19 tháng 3, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 5

Posted: 13/06/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ngày 25 tháng 4 năm 1955, gần ba giờ chiều, cô y tá trưởng bệnh viện Trung Nam Hải với vẻ mặt căng thẳng, bối rối, báo cho tôi biết:
– Nhóm Một vừa gọi điện sang – Cô ta thì thào – Đồng chí phải đến ngay bể bơi.
“Nhóm Một” là bí danh của Mao và những cộng sự của ông ta. “Bể bơi” ám chỉ Mao chủ tịch. Lúc đó ở Trung Nam Hải có hai bể bơi. Một bể ngoài trời, tất cả mọi người đều được phép sử dụng trong mùa hè. Bể bơi khác xây trong nhà, dành cho cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng. Tuy vậy, dần dần bể bơi này chỉ mình Mao sử dụng, sau này ông thường hay tới đó, đến nỗi người ta phải xây thêm một phòng ngủ, phòng tiếp khách và phòng làm việc cho ông ngay cạnh bể bơi. Năm 1967, khi Cách mạng văn hoá đang diễn ra, Mao dọn đến ở hẳn tại ngôi nhà có bể bơi đó cho đến khi ông gần qua đời. Tại đây, ông đã đón tiếp tổng thống Nixon, thủ tướng Tanaka và nhiều chính khách nước ngoài khác. Ngay từ năm 1955 chữ “bể bơi” đã luôn gắn liền với Mao.
Chủ tịch đã đích thân ra lệnh gọi tôi.

Như thường lệ, hôm đó công việc ở bệnh viện rất bận rộn, một số bệnh nhân đã kiên tâm chờ đợi hàng giờ liền chờ khám. Tôi phải khám cho họ trước khi đến bể bơi bằng xe đạp. Lý Ẩm Kiều, đội phó đội vệ sĩ của Mao vội vã đi về phía tôi.
– Tại sao đồng chí đến muộn thế? – anh ta hỏi với vẻ đầy lo âu – Đồng chí bắt Chủ tịch phải chờ à?
– Tôi không thể bỏ bệnh nhân mà đi – tôi giải thích – Chủ tịch ốm à? Chủ tịch có cần chăm sóc thuốc men không?
– Không, Chủ tịch chỉ muốn nói chuyện với đồng chí.
Lý Ẩm Kiều đưa tôi đến khu bể bơi. Mao đang nằm trên phản gỗ, say sưa đọc sách. Ông khoác một chiếc áo tắm bằng vải bông lên tấm thân trần, quấn một chiếc khăn bông ngang hông. Trông ông mạnh khỏe, to lớn như lần đầu tiên tôi thấy ông trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn. Ông có đôi vai rộng, bụng phệ, sắc mặt hồng hào, tóc vẫn đen đen nhánh và dày, trán rộng, da bóng, không có lông tơ. Cặp đùi của ông gầy, hai bàn chân thô, xỏ đôi tất màu cà phê. Lý Ẩm Kiều báo tôi đã đến, tôi liền xin lỗi ông vì sự chậm trễ, giải thích vì phải khám nốt số bệnh nhân đã ngồi chờ hàng tiếng đồng hồ. Mao không hề bực mình. Ông để quyển sách sang bên, rồi bảo Lý mang một chiếc ghế đến, vì thế tôi ngồi sát chủ tịch. Khi tiếp khách, số vệ sĩ của Mao thường tăng gấp đôi, một nhóm bốn người túc trực dưới sự điều khiển của một đội, họ cắt nhau túc trực phục vụ ngày cũng như đêm 24/24.
– Trương Trí Đông chẳng bao giờ ăn đúng giờ, ngủ đúng giờ – Mao giải thích – tự ví mình với một quan chức cao cấp trong triều đại nhà Thanh – Tôi cũng như Trương, tỉnh dậy là đến đây ngay. Bây giờ mấy giờ rồi?
– Bốn rưỡi chiều ạ – tôi trả lời.
– Giờ này đối với tôi vẫn còn là bình minh. Đồng chí dậy lúc mấy giờ?
Tôi lúng túng. Vì sau bữa ăn trưa phần lớn người Trung Quốc thường chợp mắt một chút, tôi vẫn chưa hề biết thói quen của Mao, nên tôi không dám chắc ông muốn biết tôi dậy sau giấc ngủ trưa vào lúc nào hay tôi dậy vào buổi sáng lúc mấy giờ.
– Buổi sáng tôi thường dậy lúc hơn 6 giờ – cuối cùng tôi đã nói – buổi trưa tôi chợp mắt một chút ạ.
– Đồng chí là bác sĩ – Mao vừa cười vừa nói – nên đồng chí mới lưu tâm đến sức khỏe và cuộc sống của đồng chí theo thời gian biểu một cách nghiêm ngặt.
Trong cái nhìn của Mao, ông tỏ ra là người khôn ngoan, nhân ái – bằng điệu bộ của ông nhiều hơn bằng lời nói. Tôi bị ông chinh phục, vì tôi cảm thấy mình đang đối diện với một người vĩ đại.
Ông hút thuốc lá của Anh, mác “555”. Khi hút, ông dùng thêm tẩu.
– Tống Khánh Linh tặng tôi cái tẩu này – ông ám chỉ quả phụ của Tôn Trung Sơn và khuyên nên dùng tẩu, vì bên trong có thêm đầu lọc để giảm hàm lượng nicotine – Tôi đã hút thuốc từ nhiều năm nay nhưng luôn tự hỏi, chất nicotine đã gây tác hại như thế nào. Đồng chí có hút thuốc không?
– Tôi có hút, nhưng không nhiều. Buổi tối, sau giờ làm việc tôi thường hút ba hoặc bốn điếu.
– Đồng chí là bác sĩ hút thuốc đầu tiên mà tôi biết.
Ông nhìn tôi vừa cười chế nhạo tinh quái vừa bập bập hơi thuốc.
– Hút thuốc cũng là phương pháp luyện tập hít thở tốt đúng không?
Tôi không biết ông nói đùa hay nói thật, nên tôi chỉ cười, không nói gì. Mao nhìn tóc tôi, rồi nói:
– Đồng chí mới trên 30 tuổi, sao tóc bạc nhiều hơn tôi thế?
Tôi đáp, tóc tôi bạc trước tuổi là theo gen di truyền.
– Cứ theo tóc mà phán, tôi già hơn Chủ tịch nhiều.
Mao cười:
– Đồng chí nịnh tôi chứ gì?
Dần dần tôi đã bạo hơn.
Mao hỏi tôi về việc học hành, về quá trình công tác và lắng nghe tôi nói.
– Từ khi đi học, đồng chí đã được giáo dục hoàn toàn theo kiểu Mỹ – ông nói – Trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng, người Mỹ đã ủng hộ Tưởng. Và ở Triều Tiên họ cũng đã chống lại chúng ta. Mặc dù vậy, tôi vẫn thích những người đã từng học ở các trường của Mỹ và Anh làm việc cho tôi. Tôi cũng rất thích ngoại ngữ. Người ta đã nhiều lần đề nghị tôi học tiếng Nga, nhưng tôi không thích. Tôi thích tiếng Anh hơn. Có lẽ đồng chí có thể giúp được tôi việc này?
Tôi đồng ý.
Mao ngừng nói, rồi nghiêm giọng:
– Mới có 15 tuổi, khi vẫn còn là trẻ con, đồng chí đã gia nhập tổ chức Phục hưng Quốc gia vào năm 1935. Khi đó, đồng chí chưa hề hiểu chính trị là gì. Ngoài ra, đồng chí đã kể những mẩu chuyện về quá khứ của đồng chí. Tôi thấy không có vấn đề gì.
Ông kể cho tôi nghe về Lý Thế Dân, vị hoàng đế lập ra triều đại nhà Đường (618-907), không những đã từ chối lời can ngăn của các quan thượng thư không nên dùng một viên tướng không rõ lai lịch mà còn tin tưởng cho hầu cận kế bên. Nhưng viên tướng đó lại có tài năng phi thường, đã phụng sự nhà vua rất tích cực. Chẳng bao lâu nhà vua và viên tướng đó đã thân thiết với nhau.
Mao nhìn tôi, nói:
– Điều gì đã khiến nhà vua tin tưởng? Đó chính là sự thành thật. Chúng ta cần phải thành thật với nhau. Quan hệ và sự thành thật của chúng ta cần phải trải qua thử thách trong một thời gian dài.
Mao nói tiếp:
– Trường hợp Hứa Thế Hữu làm thí dụ – Ông nhắc đến nhà sư từng là tư lệnh quân khu Nam Kinh – Hứa Thế Hữu nguyên là phe cánh của Trương Quốc Đạo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản Trung Quốc nhưng đã chạy sang hàng ngũ Quốc dân đảng sau khi bất đồng với Mao. Hứa Thế Hữu không chịu chạy theo Trương Quốc Đạo, tuyên bố trung thành với Mao. “Trong đợt chỉnh huấn năm 1942 ở Diên An, nhiều người ngờ vực lòng trung thành của Hữu, vì trước đó đồng chí ấy đã từng làm việc cho Trương Quốc Đạo. Hứa bị phê phán kịch liệt. Đồng chí ấy đã thất vọng, nghĩ đến việc rút quân của mình khỏi Diên An. Khang Sinh muốn bắt, xử bắn đồng chí ấy. Tôi ra lệnh không được động thủ vội, muốn đích thân nói chuyện với đồng chí ấy trước đã. Nhiều người e ngại, nhưng tôi không sợ.
