19 tháng 3, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 9

Posted: 22/06/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong những năm đầu tiên phục vụ Mao, tôi thấy ông mắc những bệnh thông thường như cảm sốt, viêm phế quản, ngứa, chai chân và ăn không ngon miệng. Do mắc chứng táo bón cứ hai hay ba ngày các vệ sĩ lại phải tháo thụt cho ông, vì thế chuyện đại tiện của Mao là chủ đề các cuộc giao ban hàng ngày của chúng tôi. Ngày nào tiêu hoá của ông bình thường ngày đó thực sự là ngày lễ đối với những người làm việc quanh Mao.
Đối với tôi, chứng mất ngủ của Mao làm tôi lo lắng nhất.

Mao là người có nghị lực phi thường. Bản chất ương ngạnh, ông tỏ ra không chấp nhận những thói quen thông lệ, thậm chí chống lại sự độc quyền khắc nghiệt đồng hồ thời gian của cơ thể. Theo ông, tắm táp và ngủ nghê chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách vô ích. Cơ thể của Mao không thừa nhận nhịp sống sinh học ngày đêm, ông có thể thức nhiều hơn người khác, đồng thời mọi hoạt động chính của ông đều diễn về ban đêm. Ví thử nếu ông đi ngủ vào lúc nửa đêm, tối hôm sau ông cũng chẳng hề nhớ và đến ba giờ sáng ông mới lại lên giường, đêm tiếp theo ông cũng không thể nhắm mắt trước 6 giờ sáng. Chứng mất ngủ của ông ngày một nặng, có lúc ông thức liền vài ngày. Khi quá mệt, ông nằm vật xuống giường, ngủ mê mệt 10-12 tiếng liền mặc mọi tiếng ồn ào xung quanh. Tôi không biết chứng mất ngủ, lối sinh hoạt của Mao bắt đầu từ bao giờ. Có thể, nhịp sống sinh học lệch lạc của ông có từ lúc cha sinh mẹ đẻ. Vì rằng Phó Liêm Chương kể cho tôi, ông đã chữa cho Mao chứng mất ngủ từ đầu những năm 30. Tất nhiên, hai thập kỷ kháng chiến trước khi lập lên nước Cộng Hoà Nhân Dân và nhiều năm nội chiến đã làm đảo lộn cuộc sống, ảnh hưởng giấc ngủ của ông.
Trong những giờ mà Mao không thể ngủ được, ông phải sử dụng phương cách hoạt động thân thể: bơi, khiêu vũ, đi dạo. Nhưng cuối cùng ông đành phải dùng thuốc ngủ thường xuyên hơn 20 năm trước khi tôi về phụ trách sức khỏe của chủ tịch. Trong những năm 1930 Phó Liêm Chương cho ông dùng thuốc veronal, nhưng sau 1949 dùng dạng thuốc sodium amytal, một loại thuốc ngủ mạnh thuộc barbiturate, viên nhộng hàm lượng 0,1 gam. Nếu một viên không tác dụng, ông cho Mao dùng 2 hay 3 có khi tới 4 viên, nhưng nhiều khi vẫn không tác dụng. Càng ngày ông càng mệt mỏi vì thiếu ngủ, tăng ảo giác và bắt đầu chân có hiện tượng run rẩy đi không vững. Những người quanh ông rất lo rằng Mao có thể gục ngã, thậm chí có thể đột quỵ.
Trước khi tôi nhận nhiệm vụ, Phó Liêm Chương bắt đầu sợ rằng Mao có thể bị quá liều barbiturate, đã bí mật không cho Mao biết, thay hàm lượng viên từ 0,1 gam xuống 0,05 đến 0,075 gam, nhưng quen thuốc, vẫn phải tăng liều uống.
Tôi rất lo khi biết Mao dùng quá nhiều thuốc ngủ dạng barbiturate. Tôi chưa bao giờ kê đơn cho bệnh nhân cũng như cho bản thân mình liều lượng thuốc ngủ cao như thế, rất lo ông sẽ ngộ độc vì liều cao và kéo dài. Lần đầu tiên biết tất cả việc này, tôi khuyên Mao bỏ thuốc ngủ.
– Nghĩa là đồng chí muốn tước giấc ngủ của tôi phải không?
Ông phản ứng và vẫn yêu cầu thuốc ngủ. Tôi chẳng có cách nào để buộc Mao ngừng thuốc. Tôi là thuộc cấp và ông chẳng thèm đếm xỉa ý kiến của tôi.
Một lần ông gọi tôi vào buồng, hỏi:
– Theo đồng chí một năm có bao nhiêu ngày?
Mao thích đặt các câu hỏi bất thướng dường như nó chứa một ẩn ý nào đó. Tôi trả lời:
– Tất nhiên rồi, thưa chủ tịch, ba trăm sáu nhăm ngày.
Mao bảo:
– Đối với tôi một năm cả thảy chỉ có 200 ngày thôi, vì rằng tôi ngủ ít.
Thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau đó mới biết rằng ông tính số lần ngủ và thức trong thời gian một năm.
– Nếu tính cả số giờ không ngủ, thức trắng và quy lại thành ngày, một năm của Chủ tịch sẽ là 400 ngày đấy. Từ quan điểm này, thưa chủ tịch, tiến gần đến bất tử rồi đấy, có một bài thơ nói về việc này: “Mặt trời và mặt trăng không hiện ra, núi không thể nhận ra hàng nghìn năm đã qua”.
Mao cười phá lên và nhận xét:
– Nghĩa là, theo đồng chí, cơn mất ngủ của tôi – đó là con đường đến bất tử phải không?
Tất nhiên ông nói đùa, tôi hiểu ông muốn tôi giúp ông giảm bớt căng thẳng, chữa cho ông bệnh mất ngủ.
Tôi khuyên ông thay đổi cách chữa. Dù rằng chất amital natri mà Phó Liêm Chương kê đơn vẫn tương đối có hiệu quả, giúp Mao giấc ngủ sâu, nhưng tác dụng chậm.
Vì thế tôi gợi ý Mao trước bữa cuối cùng hai mươi phút, uống hai viên hàm lượng 0,1 gram, nó sẽ có tác dụng nhanh. Ngay sau khi ăn, tôi khuyên Mao uống một viên amital natri để đảm bảo giấc ngủ kéo dài. Tôi không đồng ý cách điều trị của Phó Liêm Chương khi ông giấu Mao hạ liều lượng thuốc. Tôi cho rằng bệnh nhân cần phải biết liều lượng họ uống. Thuốc đưa cho Mao từ tay các nhân viên bảo vệ, họ xuất thân từ nông dân nghèo, ít học, thiếu không hiểu biết về y học, hơn nữa bây giờ tôi chịu trách nhiệm về sức khoẻ Mao, vì thế để tránh bất cứ trường hợp không may nào xảy ra, đích thân Mao phải kiểm tra được lượng thuốc uống và họ không đưa quá liều cho chủ tịch.
