19 tháng 3, 2016

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 3

Posted: 08/06/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Bắc Kinh hoang tàn và tiêu điều. Sau tám năm Nhật chiếm đóng, bốn năm nội chiến, phố xá trở nên ngổn ngang, bẩn thỉu, những bức tường dày bao quanh Thành Nội bị lở từng mảng, có chỗ đã bắt đầu sập. Các biển quảng cáo vui mắt, sặc sỡ cũng biến mất khỏi các cửa hiệu và quầy hàng, những quán sách thân thương của tôi ở Lưu Linh Chương đóng cửa im ỉm dường như lâu lắm rồi.

Dân tình xem ra nghèo đói, nhếch nhác chẳng khác gì bộ mặt thành phố. Đàn ông, đàn bà chỉ mặc những chiếc bộ quần áo cũ kỹ màu ghi đá hoặc xanh xám đã bạc phếch. Mỗi người đều có một đôi giày bằng vải buồm thô màu đen, tóc cắt ai cũng giống ai. Đàn ông tóc húi cua, đàn bà búi tó sau lưng. Tôi mặc com-lê Tây phương, cà vạt, giày da bóng lộn, tóc chải mượt giống y như người nước ngoài. Lý Liên váy áo sặc sỡ, giầy cao gót, tóc thời trang uốn thành nếp tuyệt đẹp, nàng nổi bật trông giống bông hoa anh túc đỏ rực trên cánh đồng lúa mì vàng óng. Tôi phải mượn ngay bộ đồng phục mà mấy ông cộng sản đã khuyên. Lý Liên đến ngay cửa hàng may đo đặt may một bộ áo quần giống mọi người.
Mẹ tôi thay đổi quá. Bà già đi nhiều, trông khắc khổ, gầy nhom, nặng chưa tới 40 ki-lô, tóc bạc, nhưng rất sung sướng khi thấy chúng tôi quay về, cầu mong chúng tôi đừng bỏ nhà đi nữa. Tôi hứa ở lại với bà.
Dù nghèo, nhưng khí thế của dân Bắc Kinh sôi nổi. Khắp chốn, khắp nơi những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc. Bắc Kinh được tự do, dân chúng chân thành chào mừng chính phủ cộng sản mới. Trong thành phố bao trùm bầu không khí thân thiện tin tưởng vào hạnh phúc. Chỉ một số ít bạn bè, họ hàng cho rằng việc tôi trở về là dại dột, không thể chấp nhận được.
Anh tôi thu xếp cho tôi gặp Phó Liêm Chương để thảo luận vấn đề công việc của tôi. Tôi đến nhà Phó. Ông sống trong toà nhà của Bộ y tế phân cho. Toà nhà nằm ở đường Quảng Xương phía bắc trung tâm thương mại Vương Phú Thanh. Toà nhà này từng là nơi ở của hoàng tử Mãn Châu, sau đó một tướng Quốc dân đảng chiếm cho đến khi cộng sản tịch thu. Biệt thự này có kiểu cách làm tôi nghĩ tới ngôi nhà của chúng tôi, nhưng nó rộng, sang trọng, lộng lẫy hơn nhiều. Phía sau biệt thự có 6 vườn nhỏ, với 7 hay 8 gốc nho đang leo giàn, hòn non bộ nước chảy róc rách theo phong cách Trung Hoa truyền thống, lối đi lát gạch tráng men.
Khi tôi đến, Phó Liêm Chương nửa ngồi nửa nằm trên trường kỷ làm bằng trúc bện song. Ông dáng người cao, hơi gầy, vẻ ốm yếu mệt mỏi, vầng trán cao vuông vắn, đôi mắt tinh ranh. Ông chừng 55, hơn tôi tới 26 tuổi, trông có vẻ già trước tuổi.
Khi tôi đến, Phó Liêm Chương cũng chẳng đứng dậy, chỉ chìa tay cho tôi bắt. Bàn tay mềm mại của một trí thức. Tôi thấy vinh dự khi được viếng thăm một quan chức cao cấp như ông.
– Tôi đã bị ho lao mấy năm nay, vì thế tôi không thể nói chuyện lâu với đồng chí được – ông ta giải thích, sau khi hoan nghênh tôi đã hồi hương rồi hỏi tỷ mỉ về học hành, kinh nghệm làm việc. Vừa nghĩ ngợi, ông nói tiếp:
– Vấn đề công việc của đồng chí đã được giải quyết. Sáng mai đồng chí có mặt ở Cục Bảo vệ sức khoẻ.
Chính phủ mới vẫn hoàn toàn chưa thành hình, chức năng quyền lực điều hành tạm thời trao cho Uỷ ban quân quản thuộc đảng cộng sản Trung Quốc. Cục Bảo vệ sức khoẻ trực thuộc Uỷ ban này.
Tại Cục Bảo vệ sức khoẻ tôi được tiếp đón nồng nhiệt. Một cán bộ nói với tôi, ở đây còn thiếu bác sĩ điều trị và kể, anh tôi từng là sếp của anh ta.
Một cán bộ trong phòng nói:
– Thứ trưởng Phó Liêm Chương bảo đồng chí sẽ trở thành các bộ của Cục chúng tôi – anh ta giải thích – Chúng tôi ở đây hưởng chế độ bao cấp miễn phí. Lãnh đạo đảm bảo cho đồng chí mọi thứ cần thiết: nhà cửa, chỗ làm việc, quần áo, thậm chí cả giày dép nữa. Vì đồng chí sẽ đảm đương công việc bác sĩ trưởng điều trị, đồng chí sẽ nhận bậc lương hạng hai, khẩu phần cao hơn chút ít so với anh em.
Hệ thống “bao cấp miễn phí” nghĩa là tôi sẽ chẳng có lương. Đảng cộng sản thi hành hai dạng trả công cho viên chức nhà nước. Ai tham gia cách mạng chưa lâu, bắt đầu làm cho đảng nhận lương bình thường, ai tham gia cách mạng lâu năm được cung cấp toàn phần. Những người tham gia tình nguyện nhận kiểu riêng. Tôi thuộc hạng “tình nguyện theo cách mạng”. Dù tôi là người mới vào nhưng vẫn được vinh dự thuộc hạng được nhà nước cho hưởng chế độ cung cấp toàn phần.