– Khi gặp tôi, Hứa bật khóc. Tôi nói, đừng khóc nữa, hãy trả lời hai câu hỏi đơn giản của tôi: “Đồng chí tin Trương Quốc Đạo hay tin tôi?” tôi hỏi. “Tất nhiên, tôi tin đồng chí”, Hứa trả lời. “Đồng chí muốn đi hay ở lại?”, tôi hỏi tiếp. “Tất nhiên là tôi muốn ở lại” đồng chí ấy đáp. Và tôi nói: “Được, đồng chí hãy ở lại. Đồng chí tiếp tục chỉ huy bộ đội của đồng chí. Thế thôi”. Từ đó, đâu phải Hứa Thế Hữu đã không hoàn thành nhiệm vụ của đồng chí ấy.
Tất cả mối lo lắng và nản lòng cả năm trời nay bỗng nhiên tôi cảm thấy vững tâm. Mao đã gạt bỏ nguồn gốc xuất thân, quá khứ chính trị của tôi. Với người khác, họ thường lấy quá khứ để phê phán, khai trừ tôi ra khỏi đảng, gây hoang mang. Mao chủ tịch nói:
– Lúc ấy anh hãy còn trẻ con, thành thật khai báo có gì sai?
Lý lẽ của chủ tịch thật đơn giản nhưng cũng nhờ đó quá khứ của tôi được xoá bỏ. Mao, vị lãnh tụ tối cao, không ai dám cưỡng lời. Tôi biết ơn chủ tịch, ông đã cứu tôi.
Một vệ sĩ đến chuẩn bị bữa ăn cho Mao. Chủ tịch mời tôi dùng cơm chung. Bữa ăn có 4 món, cá, thịt lợn trộn ớt thái lát, thịt cừu xào tỏi tây (món ăn khoái khẩu của chủ tịch), một đĩa rau. Trong khi đó các món ăn thường được đảo qua dầu nóng nhưng không rưới xì dầu, rắc thêm chút muối.
Vào giữa những năm 1950, hầu hết mọi người đều phải chịu đựng cuộc sống nghèo khó, thực phẩm thiếu thốn, dầu ăn trở thành một món xa xỉ. Nhưng tôi lại quen ăn những món nhúng dầu, vì vậy tôi đã phải cắn răng nhịn.
– Đồng chí không ăn à? – Mao có vẻ trách – Món cá ngon lắm, thịt lợn cũng thế.
– Tôi không đói lắm – tôi cáo từ.
Mãi sau này tôi mới quen với khẩu vị của ông.
– Đây là bữa sáng cũng là bữa trưa của tôi – ông nói – Mỗi ngày tôi ăn hai bữa là đủ. Hình như bây giờ chưa phải là giờ ăn của đồng chí?
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện. Ông muốn biết tôi có quan tâm đến triết học không.
– Khi còn là sinh viên, chưa bao giờ tôi đọc những cuốn sách giáo khoa về nghề y của tôi kỹ lưỡng như tôi mong muốn – tôi đáp – Tôi không có thời gian để đọc những cuốn sách khác. Từ khi trở thành bác sĩ, tôi hoàn toàn dành thời gian điều trị cho bệnh nhân. Vì vậy, tôi không có điều kiện để đọc sách triết học. Nhưng tôi cũng đã đọc hai bài luận văn triết học của Chủ tịch: “Bàn về thực tiễn” và “Bàn về mâu thuẫn”.
Tôi rất thích hai bài này. Mao viết rất hay, giản dị, chính xác từng vấn đề. Bài “Bàn về thực tiễn” đã cho tôi thấy, sự hiểu biết đúng đắn chỉ có thể có được từ hành động hơn là từ những lý thuyết suông. Đó là một bài học bổ ích đối với một bác sĩ phẫu thuật tương lai. Bài “Bàn về mâu thuẫn” đã giải thích cho tôi, rằng người ta cần phải tìm hiểu bản chất của vấn đề thay vì tập trung vào hiện tượng bên ngoài của nó.
Mao cười:
– Trong cuộc kháng Nhật (1937-1945) tôi đã đề nghị đưa môn triết học vào Trường Đại học chống Nhật ở Diên An. Lúc đó tôi nghĩ, cần phải đúc kết kinh nghiệm cách mạng của ta, kết hợp giữa lý luận của chủ nghĩa Marx vào thực tế cụ thể ở Trung Quốc. Vì thế tôi đã viết cả hai bài này. Tôi nghĩ, bài “Bàn về thực tiễn” có ý nghĩa hơn bài “Bàn về mâu thuẫn”. Tôi viết “Bàn về mâu thuẫn” trong hai tuần, nhưng khi trình bày chỉ mất hai tiếng đồng hồ.
Sau này, mỗi khi nhớ lại, tôi đã tự hỏi, tại sao trong lần gặp đầu tiên, tôi lại gây ấn tượng tốt cho Mao như vậy, tôi thường nhớ đến cuộc trò chuyện này. Chỉ sau khi tôi trở thành người gần gũi với Mao, người cộng sự tin cậy nhất của ông, tôi mới biết, hai bài lý luận triết học quan trọng đối với Mao như thế nào. Mao coi đó là những bài học cơ sở đưa đến sự phát triển triết học của chủ nghĩa Marx-Lenin, tức là sự áp dụng “chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh cụ thể của Trung Quốc”. Không những Liên Xô đã coi thường bài viết này mà còn gán cho những bài viết đó có tính chất xét lại. Tôi nghe tin đồn Stalin đã chỉ định P. F. Yudin, một triết gia Marxist- Leninnist nổi tiếng sang làm đại sứ Liên Xô ở Trung Quốc, nghiên cứu tư tưởng Mao, viết báo cáo tường trình về tư tưởng đó. Mao thường gặp Yudin, rồi hai người tranh luận với nhau đến tận đêm khuya. Nhưng Yudin đã cương quyết phủ nhận những quan điểm của Mao, cho đến khi Mao phật lòng. “Có phải triết học chỉ ở trong giới hạn của Marx-Lenin?“, đôi khi ông nặng lời, “Kinh nghiệm thực tế cách mạng Trung Quốc không thể tạo ra những tư tưởng triết học mới sao?”
Tuy nhiên buổi chiều hôm đó tôi vẫn chưa biết nhiều điều vì Mao vẫn còn dè dặt.
Ông nói:
– Tôi nghĩ, đồng chí nên đọc vài cuốn sách triết học. Là bác sĩ, điều đó có thể rất bổ ích đối với đồng chí. Tôi vừa mới đọc xong “Phép biện chứng tự nhiên của Engels”. Đồng chí cầm cầm lấy cuốn sách này. Tôi đã từng nghe, ở các trường Đại học bên Mỹ người có học vị hàn lâm cao nhất trong khoa học tự nhiên và thần học đều là tiến sĩ triết học. Rõ ràng, người Mỹ cũng có quan điểm cho rằng, trong tất cả các ngành khoa học, triết học đóng một vai trò quan trọng. Tôi đã nắm được điều quan trọng đó để nghiên cứu lịch sử. Nếu không biết gì về lịch sử, chúng ta không thể hiểu được cái gì đang xảy ra trong hiện tại. Và đồng chí cũng nên biết về văn học. Một khi là bác sĩ, thường xuyên giao tiếp với nhiều người, đồng chí chỉ sử dụng những kiến thức y học không thôi sẽ thấy lạc lõng, xa lạ. Đồng chí sẽ không chia xẻ tâm tư, tình cảm qua ngôn ngữ bình dân của mọi người.
Mao dừng một lát.
– Hôm nay như thế là đủ rồi. Trong tương lai chúng ta sẽ còn có nhiều dịp để thường xuyên trao đổi với nhau.
Ông chìa tay, bắt tay tôi thật chặt.
Hơn bảy giờ tối, tôi rời khu bể bơi, trong đầu chất chứa bao suy tư. Cuộc gặp gỡ có quá nhiều bất ngờ, từ chuyện Mao nằm trên giường, thói quen ngủ nghê kỳ quặc, lối nói khôi hài khuyến rũ, giúp tôi đỡ căng thẳng, khiến tôi nói hết cảm nghĩ của mình. Người ta sợ hãi ông đồng thời cũng rất dễ gần gũi, ông khôn ngoan nhưng không sùng bái thần tượng. Sự lo lắng đã biến mất, tự nhiên tôi cảm thấy yên tâm hơn so với những năm trước đây. Mặc dù giữa chúng tôi vẫn luôn luôn còn hố sâu ngăn cách, tôi biết rất ít về ông, nhưng tôi hiểu đã gặp một con người vĩ đại. Tôi rất tự hào vì được giao nhiệm vụ đấy tin cậy, phục vụ ông. Một dịp may tôi không dám mơ đến. Nhưng liệu tôi có hoàn thành nhiệm vụ hay không? Tôi nên chuẩn bị như thế nào? Người ta đã trông mong ở tôi điều gì? Tôi lập tức tìm gặp Uông Đông Hưng.
Uông hoan hỷ:
– Như vậy đồng chí ở bên Chủ tịch khá lâu, Chủ tịch chắc hài lòng lắm. Đồng chí nói gì với Chủ tịch?
Tôi báo cáo lại tất cả. Uông vui lắm:
– Thấy chưa, tôi đã bảo mà. Buổi đầu như thế quá tốt, hãy cố gắng lên.
Chuông điện thoại reo. Vệ sĩ của Mao là Lý Ẩm Kiều gọi điện đến. Tôi đã gây ấn tượng rất tốt đối với Mao, vượt qua được thử thách. Mao muốn tôi làm bác sĩ riêng của ông.
– Tôi sẽ báo việc này cho Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh – Uông nói – Bây giờ đồng chí về nghỉ đi. Nhớ giữ kín tất cả mọi chuyện đã xảy ra ngày hôm nay.