Phó Liêm Chương là thủ trưởng, tôi phải báo cho ông ta biết tất cả lý do. Ông không phản đối. Nhưng khi tôi vui mừng thông báo phương pháp điều trị mới có hiệu quả, Phó Liêm Chương tỏ ra hoài nghi nhắc lại một câu châm ngôn Trung Hoa: “Một bác sĩ hay khoe khoang, chẳng qua vì không có thuốc hay”, nhưng dù vậy ông vẫn đồng ý cho thử.
Đợt điều trị tỏ ra có hiệu quả, tôi giảm dần lượng thuốc ngủ thay vào đó là glucoza. Kết quả cũng không tồi. Khi tôi kể cho Mao, ông nhận xét:
– Chẳng lâu nữa, đồng chí điều trị cho tôi chỉ bằng glucoza phải không?
Cũng có những ngày, khi Mao quá lo lắng, cách điều trị của tôi cũng không tác dụng. Thực ra cơn mất ngủ của Mao do hai nguyên nhân. Ngoài nhịp điệu sinh học còn có suy nhược thần kinh.
Mặc dù đã từ lâu suy nhược thần kinh không được coi là bệnh ở Hoa Kỳ, bản thân nó chỉ là triệu chứng, với nhiều tên khác nhau, nhưng rất phổ biến ở Trung Quốc, kể cả Mao và Giang Thanh thường xuyên mắc phải. Chứng suy nhược thần kinh thường do tình trạng tâm sinh lý quá căng thẳng gây nên trầm cảm. Đối với người Trung Hoa nếu chấp nhận mình bị trầm cảm là điều thật nhục nhã và đáng xấu hổ vì bản chất sự trầm cảm biểu lộ bằng thực thể. Chứng mất ngủ là triệu chứng thường thấy và thường xảy ra của chứng suy nhược thần kinh, nhưng ngoài ra nó còn biểu hiện những triệu chứng khác như cơn đau đầu, tức ngực kéo dài, hay lo lắng, tăng áp huyết, phiền muộn, giảm tình dục, bệnh ngoài da, rối loạn tiêu hoá, chán ăn, dễ bực tức và nhiều chứng khác.
Dần dần tôi nhận thấy chứng suy nhược thần kinh phổ biến nhiều nhất từ khi đất nước chuyển sang chế độ cộng sản do sự hạn chế tự do cá nhân và cảm giác tuyệt vọng không tránh khỏi. Tôi nhận ra triệu chứng này từ 1952, khi anh trai tôi mắc chứng suy nhược thần kinh với dấu hiệu tăng huyết áp, cộng thêm những triệu chứng khác xảy ra trong những năm đấu tranh khốc liệt của chiến dịch “ba chống”: hối lộ, lãng phí, quan liêu. Sau chiến dịch “chống hữu khuynh trong đảng” năm 1957, hậu quả làm hàng triệu người vô tội bị quy kết sai lầm, hội chứng suy nhược thần kinh tăng lên đột biến. Trong những năm dưới thời chính phủ Quốc Dân Đảng tôi không nhận thấy có dấu hiệu suy nhược thần kinh như vậy. Dưới chế độ đó, xấu dở gì người ta cũng còn có lối thoát, chạy đi nơi khác nhưng dưới thời cộng sản, người ta không còn lựa chọn nào, không thể đi đâu. Số người bị rối loạn tâm thần rất lớn như tâm thần phân lập, trầm cảm do hoang tưởng dưới chế độ cộng sản tăng lên, một số rơi vào tình trạng “khủng hoảng tư tưởng”. Đối với người Trung Hoa, người ta định kiến, coi chứng rối loạn tâm thần như là do trắc trở cá nhân và được xem như chuyện đáng xấu hổ và nhục nhã. Vì thế người ta không đi khám và chữa bệnh, thường giải quyết riêng trong nội bộ. Cách giải quyết này tiếp diễn cho đến khi Mao qua đời. Tất cả các bác sĩ đều biết, những người mắc chứng suy nhược thần kinh đều gặp những chuyện bất ổn lớn về tinh thần, nhưng bác sĩ chỉ kê đơn điều trị triệu chứng chứ không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa để trị tận gốc bệnh tật đó.
Đàm luận với Mao về cơn mất ngủ của ông và những chứng bệnh lặt vặt khác, tôi thậm chí không dám đả động đến từ “suy nhược thần kinh”, bởi vì biết điều này làm Mao nổi cơn thịnh nộ, tôi có thể bị mất việc. Ngay cả Mao cũng không đả động đến từ này. Khi nào đi ngủ bị ức chế, ông nói với tôi, ông cảm thấy bất ổn và nhờ tôi giúp. Tôi cho ông nhân sâm và vitamin B và C. Chứng suy nhược thần kinh của Mao biểu hiện: mất ngủ thường xuyên, choáng váng, ngứa da và liệt dương. Bệnh trở lên nghiêm trọng mỗi khi quá lo lắng vì cuộc đấu đá nội bộ. Một lần trong buổi đi dạo trên cánh đồng, bỗng nhiên đầu óc ông quay cuồng, choáng váng các vệ sĩ đã phải đỡ cho ông khỏi ngã. Những trường hợp như thế sau này xảy ra thường xuyên. Trong buổi giao tiếp với đoàn đại biểu Châu Phi, khi các vị đại biểu xúm quanh Chủ tịch, đột nhiên tôi thấy họ lúng túng, chỉ chỉ chỏ chỏ. Tôi nhận thấy Mao lảo đảo, lập tức chạy lại đỡ ông. Từ đó bất cứ ông ở đâu, đi dạo hay tiếp khách đều có đoàn vệ sĩ đi kèm đề phòng ông mất thăng bằng. Nhưng khi nào ông nghỉ ngơi, vui vẻ những dấu hiệu trên biến mất, tôi đã cho làm tất cả các xét nghiệm cần thiết về tim mạch, não đồ, kiểm tra tai mũi họng nhưng không thấy gì lạ, tất cả đều bình thường.
Nguyên nhân gây ra chứng suy nhược thần kinh của Mao chủ tịch khác hẳn với người dân bình thường. là một vị lãnh tụ đầy quyền lực của quốc gia, chính ông là nguyên nhân gây bất hạnh cho người khác. Chứng suy nhược thần kinh của ông do quá đa nghi, thiếu niềm tin vào sự trung thành của các chiến hữu trong đảng, ông có rất ít bạn đáng tin cậy. Các triệu chứng tăng mỗi khi có cuộc đấu tranh chính trị dữ dội trong nội bộ. Trong thời gian đề ra sách lược tranh giành quyền lực chính trị quyết liệt với phe đối lập, hầu như ông mất ngủ cả tuần, thậm chí cả tháng. Nhưng tôi lại không hiểu khi tôi nhận chức vụ đảm nhiệm chăm sóc sức khoẻ cho Chủ tịch đúng lúc ông đang trong cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề về phát triển nông thôn, tôi phải điều trị chứng mất ngủ trong vô vọng vì ông đang vật lộn trong cuộc đấu đá nội bộ.