Nhưng tôi vẫn băn khoăn, chẳng vui chút nào. Giờ đây gia đình tôi đông người, phải nuôi mẹ, hai bà cô, bố mẹ vợ và cả Lý Liên nữa. Thật ra tôi cũng đã để dành được ít vàng và Mỹ kim, nhưng nếu không có lương, số tiền dành dụm đó chẳng mấy chốc mà bay.
Chỉ khi gặp đồng chí Lại tôi nhận được một số hướng dẫn về nhiệm vụ sắp tới của mình.
– Đồng chí Lại sẽ dẫn đồng chí tới chỗ làm việc Khu Điều trị bệnh nhân ngoại trú tại Đại học Công Nhân ở Đồi Hương – người ta nói cho tôi biết – bây giờ đồng chí cứ về nhà, thu xếp tất cả đồ dùng cần thiết. Báo cáo lại cho tôi sau một tuần lễ tính từ hôm nay. Xe tải sẽ chở đồng chí đến chỗ làm. Đồng chí Lại sẽ đi cùng đồng chí.
Thời gian gặp chẳng nói rõ, thậm chí chẳng ai hỏi xem tôi có muốn làm ở chỗ mà họ phân công ra hay không. Tôi đâm ra lúng túng, bởi vì tôi chưa bao giờ nghe đến tên trường Đại học Công Nhân này mặc dù tôi vui vì được làm việc ở trường Đại học. Nhưng dù sao tôi cũng rất muốn công việc ở trường Đại học phải có liên quan tới bệnh viện tôi mơ ước. Giờ đây tôi được giới thiệu làm việc phòng điều trị bệnh nhân ngoại trú, chẳng như lời đã hứa.
Hơn nữa, tôi biết Cục Bảo vệ sức khoẻ cũng chẳng kiếm được việc cho Lý Liên. Người ta chỉ xếp vợ tôi làm việc tạm thời ở trường mẫu giáo cách Bắc Kinh 20 ki lô mét, nơi có viện đào tạo nhân viên y tế cộng đồng ở quận Tống. Khả năng, trình độ của Lý Liên người ta chẳng quan tâm. Thật bực mình, chả lẽ họ so sánh công việc được giao ngang với công việc của vợ tôi đã từng làm ở lãnh sự Anh bên Hong Kong? Chuyện hồi hương xem ra không thuận lợi chút nào, tôi cay đắng nghĩ rằng tại sao mình lại không tặng chiếc đồng hồ Rolex cho Dương.
– Chú về chưa lâu nên chưa thể hiểu tất cả cái gì đang xảy ra ở đất nước – anh tôi an ủi – Ở đây không phải người chọn việc mà việc chọn người. Điều này nghĩa là “chấp hành sự phân công của tổ chức”. Về lương, chú tạm thời sử dụng tiền tiết kiệm. Dần dà mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Điều luật đảng không cho phép anh nói thêm.
Cơ quan được gọi là Đại học Công Nhân đặt ở Xương Sơn hay còn có tên Đồi Hương, phía tây bắc thành phố Bắc Kinh, cách cung điện cổ Mùa Hạ vài dặm, một khu đồi đi săn của hoàng đế Càn Long khi đương quyền đã xây dựng. Ở đây có hai chùa phật nổi tiếng – Phật Nằm và Thanh Thiên Vân tự. Mùa thu, hàng cây thông chuyển sang màu bạc, các cây khác lá chuyển màu đỏ thẫm mọc bên đồi tạo ra bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đại học Công Nhân chiếm một khu rộng lớn ở Đồi Hương, nơi đây rất nhộn nhịp và nổi tiếng.
Khu này thật kỳ lạ, chỗ nào cũng có lính canh gác. Hai quan chức cao cấp, cán bộ lão thành cách mạng của đảng – Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương, giám đốc và phó giám đốc Cục Bảo vệ dưới quyền trực tiếp Tổng Hành dinh của Uỷ Ban Trung ương Đảng cộng sản, đưa tôi thăm trường. Tại đây, hầu hết là cán bộ cao cấp của đảng. Vũ Trần Phổ phát cho tôi tất cả các thứ cần thiết, trao cho huy hiệu của trường, nhắc nhở phải giữ gìn nó như con ngươi của mình. Ông dặn tôi:
– Đừng kể cho ai những gì xảy ra ở đây, công việc của anh thuộc bí mật.
Lúc đó tôi chẳng hiểu vì lẽ gì.
Khu tập thể tôi ở nằm dọc hàng cây thoai thoải phía đồi, trong dẫy nhà gỗ xem ra không tương xứng với cung vua lộng lẫy trên đồi. Đó là một căn phòng tồi tàn, nền đất, mái dột nát, không thể nào tưởng tượng nổi, bởi tôi sinh ra trong một gia đình giàu có. Duy nhất trong phòng có một bóng đèn điện toả ánh sáng đỏ quạch. Giường nằm là hai miếng ván kê trên hai cái niễng, không thành giường, đệm nằm cũng không. Nước, tất nhiên cũng không nốt, phía sau là nhà vệ sinh công cộng. Tôi phải dùng chăn bông mỏng xếp lại thành đệm để nằm. Sau đó người ta lắp bình nước, khí đốt, bồn rửa mặt. Với chức vụ bác sĩ tôi không phải ở chung với người khác. Điều kiện ăn ở tồi tệ đến mức tôi không thể đưa Lý Liên đến ở cùng, chúng tôi chỉ gặp nhau cuối tuần ở nhà mẹ, nơi tôi thường về để nghỉ và tắm giặt.
