá của Giang Thanh cho tôi hay, vợ của Chủ tịch muốn gặp tôi. Cô ta con nói thêm:
– Có tin mừng cho đồng chí đấy.
Khi tôi bước vào phòng, Giang Thanh đang ngắm nghía những tấm ảnh. Bà là người chụp ảnh nghiệp dư rất cừ. Bà đặt những tấm ảnh sang một bên và lên tiếng:
– Bác sĩ này, tôi nghe thấy người ta nói đồng chí thường ra mồ hôi khá nhiều.
Tôi lúng túng. Tôi thiếu quần áo hợp với khí hậu nhiệt đới ở Quảng Châu. Mặc dù khi làm việc tôi đã phải cởi áo ra, nhưng vì ở đây không có máy điều hoà nhiệt độ và quần của tôi may bằng vải dày, nên suốt ngày tôi vã mồ hôi.
Tôi đáp:
– Tôi không mang theo quần áo mùa hè.
Giang Thanh chỉ vào những xấp vải trên một cái bàn:
– Đồng chí hãy lấy một tấm vải để thợ may cho một bộ quần áo khác. Quần áo của đồng chí dày quá.
– Thưa, tôi có thể chỉ mắc áo sơ mi, không mặc áo vét cũng chẳng sao.
Tôi đang chần chừ thì cô y tá giật tay áo tôi, ra hiệu tôi nên nhận món quà của Giang Thanh. Nhưng tôi lại chối từ:
– Thành thật cám ơn sự quan tâm đặc biệt, nhưng tôi không dám nhận.
Tôi không muốn mang tiếng đã nhận quà của vợ Chủ tịch. Nhưng Giang Thanh vẫn không chịu.
– Đồng chí hãy nhận cho tôi hài lòng.
Bà sẽ cho người đưa tôi đến thợ may.
Món quà của Giang Thanh đã đặt tôi vào một tình thế khó xử. Mặc dù bà có tiếng keo kiệt, nhưng lần này bà lại tỏ ra hào phóng đối với tôi. Nhận món quà của bà sẽ làm nhân viên Nhóm Một thêm đố kỵ, họ đã từng bép xép nói xấu tôi sau lưng. Nếu tôi từ chối, có nghĩa là tôi dám xúc phạm bà và có thể cũng dám xúc phạm cả Mao nữa.
Tôi đã kể cho Uông Đông Hưng về sự khó xử của tôi. Uông nói:
– Nếu đồng chí không nhận vải, Giang Thanh sẽ quả quyết đồng chí coi thường bà ấy. Nếu đồng chí nhận, những người khác sẽ ghen tị với đồng chí. Tôi sẽ nói cho đồng chí ấy hiểu về vấn đề này và có thể thuyết phục được Giang Thanh.
Nhưng Giang Thanh không thay đổi ý kiến. Uông Đông Hưng thuật lại với tôi:
– Giang Thanh nói “Đồng chí ấy hỏi, tại sao người này không thể quan tâm đến người khác được?”. Đồng chí ấy đâu muốn mua chuộc đồng chí. Nếu có ai xì xào sau lưng đồng chí, tôi sẽ giải thích cho họ biết.
Tôi buộc phải nhận món quà của Giang Thanh. Nhưng lời đàm tiếu còn tệ hại hơn những điều tôi tưởng tượng. Lý Ẩm Kiều to nhỏ:
– Giang Thanh lúc nào mà chả keo kiệt. Cử chỉ thân thiện của bà đối với bác sĩ Lý chắc chỉ là một lần đầu tiên.
Rồi Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đã phao tin, Giang Thanh và tôi rất “hữu  hảo” với nhau, tức là chúng tôi là những người bạn tốt, ý bóng gió rằng, giữa chúng tôi có mối quan hệ tình cảm nào đó. Tin đồn đến tai Mao và có lẽ ông cũng nửa tin nửa ngờ.
Ngay sau khi nghe được tin đồn thổi, tôi trực tiếp đến bào cáo với Mao.