Mao rất muốn đẩy mạnh cải cách trong nước, càng nhanh càng sớm càng tốt, không cần đến điều kiện khách quan. Tiến độ chậm chạp của cuộc cải cách ở nông thôn làm ông điên tiết, dù rằng từ đầu những năm 50 ngay sau khi thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, đã tịch thu ruộng đất và tài sản của địa chủ chia cho nông dân. Tuy ruộng đất vẫn còn nằm trong tay sở hữu riêng, nhưng Mao muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không chờ cơ giới hoá nông nghiệp, vì ông cho rằng Trung Quốc quá nghèo, nếu chờ quá trình cơ khí hoá thì quá lâu.
Những hợp tác xã nông nghiệp được chỉ đạo tiến hành rất sớm ở nông thôn từ năm 1953, đẩy nhanh xu hướng xây dựng liên hợp kinh tế nông nghiệp lớn khác thường và việc tước đoạt từ tay nông dân phương tiện sản xuất và gia súc đã gây ra chống đối mạnh mẽ không những từ phía các người lãnh tụ chính trị đối lập mà còn từ phía nông dân. Ở một số vùng kinh tế tập thể bị tan rã nhanh ngay sau khi nó được thành lập. Mao trút tội không những xuống đầu người lãnh đạo Ban nông nghiệp Ban chấp hành trung ương đảng Đặng Tử Huy mà nhiều cả nhiều cán bộ trong đảng. Ông buộc tội họ chậm chạp, thiếu cương quyết, thậm chí cả tội phá hoại ngầm. Đặng Tử Huy bị mất chức, cơ quan do ông lãnh đạo bị giải tán. Thật ra, người ta không gạt Đặng Tử Huy ra khỏi guồng máy, mà thuyên chuyển ông sang cương vị nhỏ hơn. Về sau Mao tâm sự với tôi:
– Đặng Tử Huy đã sát cánh với chúng tôi trong những năm cách mạng. Tuy nhiên sau khi giải phóng, ông ta đã đi chệch đường.
Sự chia rẽ của Mao với chiến hữu trở nên gay gắt từ mùa hè 1955, khi những người lãnh đạo đảng cộng sản họp hội nghị ở Bắc Đới Hà. Tại đây, Mao đã phớt lờ sự khuyên can, ngăn cản ông bơi ra biển, dù biết thất bại nhưng họ vẫn làm.
Trong những năm đầu tiên cạnh Mao, tôi cố gắng tránh mọi chuyện liên quan đến chính trị mà chỉ quan tâm về lượng bạch cầu tăng, giảm tình dục, chứng mất ngủ của Chủ tịch. Lúc ấy tôi không biết gì về cuộc đấu tranh mạnh mẽ mà Mao tiến hành chống những phe bảo thủ trong đảng. Mặc dù thất bại, nhưng thời gian từ mùa đông 1955 đến mùa xuân 1956, Mao tổ chức một loạt các cuộc họp, ông trình bày chương trình cải cách chủ nghĩa xã hội trong nước. Cuối mùa thu 1955, ông bắt đầu viết cuốn: “Sự đi lên chủ nghĩa xã hội của nông thôn Trung Quốc”, chọn lọc những bài diễn văn, phát biểu của mình về vấn đề tập thể hoá, sửa chữa và bổ xung, viết lời mở đầu và kêu gọi đẩy mạnh cuộc cải cách nông thôn. Ông chỉ trích nặng nề Ban chấp hành Trung ương đảng, đưa ra đường lối cho đảng đẩy mạnh tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Trong thời kỳ căng thẳng và kích động này ông thường xuyên mất ngủ.
Một ngày vào cuối năm 1955, trong thời kỳ ông đang viết sách, có lần 3 ngày liền ông ngủ thất thường, có khi thức trắng hơn 36 giờ đồng hồ. Những viên thuốc ngủ tôi đưa, ông uống nhưng hầu như chẳng tác dụng gì. Để bớt căng thẳng và mệt mỏi ông thường đi bơi và gọi tôi.
Khi tôi đến bể bơi, Mao nằm trên ghế bố. Trên khuôn mặt đỏ ửng của ông lộ vẻ kích động mạnh, trông rất mệt mỏi. Ông bảo tôi cùng bơi, nhưng tôi lịch sự từ chối, nói, chưa kịp ăn sáng, thời gian ấy tôi vẫn còn kiêm nhiệm công việc trong bệnh viện Trung Nam Hải. Mao cười và nói:
– Tôi cũng chưa ăn và chưa ngủ, nhưng cũng đã kịp nhảy xuống nước bơi được một giờ rồi. Tôi uống toa thuốc của đồng chí ba lần, nhưng không thể ngủ được. Đồng chí, có lẽ, lại giảm đô phải không?
– Đâu có thưa chủ tịch, đô thuốc vẫn như trước đây thôi – Tôi trả lời.
– Thế thì đồng chí làm cái gì đó rồi để tôi ngủ được chứ.
Tôi kê đơn cho Mao dung dịch chloralhydrade, Phó Liêm Chương đã nói với tôi rằng Mao không thích uống thuốc dạng nước. Vì thế tôi báo trước cho Mao thuốc sẽ đắng và hơi cay.
Mao trả lời:
– Không sao đâu, tôi thích tất cả các thứ cay đắng.
Tôi đến kho dược do Phó Liêm Phương phụ trách, chuyên chứa thuốc dành cho Mao và các lãnh tụ cao cấp khác. Thuốc mua từ một hãng nào đấy ở Hong Kong, nhập từ Anh, Mỹ và Nhật. Tất cả thuốc được kiểm tra, bảo quản cẩn thận. Để tăng cường biện pháp an toàn, tất cả toa thuốc kê cho Mao đều mang tên Lý Đăng Sơn. Tên “Lý” năm 1947 là bí danh của Mao, do sự đối mặt sự tấn công của quân Quốc dân đảng, những người cộng sản buộc phải rút khỏi Diên An. Trong khi dược sĩ đang pha chế, Phó Liêm Chương đến lưu ý tôi rằng Mao không thích thuốc nước, và cũng nhận xét rằng chloralhydrade làm cho Mao rất khó chịu về mùi, Chủ tịch có thể cáu. Tôi nói, Chủ tịch đã được báo trước và đồng ý, yêu cầu nhanh lên, ông đang đợi tôi.
– Sau này tôi sẽ thông báo cho đồng chí kết quả.
Tôi trả lời và đi ra cổng.
– Đồng chí đã tự ý hành động chẳng hỏi ý kiến tôi gì cả!
Phó Liêm Chương bỏ đi, vẻ khó chịu.
Phó Liêm Chương cho rằng tôi là thuộc cấp của ông và bắt tôi phải cung cấp tin tức tất cả những gì liên quan tới sức khoẻ của lãnh tụ. Phó Liêm Chương rất tự hào, có nhiều năm quan hệ tốt với Mao, tin rằng Chủ tịch sẽ nghe lời khuyên của ông ta. Nhưng thời thế đã đổi thay, giờ đây Mao lại tin tôi hơn.
Chủ tịch chờ tôi ở bể bơi, mời tôi ăn trưa với ông. Tôi bảo:
– Thuốc nên uống trước khi ăn.