Bữa ăn cũng lại thể hiện đẳng cấp, chức vụ của tôi. Ngày hai bữa theo phong tục gia đình nông dân Trung Hoa: mười giờ sáng và bốn giờ chiều. Nhưng khác với nông dân bữa ăn hiếm khi có thịt, chúng tôi theo khẩu phần hạng hai, thịt được cung cấp hàng ngày. Nhà ăn tập thể cũng chẳng gì hơn khu tôi, nhưng món ăn được nấu khéo léo, thậm chí lại còn ngon, nhà bếp sạch đến ngạc nhiên.
Chỗ làm việc trong bệnh viện còn làm tôi kinh ngạc hơn. Đó cũng lại là cái lều nông thôn, nền đất chẳng có một tí thiết bị y tế nào cả, trừ vài cái nhiệt kế, vài bộ đo huyết áp. Trong số thuốc thang, tôi chỉ thấy aspirin, thuốc ho nước, vài loại kháng sinh. Khi khám bệnh tôi chỉ có mỗi chiếc ống nghe với kinh nghiệm tay nghề của mình để chẩn đoán, điều trị. Hy vọng chẳng có bệnh nhân nặng nào chui vào đây.
Dù vậy, nhân viên trong bệnh viện rất lạc quan, tinh thần rất cao. Trong biên chế có gần 30 người, họ chờ đợi sự xuất hiện của tôi từ lâu. Gặp tôi họ mừng ra mặt. Tất cả đều rất trẻ, phần lớn trẻ hơn tôi mặc dù tôi mới 29. Ngay cả hai người phụ trách cũng không quá 25 tuổi. Đám nhân viên được đảng lựa chọn từ nông thôn vùng ngoại ô, mới học hết tiểu học. Vì thế họ chỉ làm được công việc sơ cứu – băng vết thương nhỏ, cho uống aspirin khi sốt, không có một chút kiến thức cơ bản về bệnh tật, làm sao có thể chẩn đoán bệnh được. Họ bảo tôi:
– Chúng tôi tin rằng đồng chí sẽ dậy chúng tôi kiến thức y học hiện đại. Chúng tôi hoàn toàn chưa hiểu biết gì cả.
Họ rất muốn tôi giảng bài cho họ. Tôi thất kinh, làm sao tôi có thể giảng dạy với trình độ học vấn của họ chỉ có như vậy.
Một người bạn cũ đã 11 năm xa cách, anh đến thăm trong ngày nghỉ cuối tuần đầu tiên ở nhà mẹ tôi. Chúng tôi ôn lại kỷ niệm đã qua, trao đổi với nhau về tình hình đất nước. Anh bạn tôi vào đảng từ nhiều năm trước, bây giờ làm việc ở Đoàn thanh niên Tân Dân chủ, tiền thân của Đoàn Thanh niên cộng sản Trung Quốc. Tôi kể cho bạn tôi nghe về công việc của mình ở phòng khám của trường Đại học Công Nhân ở Đồi Hương:
– Đây là một trường Đại học quá rộng, nơi nào cũng có lính cầm súng gác. Cả đời tôi chưa thấy trường Đại học nào lại như vậy.
Anh ta đột nhiên nghiêm mặt nói:
– Nói thật nhá, mình được lệnh của các đồng chí lãnh đạo của tổ chức đến đây trao đổi cởi mở với cậu. Họ yêu cầu mình uốn nắn những sai lầm cậu có thể mắc phải vì mới tham gia cách mạng.
Anh bạn nhận xét rằng tôi vẫn còn hiểu quá ít về công tác cách mạng, cần ăn nói thận trọng hơn.
Tôi không phủ nhận những thiếu sót, nhưng tôi không thể nào hiểu anh ta nói gì. Tôi bảo:
– Tôi là bác sĩ, khi người bệnh đến, tôi làm tất cả để chữa bệnh cho họ. Thế sai ở đâu, phải ăn nói thận trọng như thế nào?
– Được thôi, bình tĩnh đã – bạn tôi trả lời – Hãy nói nghe xem bạn đang làm việc ở đâu thế?
Tôi nhắc lại, tôi đang làm việc ở Đại học Công nhân, nhưng không biết gì về nó. Thỉnh thoảng mới có bệnh nhân mà xem ra chẳng thấy có vẻ bệnh nặng gì hết. Tóm lại tôi phí hoài thời gian.
Anh bạn tôi cười phá lên, trả lời:
– Bạn nói chưa khi nào nhìn thấy Đại học tương tự như thế phải không? Thế bạn đã để ý tới lính canh hay không? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi vì sao công việc của bạn lại bí mật? Này nhé, bạn thân mến của tôi ơi, bạn đang làm việc chẳng phải ở Đại học đâu. Nơi bạn đang làm bây giờ là đầu não của các cơ quan cao cấp đảng cộng sản Trung Quốc, bệnh viện của bạn phục vụ những người lãnh đạo đảng không những hàng trung cấp mà còn cả hàng cao cấp nữa, họ sống tạm ở đó vì lý do an ninh, bởi vì Bắc Kinh giải phóng chưa lâu. Vì thế, việc của bạn được giữ bí mật. Sau này bạn sẽ tự hiểu thêm, nhưng trong lúc này đừng biểu lộ gì về tình trạng bệnh viện. Tạm thời trang bị tồi, ít bệnh nhân, nhưng bạn làm việc ở chỗ rất có uy tín, rồi sẽ gặp nhiều người chức vụ cao. Chính vì thế, sếp tôi đã cho phép nói thẳng với bạn chuyện bí mật này.
Khi đó tôi không tiện hỏi sếp bạn tôi tên gì, nhưng sau này tôi hiểu ra rằng ông ta là Giang Nam Thanh, phó bí thư Đoàn thanh niên Tân Dân chủ, năm 1965 giữ chức Bộ trưởng giáo dục.
Tôi trở về tổ quốc với ước mơ trở thành nhà phẫu thuật, giúp đất nước thông qua lĩnh vực y học, không ngờ rơi vào cơ quan trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Bắc Kinh vừa mới được giải phóng, nội chiến vẫn tiếp diễn, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vẫn chưa chính thức ra đời. Trước khi lập chính phủ và chuyển giao quyền lực, các lãnh tụ cộng sản quyết định nằm lại ở Đồi Hương. Tại đấy có Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, các cơ quan trực thuộc, cả Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức – ba trong số những lãnh tụ cao cấp đảng cũng sống ở đó, chỉ có Chu Ân Lai và Nhậm Bích Thế ở chỗ khác.