Tôi hỏi ông có biết món quà Giang Thanh cho tôi không. Ông bảo:
– Biết, biết ngay từ đầu. Đồng chí cứ nhận lấy, sao lại từ chối.
Tôi báo cáo với ông về những lời đồn thổi giữa tôi và Giang Thanh, ông bảo ông cũng đã nghe thấy.
Bố bảo Giang Thanh chẳng dám ngoại tình. Ngoại tình, Mao có cớ để ruồng bỏ, điều bà ta rất lo sợ. Nhưng bà rất khéo lấy lòng những nhân viên gần gũi Mao và hài lòng khi được đàn ông ngưỡng mộ.
Tôi báo cáo với Mao về tin đồn nhảm và chứng minh không có chuyện đó. Mao bảo:
– Người quân tử hành xử theo lương tâm.
Lời đồn thổi thế là chấm dứt.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [15]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 13

Posted: 02/07/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh cũng lưu lại Quảng Châu, tôi thường xuyên gặp. Sau khi đến được hai ngày, vệ sĩ riêng của Mao, Lý Ẩm Kiều nói với tôi:
– Đồng chí nên báo cáo tình hình sức khỏe của Chủ tịch cho Giang Thanh biết.
Tôi hỏi:
– Sao vậy? Hôm đầu chúng tôi đến có thấy mặt bà ta đâu.
Lý hạ giọng:
– Nếu đồng chí không báo cáo, bà sẽ cho đồng chí coi thường.

Tôi làm theo lời khuyên của Lý. Khoảng 9 giờ sáng, người ta tôi được đưa đến phòng làm việc của bà ở khu biệt thự cũ của Tôn Dật Tiên, khu nhà số 2. Giang Thanh mặc bộ y phục màu xanh sẫm, đi giày da trắng, đế bằng, tóc búi tó. Bà đang ngồi trên ghế và đọc tờ Bản tin Nội bộ, hàng ngày được chuyển cho những nhà lãnh đạo cao cấp. Trong đó có nhiều tin quan trọng trong và ngoài nước, nguyên văn không cắt xén, phần lớn đều lấy từ báo chí nước ngoài. Giang Thanh cũng bắt chước thói quen của Mao, khi tiếp khách tay thường cầm sách. Tuy nhiên, ở bà việc này không gây ấn tượng. Bà chỉ vờ đọc, thường khi được thông báo khách có mặt mới cầm sách lên.
Nhớ lại lời nhắc nhở nhiều lần của Lý Ẩm Kiều và y tá, phải đặc biệt lễ phép đối với phu nhân của Chủ tịch, tôi đã ngoan ngoãn chào Giang Thanh. Bà ra hiệu cho tôi ngồi. Tôi nói:
– Thưa, Chủ tịch vẫn khỏe ạ. Mặc dù Chủ tịch sinh hoạt không theo giờ giấc, không có lợi cho sức khỏe, nhưng Chủ tịch vẫn rất thọ. Nếu ngay bây giờ chúng ta buộc Chủ tịch thay đổi, có thể sẽ có hại nhiều hơn là có lợi ạ.
Bà xẵng giọng hỏi lại:
– Đồng chí cho rằng việc Chủ tịch sinh hoạt điều độ không quan trọng sao?
– Thưa, Chủ tịch đã mắc chứng mất ngủ từ nhiều năm nay. Chỉ có thuốc ngủ mới làm cho Chủ tịch chợp mắt được.
Bà cau có vặn lại:
– Rõ ràng đồng chí không muốn thay đổi gì.
– Dạ, đúng thế ạ, nếu không chứng mất ngủ của Chủ tịch thêm trầm trọng.
– Chẳng có thày thuốc nào có lời khuyên hay đến nỗi người ta phải dùng thuốc ngủ. Quan điểm chữa bệnh của các bác sĩ có phải không?
Giọng bà đầy mỉa mai, giễu cợt, cuộc gặp gỡ này đang trở lên tệ hại.
– Dạ, đúng thế.
Lông mày bà nhướn lên, nhìn tôi chằm chằm:
– Đồng chí đã báo cáo điều này với Chủ tịch chưa?
– Dạ, đã.