Sau đó tôi rót 15 phân khối dung dịch 10% chloralhydrade vào chén đưa cho Mao. Ông uống một hơi, nói, cũng không khó uống, thậm chí còn giống rượu vang mà Mao hiếm khi dùng. Ông nói thêm:
– Bây giờ xem nó tác dụng ra sao!
Chúng tôi còn chưa kịp ăn xong bữa, thuốc đã bắt đầu ngấm. Mắt Mao đờ đẫn, ông bắt đầu thẫn thờ. Cuối bữa ông gần như không còn biết gì nữa. Tôi dìu ông vào phòng ngủ bên cạnh bể bơi, hai giờ chiều ông đã chìm trong giấc ngủ và ngủ một mạch hơn 10 tiếng đồng hồ.
Đến nửa đêm một vệ sĩ gặp tôi và với giọng ngưỡng mộ gọi tôi là phù thuỷ.
Khi tôi đến, ông vẫn còn nằm trên giường, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt, lấy thuốc lá và hỏi:
– Đồng chí cho tôi thuốc gì hay thế?
– Đây là một loại thuốc ngủ. Người ta biết nó từ thế kỷ thứ 12, tác dụng của nó đối với cơ thể đã được biết cặn kẽ. Không có chống chỉ định nào cả.
– Vì sao đồng chí không đưa thuốc này cho tôi từ trước?
Tôi giải thích:
– Người ta nói cho tôi rằng Chủ tịch không thích thuốc nước, ngoài ra, vị của nó khá đắng, khó uống, và gần đây trong kho chưa có thuốc này.
Thực ra giữa sodium amytal và chloralhydrade chẳng có gì khác nhau đáng kể. Đơn giản, Mao bị kích thích bởi những cơn mất ngủ đến nỗi trò quảng cáo thuốc của tôi, có thể, gây nên hiệu quả tâm lý thuần tuý.
Tôi cảm thấy Mao biết rõ chứng suy nhược thần kinh của ông do nguyên nhân tâm lý, ông tin vào hiệu quả của tác dụng thuần tuý tâm lý. Khi Mao còn nhỏ bị ốm nặng, mẹ ông đưa lên chùa, thắp hương quỳ lạy, cầu Trời Phật phù hộ độ trì cứu giúp đứa con bệnh tật của bà. Chẳng bao lâu sau, Mao hồi sức và khỏi bệnh.
Mao nói với tôi:
– Tôi luôn luôn chống lại việc phá đền phá chùa.
Trong khi đó những lãnh tụ cộng sản khác ra lệnh triệt phá chùa chiền trong cả nước. Chủ tịch nói tiếp:
– Những người nghèo khi đau ốm cần tìm sự giúp của trời phật mà họ tin tưởng. Họ cầu cứu Phật để chữa khỏi bệnh, nhưng thay vì thuốc men, họ chỉ cần được một nhúm tàn nhang làm thuốc thánh. Tuy thế thậm chí chỗ tàn hương đó cũng làm giảm bớt đau đớn, buồn phiền bởi họ đặt tất cả niềm tin vào nhúm tàn nhang đó, giúp họ vượt qua bệnh tật của chính mình, trả lại sức khoẻ cho họ. Chẳng lẽ thuốc ngủ lại không giống tàn nhang hay sao? Chẳng lẽ nó không làm tôi khỏi bệnh? Tôi cảm thấy rằng trong tủ thuốc của đồng chí hãy còn không ít thuốc thần diệu.
Sau cuộc độc thoại lạ lùng này, Mao tuyên bố:
– Bây giờ đồng chí có thể về nhà và ngủ một lúc đi. Tôi lại bắt tay vào công việc.
Từ đó Mao chỉ chấp nhận chloralhydrade và thường uống nó với seconal natri. Đến lúc này ông đã bắt đầu quen thuốc. Chúng không những giúp ông ngủ được, còn kích thích khẩu vị, thậm chí nó có tác dụng như ma tuý. Ông chuộng trạng thái lâng lâng gây ra bởi thuốc, ông thường dùng nó khi cần tiếp khách hay họp hành. Ông cũng không quên chúng cả trong các buổi dạ hội khiêu vũ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [10]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 8

Posted: 20/06/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giữa tháng 7-1955, khoảng sáu tuần sau khi được đứng với Mao Chủ tịch trên lể đài Thiên An Môn, bất ngờ người ta gọi tôi vào Bắc Đới Hà, khu điều dưỡng ở vịnh Bắc Hải Văn. Lãnh đạo cao cấp đảng thường đến an dưỡng tránh cơn nóng ở Bắc Kinh. Mao cùng đoàn tuỳ tùng vừa rời đây vài ngày trước. Đi cùng ông có bác sĩ Chu Thế Đào, người trước khi tôi thay. Khi ấy tôi vẫn còn là giám đốc bệnh viện Trung Nam Hải và chưa có dịp nào đi cùng với Mao. Cuộc gọi bất ngờ này nghĩa là có một cái gì đó thật nghiêm trọng.

Tôi ngồi trên đoàn tàu chuyên dụng chở tài liệu cơ quan đi và về hàng ngày giữa Bắc Kinh và Bắc Đới Hà, ngay trong hôm ấy tôi đã đến nơi.
Tôi được biết, Mao đêm qua ngủ không ngon giấc, nhưng lại dạy sớm để ra biển bơi. Các vệ sĩ can ông đừng làm cuộc phiêu lưu dại dột này. Đêm qua Bắc Đới Hà có giông, sáng nay gió vẫn mạnh, biển động. Các vệ sĩ sợ Mao chết đuối vỉ sóng lớn. Nhưng Mao cố tình ra bãi bể, các vệ sĩ trẻ theo sát ông.
Vệ sĩ cấp báo Uông Đông Hưng, đích thân Uông Đông Hưng ra biển để can Mao. Nhưng Chủ tịch phớt lờ tất cả, nhảy xuống giữa đợt sóng lớn quyết tâm bơi ra biển, phía sau, một đoàn vệ sĩ trai tráng bơi theo.
Uông Đông Hưng lo lắng, nếu xảy ra chuyện không may với Mao, ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Ông gọi La Thuỵ Khanh và Chu Ân Lai để trút trách nhiệm tính mạng Mao lên đầu họ. Mao bơi đã khá xa khi hai ông đến. Chu không biết làm thế nào, lập tức thông báo ngay cho cấp trên, Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật thứ hai sau Mao và tin rằng Lưu Thiếu Kỳ có thể khuyên Mao không liều mạng nữa. Lưu từ chối can thiệp. Ông là người khôn ngoan, kín đáo và quyết định để Mao muốn làm gì thì làm.
Trên bờ có Giang Thanh và bác sĩ Chu. Sự bình tĩnh của bác sĩ Chu làm bà vợ Mao nổi khùng. Bác sĩ Chu, một người nhút nhát, tuổi chừng 50, hơn tôi đến 20 tuổi.
Giang Thanh to tiếng:
– Chủ tịch đang vật lộn với sóng biển, và nếu cái gì đó xảy ra, đồng chí sẽ làm gì? Đứng nhìn thôi à?