Lý Liên, người duy nhất được tôi kể cho nghe về nhiệm vụ mới. Cô ấy cũng nghĩ, hẳn tôi phải gây được thiện cảm tốt đẹp rồi. Nếu không Mao đã không nói chuyện với tôi lâu như vậy, lại còn mời tôi cùng dùng cơm. Tôi vui lắm, nhưng vẫn còn lo về công việc sắp tới, bảo:
– Hãy chờ xem liệu công việc có thuận lợi như vậy hay không đã?
Lý Liên hỏi:
– Mình có hiểu công việc cần đòi hỏi những gì không?
Hôm sau Phó Liêm Chương gọi điện mời tôi đến nhà ở đường Dây Cung. Tôi đạp xe đến. Lần này, ông đích thân ra tận cửa đón, bắt chặt tay tôi:
– Hôm qua đồng chí gặp Mao chủ tịch phải không? Kể cho tôi nghe đi.
Tôi không hiểu sao tin này lại lan nhanh đến như vậy. Phó Liêm Chương chăm chú lắng nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ giữa tôi và Mao. Câu chuyện làm ông phấn khích. Ông rót trà mời tôi, đi vòng quanh bàn trà nhỏ hai lần, lẩm bẩm: “Thật là may mắn”. Quay người lại nhìn tôi, ông ta cười, nói:
– Đồng chí thật may mắn. Lần đầu gặp Mao chủ tịch mà đồng chí đã được nói chuyện với Chủ tịch lâu như vậy. Đúng là một đặc ân.
Tôi cảm thấy Phó Liêm Chương ngạc nhiên ra mặt và có ý ghen tị.
Phó Liêm Chương kể:
– Năm 1934, lúc đó Chủ tịch mắc bệnh sốt rét, tôi đã cho Chủ tịch uống ký ninh. Khi Chủ tịch ra mặt trận lại giao phó cho tôi chăm sóc vợ Chủ tịch đang có mang, đó là nữ đồng chí Hạ Tử Trân. Tôi đã đỡ đứa con của họ chào đời.
Nhưng Phó Liêm Chương lại không nhớ chính xác Hạ Tử Trân có mấy con, chỉ biết mang máng có hai con trai trước khi cuộc Vạn Lý Trường Chinh xảy ra, hai đứa con phải bỏ lại cho gia đình nông dân nuôi dưỡng khi cộng sản rút lui phía Nam, khó khăn lắm sau này mới tìm được. Hai má Phó nóng bừng vì phấn kích khi ông nhớ lại thời kỳ đó. Những hạt mồ hôi lăn trên trán, ông nhấp vài ngụm nước đun sôi, bảo:
– Mình không uống trà hoặc bất cứ chất kích thích nào.
Phó nói tiếp, lái câu chuyện sang hướng khác.
– Sau đó, Chủ tịch đã cứu tôi. Lần đó tôi bị cáo buộc là người của Quốc dân đảng, nhưng Mao chủ tịch đã đứng ra bảo vệ. Hồi trẻ, tôi mắc bệnh lao, lần đó Chủ tịch cũng rất tốt với tôi. Trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, khi mọi người khác phải đi bộ, Chủ tịch đã cho tôi cưỡi ngựa. Vì sức khỏe của tôi rất yếu, Chủ tịch cũng rất quan tâm, bảo người lo cho tôi mỗi ngày được ăn một con gà. Hồi đó, gà đắt lắm lại khó mua nữa, mỗi ngày ăn một con gà thật là xa xỉ không tưởng tượng nổi.
Phó rót thêm trà cho tôi, nói tiếp:
– Tôi kể tất cả cho đồng chí nghe, vì tôi muốn đồng chí hiểu Chủ tịch.
Tôi biết quá ít về thời kỳ đầu lịch sử của đảng cộng sản và quá khứ của Mao. Vì vậy tới đòi Phó kể tiếp.
– Những điều mà đồng chí kể rất bổ ích đối với tôi.
Phó cười.
– Chủ tịch mắc chứng mất ngủ. Đầu những năm 1930, trong thời kỳ Giang Tây Xô Viết, tôi đã phải hoá trang thành thương gia để đến Thượng Hải mua thuốc giảm đau, an thần veronal và đường glucose. Tôi đã hướng dẫn Chủ tịch dùng thuốc trước khi đi ngủ. Thuốc có hiệu quả, Mao rất vui. Đồng chí thấy đấy, tôi rất trung thành với Chủ tịch. Chủ tịch và tôi bằng tuổi nhau nhưng tôi không sung sức như Chủ tịch.
Phó nhìn tôi chăm chú, nói:
– Việc đồng chí được giao nhiệm vụ có nghĩa đảng đã tin tưởng đồng chí. Đó là một nhiệm vụ vinh quang, nhưng cũng đầy khó khăn.
Bữa ăn được dọn ra. Phó nói:
– Hôm qua, Chủ tịch đã mời đồng chí dùng cơm, nay đến lượt tôi.
Đó chỉ là bữa ăn đạm bạc, ngoài các món còn có món gà hấp.
– Hàng ngày tôi thường ăn gà.
Ông gọi người mang rượu vang, nâng ly mời:
– Thường ngày tôi không uống rượu vang, nhưng hôm nay là ngoại lệ – ông nói tiếp – Là bác sĩ riêng của Mao chủ tịch, đồng chí cần phải thận trọng. Nếu có điều gì bất cập, đồng chí cứ nói, tôi sẽ giúp.
Tôi không biết Phó có thể giúp tôi như thế nào. Rõ ràng ông chỉ muốn nghe được càng nhiều càng tốt về Mao và những hoạt động của Mao. Phó ăn xong món thịt gà, rồi buông bát, giải thích:
– Mỗi ngày tôi ăn năm bữa, nhưng ăn rất ít. Đồng chí tiếp tục ăn đi chứ. Chủ tịch muốn đồng chí dạy tiếng Anh cho Chủ tịch – Phó nói tiếp – Đấy là một dịp may để đồng chí kết thân với Chủ tịch. Đồng chí không những phải chăm sóc sức khỏe mà còn phải làm tất cả những việc Chủ tịch yêu cầu.
Tôi cảm thấy lời khuyên của Phó ra vẻ dạy đời. Tôi là bác sĩ, tôi chỉ quan tâm đến công việc y học ngoài ra tôi không muốn gì hết. Tôi trả lời không đắn đo:
– Một khi tôi làm theo lời khuyên của đồng chí, tôi lấy đâu ra thời gian cho chuyên môn của tôi.
Phó nghiêm nghị:
– Đồng chí không nên nhìn vấn đề như thế. Chủ tịch uyên bác lắm, kiến thức mênh mông như biển cả, đồng chí có thể học hỏi được rất nhiều ở Chủ tịch. Đồng chí là bác sĩ, cũng cần mở rộng kiến thức của mình chứ. Nếu muốn, đồng chí sẽ có nhiều cơ hội hơn để trao đổi học hỏi và hiểu Chủ tịch hơn.
Mao cũng đã khuyên tôi trau dồi, mở mang kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau, tôi hiểu điều Phó nói có lý. Mao vẫn còn trẻ, khỏe, nhiệm vụ của tôi không chỉ điều trị bệnh tật cho ông mà còn phải lo cho ông luôn luôn khỏe mạnh. Tôi phải làm quen với cá tính, đặc điểm, thói quen và chiếm được lòng tin của ông. Phó nói phải, tôi cần mở mang kiến thức, có như thế tôi mới có thể chuyện trò lâu với Chủ tịch. Tôi cảm ơn lời khuyên của Phó. Ông rất hài lòng, cầm lấy tay tôi, siết chặt, dặn:
– Tuần nào cũng đến tôi nhé, không cứ phải có công chuyện.
Ngoài đường người đông nghịt, không khí ngày lễ tràn ngập khi tôi đạp xe về nhà. Bắc Kinh đang sửa soạn đón ngày lễ mồng l tháng Năm, những toà nhà được trang hoàng bằng những tấm biểu ngữ, băng rôn và những lá cờ đỏ rực. Lòng tôi lâng lâng hạnh phúc.
Sau khi trở về Trung Quốc, tôi đã tỉnh ngộ. Giấc mơ của tôi tan nhanh. Những người cùng thế hệ trong họ tộc – anh em ruột, họ hàng và bạn bè tôi đã tìm được chỗ đứng trong xã hội mới. Họ từng là chiến sĩ lão thành, những người đàn ông của những năm 30 ở Diên An, những người làm lên cuộc cách mạng. Sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, họ đã được tưởng thưởng những chức vụ quan trọng. Một số bị phê phán trong phong trào “Ba Chống”, đôi khi đấu đá nhau để bám giữ chức vụ và bây giờ họ được kính trọng như những người thành đạt trong xã hội. Một số bạn học trường y cũng vậy, con đường khoa học của như mùa hoa nở rộ. Một số trở thành những chuyên gia y học chuyên ngành rất nổi tiếng, được tôn kính trong các bệnh viện lớn của đất nước.
Sự nghiệp của tôi trôi sang hướng khác, công việc được giao chẳng mong ước, buộc phải bỏ nghề phẫu thuật, thành bác sĩ đa khoa. Mặc dù trước đó ít lâu thủ tướng Chu Ân Lai đã thông báo, bệnh viện tôi phụ trách ở Trung Nam Hải sẽ thành một bệnh viện tổng hợp phục vụ Hội đồng nhà nước, thủ tướng sẽ bổ nhiệm tôi làm giám đốc cơ sở mới này. Nhưng sự tái tổ chức cơ cấu còn đang dang dở. Tôi không biết tương lai sẽ ra sao. Người ta chỉ định tôi bác sĩ riêng của Mao, không làm việc trong bệnh viện, thay vào đấy là áp lực làm việc sẽ rất lớn.