Giang Thanh ngả người lại, ngón tay gõ gõ vào mép bàn, hỏi:
– Ý Chủ tịch thế nào?
Tôi giải thích:
– Chủ tịch nhất trí và bảo mỗi ngày một có tuổi rất khó bỏ được thói quen.
Bà ta hơi cúi đầu, ngửng lên rồi lấy tay vuốt mớ tóc xoã. Tôi biết thói quen của Mao làm Giang Thanh rất khó chịu, bà ta muốn thông qua tôi thay đổi thói quen của chồng, nhưng không dám nói thẳng với Mao, bà là người thiếu bản lĩnh, trung thành một cách hèn hạ và chẳng ngượng ngùng nhận những lời xiểm nịnh của những người xung quanh. Không có Mao, bà chả là cái thá gì với mọi người.
– Tôi đồng ý với ý kiến của đồng chí, ngày xưa nhìều cán bộ cao cấp cũng đã khuyên nhủ Chủ tịch thay đổi thói quen đó, tôi đâu có tán thành.
Bà mỉm cười, hỏi:
– Đồng chí không tăng liều thuốc đấy chứ?
– Dạ, không.
– Nhưng đồng chí biết rõ thuốc ngủ có hại cho sức khỏe chứ?
– Đã nhiều năm Chủ tịch mắc chứng mất ngủ, thuốc giúp Chủ tịch ngủ là lấy lại sức.
– Xem ra đồng chí không muốn thay đổi cách điều trị.
– Dạ, đúng thế, chỉ trừ khi nào Chủ tịch cần tăng liều lượng thôi ạ.
– Không, bác sĩ, dùng thuốc ngủ đâu có tốt gì.
Bà ta bắt đầu gài bẫy tôi:
– Thế đồng chí có dùng thuốc ngủ không đấy?
– Thưa, tôi không.
Bà ngạo mạn, hỏi:
– Đồng chí không uống, đồng chí biết thuốc ngủ có hại cho sức khỏe, có đúng thế không?
– Thưa, tốt hơn là không nên dùng thuốc ngủ ạ. Nhưng từ nhiều năm nay Chủ tịch đã quen…
Bà thô lỗ ngắt lời tôi:
– Đồng chí đã nói gì đó với Chủ tịch, để ông tiếp tục dùng thuốc ngủ chứ!
– Thưa vâng. Tôi đã từng hiểu cặn kẽ thói quen giấc ngủ của Chủ tịch. Hàng ngày ông ngủ muộn hơn hai hoặc ba tiếng so với ngày hôm trước. Thỉnh thoảng ông thức liền 24 tiếng hoặc 36 tiếng. Nhưng sau đó ông ngủ liền từ 10 đến 12 tiếng. Tính trung bình mỗi ngày ông ngủ từ 5 đến 6 tiếng. Thoạt nhìn, điều này có vẻ không theo quy luật, nhưng thực ra thói quen này cũng có sự đều đặn riêng.
Giang Thanh lại hỏi:
– Tại sao đồng chí không thông báo sớm tất cả điều này cho tôi biết?
Tôi mất dần kiên nhẫn:
– Thưa, tôi chưa có điều kiện. Chủ tịch chỉ mới vừa nói điều này với tôi.
Giang Thanh lạnh lùng nói:
– Thôi được, chúng ta tạm thế đã. Lần sau đồng chí hãy nói cho tôi biết trước khi đồng chí báo cáo với Chủ tịch.
Tôi không có ý định phải thưa bẩm với Giang Thanh trước. Bà ta không thể trực tiếp kiểm soát được chồng, định qua tôi để tác động đến Mao. Nếu tôi bẩm báo mọi việc về Mao, tôi sẽ phải làm theo chỉ thị của bà. Tôi tự nhiên chui đầu vào bẫy. Tôi lễ độ cáo từ, nhưng phớt lờ chỉ thị.
Một trận mưa rào xối xả đổ xuống khi tôi rời phòng nên đành phải đứng trú mưa ngoài hành lang. Bà ta đi ra nhìn thấy tôi, hỏi:
– Bác sĩ vẫn còn ở đây à?