Nhưng bác sĩ Chu thậm chí còn không biết bơi nữa.
Hai người lính giúp bác sĩ Chu xuống chiếc xuồng cứu trợ nhỏ để ông có thể lại gần Mao. Nhưng sóng quá lớn, họ không thể điều khiển được xuồng, không những thế bác sĩ Chu lại say sóng. Khi Mao bắt đầu bơi về bờ, chiếc xuồng của bác sĩ vẫn còn vật lộn, rập rờn trên sóng. Cuối cùng xuồng cũng cập bờ, bác sĩ Chu toàn thân run rẩy, lảo đảo rời xuồng, ngã rụi xuống bãi cát, nôn thốc nôn tháo. Giang Thanh nổi điên lên. Chính vì lẽ đó bà ta cho gọi tôi.
Mao nổi cáu với Uông Đông Hưng, thét lên:
– Đồ vô tích sự. Anh biết tôi có thể bơi trên biển trong thời tiết như thế này chứ, không những cản tôi, còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác đến đây can thiệp!
Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh luôn luôn được Mao che chở. Họ phục vụ Mao một cách tin cẩn và trung thành, nhưng lại nằm trong hoàn cảnh rất phức tạp. Họ chịu trách nhiệm sinh mạng của Chủ tịch. Nếu bất cứ chuyện gì xảy ra, người ta không còn nhớ đến sự trung thành hoặc đã hết sức cố gắng ngăn cản lãnh tụ, nhưng không được. Họ không những mất chức, còn mất đầu như chơi.
Những việc làm của họ, Mao nhìn nhận như là chuyện xâm phạm vào quyền tự do của ông cũng như các Uỷ viên Bộ chính trị khác muốn kiềm chế ông. Không ai được ngăn cản ý thích và ông sẽ phê phán kịch liệt những ai có ý định này. Vụ Bắc Đới Hà ảnh hưởng mạnh tới mối quan hệ của Mao đối với Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh. Sự khó chịu ấy Mao vẫn không quên, sau này ông thẳng tay trừng trị.
Sự việc trên liên quan đến tôi. Cuối vụ hè năm ấy, bác sĩ Chu lặng lẽ ra khỏi Trung Nam Hải sang phụ trách Bệnh viện Bắc Kinh, còn tôi chính thức trở thành bác sĩ riêng của Mao. Công việc của tôi không chỉ đơn thuần phòng và điều trị bệnh, còn phải nâng cao trạng thái sức khoẻ của Mao. Trong bất kỳ sự yếu đau nào của Chủ tịch hoặc chỉ cần mủi tiêm đau thậm chí cảm thấy trong người khó ở tôi là người có lỗi. Kể từ đây không những ngoài công việc, tính mạng của tôi còn phụ thuộc vào điều chăm lo sức khoẻ Mao. Để làm được điều này, tôi cần luôn luôn ở bên cạnh theo dõi cặn kẽ sự thay đổi về sức khỏe của Chủ tịch. Sau khi Chủ tịch từ Bắc Đới Hà về, hàng ngày tôi phải gặp ông, lấy lý do kèm ông học Anh ngữ. Tôi thường xuyên tháp tùng Chủ tịch trong các chuyến công vụ ở Bắc Kinh và cả các tỉnh.
Tôi cần nắm vững tổng thể về sức khỏe hiện tại và những thay đổi trong tương lai khi tuổi ông tăng lên. Trong hồ sơ sức khỏe, tôi thấy số lượng bạch cầu của ông cao, trên 10 ngàn, so với con số bình thường từ 6 đến 8 ngàn. Như vậy Chủ tịch bị viêm nhiễm nhẹ cần phải tìm ra nguyên nhân vì sao.
Tôi miễn cưỡng phải kể cho Mao điều này. Ông tự hào về sức khoẻ và thể lực, ghét ốm đau bệnh tật, tôi biết ông không ưa các bác sĩ. Năm 1951 một đội bác sĩ giỏi Liên Xô đến khám ông. Do bị thăm khám, xét nghiệm quá nhiều, Mao mất hết kiên nhẫn, nổi khùng và bỏ dở việc khám.
Tăng cường khả năng tiếng Anh, tôi và Chủ tịch đọc tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội không tưởng và khoa học” của Engels, lợi dụng bàn tới chủ đề này, tôi giải thích Mao rằng bạch cầu của ông tăng cao, có nghĩa bị viêm nhiễm nhẹ nào đấy trong cơ thể.
– Nhưng tại sao mới được cơ chứ?
Mao muốn biết nguyên nhân, nhưng ông lại coi thường y học hiện đại.
Tôi bảo:
– Chẳng có gì nghiêm trọng đâu. Tôi chỉ muốn xác định ổ viêm nhiễm.
Sau đó tôi nói rằng tôi sẽ kiểm tra toàn diện kể cả tai mũi họng, răng hàm mặt, làm các xét nghiệm sinh hoá nhanh gọn và hứa không quá nửa giờ. Ông đồng ý.
Mũi và các xoang mũi bình thường. Tôi xem qua miệng. Mao chưa bao giờ đánh răng. Theo thói quen của nông dân miền nam Trung Quốc, ông chỉ làm sạch răng bằng chè, mỗi buổi sáng nhai một nắm lá chè và xúc miệng bằng nước. Mao khăng khăng từ chối đi khám chuyên khoa răng hàm mặt. Tướng Bành Đức Hoài, người hay nói thẳng nói thật, có lần ông khuyên tôi nên chú ý đến vấn đề vệ sinh răng miệng của Mao chủ tịch. Ông nói, “Răng của Chủ tịch dường như được sơn xanh”. Khám miệng cho Chủ tịch, ngà răng ông phủ một lớp cao màu xanh lá cây, răng hàm rụng vài cái, chạm nhẹ vào lợi, nước màu vàng rỉ ra, ông bị nha chu viêm. Thật lạ, Mao chưa bao giờ kêu đau răng, dù rằng bệnh nha chu viêm gây rất khó chịu và đau đớn. Tôi cảm thấy hình như ông vui lòng chịu đựng đau đớn hơn gọi thày thuốc mà ông vốn chẳng ưa gì.
– Đồng chí có thể chữa cho tôi được chứ?
Mao muốn biết rõ hơn nên yêu cầu tôi nói rõ. Tôi giải thích, nha khoa không thuộc lĩnh vực của tôi, tôi khuyên ông nên khám răng hàm mặt.
Mao mỉm cười:
– Khổng Tử nói: “Biết cái mình biết, biết cái mà mình chưa biết – nghĩa là biết”. Như vậy xem ra đồng chí không muốn biết cái mình không biết có phải không?
Sau đó tôi khám bộ sinh dục. Bao quy đầu hơi bị hẹp, tụt ra khó co lại, tôi nghi ngờ bị viêm nhiễm. Từ khi chuyển vào Trung Nam Hải, Mao không tắm nữa, cho rằng mất thời gian. Các vệ sĩ thường dùng khăn bông tẩm nước nóng kỳ cọ thân thể cho ông, còn chính Mao lúc ấy đọc tài liệu hoặc kể chuyện vui.
