27 tháng 2, 2016


GS Nguyễn Minh Thuyết - Đảng cần đổi mới để Quốc hội thực quyền hơn


VietTimes — Cần phải cải tiến mạnh mẽ công tác bầu cử. Phải có cơ chế để người dân tự ra ứng cử và phải có tranh cử để cử tri lựa chọn được những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội. 



Điều cần nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để QH có thực quyền hơn.Đó là ý kiến của GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (QH).



                                                                      ***



Đảng cần thay đổi phương thức lãnh đạo để QH có thực quyền hơn



Thưa Giáo sư, sau 10 năm làm đại biểu Quốc hội, ông thấy điều gì cần được quan tâm nhất để đổi mới hoạt động của QH nhiệm kỳ tới nhằm đạt hiệu quả hoạt động cao hơn?



– Điều cần nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để QH có thực quyền hơn, chủ động hơn trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng. Hiến pháp, rồi Luật Tổ chức QH đều khẳng định QH là cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng trong thực tế hoạt động QH, có nhiều vấn đề QH vẫn phải chờ ý kiến của Trung ương hoặc Bộ Chính trị, Ban Bí thư mới quyết định được.Đương nhiên có những việc thuộc thẩm quyền của Đảng thì Đảng quyết, nhưng cũng cần phân định rõ những việc gì phải xin ý kiến Trung ương hoặc Bộ Chính trị, Ban Bí thư; những việc gì giao Đảng đoàn QH bàn bạc rồi đưa ra QH quyết luôn.



Ví dụ, khi những người đứng đầu các cơ quan nhà nước thuộc diện QH bầu và phê chuẩn vi phạm pháp luật hoặc không đủ khả năng và phẩm chất để đảm nhiệm chức vụ nữa thì QH cần có quyền lập Ủy ban lâm thời để điều tra, bỏ phiếu bất tín nhiệm và làm thủ tục miễn nhiệm người đó, chứ không phải chờ đến khi Trung ương họp, có ý kiến rồi QH mới xử lý được.



Hay là, đối với các dự án quan trọng quốc gia, cần thay đổi quy trình “bàn bạc – chỉ đạo – quyết định” theo hướng: Trước hết, để cho các cơ quan chuyên môn của QH thẩm định, QH bàn thảo kỹ; sau đó báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư có ý kiến chỉ đạo; nếu cần thì Bộ Chính trị báo cáo BCH TƯ ra nghị quyết; chứ không nên làm ngược lại, dẫn đến tình trạng QH bàn rồi, đại biểu đề nghị thông qua hoặc không thông qua rồi lại bảo “cái này TƯ đã thống nhất thông qua, đề nghị QH cho thông qua”.



Ông có thể đưa ra dẫn chứng cụ thể những trường hợp như vậy không?



– Ví dụ, chuyện thông qua dự án mở rộng Thủ đô năm 2008. Khi thăm dò thì số đại biểu ủng hộ và phản đối dự án ngang nhau, đều 226. Tuy nhiên, sau đó các đại biểu là ủy viên TƯ, Trưởng các Đoàn đại biểu được triệu tập và nhận ý kiến chỉ đạo là phải quán triệt đại biểu thông qua vì TƯ đã quyết rồi. Thế là ngày hôm sau bỏ phiếu, kết quả 92,9% đồng ý thông qua dự án; chỉ có 4 phiếu chống, 13 phiếu trắng.



Sau này, khi bàn về chủ trương làm đường sắt cao tốc Bắc – Nam, Bộ Chính trị đã thay đổi phương thức lãnh đạo, nghĩa là Trung ương không quyết trước mà chỉ nhất trí cho trình dự án ra QH, để QH toàn quyền bàn thảo và quyết. Kết quả là dự án đường sắt cao tốc ấy không được thông qua.



 [GS Nguyễn Minh Thuyết: Đảng cần đổi mới để Quốc hội thực quyền hơn] Cần phải đổi mới để QH có thực quyền hơn, chủ động hơn trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng.

               [GS Nguyễn Minh Thuyết: Đảng cần đổi mới để Quốc hội thực quyền hơn]



Cần phải đổi mới để QH có thực quyền hơn, chủ động hơn trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng.



Trong công tác lập pháp và giám sát cũng vậy, QH có thực quyền thì mới có thể xây dựng được những đạo luật phù hợp với thực tế; giám sát mới có hiệu quả. Vì vậy Đảng cần thay đổi phương thức lãnh đạo để QH có thực quyền hơn.