Sau khi tôi giải thích lý do, giọng bà trở lên thân thiện, bảo:
– Vào trong này đã, ta nói chuyện phiếm với nhau.
Bà hỏi tôi về quá trình học tập, bà kể cho tôi nghe chuyện khám bác sĩ ở Thượng Hải lần ấy bà ốm nặng. Viên bác sĩ khám qua loa lấy lệ rồi ghi đơn thuốc chẳng thèm hỏi han đau ốm ra sao. Giang Thanh thắc mắc, nhưng bác sĩ lờ tít, an ủi mấy câu, bảo về. Giang Thanh nổi đoá, quát ầm ầm:
– Ông ta khám tôi như khám chó không bằng. Cách khám bệnh và hành xử của ông với bệnh nhân thật khốn nạn.
Rồi hầm hầm bước ra khỏi cửa, không thèm lấy đơn thuốc.
Dừng một lát sau khi kể xong chuyện, hỏi tiếp:
– Các bác sĩ được đào tạo ở Tây phương theo lối hành xử như vậy sao? Không một ai trong những bác sĩ quan tâm đến bệnh nhân có thật thế không?
Tôi khiêm tốn phản đối:
– Không phải bác sĩ nào cũng tắc trách như vậy.
Tôi cố giải thích và dẫn chứng rất nhiều bác sĩ đã hết lòng cứu chữa người bệnh.
Bà phản pháo:
– Chuyện ấy chẳng có gì ngoài chuyện ban phát chút xíu chủ nghĩa nhân đạo của tầng lớp trung lưu bố thí mà thôi.
– Có nhiều câu chuyện rất cảm động…
Tôi cố gắng nói để bà hiểu, nhưng vô ích. Trong Giang Thanh, phục vụ nhân nhân mà không có lập trường giai cấp là không thể chấp nhận. Bà ta cho rằng chỉ có “chủ nghĩa nhân đạo cách mạng” do chính công nhân và nông dân làm chủ mới thực sự phục vụ cho giai cấp mình. Giai cấp đối kháng, kể cả tầng lớp trung lưu cũng không đáng được làm công việc trị bệnh.
Tôi tin việc điều trị có liên quan đến chuyện quan hệ giai cấp, bạn bè hoặc kẻ địch, Giang Thanh thì không, chỉ tin chủ nghĩa nhân đạo cách mạng còn coi chủ nghĩa nhân đạo tư sản, tư bản là tồi tệ và xấu xa.
Bà ta trả lời tôi:
– Đồng chí là bác sĩ, tôi là bệnh nhân. Tôi không muốn ai tranh luận với tôi.
Tôi không cố ý gây bất hoà với phu nhân của Chủ tịch và tôi đã từng bị khiển trách.
Sau khi tôi đi khỏi, Giang Thanh nói với một cô y tá của bà:
– Bác sĩ Lý thật ương ngạnh và kiêu căng, cứ khăng khăng giữ ý kiến bảo thủ. Chúng ta phải dạy cho hắn một bài học.
Tôi kể cho Mao cuộc nói chuyện của tôi với Giang Thanh. Mao mỉm cười, bảo:
– Chúng ta không hoàn toàn phản đối chủ nghĩa nhân đạo thuần tuý, nhưng phản đối cách hành xử chủ nghĩa nhân đạo của kẻ thù.
Sự khó chịu của Giang Thanh làm Mao phải suy nghĩ, ông có ý định làm người trung gian giải hoà giữa tôi và vợ ông. Ông nói:
– Xem ra Giang Thanh đã công khai đối đầu với đồng chí. Đồng chí nên có lời nịnh nọt một chút chắc làm bà ta hài lòng.
Uông Đông Hưng cũng vậy. Ông ta muốn tôi kính trọng Giang Thanh hơn nữa và lo ngại hậu quả sẽ xảy ra khi tôi không làm theo lời. Có lẽ ông ta cũng đã từng xung đột với Giang Thanh.