Tôi phát hiện kích thước tinh hoàn bên trái nhỏ hơn bình thường, còn tinh hoàn bên phải không nằm ở bìu dái mà nằm trong thể hang. Sự khiếm khuyết tinh hoàn như vậy thường do dị tật bẩm sinh, không ảnh hưởng tới chức năng sinh dục, tuy nhiên dần dần có thể dẫn đến ung thư tinh hoàn. Tôi phải tiếp tục theo dõi tới sự bất bình thường này.
Để xác định vùng viêm nhiễm, cần phải xét nghiệm tinh dịch. Bộ phận sinh dục của Mao nhỏ và mềm. Để làm điều này tôi phải kích thích xoa nắn lấy tinh dịch đem về phòng xét nghiệm.
Vài ngày sau, Mao cho phép đưa nha sĩ Trương Quang Hán, của Trường Đại học y khoa Bắc Kinh tới. Tôi biết Trương từ hồi còn học ở Đại học Liên hợp miền Tây Trung Quốc. Ông hơn tôi hai tuổi và học về nha khoa.
Việc khám và chữa răng cho Mao cũng tiến hành ở buồng ăn, nơi Mao cắt tóc, cạo râu trong khu Hương Cúc. Chiếc ghế tựa nhanh chóng được biến thành chiếc ghế chữa răng. Trương chuẩn bị đồ nghề, tinh thần khá căng thẳng, hỏi tôi khám thấy gì, cũng như thái độ tính khí của chính Mao ra sao. Tôi phụ trách công việc này chỉ mới được vài tháng nên chưa biết nhiều về tính khí chủ tịch. Tôi bảo: “Chỉ chắc một điều, Mao chủ tịch thích khám xét nhanh gọn và không chuyện trò dài dòng, lề mề mất thì giờ”. Tôi cũng cho Trương biết, Mao đồng ý cho Trương đến, nghĩa là chủ tịch muốn thực hiện tất cả những gì tôi đề nghị.
Khi chúng tôi vào, Chủ tịch đang đọc sách lịch sử Trung Quốc. Ông thích gặp khách với quyển sách này trong tay. Dù rằng ông đầy quyền lực nhưng đôi khi bị bất an khi gặp người lạ. Nhưng ông biết, những người gặp ông đều bị xúc động khi được nhìn thấy vị thánh sống. Sách làm ông thoải mái, tự tin giúp ông chuyện trò cởi mở hơn. Để bớt vẻ ngăn cách với khách, ông thường pha trò giúp họ tự tin, cởi mở hơn. Trong cuộc gặp lần đầu tiên ông thường chú ý lắng nghe, vui vẻ giúp người đối thoại trở nên thoải mái, thân thiện. Cách này Mao đã giúp khách nói thẳng, nói thật và nhờ thế ông đã khéo léo thu thập nhiều thông tin từ họ.
Thấy chúng tôi, Mao bảo:
– Các đồng chí đến rồi.
Mao đặt sách sang một bên, bảo:
– Đọc sách là một thú vui kỳ diệu.
Ông đứng dậy chìa tay cho bác sĩ Trương bắt. Sau đó mời chúng tôi ngồi. Người ta mang bình trà đến. Một vệ sĩ mang cho Mao một khăn bông tẩm nước nóng, lau mặt và ông lau đi lau lại tay nhiều lần cẩn thận.
Mao hỏi tên của nha sĩ. Trương giải thích rằng tên của ông Trương Quang Hán, “Quang” nghĩa là “Vinh quang”, “Hán” – “dân tộc Hán”. Trung Quốc – một quốc gia đa sắc tộc, nhưng dân tộc Hán đông hơn, khoảng 93% dân số. Khi nói về Trung Quốc, người ta nói đến dân tộc Hán.
– Đồng chí cũng biết làm vinh quang cho dân tộc Hán – Mao nhận xét – Tên của đồng chí rất nổi tiếng trong thời gian chống với Mãn châu, trong những năm tháng cuối cùng của triều đại Nhà Thanh.
Nhà Thanh sụp đổ năm 1911, do dân tộc Mãn Châu, bắc Vạn Lý Trường Thành cai trị. Vì thế ở Trung Quốc luôn luôn có tâm lý chống nhà Thanh rất mạnh, coi đó là triều đại của người thiểu số “ngoại bang phương Bắc”.
Khi Mao hỏi Trương về quê quán, Trương nói, quê ông ở tỉnh Hà Bắc, nghĩa là “phía bắc con sông”, nhưng từ lâu ông sống ở tỉnh Tứ Xuyên, nghĩa là “bốn con sông”.
– Đồng chí biết con sông nào gọi là Hà Bắc? – Mao hỏi.
– Vâng, con sông Vàng, tức Hoàng hà – nha sĩ trả lời.
Trong lịch sử Trung Quốc, con sông Hoàng Hà đổi dòng chảy nhiều lần, người ta đặt tên tỉnh Hà Bắc vì con sông nằm phía nam của tỉnh. Bây giờ Hoàng Hà lại còn đổi dòng, xuống tận phía nam xa xôi, thậm chí chảy qua tỉnh Sơn Đông.
Mao rít hơi thuốc, hỏi:
– Thế còn bốn con sông ở tỉnh Tứ Xuyên là những sông gì?
Trương chẳng cần nghĩ ngợi nói luôn:
– Sông Minh, sông Tô, sông Giang và sông Thanh Hà.
Mao cười và chữa lại:
– Không phải sông Thanh Hà mà là Ô Giang, rộng hơn sông Thanh Hà.
Trương cũng cười và nói:
– Tôi nhớ một bài thơ của Chủ tịch nói về Tứ Xuyên. Trong đó có câu: “Nước sông Thanh bồi đắp đôi bờ trong sương”. Vì thế tôi nghĩ là sông Thanh.
Mao mỉm cười và nói:
– Đấy là thơ.
Sau đó Mao chuyển sang nói chuyện về trường y khoa thuộc Đại học Liên hợp Tây-Trung Quốc, do Hoa Kỳ sáng lập, Mao nói rằng ông rất mừng, có người Trung Quốc học ở trường Mỹ. Mao nói:
– Trong thời gian kháng Nhật, Mỹ đã gửi cố vấn đến Diên An, họ giúp chúng ta rất nhiều. Bác sĩ Mỹ, Gorge Haitem giúp đỡ và đóng góp to lớn vào chiến dịch bài trừ bệnh hoa liễu. Ông cũng là đồng nghiệp của các đồng chí đấy.
Bác sĩ Haitem (1910-1988) cùng với trợ lý của mình là Edgar Snow có mặt ở chiến khu Sa An Tây của đảng cộng sản năm 1936 và sau đó ở lại để chữa cho các chiến sĩ giải phóng quân Trung Quốc.
Mao tiếp tục:
– Mỹ đã đào tạo cho chúng ta không ít chuyên gia.