Khi trở thành bác sĩ riêng của Mao, tôi vui mùng vì được nhiều người kính trọng. Mao, vị lãnh tụ tối cao của Trung Quốc, được hàng triệu triệu người tôn sùng. Nhưng nơi ông ở rất bí mật, cách biệt riêng, thậm chí với cả những chính trị gia thân cận nhất của ông. Ông được bảo vệ rất cẩn mật. Với người thường, ông là nhân vật khó hiểu, khó gần. Ngay những cán bộ cao cấp của đảng cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp. Là bác sĩ riêng, tôi thường xuyên túc trực bên ông, hàng ngày hướng dẫn ông học tiếng Anh, nói chuyện triết học và chứng kiến những điều bí mật xảy ra xung quanh ông.
Cuộc đời tôi đã thay đổi. Bầu trời mở rộng, đất nước ôm lấy tôi vào lòng. Tôi không còn là tôi nữa. Ngay sau khi trở về vào năm 1949, tôi đã tìm gặp Phó Liêm Chương. Trong lúc tôi chào hỏi, ông vẫn nằm trên chiếc ghế bố không thèm đứng dậy, ấy thế tôi vẫn cảm thấy vinh hạnh được một cán bộ cao cấp như vậy đón tiếp. Bây giờ ông lại ra tận cửa đón tôi với vẻ nhũn nhặn. Tôi sớm nhận ra rằng, bỗng nhiên nhiều chính trị gia cao cấp đối xử với tôi nhã nhặn, ân cần, muốn được trò chuyện với tôi. Tôi không còn là một thầy thuốc bình thường nữa. Tôi đã là bác sĩ riêng của Mao chủ tịch. Lòng tôi dâng lên niềm hân hoan ngây ngất, đầy tự hào, kiêu hãnh.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [6]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 4

Posted: 11/06/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Một quan chức bị ốm và chết do viêm não Nhật Bản, tôi cấp tốc được triệu về Trung Nam Hải. Dịch viêm não Nhật Bản truyền qua muỗi đốt, muỗi lại rất nhiều ở Bắc Kinh đặc biệt vào mùa hè và mùa thu. Vì thế trường hợp sốt do viêm não ở đây không phải hiếm. Các nhà chuyên môn thời kỳ đó khuyên nên theo dõi hội chứng căn bệnh nguy hiểm này, nó phá huỷ não. Giai đoạn đầu của bệnh có thể bị ngăn chặn bằng thuốc đông y cổ truyền, triệu chứng giống như cúm. Tuy nhiên nếu điều trị không kịp thời, bệnh tiến triển nhanh người bệnh rối loạn hệ thần kinh, cái chết khó tránh được.

Mùa hè 1950 có mưa nhiều, Bắc Kinh ẩm ướt, muỗi nhiều như trấu. Một nhân viên ở Trung Nam Hải bị sốt do viêm não Nhật Bản, bác sĩ trẻ ít kinh nghiệm chẩn đoán cúm. Do điều trị không đúng, bệnh nhân tử vong. Người nhân viên này sống gần biệt thự của Mao chủ tịch, vì thế Dương Thượng Côn và Chu Ân Lai lo lắng sự nguy hiểm bệnh dịch đe doạ lãnh tụ.
Bác sĩ giám đốc trẻ tuổi ở bệnh viện Trung Nam Hải bị thải hồi tức khắc. Bệnh viện được cải tổ, trong thành phố người ta tổ chức diệt muỗi quyết liệt. Lãnh đạo quyết định chuyển bộ phận y tế ở Đồi Hương vào Trung Nam Hải, đây là một phần trong kế hoạch tái tổ chức bệnh viện. Quyết định này thực tế làm thay đổi tận gốc cuộc đời tôi.
Bệnh viện ở Trung Nam Hải vốn trang bị tồi tàn nay được cấp tốc nâng cấp, hiện đại hoá để trở thành trung tâm chữa bệnh cho các lãnh tụ đảng và nhà nước. Đồng thời người ta cũng cải tạo lại các ngôi nhà ở Trung Nam Hải. Tại đó có hai hồ lớn chiếm một diện tích rộng: hồ Trung và hồ Nam, phong cảnh tuyệt vời, xung quanh bao bọc bức tường màu đỏ son sát Cấm Thành. Khu này rất bí mật vì thế bức tường ngăn người lạ nhìn vào. Sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản đến đây ở, các sách viết về Cấm thành, kèm theo bản đồ biến mất trong quán sách. Bộ đội vũ trang thuộc trung đoàn Cận vệ canh gác khắp nơi và cổng ra vào, ngay cán bộ nhân viên trong khu vực cũng bị kiểm soát nghiêm ngặt. Ra vào Trung Nam Hải chỉ cho phép những ai làm việc và sống ở đấy, hoặc khách mời chính thức của nhà nước. Trụ sở Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai lãnh đạo nằm ở phía bắc, cạnh hồ Trung. Cùng sống và làm việc với Mao còn có những người bạn chiến đấu của ông – Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đổng Bích Vũ, Lý Phú Xuân và Trần Nghị. Họ là quan chức cao cấp nhất của đảng, tư dinh của họ là những biệt thự trong cung điện Cấm Thành. Tất cả cán bộ, công nhân viên chức làm việc cũng được sống ở đây. Tôi được chia một căn nhà nhỏ trong khu, sau tôi chuyển sang căn nhà lớn hơn, đưa Lý Liên và thằng con trai John mới chập chững về sống cùng.
Thậm chí ngay trên vùng đất được bảo vệ cẩn mật thế này mà lực lượng an ninh vẫn luôn luôn cảnh giác cao độ. Đi từ khu này sang khu kia đều qua sự kiểm soát rất nghiêm ngặt. Đi đến đâu cũng bị hỏi thẻ ra vào. Tôi làm việc ở bệnh viện cách tư dinh Mao không xa. Tuy tôi có thẻ ra vào “B”, nhưng tôi chỉ có thể đi quanh khu bệnh viện, về nhà, loanh quanh sân nhà minh mà thôi. Lý Liên cũng có thẻ B, nhưng không được đi lại nhiều như tôi.
Là giám đốc Bệnh viện Trung Nam Hải chịu trách nhiệm điều trị không những cán bộ cao cấp sống trong Trung Nam Hải, còn cả các gia đình, những nhân vật quan trọng sống ở Bắc Kinh. Nhiều chiến sĩ cách mạng tám năm chiến đấu với Nhật và bốn năm với quân đội Quốc dân đảng, giờ đây họ mới lập gia đình, vì thế tôi còn phải chữa bệnh cho đám con nhỏ của họ. Gánh nặng công việc đè nặng lên vai, tôi không còn thời gian nghỉ ngơi nữa.
Tôi viết đơn xin vào đảng, nhưng nguồn gốc xuất thân của tôi lại thành trở ngại. Lý lịch của tôi thuộc thành phần bất hảo đối với tiêu chí của đảng cộng sản đề ra. Bố tôi từng giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ Quốc dân đảng. Dù Chu Ân Lai mời ông trở về Bắc Kinh, hứa sẽ bảo vệ ông, nhưng người ta vẫn coi bố tôi thuộc diện “phản động”. Bố vợ tôi, đại điền chủ tỉnh An Huy trong khi đó cuộc cải cách ruộng đất vẫn tiến hành, ông bị quy tội “kẻ thù nhân dân”, bị tước không chỉ quyền công dân, còn tịch thu tất cả tài sản. Bây giờ cuộc sống của ông phụ thuộc vào sự chu cấp của tôi. Họ nghi ngờ cả vợ tôi. Trước giải phóng, vợ tôi làm việc cho không lực Hoa Kỳ và toà lãnh sự Anh, người ta đồn rằng vợ tôi là điệp viên bí mật của cả hai đế quốc tư bản.
Những hoạt động thời thanh niên của tôi cũng bị nghi ngờ. Trong bản khai lý lịch, kèm đơn xin vào đảng tôi có khai, sau khi học xong lớp 10 trung học ở Quý Châu, tôi bị Quốc dân đảng gọi đi huấn luyện quân sự ba tháng. Người ta nói, sau lớp huấn luyện tôi sẽ gia nhập Hội Phục hưng Quốc gia của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, khi mãn khoá huấn luyện, tôi chẳng bao giờ nghe đến cái tổ chức này, cũng không quan hệ bất cứ hoạt động nào của nó kể cả gián tiếp. Sau mới hay, Hội Phục hưng Quốc gia là tiền thân Tam Đầu Chế của Đoàn thanh niên nhân dân, một tổ chức chính trị có liên quan tới Hội Áo bồ câu – một trong số tổ chức đặc nhiệm của Quốc dân đảng. Các đảng viên cộng sản có nhiệm vụ điều tra lý lịch tôi, không tin tôi không dính líu vào hoạt động của Hội Phục hưng.
Lại phát sinh thêm sự nghi ngờ mối quan hệ trong thời kỳ tập sự sau khi tôi tốt nghiệp y khoa. Đợt thực hành y khoa đầu tiên của tôi bắt đầu với tư cách bác sĩ quân y của Quốc dân đảng.
Quan chức của đảng tiếp tục đào bới quá khứ, dĩ nhiên họ tin tôi đã hoạt động trong Hội Phục Hưng, tôi chính là tên gián điệp. Việc kết nạp tôi vào đảng bị hoãn vô thời hạn.