Cần có cơ chế tranh cử công khai



Một trong những chức năng quan trọng nhất của QH là làm luật. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải đại biểu nào cũng có kiến thức cao về pháp luật. Thế mới có chuyện trước đây ông Vũ Đức Khiển, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH phát biểu rằng “QH làm văn tập thể”. Thưa GS, liệu có phải việc quá ít đại biểu chuyên nghiệp nên ảnh hưởng đến chất lượng làm luật của QH không?



– Không có QH nước nào mà tất cả hoặc phần lớn đại biểu đều là những nhà chuyên môn về luật cả. Đại biểu đại diện cho các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ngay cả các nghị sĩ chuyên nghiệp thì họ cũng là những nhà chính trị hơn là chuyên gia về luật. Còn về câu hỏi “Liệu có phải việc quá ít đại biểu chuyên nghiệp nên ảnh hưởng đến chất lượng làm luật của QH không?” thì theo tôi là có ảnh hưởng, nhưng không lớn lắm vì QH làm luật là làm chính sách, chứ không phải làm kỹ thuật luật. Những kỹ thuật cụ thể có các chuyên viên làm, nước nào cũng thế thôi.



Ông Vũ Đức Khiển phải nhận xét “QH làm văn tập thể” chính là vì khi thảo luận về dự thảo luật, nhiều đại biểu chỉ đề nghị thay từ này bằng từ kia, thay dấu chấm bằng dấu phẩy v.v. mà không tập trung phân tích xem các chính sách trong dự thảo có hợp lý không, có phù hợp với thực tế không, có phù hợp với nguyện vọng của dân không, có cần bổ sung, sửa đổi gì không.



Tuy nhiên cũng phải thừa nhận là nhiều luật của ta chất lượng chưa cao. Có nhiều lý do. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây, là việc thông qua một đạo luật phụ thuộc vào nhiều bên chứ không phải chỉ có cơ quan lập pháp là QH. Luật còn phụ thuộc vào cơ quan trình, tức là Chính phủ. Rồi thì ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, BCH TƯ. Luật càng quan trọng (ví dụ như Luật Đất đai, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Biểu tình, Luật về Hội, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí) thì càng có nhiều ý kiến chỉ đạo, tham gia.



Thứ hai, các cơ quan trình luật thường có xu hướng bảo vệ lợi ích của mình, nên thiết kế các điều luật có lợi cho họ hoặc cho công việc của họ. Khi dự thảo đưa ra, dù QH có không hài lòng, nhưng cũng không dễ mà chỉnh sửa được. Đó là chưa kể cơ quan trình còn tác động đến cấp này cấp kia để giữ nguyên. Thậm chí, dù cho đại biểu bác bỏ một cách có lý, cấp có thẩm quyền vẫn còn thuyết phục đại biểu thông qua, như lời một bài hát của ông Vũ Mão, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng QH, người đã từng tham gia QH 5 khóa liền: “Ý kiến đại biểu tuy rất hay. Nhưng nếu tiếp thu thì rất gay. Mong đại biểu cho giữ nguyên như cũ. Và tiếp tục phát biểu hăng say”. Bài hát được ông Vũ Mão lúc còn đương chức “trình diễn” nhiều lần không phải bên bàn trà mà trước các hội nghị.



Thứ ba, ở nước ta luật ra rồi nhưng phải chờ nghị định. Có nghị định rồi lại phải chờ thông tư hướng dẫn. Nhiều khi nghị định và thông tư lại “làm méo” cả luật.



Thứ tư, cũng còn có lý do nữa là nhiều khi các cơ quan trình luật và cả đại biểu đành tạm chấp nhận theo kiểu “đặt một chân” vào đã rồi tính sau. Vì nhiều khi không làm thế thì luật không thể thông qua được.



QH của chúng ta hiện nay vẫn “cơ cấu” theo kiểu “mặt trận” bằng việc quy định tỷ lệ đầy đủ các tầng lớp trong xã hội. Rồi thì có những trường hợp người dân đi bầu theo cảm tính chứ nhiều khi có biết năng lực, phẩm chất của ứng cử viên ấy ra sao đâu. Thế mới có chuyện những đại biểu được bầu như Hoàng Hữu Phước của Tp.HCM đã gây rất nhiều tai tiếng ở nhiệm kỳ vừa qua. Thậm chí đại biểu Trần Du Lịch còn gọi ông Phước là “không bình thường”. Vậy tại sao chúng ta không có cơ chế tranh cử công khai để người dân lựa chọn, thưa Giáo sư?