Lời khuyên của cả hai người làm tôi ngạc nhiên, bởi vì tôi từng được huấn thị nên trung thực, tránh xa những chuyện bỡ đỡ nịnh nọt.
Mặc dù tôi không muốn nịnh Giang Thanh và thấy khó gây được thiện cảm, nhưng tôi vẫn tìm cách để hiểu bà.
Bà sống một cuộc sống xa hoa, muốn gì được nấy, chẳng phải làm gì, thật nhàm chán và vô nghĩa. Giang Thanh bị bỏ rơi. Mao không quan tâm đến và bà cũng chẳng có vai trò gì trong cuộc đời ông. Ông hơn vợ tới 20 tuổi và hai người có những xu hướng rất khác nhau. Giang Thanh coi trọng giờ giấc và lập trình định sẵn, ngược lại Mao chối bỏ tất cả mọi sự điều độ. Mao thích đọc, còn Giang Thanh lại thiếu tính kiên nhẫn đọc sách. Mao tự hào về sức khỏe, trái lại Giang Thanh luôn cảm thấy đau yếu, bệnh tật. Chưa bao giờ họ cùng ăn với nhau. Trong khi Mao ưa thích những món ăn cay của vùng Hồ Nam, Giang Thanh lại mê món cá nấu với rau nhạt nhẽo, hoặc làm ra vẻ sành các món ăn “phương Tây” từng nếm thử ở Liên Xô và còn đòi hỏi cả món thịt hầm và trứng cá caviar.
Người ta đã từng hết sức cố gắng tìm cho bà một công việc phù hợp. Năm 1949 bà được bổ nhiệm làm Phó phòng kiểm duyệt phim thuộc bộ Văn hoá, nhưng bà tỏ ra ngạo mạn, hễ động chuyện gì bà đe sẽ báo cáo với Mao chủ tịch, đến nỗi chẳng ai có thể chịu nổi. Sau đó đổi bà sang làm phó phòng Thư ký chính trị của Văn phòng tổn hợp của Dương Thượng Côn ở Trung Nam Hải, nhưng bà lại nói, Mao ra lệnh bảo bà miễn nhiệm.
Mao đành phái cử bà làm bí thư riêng của ông. Với chức vụ này, bà phải tổng hợp tin tức từ các bản tin mà phần lớn trong tờ Tin Nội Bộ. Vì không có thời gian đọc, Mao giao cho bí thư đọc và tổng hợp tóm tắt những tin quan trong. Các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước đều giao cho vợ làm công việc tương tự như vậy.
Mặc dù Giang Thanh thường nhận đầy đủ bản Tin Nội Bộ nhưng ít khi đọc. Đọc xong, không thể phân biệt được tin nào quan trọng, tin nào không, đến nỗi công việc của bà chẳng giúp gì được cho Mao. Vì vậy, Lâm Khắc phải đảm nhiệm công việc của Giang Thanh là thu thập tin tức và báo cáo.
Giang Thanh, thuộc loại người Trung Quốc thường ví “xiao congming”, kẻ khôn vặt. Giỏi những chuyện vặt vãnh, mánh khóe ranh ma nhưng lại dốt đặc về chuyện đại sự, kém khả năng phân tích tổng hợp. Bà biết một chút về lịch sử Trung Hoa, còn những chuyện bên ngoài biên giới bà mù tịt. Bà có biết một số nước lớn, tên tuổi một vài lãnh tụ quốc gia đó, nhưng chỉ biết qua loa đại khái. Về Tây Ban Nha, bà không hiểu về thể chế chính trị thời xưa, chẳng biết ai là người đang lãnh đạo quốc gia. Bà thường chậm hiểu cái mà bà vừa đọc. Có lần bà nói với tôi, nước Anh không phong kiến như Trung Quốc, vì có nữ hoàng trị vì. Theo bà, chế độ gia trưởng của Trung Quốc mang tính chất phong kiến, cho nên sự lãnh đạo của phụ nữ biểu hiện của thời đại mới, tân tiến hơn. Bà nghe được giọng nói đặc thù Bắc Kinh, nhưng hiểu biết của bà về ngôn ngữ Trung Hoa lại rất hạn chế. Nhưng bà biết cách giấu dốt khi bà thường hỏi thêm những từ đó được phát âm như thế nào trong tiếng địa phương ở Bắc Kinh. Việc tra từ điển đối với bà thật khó khăn.