Nếu người dân thường Trung Quốc nói câu này, người ta cho rằng thiếu suy nghĩ và buộc tội phản cách mạng, bởi vì thời ấy ở Trung Quốc, Mỹ được gọi công khai “kẻ thù số một”, bất kỳ sự tán dương nào về Mỹ đều được xem như phản cách mạng.
– Như thế, tất cả các đồng chí tốt nghiệp Đại học Mỹ – Mao nhận xét – Tôi kính trọng các chuyên gia do Mỹ và Anh đào tạo.
Ông cũng khoe với Trương, tôi đã giúp ông học tiếng Anh và ông bắt đầu đọc nguyên bản tác phẩm của Engels “Chủ nghĩa xã hội từ ảo tưởng đến khoa học. Từ “Shehuizhuyi” trong Anh ngữ là “socialism” có phải thế không?”
– Dạ phải – Bác sĩ Trương đáp lời.
Tính hay chuyện và cởi mở của Mao đã làm yên lòng Trương, tôi gợi ý chúng tôi bắt đầu khám bệnh, Mao gật đầu.
Trương cậy hết cao răng, lấy các thức ăn dính trong kẽ răng, sau đó nói:
– Thưa Chủ tịch, xin ngươi cần đánh răng hàng ngày. Răng chủ tịch tồi lắm.
Mao phản đối:
– Tôi thường làm sạch răng bằng chè và chẳng bao giờ dùng bàn chải đánh răng cả. Anh xem con hổ đấy, có bao giờ nó đánh răng đâu. Sao răng nó cứng và sắc thế.
Logic của Mao thật không ai bắt bẻ được, dù khá lạ lùng. Tôi và Trương im lặng. Mao cảm thấy rằng giành được chiến thắng, nháy mắt, nhận xét:
– Thấy chưa, thậm chí các đồng chí là bác sĩ có bằng cấp Mỹ hẳn hoi cũng chẳng thể giải thích được.
Trương khiêm tốn:
– Xin chịu Chủ tịch!
Sau đó Trương nói cho Mao, cần phải nhổ vài chiếc răng hàm trên.
– Nó bị sâu rồi, vùng lợi xung quanh viêm nhiễm, răng cũng lung lay, những răng này là nguồn viêm nhiễm. Nếu không nhổ đi, nó lại làm hỏng tiếp các răng bên cạnh.
– Có thật nặng thế không? – Mao ngạc nhiên.
– Tôi xin thề với Chủ tịch đúng như thế – Trương trả lời.
– Thôi được, nhưng hãy làm cho khéo nhé, tôi sợ đau lắm. Tiêm thuốc tê đi.
Trương quay về phía tôi thì thào:
– Chủ tịch có bị dị ứng novocain không?
– Không – Tôi trả lời – đôi lần tôi đã tiêm penecilin và novocain không thấy dị ứng thuốc.
– Có cần phải dùng tới anestesine không? – Trương lại hỏi nhỏ – Tôi nhổ nó chỉ trong tích tắc thôi.
– Đồng chí cứ làm như Chủ tịch yêu cầu – Tôi trả lời – Để ông ấy yên tâm.
Trương tiêm novocain, mấy phút sau khi bệnh nhân bị tê, ông nhổ chiếc răng sâu dễ dàng.
Mao vui lắm, cười to:
– Trường học Anh Mỹ đã giành chiến thắng vĩ đại!
Sau vài ngày, lượng bạch cầu trong máu trở lại mức bình thường. Mao vui như trẻ con, nói:
– Đồng chí đã giải quyết được vấn đề làm tôi suy nghĩ nhiều năm qua. Đó là thành công lớn của các đồng chí. Hoan hô trường Đại học Anh Mỹ!
Sáng hôm sau ông bảo tôi mang cho ông bàn chải và thuốc đánh răng và ông bắt đầu cọ răng. Nhưng ông chỉ đánh răng được vài ngày. Thói quen nông dân thâm căn cố đế đánh răng bằng chè vượt hẳn lên. Hơn nữa Mao không muốn mất thời gian vào việc tắm rửa và đánh răng.
Răng Mao dần dần tồi đi, cũng như trước đây ông không khoái gì nha sĩ đến khám và chữa bệnh. Răng của Chủ tịch bị xỉn đen và lần lượt rụng dần. Đến đầu những năm 1970 hàm trên chẳng còn chiếc răng hàm nào cả. May mắn thay, khi ông cười, chỉ thấy những chiếc răng tốt còn giữ được, còn những răng đen và bị nhổ rồi nằm ở phía trong không nhìn thấy rõ.
Xét nghiệm tuyến sinh dục cho thấy Mao mất khả năng có con. Tinh dịch của ông không có tinh trùng khoẻ. Mao từng là ông bố của một số con từ ba bà vợ. Đứa sau cùng là con gái, con của Giang Thanh, Lí Nạp, khi ấy khoảng 15 tuổi. Bệnh vô sinh cũng thường xảy ra ở tuổi trung niên, tôi không đủ khả năng giải thích được nguyên nhân vì sao tinh trùng ông lại chết, nhưng tôi chịu không thể chữa được cho ông.
– Nghĩa là tôi trở thành hoạn quan phải không?
Mao đau buồn hỏi thế, khi tôi nói cho ông về sự không thể có con. Ông lo ngại thục sự.
– Hoàn toàn không phải thế – Tôi trả lời – Phần đông quan thái giám trong cung vua, bị cắt hoàn toàn cơ quan sinh dục. Vài người may mắn còn giữ được tinh hoàn.
Tôi hiểu ra rằng Mao thậm chí không có khái niệm hiểu biết cơ bản về các cơ quan trong cơ thể và chức năng của chúng. Từ cuộc khám xét, tôi biết rằng tinh hoàn bên phải của ông bị teo nhỏ. Tuy nhiên sự bất lực không biến ông thành hoạn quan.
Tôi bắt đầu nói để ông hiểu.
– Tinh dịch của Chủ tịch không có tinh trùng, vì thế không thể có con được nữa. Tuy nhiên điều này lại không ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tình dục.
Tôi hiểu rằng Mao hoàn toàn không vui về sự bất lực của ông. Ông hoảng sợ nếu bị liệt dương. Cả một thời gian dài ông tin rằng hoạt động tình dục bắt đầu từ tuổi 12 và chấm dứt ở tuổi 60. Sau này ông kể, ông bắt đầu cuộc sống tình dục ở tuổi vị thành niên khi còn ở làng Sào Sơn, quê ông. Ông vui vẻ nhớ đầu tiên quan hệ tình dục thời trẻ, bạn tình của ông, cô bé 12 tuổi trong làng.
Tháng 12-1953, Mao tròn 60 tuổi. Tôi là bác sĩ riêng của ông từ năm 1955, khi đó ông chờ đợi trong lo sợ về hết khả năng tình dục. Các bác sĩ trước tôi thường tiêm cho ông nhung hươu. Trong y học dân tộc Trung Hoa, đây là một trong thứ thuốc kích thích tình dục mạnh. Tuy nhiên dấu hiệu suy yếu tình dục không thấy mất đi nhưng ông vẫn lo lắng. Ông muốn sống tới 80 tuổi vẫn giữ được vẻ đẹp, khoẻ mạnh và hoạt động tình dục bình thường. Tôi, bác sĩ riêng của ông, cần phải giúp ông thực hiện ham muốn đó.