Thật vô lý, tôi chỉ muốn đóng góp sức lực vào sự nghiệp cách mạng. Để làm điều này, tôi tình nguyện tham gia đội cải cách ruộng đất trực tiếp xuống nông thôn, lấy đất đai và tài sản tịch thu của bọn đại điền chủ chia cho bần cố nông. Thậm chí cuộc cải cách ruộng đất đã tước đi tất cả mọi thứ của nhạc phụ, nhưng tôi vẫn ủng hộ cách mạng. Cải cách ruộng đất kết thúc sự bóc lột hàng trăm năm đối với nông dân, cải thiện đáng kể đời sống nghèo khó ở thôn quê. Chỉ sau vài năm, một số người bạn kể lại, tôi mới biết thực chất cuộc cải cách man rợ, mất hết nhân tính mà những “ông đội, bà đội” tham gia lúc đó gây ra. It lâu sau người ta không cho tôi tham gia cải cách ruộng đất, lý do Trung Nam Hải rất cần nghề bác sĩ của tôi.
Hè năm 1950 chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Tôi lập tức làm đơn tình nguyện ra mặt trận. Tôi chưa được tham gia kháng Nhật và nội chiến Quốc-Cộng, vì thế tôi quyết định, giờ đây là cơ hội phục vụ tổ quốc. Tuy vậy, tôi tin Trung Quốc khó thắng nổi cuộc chiến này, vì Hoa Kỳ hiện đại về mọi mặt, hơn hẳn Trung Quốc, một nước hùng mạnh bậc nhất thế giới.
Tôi theo dõi chặt chẽ tin chiến sự, thật ngạc nhiên, vui mừng thấy quân đội Trung Quốc không bị đẩy lùi, còn giáng cho kẻ địch những đòn sấm sét hết mặt trận này sang mặt trận khác. Lần đầu tiên sau một thế kỷ, Trung Quốc tỏ rõ sức mạnh đủ khả năng chống lại lực lượng xâm lược ngoại quốc hùng mạnh. Tôi kinh hoàng khi biết Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí vi trùng ở Triều Tiên. Dù rằng cuộc chiến ở Triều Tiên vẫn tiếp diễn chưa có dấu hiệu kết thúc, tôi vẫn tự hào vô hạn là người Trung Hoa, nhưng cấp trên không cho tôi tham gia chiến sự, họ bảo công việc tôi ở Trung Nam Hải còn quan trọng và cần thiết hơn ra chiến trường.
Tôi buồn, chán nản vì họ không cho phép tôi đóng góp cho cách mạng, càng thất vọng vì không có cơ hội thành bác sĩ phẫu thuật. Tôi cảm thấy cô đơn, bị người cách mạng xa lánh, tuy họ là bệnh nhân của tôi, càng buồn hơn khi việc vào đảng vẫn giậm chân tại chỗ.
Đang trong lúc buồn nản, mùa xuân 1952 lần đầu tiên tôi gặp gia đình Mao chủ tịch. Mao Ngạn Thanh, người con trai 30 tuổi của lãnh tụ được đưa vào bệnh viện. Anh ta mắc bệnh tâm thần, thướng xuyên mất ngủ, suốt đêm đi lại quanh nhà, lẩm bẩm một mình. Mao có hai con trai – Mao Ngạn Anh và Mao Ngạn Thanh. Hai người này là con của bà Đường Khai Tuệ, người vợ đầu tiên do ông lựa chọn, bị Quốc dân đảng xử tử năm 1930 vì không chịu bỏ người chồng mình, mặc dù lúc đó Mao sống cách đấy vài trăm dặm ở Giang Tây, vùng căn cứ địa xô viết và cũng đã lấy bà Hạ Tử Trân. Sau khi mẹ chết, hai người con nhỏ được chuyển về Thượng Hải, ở đó sống như kẻ du thủ du thực, kiếm ăn từng bữa qua ngày. Những ai từng biết Mao Ngạn Thanh đều cho rằng bệnh tâm thần do bị đòn dã man của cảnh sát Thượng Hải. Họ mới tìm thấy hai người con trai Mao cách đây vài năm. Khi Diên An trở thành căn cứ địa của đảng. Mao đã gửi con sang Liên Xô du học.
Khi bắt đầu chiến tranh Triều Tiên, người con lớn, Mao Ngạn Anh, ra chiến trường, hy sinh trong cuộc ném bom của Mỹ. Người con út Mao Ngạn Thanh làm phiên dịch ở Ban Tuyên huấn trực thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc.
Năm 1953 trong khi cả nước rầm rộ chiến dịch “Ba Chống”, chống tham nhũng, chống lãng phí và chống tệ quan liêu trong hàng ngũ cán bộ viên đảng cộng sản. Mao Ngạn Thanh phát hiện một đồng sự đã biển thủ tiền nhuận bút bài báo của anh bằng cách giả mạo chữ ký. Mao Ngạn Thanh điên tiết đánh người đồng sự. Biết tin, Mao nổi giận, quở trách người con thậm tệ. Có thể, đây là một trong những nguyên nhân gây nên bệnh tâm thần của Mao Ngạn Thanh. Tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực tâm-thần kinh, hơn nữa cơ sở chúng tôi chỉ điều trị tạm thời. Tôi cho Mao Ngạn Thanh uống thuốc an thần, chờ thời cơ thuận tiện báo cho gia đình, chuyển sang bệnh viện tâm thần điều trị lâu dài.
Một chiều, khi tôi đang kiểm tra bệnh án, cô y tá chạy hớt hơ hớt hải tới báo tin Giang Thanh đang có mặt trong bệnh viện và muốn nói chuyện với tôi về sức khoẻ của Ngạn Thanh.
Giang Thanh đi cùng người nữ y tá trang phục chỉnh tề, chờ tôi trong phòng khách, cạnh buồng Ngạn Thanh. Tôi thấy vợ Mao một vài lần, nhưng chỉ thoáng qua. Bà ta vào đảng ở Diên An, trước đó là diễn viên ở Thượng Hải. Tất nhiên, tôi cho rằng quần áo của bà khác hẳn bộ đồ một màu xám của lãnh tụ, kiểu quần áo cho tất cả mọi người thời đó. Nhưng điều tôi nhìn thấy lại rất gây ấn tượng. Giang Thanh mặc bộ âu phục dạ thanh lịch. Dưới áo gi-lê là chiếc váy bằng nhung lụa mềm mại. Chân bà đi tất mỏng – thời ấy được xem là xa xỉ – đôi giầy da màu đen gót thấp. Mái tóc đen dày, uốn từng nếp cuộn tròn chải chuốt. Bà có đôi mắt to tròn, đen xẫm quyến rũ, nước da trắng màu ngà voi. Giang Thanh cao khoảng mét sáu mươi, mảnh mai, phần lưng dài hơn phần dưới. Hồi ấy bà 38 tuổi, tôi 32.
– Chắc đồng chí là bác sĩ Lý?
Giang Thanh chào hỏi tôi rất lịch sự, giọng Bắc Kinh, khi tôi ngồi đối diện. Không chờ tôi trả lời, Giang Thanh hỏi luôn:
– Sức khỏe Ngạn Thanh thế nào?
Mặc dù giọng nói rất thanh lịch nhưng rất lạnh lùng. Người ta kể rằng thời trẻ Giang Thanh là cô gái đẹp, duyên dáng. Theo tôi Giang Thanh, một phụ nữ đáng yêu nhưng không đẹp. Bà ta có vẻ vừa đoan trang, vừa ngạo mạn.
Tôi báo cáo tỷ mỉ tình trạng sức khoẻ của Ngạn Thanh và khuyên nên chuyển anh ta đến bệnh viện tâm thần hoặc trại an dưỡng, bởi vì bệnh viện chúng tôi không đủ phương tiện chữa bệnh tâm thần.
Giang Thanh nghĩ một lúc, cuối cùng bảo:
– Tôi sẽ nói lại điều này với Chủ tịch, để chủ tịch quyết định.
Khi chia tay chúng tôi bắt tay nhau. Ngón tay bà nhỏ nhắn, mềm mại, móng tay được thợ sửa cầu kỳ. Cám ơn tôi xong, bà đi ra sân, có ba vệ sĩ đứng chờ. Bà ta dường như không tin tôi, đôi mắt nhìn soi mói, ngữ điệu dò hỏi đã toát lên vẻ nghi ngờ của bà đối với những lời chân thật của tôi.
Sau một thời gian ngắn, bác sĩ tâm thần xác nhận Mao Ngạn Thanh bị điên, chuyển anh về thị xã sát bờ biển thuộc tỉnh Đại Liên, đông bắc Trung Quốc điều trị. Anh ta sống trong một căn nhà riêng và có cô y tá phục vụ. Hai người yêu nhau, nhưng gia đình Mao lại chọn cho anh ta một cô vợ khác, em gái út vợ goá Mao Ngạn Anh. Cô y tá đau khổ đã phải trở về Bắc Kinh.
Mùa thu năm 1953, một năm sau cuộc gặp ở bệnh viện, tôi lại chạm trán với Giang Thanh, nhưng ở nhà Hồ Kiều Mục, một trong các thư ký của Mao, trưởng Ban Tuyên huấn. Hồ Kiều Mục vị nể công việc y khoa của tôi, chúng tôi trở thành bạn của nhau.
Tôi đến nhà Hồ Kiều Mục trong khu Trung Nam Hải để chữa cho ông chứng dị ứng và bệnh loét dạ dày. Lúc đang khám, bỗng nhiên vợ ông, Hồ Hữu, làm việc ở Viện hàn lâm khoa học, chạy vào thông báo Giang Thanh đang tới. Bà giục chồng:
– Mặc quần áo nhanh lên.