Mặc dù kiến thức kém cỏi như thế, nhưng bà lại hay giễu cợt, chê bai người khác. Một lần Mao nói đùa rằng tôi thu lượm được kiến thức về lịch sử Trung Quốc nhờ xem kinh kịch Bắc Kinh. Thật là một sự lăng nhục, tôi đã học tập và nghiên cứu lịch sử Trung Quốc hệ thống và nghiêm túc. Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục lấy lời nhận xét của Mao để châm chọc, tuy câu chuyện tiếu lâm đó đã quá lỗi thời.
Mao không yên tâm về sự thờ ơ của vợ đối với những sự kiện lịch sử và thời sự. Bởi vậy, ông thường gửi sách, tài liệu và những tập sưu tầm tin tức mới nhất để bà nắm được những thông tin như ông. Nhưng Giang Thanh luôn luôn thoái thác. Thay vì đọc, tối ngày bà xem những cuốn phim nhập từ Hong Kong. Bà lấy lý do ốm. Giang Thanh luôn đau ốm, nhưng xem phim chữa được bệnh suy nhược thần kinh của bà.
Năm 1953, Bộ y tế và Văn phòng của lực lượng an ninh đã ra tay với những bệnh tật mơ hồ của bà. Họ cử bác sĩ Hứa Đào đến làm bác sĩ riêng. Ông nguyên là bác sĩ riêng của Mao trước đây, nhưng vì Giang Thanh luôn đau ốm, Mao chuyển bác sĩ Hứa Đào chăm sóc vợ ông.
Giang Thanh đã đẩy cuộc đời của bác sĩ Hứa xuống địa ngục. Trong chiến dịch chống bọn phản cách mạng năm 1954, bà đã công kích ông và sau này vẫn tiếp tục cái trò đê tiện đó. Tại Quảng Châu, ông đã trở thành nạn nhân của những lời vu khống cay độc. Lần này ông bị kiểm điểm vì đã giở trò sàm sỡ với một cô y tá của Giang Thanh.
Cô y tá vốn mắc chứng thiếu máu, luôn cảm thấy mệt mỏi và chóng mặt. Vì vậy, ngay sau khi đến Quảng Châu ít lâu, cô đã yêu cầu bác sĩ Hứa khám cho cô. Bác sĩ Hứa khám cô trong tiền sảnh của nhà khách, nơi cô ở. Bỗng nhiên, một vệ sĩ – một gã nông dân ít học, vô đạo đức, xộc vào phòng trong lúc đang khám. Gã vốn mù tịt về y tế, gã đã vu cho bác sĩ Hứa tội quấy rối tình dục.
Là chỉ huy toán vệ sĩ, Uông Đông Hưng buộc phải lưu tâm đến vụ này. Ông đã chứng minh được Hứa Đào vô tội, biết rõ đạo đức và tư cách của bác sĩ, hiểu rõ sự thất học và tư cách thô lỗ của tên vệ sĩ.
Tôi cũng rất bất bình về sự kiểm điểm này. Đơn giản, không đời nào bác sĩ Hứa lại hành động như vậy. Ông là người rất thận trọng, có thể bướng bỉnh một chút, nhưng ông sống có nguyên tắc và rất đạo đức. Ngoài ra, người ta đã gán cho ông tội có liên hệ với nhóm chống đảng, tôi tin chắc chắn ông không khờ khạo đền nỗi đánh mất tương lai của mình. Trong khi kiểm điểm, tôi đã biện hộ cho bác sĩ Hứa bằng cách đưa ra bằng chứng, sự liêm khiết, sự thành công trong nghề của ông là một tấm gương mẫu mực. Chúng ta không có quyền buộc tội ông với lời tố cáo hoàn toàn vô lý.