Phòng điều trị nơi tôi làm việc không liên quan gì đến trường Đại học, nó trực thuộc dưới quyền của một cơ quan đại diện, sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, thuộc Văn phòng Trung ương, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản do Dương Thượng Côn phụ trách, 40 năm sau, năm 1988, ông trở thành Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ban tổ chức thuộc Ban chấp hành trung ương lo việc an ninh, sinh hoạt của tổ chức, hoạt động rất hiệu quả của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc – Mao và 4 bí thư cao cấp. Ban tổ chức là cơ quan bí mật nhất, thậm chí ngay cả nhân viên cũng không biết gì về cơ cấu và chức năng của nó. Chỉ có giới chức chóp bu trong đảng biết mà thôi.
Đầu thập niên 1950 Văn phòng Trung ương gồm 8 ban, quyền lực ngang nhau.
– Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương phụ trách Ban Hành chính-quản trị. Chịu trách nhiệm cung cấp phương tiện làm việc cho các lãnh tụ đảng, cung cấp đồ ăn, mọi thứ cần thiết, sửa chữa, xây dựng nhà cửa cho công việc cũng như cho cá nhân, lo xe cộ, phương tiện giao thông và liên lạc và các tiền nong.
– Uông Đông Hưng phụ trách Ban Bảo vệ trung ương, sau này ông kiêm chức thứ trưởng bộ công an do La Thuỵ Sinh làm bộ trưởng, đảm bảo anh ninh và sức khoẻ cho giới lãnh đạo đảng. Ngoài phần lo bảo vệ tất cả lãnh tụ đảng, Uông Đông Hưng cũng lo luôn an ninh cho chính Mao, vì thế Uông luôn luôn nằm ngoài tầm kiểm soát. Hệ thống an ninh, thậm chí trong thời ấy, được thanh lọc kỹ càng. Giúp Uông chăm lo sức khoẻ lãnh đạo còn Bộ y tế, đứng đầu là Phó Liêm Chương. Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên, ngay việc phục vụ chụp ảnh lãnh tụ thậm chí cũng nằm dưới sự kiểm soát của Uông Đông Hưng.
– Diệp Tử Long phụ trách Ban thư ký riêng lo tổ chức, tiến hành các buổi hội thảo của đảng và tuyên truyền, ghi văn bản các bài phát biểu, gửi, nhận bưu kiện, văn thư. Bản thân Diệp Tử Long còn là thư ký tin cẩn của Mao. Với tư cách này, Diệp phải theo sát để cung cấp cho lãnh tụ tất cả các thứ cần thiết bao gồm thức ăn, tiền nong, vào sổ và bảo quản tất cả quà biếu gửi tới Mao. Theo nguyên tắc cơ bản, công việc thư ký thường là người phục vụ riêng cho lãnh đạo.
Ban thư ký riêng có trách nhiệm cung cấp cho lãnh đạo tất cả các thông tin cần thiết, cũng như các văn bản báo cáo và tài liệu. Năm 1949 phụ trách bộ phận này là Trần Bá Đạt, trưởng ban thư ký riêng của Mao. Ngoài ra chủ tịch còn có một số thư ký khác trong đó có Giang Thanh vợ ông, Hồ Kiều Mục và Điền Gia Anh. Những nhà lãnh đạo khác cũng có ban thư ký như thế số lượng khác nhau và các bà vợ của chính giới lãnh đạo cũng tham gia ban này.
– Ban Bảo vệ nội bộ do Lý Chí Dương và Ban Thông tin cơ mật do Vương Khải đứng đầu là cơ quan bí mật nhất của Văn phòng Trung ương. Đa số nhân viên trẻ tuổi, tài năng làm việc ở đó. Họ phải có trí nhớ tuyệt vời, nhiệm vụ của họ hoá mã và giải mã các thông tin khác nhau chủ yếu các bức điện đặc biệt. Bộ mã ấy khác hẳn với bộ mã điện báo chính thức của Trung Quốc, thường xuyên thay đổi để bảo toàn bí mật. Nó dùng để truyền tin bí mật trong nội bộ lãnh đạo trung ương xuống địa phương, tới giới quân sự cao cấp. Nhân viên được đào tạo trong một trường đặc biệt ở Trương Dương Kiều, tỉnh Hà Bắc, mỗi nhân viên cơ yếu đều mang một bí số riêng. Họ phải nhớ bộ khoá và giải mã, cấm ghi chép, không có sổ tay tra cứu. Khi lớn tuổi, trí nhớ giảm, họ chuyển sang việc khác.
Ban Thông tin cơ mật đảm bảo an toàn bí mật tuyệt đối khi truyền và nhận thông tin giữa các nhà lãnh đạo đảng với quân đội trong nước. Phần đông cán bộ của cơ quan này xuất thân từ thành phần cơ bản, thường ít được học hành, thậm chí mù chữ. Họ làm công việc giao liên, đưa chỉ thị xuống các tỉnh xa xôi hẻo lánh khắp Trung Hoa. Người ta không đòi hỏi họ trí tuệ mà cần lòng trung thành tuyệt đối về mặt chính trị.
– Ban Văn Khố do Tăng Sơn phụ trách có nhiệm vụ ghi chép các số liệu lưu trữ.
– Ban Hậu cần vận tải do Đặng Đình Tường phụ trách đảm nhận cung ứng vận tải để cung cấp tất cả các thứ cần thiết cho cơ quan đảng.