– Cơ cấu QH có đại biểu đại diện cho các thành phần khác nhau như công nhân, nông dân, trí thức, dân tộc ít người, thanh niên, phụ nữ v.v. là chuyện bình thường vì QH là cơ quan đại biểu của dân, cần có đại diện cho các tầng lớp khác nhau, hay nói theo cách khác là đại diện cho các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, theo tôi, cũng không nên quy định cứng nhắc về cơ cấu thành phần. Ví dụ, cơ cấu ít nhất 35% đại biểu là phụ nữ, 10% đại biểu là người ngoài đảng, 10% người dưới 40 tuổi,… , thì đó là chỉ tiêu phấn đấu, còn đạt bao nhiêu là tùy thuộc vào nỗ lực của ứng cử viên và sự lựa chọn của cử tri.



Cơ cấu quá cứng nhắc, hình thức có thể làm cho cử tri giảm dần ý thức trách nhiệm trong bầu cử. Thế mới có chuyện một người đi bầu thay cho cả gia đình. Thậm chí ra tới nơi bầu cử rồi mới đọc qua sơ yếu lý lịch của ứng cử viên để bầu. Có cử tri còn hỏi người trong tổ bầu cử là nên để ai, gạch tên ai. Để khắc phục tình trạng này, theo tôi, cần phải cải tiến mạnh mẽ công tác bầu cử.



Phải có cơ chế để người dân tự ra ứng cử bình đẳng với người được các tổ chức giới thiệu ra ứng cử; ứng cử viên phải trình bày, thậm chí tranh luận về chương trình hành động để cử tri lựa chọn được những đại biểu xứng đáng.



Theo Giáo sư thì có cần cải cách gì về cách thức chia các đơn vị bầu cử như hiện nay không?



– Theo tôi thì cần chia nhỏ các đơn vị bầu cử; mỗi đơn vị bầu cử chỉ bầu một đại biểu thôi. Ví dụ, tỉnh X trước đây có 2 đơn vị bầu cử; mỗi đơn vị gồm 5, 6 huyện thị, được bầu 6 đại biểu và hình thành một đoàn đại biểu; bây giờ nên chia thành 6 đơn vị bầu cử và mỗi đơn vị chỉ bầu một đại biểu. Làm như vậy, đại biểu đó sẽ phải gắn chặt trách nhiệm với cử tri và được cử tri giám sát chặt chẽ. Trong nhiệm kỳ, năng lực, trách nhiệm của đại biểu đó ra sao, cử tri người ta thấy rõ ngay.



Còn như hiện nay, tất cả hoạt động trong một đoàn đại biểu, trách nhiệm chịu chung. Khi đoàn đi tiếp xúc cử tri, thậm chí một, hai đại biểu vắng mặt, cử tri cũng thấy bình thường. Có đại biểu cả nhiệm kỳ 5 năm không một lần phát biểu tại nghị trường, không giải quyết được một việc gì cho cử tri cũng chẳng phải chịu trách nhiệm gì.



Thu thập chữ ký và vấn đề kiều bào về ứng cử, bầu cử



Hiện đã có một số người tuyên bố là sẽ ra tranh cử QH nhiệm kỳ tới, thậm chí có người còn đưa ra cả chương trình hành động để tranh cử nữa. Cũng có ý kiến cho rằng thay vì MTTQ tổ chức hiệp thương như hiện nay, nên để cho những người có nguyện vọng ra tranh cử thu thập chữ ký cử tri. Giáo sư nghĩ gì về những vấn đề này?



– Trước hết phải nói rằng việc ngày càng có nhiều người tuyên bố ra ứng cử đại biểu QH là dấu hiệu tích cực. Điều đó chứng tỏ hoạt động của QH từ khi đổi mới đến nay, đặc biệt trong thời gian qua, đã thu hút được sự quan tâm của người dân. Hơn nữa, việc có nhiều người dân ra ứng cử như vậy thể hiện ý thức chính trị, ý thức với công việc chung của đất nước đã được nâng lên. Đấy là điều đáng quý.