Cuối cùng, Mao cũng can thiệp bảo vệ danh dự cho bác sĩ. Bác sĩ Hứa được giải toả khỏi những nghi ngờ và gã vệ sĩ kia bị sa thải. Có lẽ, đây là lần đầu tiên người ta đã cư xử trung thực đối với một thày thuốc trong một vụ xung đột với lực lượng an ninh.
Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục gây sự với vị bác sĩ của bà. Bác sĩ Hứa phải làm người chiếu phim và chỉ được phép chọn những cuốn phim làm cho bà sảng khoái, vui vẻ để đêm không làm bà mất ngủ. Nếu ông chọn không đúng phim bà thích – điều này thường xảy ra – lập tức bà nhiếc mắng ông thậm tệ. Hứa từ chối, bác sĩ không làm công việc người chiếu phim, nhưng Giang Thanh không chịu. Xem phim là điều trị chứng suy nhược thần kinh cho bà. Vì vậy trách nhiệm của ông phải chiếu phim để chữa bệnh. Tuy vậy, hầu hết các cuốn phim đều không làm cho bà vừa lòng, thường chì chiết ông. Khi xem bộ phim “Cuốn theo chiều gió”, bà quả quyết, đây là phim tuyên truyền cho chế độ nông nô ở miền Nam Hoa Kỳ, bà chửi rủa những người thích bộ phim đó là “bọn phản cách mạng thối tha”. Giữa những năm 1950, câu nói đó của bà cũng chẳng có mấy trọng lượng. Thế nhưng vài năm sau, trong khi diễn ra cuộc Cách mạng văn hoá, với lòng thù hận, bà đã huỷ hoại sự nghiệp và cuộc đời của biết bao con người với câu nói đó.
Nếu bác sĩ Hứa có chọn đúng cuốn phim, bà cũng chẳng hài lòng. Thỉnh thoảng cảnh phim trên màn ảnh quá sáng, kêu làm đau mắt, nếu điều chỉnh tối đi, lại ca cẩm không nhìn thấy gì.
Người ta xây cho bà hai buồng, một để xem phim, một để đọc sách và nghỉ ngơi. Ánh đèn quá sáng sau khi được điều chỉnh, bà lại kêu nhiệt độ trong phòng không được ổn, hoặc quá nóng, hoặc quá lạnh, hoặc quá ngột ngạt, gió lùa quá mạnh, bà tức thời bỏ sang phòng khác. Người ta chẳng bao giờ có thể chiều nổi ý bà, vì thế họ luôn luôn là người có lỗi và phải chịu những lời đay nghiến tưởng như không bao giờ dứt.
Có lần Quảng Châu có đợt không khí lạnh đột ngột tràn về, nhân viên phải chạy kiếm lò và than sưởi, nhưng không dám phá rối sự yên tĩnh của Giang Thanh, họ phải bò nhanh bằng hai tay và hai chân qua cửa sổ phòng khách. Một lần nhân viên bảo vệ tranh luận với bà điệu nhảy tango có 4 hay 5 bước, bực mình bà phạt đứng nghiêm ngoài sân 2 giờ đồng hồ. Khi quay trở về Bắc Kinh, bà ra lệnh máy bay hạ cánh xuống sân bay Tế Nam để đuổi bác sĩ vì người vệ sĩ đã làm bà phật ý trong chuyến bay. Thường xuyên bắt 5 hoặc 6 người phục vụ phải nhanh tay nhanh chân làm theo theo tính khí thất thường. Bà tự cho rằng được phục vụ cho phu nhân của Mao chủ tịch là niềm vinh hạnh, nhưng nỗi khốn khổ của họ cũng phải giá không kém với niềm vinh dự đó.