Ông mất bình tĩnh, khi tôi tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của nhung hươu. Ngoài ra, tôi không tin vào hiệu dụng của chất này đối với cơ quan sinh dục.
Mao buồn rầu, nói:
– Các ông bác sĩ, người khuyên thế này, người khuyên thế kia. Tôi chỉ tin các ông 70% thôi.
Mao không đòi dùng nhung hươu nữa, nhưng đòi tôi kiếm thần dược để kéo dài tuổi thọ và chống liệt dương. Trong hoàn cảnh ấy ông lại thích đưa ra các ví dụ từ các vua Trung Quốc. Ông vua thọ nhất Trung Hoa là Vua Hoàng, tổ tiên dân tộc Hán, người đã tạo ra tất cả người Trung Quốc. Truyền thuyết kể, ông đạt được bất tử, vì ngủ với hàng ngàn gái đồng trinh. Thậm chí các vua đời sau còn cho rằng càng ngủ nhiều với gái, tuổi thọ càng tăng lên. Từ đó truyền thống các vua đều có tới hàng nghìn nữ tỳ. Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng, lập nên nhà Tần, theo truyền thuyết, có lần đã cử một đạo sĩ và năm trăm gái đồng trinh ra biển khơi để kiếm thuốc trường sinh. Mao cho Tần Thuỷ Hoàng là thần tượng, cố gắng noi gương ông vua này. Truyền thuyết này còn cho rằng họ chính là thuỷ tổ của người Nhật Bản.
Một thời gian ngắn sau khi tôi làm việc cho Mao, Chủ tịch nghe tin một nữ bác sĩ Rumani, Lepshinskaya, tìm ra công thức thuốc kéo dài tuổi thọ và tăng khả năng tình dục. Thứ thần dược này bề ngoài hồi phục sinh lực và có khả năng làm tăng độ dẻo dai sau khi thường xuyên sử dụng một lượng nhỏ. Mao rất khoái thuốc này, nhưng lại muốn, tôi phải thử trước thần dược. Nếu nó có tác dụng với tôi, Mao nói, ông mới dùng.
Tôi cũng phải bóng gió nói cho ông biết tôi và ông chênh lệch nhau gần 30 tuổi. Tôi hãy còn trẻ mới 35 còn ông đã 62 và lại không có chứng bệnh ông mắc. Bác sĩ Rumani đặt tên thuốc của mình, vitamin H3, nhưng té ra thuốc này thành phần chủ yếu novocain. Không tin vào khả năng thần diệu của nó, nhưng cũng biết Mao không dị ứng với novocain, tôi quyết định tiêm vitamin H3 này vào mông Chủ tịch, sau 3 tháng thì ngừng, vì chẳng đem lại kết quả gì.
Trong tất cả những năm làm việc với Mao, tôi chẳng giúp được ông hiểu biết thêm về lĩnh vực y học. Ý nghĩ không tin vào y học cản trở ông. Tôi ngày càng nghi ngờ, nguyên nhân sự bất lực của ông do tinh thần hơn do thể xác. Sau khi tham khảo các chuyên gia bài tiết và thần kinh, tôi tin tôi chẩn đoán đúng. Tôi quyết định sử dụng phương pháp tác động tinh thần. Tôi cho ông uống viên nhộng, chế phẩm từ nhân sâm và glucose và nói, đây là một loại thuốc mới từ thảo mộc “bồi bổ sức khoẻ”.
Trong thời gian đấu đá chính trị hậu tường gay gắt nhất thì bệnh liệt dương của ông đặc biệt xuất hiện mạnh. Nhưng đầu những năm 60, khi quyền lực của ông còn bền vững, không thấy ông phàn nàn về vấn đề yếu tình dục. Tại thời gian cao điểm Cách mạng văn hoá, cuối thập niên 60, khi giữa Mao và Giang Thanh không có quan hệ tình dục nào cả, nhưng Chủ tịch thường xuyên lôi các cô gái trẻ lên giường, đồng thời số lượng các cô ấy tăng lên, nhưng độ tuổi các cô càng nhỏ lại.
Lãnh tụ của chúng ta thực hiện chương trình kéo dài tuổi thọ theo công thức hoàng đế cổ Trung Hoa như thế đấy.
Mao tiếp tục tìm kiếm đan dược trường sinh bất lão, thậm chí cũng chẳng hề nghi ngờ ông có thể thọ như vậy hay không. Lại còn tin những bài thơ thời thanh niên “sẽ sống hai trăm tuổi và bơi qua con sông lớn dài ngàn dặm”. Giữa những năm 60 ông tuyên bố với khách nước ngoài, chuẩn bị gặp Chúa trời và cụ Karl Marx, đó là mánh khóe chiến lược của ông. Năm ấy ông còn khỏe, lạc quan hơn cả thời kỳ bắt đầu cuộc Cách mạng văn hoá và kéo dài đến vài năm sau. Gặp những chuyện rắc rối ông thường giả vờ ốm, lấy sự sa sút về sức khoẻ làm thủ đoạn chính trị. Sức khoẻ của Mao chủ tịch và chính trị Trung Quốc có quan hệ tương hỗ.
Năm 1963, Mao đóng vai một ông già ốm yếu trước đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Chủ tịch muốn dò xét phản ứng của Liên Xô trước cái chết giả tưởng của mình. Mối quan hệ Trung Quốc – Liên Xô trong những năm ấy rất xấu, vì thế đối với Mao điều này cực kỳ quan trọng. Trước khi chuẩn bị màn kịch, Mao đã vài lần thử nhập vai một ông già run rẩy sắp chết cho chúng tôi xem, rồi hỏi xem liệu có giống như người sắp chầu trời hay không. Sau đó chui vào giường, cho gọi đại sứ Liên Xô đến. Buổi diễn đạt được thành công mỹ mãn.
Cũng vẫn trò như thế, năm 1965, Mao nói với người bạn cũ của, nhà báo Mỹ Edgar Snow rằng ông sắp chầu thượng đế. Mao rất chú ý thái độ phản ứng của người Mỹ về tin tức ông sắp chết. Ông rất muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Mao tin rằng E. Snow, tác giả cuốn sách “Ngôi sao đỏ trên đất nước Trung Hoa”, tác phẩm kinh điển xuất bản bằng Hoa ngữ và Anh ngữ, là người của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), và vì thế thông tin về cái chết gần kề của lãnh tụ sẽ rơi vào tay chính quyền Mỹ. Năm 1965, mánh khóe tương tự Mao cũng sử dụng với Bộ trưởng Văn hoá Pháp André Malraux và sau đó ông chú ý theo dõi phản ứng của phương tây qua báo chí.
Mao thường lên án chuyện âm mưu, mánh khóe của người khác nhưng chính ông lại người nhiều thủ đoạn xảo quyệt và mánh khóe nhất.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [9]