Đọc chương trình hành động của một số người tuyên bố sẽ ra tranh cử, tôi thấy về kỹ thuật có thể còn có vấn đề này kia, nhưng về ý tưởng là nghiêm túc và cũng có những ứng cử viên có những chương trình hành động khá hấp dẫn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tạo điều kiện để những người này có cơ hội tham gia ứng cử.



Còn việc thay vì hiệp thương, nên để ứng cử viên thu thập chữ ký nơi mình công tác, sinh sống để tham gia tranh cử, theo tôi, cũng là một hướng mà QH khoá tới nên cân nhắc để điều chỉnh luật. Làm như vậy cũng là một cách để nâng cao ý thức của cử tri.



Vừa qua có nhiều trí thức người Việt ở nước ngoài lên tiếng rằng chúng ta nên tạo điều kiện cho đồng bào ở nước ngoài có thể ứng cử và bầu cử QH. Giáo sư có ý kiến gì về vấn đề này?



– Tôi nghĩ về mặt nguyên tắc thì đồng bào mình sống ở nước ngoài, còn giữ quốc tịch Việt Nam phải được tham gia bầu cử và ứng cử. Có điều là từ trước đến nay, vì nhiều lý do khác nhau nên chúng ta chưa tổ chức được cho đồng bào ứng cử, bầu cử. Tôi xin lấy một ví dụ cụ thể để chúng ta thấy sự phức tạp của vấn đề. Ở một vài địa phương nước ngoài, một bộ phận người Việt treo quốc kỳ Việt Nam, thậm chí là chỉ cắm chảo antenna để bắt sóng truyền hình trong nước cũng bị nhóm người Việt khác đập phá.



Trong bối cảnh như vậy mà tổ chức hòm phiếu để bầu cử sẽ rất khó đảm bảo kết quả. Còn việc người Việt Nam ở nước ngoài về tham gia ứng cử thì QH cũng đã có bàn bạc, thảo luận rồi, nhưng có cái khó là cử tri trong nước hầu như không biết rõ về các vị đó; và nếu có trúng cử QH thì các đại biểu này cũng khó sát với cử tri. Vì vậy, việc này cần phải có thời gian và lộ trình cụ thể.

Xin cám ơn Giáo sư!

(VietTimes)
 

26 tháng 2, 2016

Liệu bạn có nhận ra hình ảnh của chính mình trong những bức ảnh đa nghĩa và có phần trào phúng về thế giới hiện đại này?
cuoc song hien dai blogtamsuvn
Những chiến binh thời tương lai sẽ trở nên như thế này: Họ lập gia đình rồi có con, thế nhưng đôi khi việc đứa trẻ có thể nhớ mặt cha mình là điều không dễ dàng…
cuoc song hien dai blogtamsuvn1
Chiến tranh luôn đi liền với đau thương và mất mát. Chiến tranh là điều chẳng một người dân nào mong muốn, vậy tại sao nó vẫn cứ tồn tại trong “thế giới ngầm”?
cuoc song hien dai blogtamsuvn2
Tội ác lên ngôi, con người bị lưu manh hóa. Thậm chí những đứa trẻ vô tội cũng trở thành tù nhân trong tù mòn mỏi chờ ngày ra đời và… được tự do hoàn toàn.
cuoc song hien dai blogtamsuvn3
Tình yêu cũng biến chất, thậm chí họ yêu nhau không phải vì con người hay đạo đức của đối phương mà tất cả chỉ vì… hầu bao của người đàn ông đủ sức níu giữ tâm hồn người phụ nữ.
cuoc song hien dai blogtamsuvn4
Khoảnh khắc chào đời của một đứa trẻ thời hiện đại… rất “đặc biệt” đúng không nào?
cuoc song hien dai blogtamsuvn5
Ai sẽ là người giàu hay kẻ nghèo khó?
cuoc song hien dai blogtamsuvn6
Đừng để con người mình chỉ làm việc như một cỗ máy, suy nghĩ bó hẹp trong chiếc hộp rống tuếch kia. Hãy tự cứu lấy chính mình trước khi quá muộn!
cuoc song hien dai blogtamsuvn7
Não bộ con người dường như đang được tiêm nhiễm những điều không tưởng từ chính cuộc sống hiện đại ngày nay.
cuoc song hien dai blogtamsuvn8
Kẻ mạnh luôn giành phần thắng!
cuoc song hien dai blogtamsuvn10
Những hiện tượng lạ, thậm chí quái dị đang từng ngày từng giờ khiến con người biến chất.
(Kênh 13)

25 tháng 2, 2016


Chuyên gia chém gió: “Thà nghèo mà được an toàn”?