Ông xin lỗi tôi vì phải bỏ dở cuộc khám.
Tôi chạm trán Giang Thanh ngay lối vào.
– Có phải bác sĩ Lý không?
Vừa hỏi vừa bắt tay tôi trong khi Hồ Kiều Mục giải thích lý do cuộc viếng thăm của tôi. Tuy đã lâu rồi nhưng tôi không quên được giọng lạnh lùng khi bà nói chuyện với tôi lần thứ hai này.
Phụ trách bệnh viện Trung Nam Hải, tôi coi tất cả bệnh nhân như nhau, không phân biệt địa vị, chức vụ của họ. Danh tiếng của tôi tăng lên từng ngày. Nhiều người đã hài lòng khi tôi chữa bệnh cho họ, một số người thậm chí tin tôi, kể cho tôi nghe đời tư, chuyện gia đình để tìm lời khuyên trong tình huống phức tạp. Họ tin tưởng vì tôi chưa khi nào làm lộ bí mật những điều tâm sự.
Cuối năm 1952 tôi được cấp chứng minh thư “A” dành cho nhân viên gương mẫu của Văn phòng Trung ương. Đó là một vinh hạnh lớn.
Cuối cùng người ta kết nạp tôi vào đảng viên dự bị đảng cộng sản. Toàn đảng bộ nhất trí, không ai phản đối tôi cả. Trong quá trình thẩm tra lý lịch, họ phát hiện một người cùng quê, Tô Biên, lãnh đạo trong thời kỳ tôi tham gia lớp huấn luyện năm 1936, đang lao động khổ sai trong trại cải tạo ở Quý Châu, nhưng anh ta không nhớ gì về tôi. Họ lại đi tìm những bạn học cùng trường, cùng lớp cũ, nhưng tất cả đều nhất trí xác nhận tôi chẳng hứng thú tham gia chuyện chính trị. Việc thẩm tra lý lịch vào đảng của tôi kéo dài tròn hai năm.
Thành phần xuất thân của tôi và những hoạt động không thích chính trị đã gây nhiều bất lợi cho tôi khi đất nước Trung Hoa tiến hành làn sóng thanh lọc mới, nhưng tháng 11-1952, đứng dưới lá cờ đảng tôi đã thề trung thành, cống hiến trọn đời, sẵn sàng hy sinh cho đảng cộng sản Trung Quốc. Về chủ nghĩa Mác, tôi chỉ đọc qua “Tuyên ngôn đảng cộng sản” của Marx, hai bài chính luận của Mao. Ngoài ra, tôi chỉ nhớ một vài lần anh tôi giảng giải, một số khẩu hiệu Mác-xít, đại loại như “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Thật ra, tôi chưa bao giờ trở thành người đảng viên như họ. Phần đông đảng viên làm việc ở Trung Nam Hải thuộc hạng đặc quyền đặc lợi. Họ tham gia cách mạng đã lâu, vào đảng khi còn trẻ, thường ở lứa tuổi đôi mươi, tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Hầu hết xuất thân từ dân nghèo, ít học vẫn mang nặng thành kiến thủ cựu của nông dân. Nhiều người trong số họ ngưỡng mộ sự hiểu biết của tôi. Còn tôi đánh giá cao sự nhiệt tình cách mạng, sự sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng cách mạng của họ. Nhưng giữa chúng tôi vẫn có hố ngăn cách quá lớn. Họ coi tôi là trí thức, một bác sĩ, thuộc về tầng lóp bóc lột, đáng ngờ, tôi trở thành mục tiêu để “lôi kéo, sử dụng và cải tạo”. Giá trị duy nhất của tôi đối với đảng là kinh nghiệm tay nghề của một bác sĩ y khoa.
Sự đánh giá khả năng tay nghề của tôi sau khi Uông Đông Hưng gọi điện mời tôi đến nhà ông vào buổi tối ngày 2 tháng 10 năm 1954 tôi mới biết.
Uông phụ trách Ban bảo vệ trung ương, lo toan an ninh cho giới lãnh đạo, đồng thời ông còn chỉ huy đội vệ sĩ của Mao chủ tịch. Tôi quen ông trong bệnh viện, khi vợ ông và con nhỏ vài lần tới khám chữa bệnh, lần nào cũng hỏi tôi cặn kẽ về bệnh tình vợ con ông. Chúng tôi thành bạn với nhau. Uông là công thần của đảng, sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Ngay từ nhỏ, mới 10 tuổi đã theo cách mạng, ông là con nông dân nghèo ngoại ô, không được học hành, lang thang đường phố, một lần bị cảnh sát bắt vì tội đái bậy trên đường phố, may nhờ khoản tiền hối lộ khổng lồ của bố, ông mới thoát cảnh tù tội. Căm ghét chế độ tham nhũng của Quốc Dân đảng, ông theo đảng cộng sản, gặp Mao, tham gia hoạt động với Mao từ hồi ở Hồ Nam. Sau năm 1949, bất ngờ ông được tiến cử vào hàng ngũ lãnh đạo cao cấp uy tín, nhưng ông luôn luôn tôn trọng tầng lớp trí thức, nhất là tôi, một bác sĩ được đào tạo ở Tây phương.
Trên điện thoại, ông không cho biết lý do, chỉ nói có chuyện gấp cần trao đổi riêng. Điều này làm tôi bối rối, bởi vì giữa tôi và Uông Đông Hưng luôn cởi mở với nhau.
Tôi gặp ông trong một phòng rộng lớn ở Trung Nam Hải, ông sống với vợ ở đó. Căn buồng vừa là phòng làm việc, phòng khách, phòng ăn thậm chí còn là phòng ngủ. Con cái ông và người trông trẻ sống trong khu nhà đối diện bên kia chiếc sân rộng. Uông Đông Hưng rót trà, đưa một chén cho tôi, nói:
– Đây là trà Long Thanh mới hái năm nay đấy. Thử đi đồng chí! Trà này trồng ở Hàng Châu, ngon nhất Trung Quốc. Rượu vang chất lượng phụ thuộc vào độ tuổi, còn trà ngon và đắt nhất lại là trà vừa thu hoạch trong năm.
Uông Đông Hưng đúng là dân sành điệu uống trà. Tôi nhấp một ngụm, thấy rất thơm ngon. Cuối cùng tôi phải hỏi vì sao Uông mời tôi đến.
– Tôi có thể giúp gì đồng chí?
Uông Đông Hưng giọng trở lên quan trọng, hỏi tôi:
– Đồng chí biết vì sao trong thời gian dài tôi không điều đồng chí đi chỗ khác?
Tôi bối rối về câu hỏi của ông ta, đáp:
– Tôi không biết.
– Tôi theo dõi đồng chí vài năm nay, mọi người ở Trung Nam Hải quý trọng đồng chí. Đồng chí được bệnh nhân đánh giá cao vì không phân biệt địa vị, chức vụ và không khi nào tỏ vẻ ngạo mạn. Kinh nghiệm, kiến thức y học, tinh thần, thái độ phục vụ trong công việc của đồng chí đã làm chúng tôi kính phục, kể cả lãnh đạo cao cấp. Thậm chí chính Mao chủ tịch đã nghe thấy lời ca ngợi về đồng chí. Lâu nay chúng tôi chọn tìm một bác sĩ riêng Mao chủ tịch, nhưng chuyện này thật không đơn giản.
Uông nói tiếp:
– Tôi đã thảo luận với Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn trưởng ban Ban tổ chức, xếp đồng chí vào công việc này. Tôi cũng thông báo cho thủ tướng Chu Ân Lai, mọi người đều thống nhất chấp thuận sự lựa chọn của tôi. Hôm qua, tôi đã đệ trình lên Mao chủ tịch, sơ bộ chủ tịch đã đồng ý, nhưng trước khi có quyết định chính thức, chủ tịch muốn nói chuyện trực tiếp với đồng chí. Đồng chí cần chuẩn bị chu đáo. Tôi nghĩ rằng Chủ tịch sẽ nhanh chóng gọi đồng chí đến gặp đấy.
Tôi rất bất ngờ tin này. Tôi biết sau cái chết bất ngờ của Nhậm Bích Thế năm 1950, tất cả các nhà lãnh đạo bắt đầu sử dụng bác sĩ riêng, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở thành bác sĩ riêng. Từ bệnh viện tôi thường nhìn sang khu nhà Mao ở. Tôi cho rằng ngôi nhà này là trái tim của Trung Quốc, nhịp đập Mao, cũng là nhịp đập của người dân Trung Hoa. Thậm chí không dám hình dung một ngày nào đó tôi được đặt chân đến nơi ấy. Mao đối với tôi là người vĩ đại, xa xăm như ngôi sao trên trời. Đầu óc tôi đột nhiên ngổn ngang bao ý nghĩ. “Công việc này không thể dành cho mình”. Tôi hoàn toàn không xứng đáng đảm nhận công việc đó. Thành phần xuất thân của tôi thế nào đây? Tôi đã từng bị nghi ngờ có liên quan với Quốc dân đảng, bố tôi đã làm cho chính phủ Quốc dân đảng. Còn vợ tôi? Người ta từng đồn thổi là gián điệp. Lý Liên chưa là đảng viên và chẳng khi nào có thể vào đảng được. Không, công việc như thế thường trao cho con cái công nhân và nông dân. Quá khứ của tôi luôn luôn bám sát tôi, không thể thay đổi được”. Ngoài ra, Mao cũng đã có bác sĩ riêng.