Bệnh viện Đồi Hương trực thuộc dưới quyền La Đạo Nhương và Phó Liêm Chương, có nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ của tất cả những người làm việc trong tổ chức. Tất cả biên chế của Văn phòng Trung ương, từ những nhà lãnh đạo cao cấp đến nhân viên quèn và gia đình họ, đều là bệnh nhân của tôi. Một nhóm toàn người trẻ tuổi, khỏe mạnh hiếm khi đến khám, nếu có đến đa số bệnh nhẹ, tôi không hứng thú vì tôi là bác sĩ phẫu thuật. Tôi rất thất vọng vì ước mơ của tôi thành bác sĩ phẫu thuật não bị tan thành mây khói, ở Đồi Hương tôi là bác sĩ duy nhất có bằng cấp Tây phương được quen biết nhiều gương mặt những người lãnh đạo. Còn trẻ, có lý tưởng, khi trở về Bắc Kinh tôi lấy làm tự hào được làm việc bên cạnh lãnh đạo quyền lực của đảng. Tôi đều kính trọng, ngưỡng mộ tất cả các bệnh nhân. Những con người này thực hiện cuộc cách mạng, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc của chúng ta. Họ rời gia đình từ thời thanh niên trai trẻ tham gia Vạn Lý Trường Chinh, chịu đựng nhiều gian khổ và mất mát. Họ làm nên chiến thắng chói loà đối với chính phủ tham nhũng, vô dụng Tưởng Giới Thạch. Họ cống hiến toàn bộ sinh lực của mình cho sự nghiệp xây dựng một nước Trung Hoa mới, coi thường lợi ích và quyền lợi cá nhân. Trước đó, tôi chưa hề gặp những người như thế, tôi thành tâm kính phục lòng dũng cảm và tin vào tương lai đất nước.
Là một thành viên mới ở giữa trung tâm của cuộc cách mạng Trung Quốc, sung sướng không những đã trở thành người chứng kiến việc thành lập chính thức nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, mà còn được vinh dự ngồi trên hàng ghế đầu bên cạnh những lập nên nó.
Đó là ngày 1-10-1949. Tất cả mọi người ở Đồi Hương thức dậy lúc 5 giờ sáng, một buổi sáng tinh sương không khí tươi mát đến ngạc nhiên, để lên đường vào Bắc Kinh được trang hoàng đẹp đẽ trong buổi sáng ngày ấy. Xe tải chở chúng tôi đến quảng trường Thiên An Môn, chưa tới 7 giờ. Chúng tôi tập hợp đội ngũ ở chiếc cầu đá gần cổng Thiên Bình, cổng này thời cổ là lối vào Cấm Thành. Hồi ấy quảng trường nhỏ hơn bây giờ, ở đó nhiều nhà nghỉ trong những năm trước đây dùng cho quan lại triều kiến hoàng đế. Toà nhà Hội nghị đại biểu toàn quốc và bảo tàng cách mạng được xây trên quảng trường vào năm 1959, nhân dịp 10 năm thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Khi chúng tôi đến, trên quảng trường đã có nhiều đám đông – đại diện nông dân, công nhân, trí thức và dân chúng trên khắp đất nước rộng lớn. Tôi thấy rõ lễ đài, trước khi khai mạc đã có nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Trước biển người hàng nghìn lá cờ đỏ vẫy tung, Bắc Kinh điêu tàn đổ nát dường như được tiếp máu và hồi sinh. Đám đông người hô lớn: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm! Đảng cộng sản Trung Quốc muôn năm!”. Vang lên bài hát cách mạng. Đám đông người lạc quan cầm biểu ngữ vừa đi vừa hát vang tiến vào quảng trường tăng dần.
Đúng 10 giờ, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo cao cấp khác xuất hiện trên lễ đài. Trời đất như nổ tung. Mao là thần tượng của tôi, anh tôi giải thích, đây là vị lãnh tụ vĩ đại, cứu tinh của Trung Quốc. Hôm ấy, tôi lần đầu tiên thấy Mao. Thậm chí làm việc ở Đồi Hương tôi không thấy ông, dù rằng tôi sống cách không xa dinh thự ông là mấy.
Mao cao lớn khoẻ mạnh, tròn 56 tuổi trước đây chưa lâu, nhưng trông ông khá trẻ. Khuôn mặt đôn hậu, dưới mái tóc đen và dầy là vầng trán cao. Giọng ông vang lên, âm vang, phong thái toát lên vẻ tự tin, mạnh mẽ. Ông mặc bộ quân phục như trong ảnh mà mọi người thấy trên sách báo. Chính phủ mới đã được thành lập, Mao phát biểu với tư thế của Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đại diện không phải cho đảng, mà cho chính quyền nhà nước. Ông mặc bộ quần áo xám xẫm giống hệt bộ quần áo Tôn Trung Sơn đã mặc (những năm sau trang phục này mang tên Mao Trạch Đông), đầu ông đội chiếc mũ công nhân thường đội trong các ngày lễ. Trên lễ đài đứng cạnh ông là những nhân vật đại diện cho những người không đảng phái và tổ chức như để xác nhận sự tồn tại của một mặt trận thống nhất. Bà Tống Khánh Linh đẹp đẽ, vợ goá của Tôn Trung Sơn, người đánh đổ triều đại phong kiến cuối cùng, mở cho Trung Quốc con đường chính trị mới phát triển.
Mao Trạch Đông trở thành trung tâm của sự chu ý, nhưng phong cách trang nghiêm, không khí hoà hợp, không tỏ vẻ của sự cao ngạo. Tôi đã nhiều lần thấy Tưởng Giới Thạch, khi hắn còn nắm quyền lực. Tưởng luôn luôn tỏ ra cách biệt với người khác, thích được thuộc hạ tâng bốc. Mao tỏ ra khác hẳn.
Mao có sức thu hút như nam châm. Dù rằng ông không phát biểu theo giọng Bắc Kinh chính gốc, pha giọng Hồ Nam nhưng cũng được đón nhận một cách đáng yêu. Với giọng mượt mà, sang sảng ông thôi miên đám công chúng. “Nhân dân Trung Quốc đã vùng dậy” – Mao tuyên bố, đám đông cuồng nhiệt đáp lại lời ông bằng tiếng vỗ tay như sấm dậy, những tiếng hô vang dội không ngừng: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm!” “Đảng cộng sản Trung Quốc muôn năm!” Tim tôi rung lên vì sung sướng, mắt tôi tràn lệ vì hạnh phúc. Tôi rất tự hào về nước mình tin vào tương lai thịnh vượng của nó. Những năm bị đè đầu cưỡi cổ, ách nô lệ và tủi nhục vĩnh viễn trôi qua. Tôi tin rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Hoa, người khai sinh ra lịch sử nước Trung Hoa mới. Tôi đứng cách ông chỉ vài bước chân, nhưng tôi cảm thấy sao mà xa thế. Tôi là một bác sĩ quèn, còn ông là lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Ngày hôm ấy tôi thậm chí không thể hình dung rằng chỉ một thời gian sau tôi thành bác sĩ riêng của ông, theo sát ông 22 năm liền và chứng kiến cái chết của ông.