Khá lâu sau tôi mới biết, vô số câu chuyện dính dáng đến phụ nữ của Mao là nguyên nhân chính gây lên tính khí thất thường của Giang Thanh. Vì hầu hết các nữ y tá dưới quyền tôi đều là những thiếu nữ trẻ, đẹp, quyến rũ dễ làm Mao siêu lòng, nên thỉnh thoảng bà đề nghị tôi hãy lưu tâm, đừng để các cô y tá đó léng phéng với chồng bà. Một lần, tình cờ tôi bắt gặp Giang Thanh ngồi khóc trên một chiếc ghế dài trong công viên ở Trung Nam Hải, trước dinh thự của Mao. Bà khẩn khoản yêu cầu tôi đừng tiết lộ sự việc này, coi như không biết. Stalin chiến thắng trên các mặt trận, nhưng cũng từng thất bại trong tình yêu đó sao. Bà rất lo, chồng bà càng công khai săn đuổi các cô gái trẻ đẹp bao nhiêu, nỗi lo sợ của bà sẽ bị ông bỏ rơi ngày càng lớn bấy nhiêu.
Mao cố gắng không làm bẽ mặt Giang Thanh khi các cô gái quay quanh ông, nhưng đôi khi ông cũng thiếu cẩn trọng. Đã nhiều lần Giang Thanh bắt gặp Mao quấn quýt, ve vãn các cô gái kể cả y tá phục vụ bà. Giang Thanh thường tự hào về sắc đẹp và quyền lực vì thế cách cư xử của Mao đã làm tổn thương lòng tự ái, nhưng chẳng bao giờ dám thể hiện công khai sự khó chịu với Mao. Bà hoàn toàn bất lực việc chế ngự tính trai lơ của chồng.
Mao biết điều đó, có lần ông nói với tôi sau khi tôi phát hiện tính háu gái của ông:
– Giang Thanh thường lo sợ tôi không còn thiết gì đến bà ấy nữa. Tôi đã an ủi, động viên nhiều lần, không có chuyện đó, nhưng vẫn lo phiền. Thế có lạ không?
Mao chẳng hiểu gì phụ nữ, bởi không có người vợ nào muốn chồng mình đi ve vãn, tán tỉnh các cô gái trẻ, ông cũng chẳng hiểu vì sao Giang Thanh vẫn không an lòng.
Cô đơn, thất vọng và đau khổ, Giang Thanh lấy trút đau khổ đó lên đầu tất cả những người phục vụ xung quanh. Tôi không rõ bà đau khổ đến đâu, nhưng bao giờ cũng thấy bà ta tán thành, ủng hộ mọi quyết định của Mao và chẳng dám làm bất cứ điều gì nếu ông không cho phép.
Vì không thể chế ngự được Mao nên bà cố tận dụng cương vị là vợ ông để chỉ huy người khác. Sự chông chênh đó làm cho bà trở nên tầm thường và nanh ác. Đặc biệt bà thường nổi giận với đám vệ sĩ, vì bà biết họ đã giúp Mao trong những vụ bê bối. Nhưng bởi vì những người vệ sĩ lại trực tiếp làm việc cho Mao và ở dưới quyền Uông Đông Hưng, nên khó có cơ hội sinh sự với họ. Do đó, bà chỉ còn biết trút cơn thịnh nộ lên những người phục vụ riêng của bà, trước tiên là các nhân viên y tế.
Giang Thanh liên tiếp chỉ trích những người khác đã làm khổ bà, song thực ra bà lại đày đoạ tinh thần của những nhân viên của bà hơn thế nữa. Bà công khai cho rằng, nếu bà gặp chuyện không hay, mọi người khác cũng phải chịu đau khổ. Chỉ có một số ít người làm việc lâu được với bà, còn hầu hết đều xin thuyên chuyển đi nơi khác để khỏi bị hành hạ.
Mùa thu năm 1956 bác sĩ Hứa Đào xin từ chức. Sau chiến dịch chống bọn phản cách mạng và vụ vu khống quấy rối tình dục, ông đề nghị được đi học bồi dưỡng chuyên môn, xin chuyển về làm việc ở bệnh viện, để ông có điều kiện thể sử dụng khả năng và nâng cao kiến thức. Cuối cùng, ông đã chuyển về Bệnh viện Công đoàn Bắc Kinh, quỹ Rockefeller của Hoa Kỳ tài trợ. Đây là một trong những bệnh viện tốt nhất của Trung Quốc. Lúc đó, tôi đã ghen tị với Hứa Đào về việc ông chuyển công tác.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [14]