Tôi nhớ lại trường hợp đau buồn trong quá khứ của cụ tôi, từng là thầy thuốc trong hoàng cung Từ Hy Thái Hậu, sau khi phát hiện bệnh giang mai ở con trai bà – hoàng đế Đồng Trị. Họ tước phẩm hàm cụ tôi khỏi chức vụ ngự y thái sử, đã ảnh hưởng tới thế hệ sau, không ai trong họ chúng tôi có quyền chữa bệnh trong hoàng cung.
Tôi từ chối, không xứng đáng làm công việc này, nhưng Uông cười phá lên, bảo:
– Đừng lo! Trước khi cho đồng chí vào đảng, chúng tôi điều tra cẩn thận quá khứ và những người thân của đồng chí. Mọi nghi vấn đã được tháo gỡ. La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn và thủ tướng Chu Ân Lai không nghi ngờ lòng trung thành và an tâm về quá khứ của đồng chí. Nếu không thế làm sao đồng chí được tiến cử làm bác sĩ riêng cho Mao chủ tịch. Quá khứ cụ tổ đồng chí, thuộc về thời phong kiến. Thời nay khác xưa rồi, đồng chí nên xoá bỏ tất cả những mặc cảm đó đi.
Tôi hỏi:
– Nhưng đồng chí Phó Liêm Chương có biết việc này không chứ?
Chính Phó Liêm Chương kêu gọi tôi hồi hương, bố trí công việc cho tôi, giờ đây là thứ trưởng Bộ y tế, trực thuộc Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trước đây đồng chí ấy lãnh đạo Cục bảo vệ sức khoẻ, lo về công tác bảo vệ sức khoẻ các lãnh tụ cao cấp đất nước. Phó Liêm Chương tự cho mình là bạn thân, là chiến hữu của Mao chủ tịch, đương nhiên, luôn luôn phải quan tâm sức khoẻ của Mao chủ tịch nhiều hơn. Vì thế tôi cho rằng giao việc cho tôi nên thảo luận cả với Phó.
Uông đáp:
– Các đồng chí lãnh đạo cao nhất sẽ quyết định. Dù rằng đồng chí Phó Liêm Chương là thủ trưởng trực tiếp của đồng chí, tôi không nghĩ chúng tôi nhất thiết phải hỏi đồng chí ấy.
Nhưng tôi linh cảm điều này có gì không ổn nếu như Phó Liêm Chương không được hỏi ý kiến.
Tôi nói với Uông:
– Tôi cũng cần có thời gian suy nghĩ đề nghị của đồng chí.
Lý do chưa thuyết phục tôi. Tôi không cảm thấy mình vẫn đang ở bên ngoài Trung Nam Hải, dù rằng về hình thức tôi đã đứng trong hàng ngũ đảng. Thành phần xuất thân của tôi không khi nào xoá được. Nếu tôi thành bác sĩ riêng của Mao chủ tịch, tôi sẽ luôn luôn nằm dưới sự theo dõi chặt chẽ. Chỉ cần phạm lỗi nhỏ người ta sẽ ghi vào lý lịch, có thể đổ tội về thành phần gia đình. Bất cứ sai phạm nào người ta có thể buộc tội tôi âm mưu chống đảng. Tôi sẽ tức khắc bị coi là kẻ thù giai cấp, trở thành kẻ tội đồ khủng khiếp.
Uông nói:
– Không còn thời gian để đồng chí nghĩ lung tung nữa. Chúng tôi đã quyết định rồi.
Lúc này tôi hiểu rằng mình hết lựa chọn. Tôi nói với ông:
– Nếu tôi đảm nhận trách nhiệm này, tất nhiên tôi sẽ làm hết sức mình. Nhưng nói trước, tôi chưa đạt được trình độ hoàn thiện, nếu mắc lỗi xin cứ kỷ luật tôi chứ đừng đổ xuống đầu đồng chí.
Thực tế, Uông Đông Hưng rất liều khi đề bạt tôi vào nhiệm vụ này. Nếu tôi mắc lỗi gì đó, Uông cũng phải gánh chịu. Chúng tôi đã buộc chung dây với nhau, thả trong cùng một rọ cho đến khi Mao chủ tịch qua đời.
Uông động viên tôi:
– Đừng lo. Dĩ nhiên, đồng chí phải hết sức chú ý và thận trọng, phải thường xuyên trao đổi với thủ trưởng, nhưng đồng chí cũng phải tự quyết định nếu thấy việc làm ấy là đúng. Đồng chí sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm công việc mình làm. Tất cả chỉ có thế. Tôi nghĩ, đồng chí sẽ thành công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hy vọng tôi không sai lầm khi chọn đồng chí. Bây giờ, đồng chí về, chuẩn bị cho cuộc nói chuyện với Mao chủ tịch. Chủ tịch là người quyết định cuối cùng. Khi nào chủ tịch gọi, tôi sẽ điện thoại để đồng chí rõ.
Uông Đông Hưng đưa tôi hồ sơ sức khoẻ Mao, yêu cầu tôi xem trước. Uông cũng nói rằng Mao sớm rời khỏi Bắc Kinh đi nghỉ ở phương nam. Tôi vẫn tiếp tục làm việc ở bệnh viện, chờ quyết định cuối cùng.
Trong khi chờ đợi, tôi nghe không ít những lời cảnh cáo. Trần Dương Anh, vợ goá Nhậm Bích Thế, một trong 5 bí thư hàng đầu của đảng cộng sản, nhắc tôi công việc sắp tới sẽ chẳng đơn giản chút nào đâu. Sau khi chồng chết 1950, bà sống trong sự thất vọng. Tôi cố an ủi và động viên bà. Bà là người phụ nữ khả kính, một người vợ chung thuỷ, một người mẹ đáng kính. Sau cuộc gặp này chúng tôi trở thành bạn tốt của nhau.
Cùng với Trần Dương Anh, tôi có mặt trong các cuộc hội nghị đảng, đi Thượng Hải và Hàng Châu. Bà kể cho tôi về sự lập dị và quái đản của Mao cảnh báo tôi rằng phải thận trọng khi nói chuyện với Mao chủ tịch. Bà bảo:
– Mao có thói nổi xung bất thường, chỉ một sai sót nhỏ có thể làm ông phát khùng. Vợ ông, Giang Thanh, một người độc ác, thô bạo với người xung quanh, ngoài ra còn có tật quyến rũ đàn ông. Đừng bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của bà ta. Nếu không, đồng chí rơi vào thảm hoạ, không một ai trong số những người gần Mao giúp được đồng chí đâu. Hơn thế nữa, bất kỳ lúc nào đồng chí cũng có thể chui đầu vào tù đấy.
Những lời cảnh báo của Trần Dương Anh làm tôi giật mình. Tôi tôn thờ Mao, cho rằng chủ tịch không bao giờ làm điều sai quấy. Dĩ nhiên, ông không phải là vua, nhưng ông uy quyền tuyệt đối, điều không cần phải bàn cãi. Không ai có đủ dũng cảm phê bình ông. Thêm nữa, chính trong những năm này rộ lên chiến dịch đấu tranh chống bọn phản cách mạng, nếu ai đó nghe được lời cảnh báo của Trần Dương Anh, người ta có thể buộc tội bà âm mưu tạo phản, phần tử phản cách mạng.
Tôi không bao giờ quên những lời cảnh báo của bà, đã bao nhiêu năm nhưng lời của bà vẫn ám ảnh tôi. Thậm chí bây giờ tôi vẫn còn biết ơn sâu sắc người phụ nữ khả kính này, vì lòng chân thành, thiện chí, cởi mở.
Cuộc đấu tranh với phản cách mạng ở Trung Nam Hải làm tôi lo sợ thật sự. Cầm đầu chiến dịch chính là Uông Đông Hưng, giám đốc Ban bảo vệ nôi bộ, người tiến cử tôi làm bác sĩ riêng cho Mao. Người ta thường quy tội những bác sĩ riêng của các lãnh tụ cao cấp nhất, coi họ liên quan trong nhóm chống đảng.
Tôi lo lắng, sợ hãi vì trong vài tuần lễ ngày nào cũng có bác sĩ bị bắt. Hàng ngày tất cả mọi người ở Trung Nam Hải họp kéo dài 4-5 giờ liền, từ trưa đến tối để lên án, phê phán các bác sĩ, tôi buộc phải tham dự ngồi nghe những lời chỉ trích bịa đặt, lăng mạ trút xuống đầu những bác sĩ vô tội. Các bác sĩ đâu có sung sướng gì. Mỗi người chịu trách nhiệm coi sóc sức khoẻ cho một vị lãnh tụ, chỉ có Nhậm Bích Thế bị chết bất ngờ, còn những người lãnh đạo vẫn còn khoẻ mạnh cơ mà. Bác sĩ làm việc ở đây bị hạn chế quyền làm việc, những cuộc gặp gỡ bạn bè trao đổi kinh nghiệm y học đều bị ngăn cấm. Họ đều trẻ hơn tôi, mới tốt nghiệp, kinh nghiệm còn ít ỏi. Họ cảm thấy rằng khả năng, kiến thức của họ không được sử dụng đúng chỗ, nghề nghiệp sẽ mai một, phí công học hành. Họ thường phàn nàn không được làm việc theo khả năng, chính vì phàn nàn họ bị khép tội không toàn tâm toàn ý, hy sinh phục vụ cho lãnh tụ. Chính vì lý do ấy họ bị buộc tội tham gia nhóm chống đảng.