Tháng 12-1949, sau ngày lễ không lâu, Mao Trạch Đông đến Moskova, ông ở đấy vài tháng hội thảo, điều đình, ký với Stalin Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Trung Quốc và Liên Xô. Tháng 2-1950 ông quay về Trung Quốc, ngay sau đó chuyển từ Đồi Hương về Trung Nam Hải. Tư dinh của ông là cung điện nằm trên vườn thượng uyển trong Cấm Thành. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản lần lượt chuyển về đây chiếm các ngôi nhà sang trọng của vua trước đây. Ở Đồi Hương chỉ còn lại Ban hành chính quản trị và Ban bảo mật tài liệu. Bệnh viện chúng tôi chia làm đôi. Một phần ở Bắc Kinh để chữa các nhà lãnh đạo và phần còn lại nằm lại Đồi Hương do tôi phụ trách.
Nếu không gặp chuyện ngẫu nhiên, đời tôi có thể đã khác.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [4]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 2

Posted: 06/06/2012 in Hồi KýLâm Hoàng MạnhLý Chí ThỏaNguyễn Học
Tags: 
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Sydney, Úc. Qua báo chí tôi hiểu thành phố quê hương tôi đã ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh thủ đô Trung Quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là “bình yên phương Bắc”. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về “thủ đô phía nam” – thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng chiến thắng sẽ thuộc về hồng quân Trung Quốc.

Bắc Kinh, thành phố quê hương, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Gia đình tôi giàu có, thuộc giới thượng lưu. Thực tế chúng tôi sống không phải một căn nhà mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội, nơi ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc Kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung Quốc cho trẻ con. Tên gọi “Lưu Linh Chương” xuất phát từ chữ Trung Quốc “Lưu Linh” – bắt mắt. Ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung (1368-1644)
Ông tôi mất trước khi tôi ra đời, nhưng gia phong cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng, nơi hàng năm chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần để tưởng nhớ. Phòng thăm bệnh của cụ ngay trong khu nhà vẫn giữ nguyên, nhà thuốc Bắc Chí Đường do cụ sáng lập vẫn phát đạt nhưng giao cho một người bào chế tin cậy trông nom. Cụ tôi giàu có nhưng được mọi người kính trọng, tôn quý vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu Bắc Chí Đường người bệnh có thể được phát không, nếu như quá nghèo. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết tiếng tăm cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng quá nhiều đau khổ, cần lòng từ thiện.
Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chơi với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều người nghèo ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống và tôi trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình đặc biệt. Tôi rất tự hào về dòng tộc, muốn trở thành người xuất chúng.
Em trai bố tôi, cũng trở thành bác sĩ, đóng góp nhiều công sức cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có dịch thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ, chính ông cũng bị lây bệnh, chết khi chưa tròn 30 tuổi. Thím và hai con trai ông vẫn sống trong khu nhà, chúng tôi coi nhau như anh em ruột. Tôi còn có người anh trai cùng cha khác mẹ, con người vợ trước của bố tôi. Tất cả chúng tôi thân thiết như anh em ruột thịt. Bố tôi cưới mẹ tôi sau khi bà cả qua đời.
Riêng cha tôi đã phá vỡ gia phong của dòng họ. Năm 1920 ông sang Pháp tu nghiệp. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biết trong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thuộc Quốc dân đảng, ông nắm chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối, lộn xộn trong gia đình. Ông mang theo một bà vợ người Pháp, cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi, một phụ nữ Trung Hoa điển hình, ít học, xuất thân từ tầng lớp thường dân, bó chân theo phong tục. Hy vọng duy nhất của bà trở thành người vợ đảm đang, người mẹ hiền chăm sóc gia đình con cái. Theo tục lệ Trung Quốc thời bấy giờ, đàn ông giàu, có nhiều vợ tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của dòng tộc tôi không chấp nhận ông lấy hai vợ, không những thế còn cho đó là sự sỉ nhục gia đình.
Bà vợ hai của bố tôi là người tốt, lịch sự, học thức cao. Bà dạy tiếng Pháp ở Đại học Bắc Kinh, đặc biệt rất luôn luôn thân thiện, đối xử tử tế với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy mẹ tôi phải cắn răng chịu đựng, bà thường trút nỗi bực tức xuống đầu tôi, nhiều lần bị bà đánh oan. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu, mọi sự rắc rối trong gia đình nguyên nhân do bố tôi gây ra.
Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố. Hiếm khi hai bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức dòng họ. Ngay sau khi quay về Trung Quốc, bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh tham gia chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sau vài năm, người vợ Pháp của ông từ trần. Ông trở thành người hám gái, sống lang chạ, nhưng chẳng lấy ai. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, quyết tâm học hành tử tế để trở thành một bác sĩ lành nghề phục vụ nhân dân. Sự hằn thù của tôi đối với bố khiến tôi ghét chính phủ Quốc dân Đảng, vài năm sau, tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Có lẽ tôi từng ghét lối sống vô đạo đức cha tôi, cho nên sau này, ở gần Mao, tôi kinh hoàng về đời sống tình dục của chủ tịch.