Cuộc tấn công vào các bác sĩ vẫn chưa ngừng lại, những lời buộc tội mới hoàn toàn vô lý đã được cộng thêm vào tội của họ. Hứa Đào, bác sĩ của Giang Thanh, từng là bác sĩ riêng của Mao một thời gian ngắn, trở thành nạn nhân. Người ta buộc tội Hứa Đào không những chống đảng, mà còn dám chế nhạo Giang Thanh. Dù những lời buộc tội hoàn toàn lố bịch, vô căn cứ, nhưng Hứa Đào bị đe doạ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Các vệ sĩ vợ Mao kể, khi Giang Thanh yêu cầu kéo rèm che cửa sồ, bác sĩ Hứa Đào làm quá chậm. Do đó ánh sáng mặt trời thường xuyên chiếu vào mắt Giang Thanh, gây giảm thị lực của bà. Ngoài ra, Hứa Đào còn bị buộc tội chủ ý giảm nhiệt độ phòng của vợ Chủ tịch, khi Giang Thanh nổi giận, ông ta chỉ cho bà cái nhiệt kế hỏng đang chỉ mức 25 độ, đó là nhiệt độ mà Giang Thanh yêu cầu. Vì tất cả “những lỗi” ấy, ông bị buộc tội chống đảng.
Cuối cùng tất cả các bác sĩ trả về bệnh viện nhân dân, trừ một người bị thải hồi. Những người bị tống ra thật may mắn, họ chuyển về Bệnh viện Bắc Kinh nơi họ mong ước nhất để tiếp tục nghề y của mình. Trớ trêu thay, Hứa Đào, bị buộc tội nhiều nhất, lại vẫn ở lại làm bác sĩ riêng của Giang Thanh.
Tôi rất thông cảm các đồng nghiệp, tin rằng họ vô tội. Tất nhiên họ cũng không tham gia trong nhóm chống đảng, nhưng tôi không thể lên tiếng bảo vệ họ được. Nếu ai đó dám công khai đứng ra lên tiếng bênh vực họ, chắc chắn sẽ bị kết tội kẻ chống đảng.
Ngày ấy tôi chưa có nhiều kinh nghiệm, còn quá ngây thơ. Điều này bắt đầu ngay sau khi tôi trở về Bắc Kinh, khi Lý Liên không thể tìm thấy việc làm. Tôi khi đó hiểu rằng, giá như tôi tặng Dương chiếc đồng hồ Rolex, mọi việc sẽ khác đi, Lý Liên chắc chắn có việc làm phù hợp.
Năm 1953, bắt đầu chiến dịch “Ba chống”, chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu, đụng chạm tới gia đình tôi. Anh và chị họ tôi bị buộc tội. Họ từng khuyến khích tôi vào đảng, tôi biết họ vô tội. Nhưng tôi lại phải ngậm miệng, nếu đứng ra bảo vệ cũng bị buộc tội kẻ thù của đảng.
Trong khi chưa trở thành bác sĩ riêng của Mao, tôi củng đã mâu thuẫn với chính lương tâm của mình. Tôi đã không dám nói thật những điều suy nghĩ trong tận đáy lòng. Thông thường, đối mặt với những chuyện trái với lương tâm, tôi thường giữ im lặng, không phát biểu, nhưng trong thời gian đấu tố bác sĩ tôi buộc phải đứng ở phía những người buộc tội, bởi vì số phận những người thân cũng như bản thân gia đình tôi phụ thuộc vào điều đó. Tôi phải lừa dối, nhưng đó là cơ hội duy nhất để giữ được việc làm và lên chức. Tôi cần phải làm điều này, vì tất cả để tồn tại.
Nhưng tôi không buộc tội các bác sĩ chống đảng, tôi không thể làm điều đó. Tôi chỉ xác nhận họ thắc mắc, phàn nàn là sai, cũng như chưa hoàn thành tốt công việc, tay nghề còn yếu cần phải trau dồi nghiệp vụ để làm việc tốt hơn trong tương lai.
Bốn mươi năm đã trôi qua, tôi cũng vẫn còn sợ hãi mặc dù tôi đang sống ở Hoa Kỳ, một đất nước tự do và dân chủ. Nghĩ lại chặng đường đã qua, tôi nghĩ, tôi buộc phải lặp lại những gì đã làm, bởi tôi không có sự lựa chọn. Sự sống còn của họ hàng thân thích tuỳ thuộc vào tôi, tôi không thể trốn tránh rũ bỏ trách nhiệm. Nếu bây giờ tôi còn ở lại Trung Quốc, làm nhân chứng cho cuộc đàn áp đẫm máu của quân đội với những người biểu tình trên quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989, người ta yêu cầu tôi ủng hộ, tôi chắc sẽ phải ủng hộ, kể cả việc đảng cộng sản vẫn tiếp tục theo dõi, đàn áp những người vô tội chỉ vì họ phản đối đường lối, chính sách sai lầm của chính phủ. Như những năm trước đây kể cả hôm nay, để mà sống được ở Trung Quốc, cần phải phản bội lương tâm và từ bỏ lòng tự trọng.
Năm 1954, trong “vụ án bác sĩ”, tôi không biết đồng nghiệp của tôi chỉ là những con tốt đen trong ván cờ tranh chấp quyền lực giữa Uông Đông Hưng và Phó Liêm Chương.
Phó Liêm Chương, thứ trưởng Bộ y tế, đảm nhiệm bảo vệ sức khoẻ cho các lãnh tụ cao cấp. Các bác sĩ riêng cho họ đều được bổ nhiệm theo lời đề nghị của ông ta. Nhưng Phó Liêm Chương rất khó có cơ hội gặp gỡ Mao chủ tịch và các lãnh tụ khác, vì thế ông ta sử dụng các bác sĩ được tiến cử vào mục đích của mình. Họ không những chỉ thông báo cho Phó về tình trạng sức khoẻ của lãnh đạo đảng mà còn phải kể tất cả cái gì thấy và nghe được. Điều này giúp Phó trong cơn bão táp chính trị giữ được vị trí của mình, tránh khỏi chỉ trích và bị buộc tội. Tất nhiên ông quan tâm hơn cả là quan điểm của Mao và nhiều lãnh tụ tối cao khác.
Uông Đông Hưng, phụ trách an ninh quốc gia, đảm bảo an toàn lãnh tụ, kể cả việc bảo vệ sức khoẻ cũng là nhiệm vụ của ông. Quyền lực của Uông thực tế lớn hơn quyền lực của Phó Liêm Chương. Uông là người có hoài bão chính trị, lại gần gũi Mao. Tin tức về hoạt động, các bài phát biểu của các nhà lãnh tụ cao cấp, Uông Đông Hưng đều nhận được không những từ đám vệ sĩ, mà còn từ các bác sĩ mà Phó Liêm Chương bổ nhiệm. Miếng mồi giành độc quyền nguồn thông tin dẫn cuộc cắn xé giữa hai con hổ.
Cuộc xung đột tới đỉnh điểm sau khi Uông, không trao đổi với Phó Liêm Chương khi tiến cử tôi vào chức vụ bác sĩ riêng của Mao. Mâu thuẫn ngấm ngầm ban đầu đã biến thành thù địch công khai. Phó Liêm Chương bắn tin để Mao chủ tịch chống sự bổ nhiệm tôi, bắng cách lôi thành phần gia đình, quá khứ của tôi ra. Trả miếng Phó Liêm Chương, Uông Đông Hưng kích động “vụ án bác sĩ”, được tiến hành dưới ngọn cờ đấu tranh với bọn phản cách mạng là hoàn toàn tự nhiên. Kết quả, tất cả các bác sĩ do Phó bổ nhiệm bị thải hồi, Uông Đông Hưng ăn mừng chiến thắng. Chia rẽ trong mối quan hệ giữa Phó Liêm Chương và Uông tăng lên, họ trở thành kẻ thù không đội trời chung.
Chiến dịch chống bác sĩ gây tổn thương giới trí thức. Mọi người đều hiểu, ở Trung Quốc không có nhân quyền. Mọi người buộc phải nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của cấp trên. Một sự không bằng lòng nho nhỏ hoặc một lời nói bừa bãi có thể làm cho anh trở thành kẻ thù của đảng, của nhân dân. Trên khắp đất nước, chiến dịch chống bọn phản cách mạng được phát động, chỉ cần vô tình sơ sẩy có thể bị khối quần chúng nhân dân phẫn nộ lên án là bọn kẻ thù của cách mạng.
Mỗi người chỉ là một chiếc đinh ốc nhỏ trong cỗ máy quyền lực khổng lồ phức tạp. Một bất đồng nho nhỏ, không hài lòng nhau bộ máy sẽ không hoạt động đồng đều, lệch khỏi các tiêu chuẩn định sẵn đều có thể bị quy tội, bị tống đi cải tạo.
Tuy nhiên trở lại việc bổ nhiệm tôi, càng tôn thờ Mao bao nhiêu thì công việc tương lai lại đe doạ tôi bấy nhiêu. Lý Liên cảnh cáo tôi:
– Người ta sẽ không khi nào tha thứ sai lầm của anh dù sai lầm ấy nhỏ nhất.
Vợ tôi rất hiểu công việc khó khăn của chồng, chúng tôi hồi hương đã được 5 năm, nàng đã trưởng thành rất nhiều, đã gột bỏ ảo tưởng khi chứng kiến những gì xảy ra trong nước. Vợ tôi lúc nào cũng bị nghi ngờ, vì nàng là con đại địa chủ, ngoài ra tội gián điệp luôn lơ lửng trên đầu vẫn chưa buông tha. Nhưng chính vợ tôi cũng hiểu tôi không thể từ chối công việc được giao, luôn luôn lo sợ cho tính mạng của tôi.
Vài tháng trôi qua kể từ hôm gặp Uông. Tôi sống trong tình trạng căng thẳng chờ đợi, nhưng vẫn chưa thấy lãnh tụ gọi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [5]