Cũng như đa số người Trung Quốc cùng thế hệ, tôi yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của tổ quốc mình. Lịch sử 4000 năm của Trung Quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung Hoa cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường, được ngưỡng mộ trên thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn từ thế kỷ trước. Ngay từ hồi cấp I, tôi biết cái nhục của Trung Quốc trong “Chiến tranh nha phiến” với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhật và Nga can thiệp, xâu xé khiến đất nước tôi kiệt quệ. Do đó Trung Quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới tràn đầy các thành phố lớn, đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hoá và tinh thần của dân tộc Trung Hoa. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó dòng chữ: “Cấm chó và người Trung Quốc” làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung Hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc từ các thế lực đế quốc – như sau này người ta thường nói.
Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu Lý. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh, chuyển về phương nam – đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc Đại học Quý Châu do phái bộ Truyền giáo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về tôn giáo. Tôi đã tìm hiểu cuộc hành hương từ Anh sang Mỹ 1620, lịch sử nước Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã rửa tội chuyển sang đạo Tin Lành.
Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở Đại học Aurora Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Đó là điều bất thường đối với người gia thế quyền quý, giàu có, nhưng vì lòng yêu nước, thương người nghèo đã thôi thúc anh tôi tham gia tổ chức. Những ngày cuối tuần, anh đến Quý Châu thăm, luôn khẳng định sự xấu xa, bóc lột công nhân tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Ông bảo cho tôi, chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Anh tôi lên án Quốc dân đảng tham nhũng, làm tay sai cho đế quốc, không có khả năng chống quân xâm lược Nhật ở Mãn Châu. Anh khẳng định, chỉ có người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung Quốc. Tôi kính trọng anh, tin tưởng vào giấc mơ đất nước Trung Hoa hồi sinh, giàu có, thịnh vượng, văn minh, bình đẳng, bác ái. Tôi bắt đầu chăm chú đọc những cuốn sách anh tôi đưa cho: “Chuyện về kế hoạch 5 năm lần thừ nhất”, “Thép đã tôi thế đấy” của Nicolai Ostroevsky và cả sách của ký giả Pháp, Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi, chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung Quốc, các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến nền kinh tế và tinh thần sáng lạn. Số phận Trung Quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó chỉ là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao, lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản.
Cũng thời gian đó, năm 1936, một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Ngô Tương Thanh – hay Ngô Lý Liên (theo tên thánh), tôi phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có, theo đạo Tin Lành. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau mặc dù khi chiến tranh lan rộng, mỗi người một ngả, nhưng thường xuyên liên lạc tìm mọi cách đoàn tụ.
Quân Nhật tràn vào đất nước, ban đầu chúng tôi cùng mẹ chạy về Vũ Hán, năm 1937 chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này, năm 1938, Tưởng Giới Thạch, coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1935 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung Quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc Vạn Lý Trường Chinh sang phía tây Trung Quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc. Anh tôi và bà chị họ cũng theo đoàn quân đến đó.
Năm 1939 tôi bắt đầu học y ở trường Đại học Liên hiệp Y khoa Tây-Trung, do phái bộ Truyền giáo Canada thành lập gần một thế kỷ ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra do là quỹ Rockefeller tài trợ. Phần đông giáo sư người Mỹ. Bài giảng được giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương Tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận.
Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc Đại học Liên hiệp Tây-Trung và bằng tốt nghiệp Đại học tổng hợp New York.
Lý Liên học môn xã hội tổng hợp ở Đại học Phục Đan, Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh Tin Lành ở Thành Đô.
Tôi kết thúc thực hành phẫu thuật năm 1945, cũng là năm Nhật đầu hàng. Tôi nhận việc làm trong Bệnh viện đa khoa Trung tâm Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất do phương Tây đào tạo. Tôi muốn được học chuyên khoa phẫu thuật thần kinh. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên kết hôn. Lý Liên làm ở thư viện thuộc Hội Đồng Anh quốc.
Nội chiến Quốc-Cộng đang diễn ra, lạm phát tăng chóng mặt, đời sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi – khoảng 150 đô-la/tháng, trả bằng đồng bảng Anh. Lương tôi khoảng 25 đô la Mỹ/tháng nhưng nhận bằng tiền Trung Quốc, lĩnh xong tôi tức tốc đem ra chợ đen đổi sang đô la Mỹ hoặc đô la Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu số tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng, đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức trước đây người lương thiện không bao giờ nghĩ tới ăn cắp, nay lao vào đập phá các cửa hàng bán gạo cướp những gì có thể lấy được.
Trong cơn khủng hoảng, Danny Hoàng, bạn cùng lớp, đang làm bác sĩ ở Hong Kong gợi ý tôi chuyển đến đó làm việc với anh. Cuộc sống ở đó ổn định, nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ.
Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Ở Hong Kong chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc, tay nghề bác sĩ phẫu thuật như tôi có thể bị mai một. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục lan rộng, Lý Liên khuyên tôi nên đi. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh đi Hong Kong.
Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng tầu biển Đông Phương Úc Châu, trở thành bác sĩ ở Sydney, bác sĩ phẫu thuật của đoàn tầu biển thường qua lại giữa Úc và New Zeland, thu nhập khá cao. Lý Liên chuyển sang Hong Kong, thuê nhà, kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang Úc, nơi còn kỳ thị chủng tộc, chẳng ưa dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định cư lâu dài ở Sydney, chỉ mê mải làm việc hy vọng kiếm nhiều tiền, nhưng không muốn nhập quốc tịch. Niềm tự hào dân tộc, lòng tự trọng làm cho tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn buồng nhỏ, quanh tôi toàn người Úc, họ tin rằng Trung Quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi tức nhưng cần tiền, nên nấn ná chưa đi. Nhưng tôi cũng không thích sống ở Hương Cảng, thuộc địa của Anh. Niềm tự hào dân tộc quá lớn cho nên không chấp nhận, bị tước đoạt quyền công dân dưới sự đô hộ nhà vua ngoại quốc.
Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không thể tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung Quốc đè bẹp hải quân Anh khi định vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi tin với chiến thắng của những người cộng sản Trung Quốc, bọn cai trị nước ngoài sẽ phải cuốn xéo, đất nước được giải phóng sánh vai với các nước trên thế giới.
Tháng 4-1949, tôi nhận được thư của mẹ, bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, cũng vừa về thành phố quê hương, giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Anh tôi rất sung sướng, rất mong tôi trở về.
“Ở Trung Quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề – anh tôi viết – chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, toàn thể gia đình ta lại đoàn tụ”.
Tôi băn khoăn lắm. Cuộc sống ở Sydney đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi nếu muốn, có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong.
Chỉ có một điều tôi tin chắc, ở Úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật não, vì tôi là người Trung Quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng cuộc sống hoàn toàn không thoải mái, luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đày ra nước ngoài. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không?
Gần đến lễ Phục Sinh. Tôi dự định đi chơi với anh bạn thân Alex Dương. Alex sinh ở Úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung Quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabeth.
Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét tôi như kẻ mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả.
– Cần phải nghĩ cho kỹ đấy – Alex nói.
– Anh tính thế nào? – tôi hỏi.
– Anh và tôi hai hoàn cảnh khác nhau – Alex Dương chậm rãi – Gia đình tôi ở Úc. Thậm chí nếu họ hứa, trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, tôi cũng chẳng nghĩ tới quay về. Đúng, ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số không nhiều, có thể kiếm sống dễ dàng. Vì sao anh không viết cho anh trai, hỏi tỷ mỉ về công việc, lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tính toán tiếp.
Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung Quốc đến giàu có, tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc cho tổ quốc.
Nhưng Alex nói đúng, tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết thư cho anh tôi.
Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi Nelson Phó, một nhà y học nổi tiếng của Trung Quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương Tây tham gia Vạn Lý Trường Chinh. Năm 1934, trước khi có cuộc Vạn Lý Trường Chinh ông chữa cho Mao khỏi sốt rét, trong thời gian chiến tranh ông trong Ban bảo vệ sức khoẻ lãnh tụ đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An.
Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt, chân thành. Ông rất vui mừng chờ đón, động viên và kêu gọi các bác sĩ ở hải ngoại nên trở về. Về công việc tôi ở Bắc Kinh, lương lậu ông không đả động đến, chỉ viết bâng quơ, công việc rất phù hợp với tài năng của tôi.
Tôi được ông tâng bốc sẽ được giữ chức vụ cao, yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung Hoa mới. Tôi quyết định về nước ngay.
Alex Dương tổ chức bữa tiệc tiễn biệt. Có hai người Trung Quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo, khi nào đến Bắc Kinh viết thư báo tin, nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp quay lại Úc.
Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở Úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ Úc, tôi đến đại lộ Elizabeth tìm Alex Dương. Nhưng tất cả đã thay đổi, cửa hàng nhỏ của anh không còn nữa. Tôi không tìm thấy Alex Dương.
Thế là tôi và Lý Liên lại đoàn tụ ở Hong Kong. Giữa tháng 5-1949 Hong Kong hỗn loạn. Hàng nghìn người đã chạy loạn sang đây tránh hoạ cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về quê quán. Hiện tượng này thật lạ lung, không bình thường. Khi gặp Danny Hoàng, tôi kể về quyết định trở về Trung Quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy:
– Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi?
Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Danny buông lời:
– Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ, viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng trở về.
Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả.
Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đức, giáo sư cũ của nhà tôi, Đại học Phục Đan. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông làm đại biểu Hội Hiệp thương chính trị Trung Quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
– Ở Trung Quốc đều có tương lai – ông nói – cả nước đang trên đường hồi sinh.
Phiên họp đầu tiên Uỷ ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu, bà Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước Cộng hoà Trung Hoa từ 1912. Nhưng sau này mới rõ, Uỷ ban Hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là cây cảnh cho nền dân chủ – mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. Uỷ ban Hiệp thương chính trị nhân dân chỉ bình cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên Uỷ ban này phát biểu bày tỏ quan điểm không hợp quan điểm những người lãnh đạo cộng sản sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo, trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đức. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh, tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau, được trả tự do, thành một ông già mù loà, không nơi nương tựa.
Trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy những người cộng sản lãnh đất nước hoàn toàn hợp lý, hợp tình. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung Quốc đặt niềm tin vào đảng. Tôi như người mù ở Úc không biết hướng đi. Chính sách xây đựng Mặt trận Thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Chúng tôi, những người trí thức, sẽ được trọng dụng, thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Khi tôi nhìn thấy một số hành động của người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là thiểu, có thể khắc phục.
Một người bạn sống với tôi ở Hong Kong, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng, phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung Quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung Quốc được tốt đẹp.
– Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Có thể chiếc đồng hồ Rolex chả hạn, để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, việc trả một món quà như thế cũng không phải quá đắt.
Chẳng lẽ ông Dương cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc bệnh dịch ở Trung Hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng xa lạ với những người cộng sản, chính vì thế họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân Đảng tham nhũng. Tôi từ chối tặng quà cho ông Dương. “Đảng cộng sản chân thực, không dễ mua chuộc – tôi nói với các bạn – tôi sẽ tự kiếm sống bằng khả năng và trí tuệ của mình”.
Từ đó tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung Quốc như nhiều đảng viên khác trong Hội hiệp thương chính trị nhân dân đeo mặt nạ dân chủ.
Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên:
– Anh đúng là con mọt sách.
Mao trách:
– Sao anh keo kiệt thế. Anh chả hiểu quan hệ xã hội giữa người với người. Cá không thể sống trong nước trong được. Anh nghĩ khi tặng người khác một món quà là điều đáng ngạc nhiên à? Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao?
Mùa Xuân 1949, Hong Kong giống như ong vỡ tổ. Nhưng tôi còn trẻ, bồng bột đầy ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc, nhận việc tại một bệnh viện đa khoa đứng đầu ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hippocrat chữa bệnh, cứu chữa tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi để xây dựng nước Trung Hoa mới, thịnh vượng, hùng mạnh, nơi không còn bất công, tham nhũng.
Vợ chồng tôi rời Hong Kong về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn gần 17 năm.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [3]