 

Posted by adminbasam on 24/02/2016
FB Trần Trung Đạo
24-2-201
"Đại ca chém gió" Hoàng Trung Hải. Nguồn ảnh: internet
“Đại ca chém gió” Hoàng TrungHải.  
Nguồn ảnh internet
Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải phát biểu tại buổi làm việc với huyện Ba Vì sáng 23/2/2016: “Thà sống nghèo nhưng công bằng, yên bình còn hơn giàu mà bon chen, không an toàn”. Thiệt tình!
Nếu không có nguồn từ VNExpress với bài tường thuật kèm theo, thật khó tin lời phát biểu trên đây là của một trong những lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN.
Phát biểu ngu ngơ, nói năng bừa bãi vốn là đặc điểm của các lãnh đạo CSVN nhưng khi đóng vai trò mặt nổi phải biết tập uốn lưỡi bảy lần. Nếu không tập được thì nên im lặng. Càng nói càng chứng tỏ lãnh đạo CS không hề đọc sách, chưa hề đi xa, chỉ biết thừa hưởng gia tài cai trị theo kiểu cha truyền con nối thời phong kiến.
Vì bản tin cho biết ông Hoàng Trung Hải “nhấn mạnh đến việc đảm bảo an ninh quốc phòng” chứ không chỉ nói về trộm cắp, rác rưới thôi nên tôi cũng nêu lên vài điểm về “an ninh quốc phòng”.
Vậy theo ông Hoàng Trung Hải, Việt Nam cần làm gì để bảo vệ Hà Nội trước xâm lăng quân sự của Trung Quốc, ngoài việc “thà sống nghèo” ?
Ông hãy kể giùm một nước, đâu cũng được, nước nào cũng được, nằm giữa hai thế lực thù địch mạnh nhất nhì thế giới mà lại nghèo khó nhưng vẫn được sống trong “công bằng, yên bình” ?
Nếu muốn “trừng phạt Việt Nam” hôm nay, Trung Quốc không cần phải xua vài trăm ngàn quân đi bằng ngựa, lừa như thời 1979 mà chỉ đặt vài giàn hỏa tiển từ bên kia biên giới bắn sang hay ngoài hạm đội bắn vô. Dĩ nhiên để trấn an dư luận thế giới chúng cũng sẽ tuyên bố “trừng phạt có giới hạn”. Đừng quên, Hà Nội chỉ cách biên giới Trung Việt phía Bắc 106 dặm hay 171 km. Một vài giờ thôi, Hà Nội đã tan nát rồi.
Hoàng Trung Hải nghĩ rằng khi đó Liên Hiệp Quốc, Mỹ, Nhật sẽ đến cứu Việt Nam hay những củ khoai lang, nồi cơm trắng của Việt Nam nghèo nàn như Hoàng Trung Hải khuyến khích đồng bào nên sống sẽ làm Tập Cận Bình chột dạ xót thương?
Không ai xót thương hay cứu giúp Việt Nam nếu Việt Nam không biết tự xót thương và cứu lấy chính mình. Mà muốn cứu mình Việt Nam trước hết phải có tự do, dân chủ và giàu mạnh.
Không chỉ ông bà Việt Nam mà hầu hết các nhà nghiên cứu quân sự thế giới cũng đều đồng ý “mạnh dùng sức yếu dùng chước”.
Nhiều quốc gia nhỏ giữ vững được nền độc lập vì họ biết dùng chước, dùng thế, dùng vị trí chiến lược của quốc gia mình để mặc cả với các nước lớn như trường hợp Thụy Sĩ trong Thế chiến Thứ hai hay Ai Cập trong xung đột Trung Đông. Một khi vị trí chiến lược mất đi, quốc gia đó không còn giá trị đổi chác và trở thành mồi tự do cho cả hai bên.
Một ví dụ khác. Trước Thế Chiến thứ nhất Áo là một quốc gia chiến lược trong đế quốc Áo Hung nhưng trước Thế chiến Thứ hai vị trí đó của Áo không còn nữa. Hitler chiếm Áo không tốn một viên đạn vì cả Anh, Pháp đều xem đó là phần thực tế của trật tự mới tại Âu Châu. Anh và Pháp cố gắng giữ Tiệp Khắc nhưng khi Hitler tiếp tục vẽ lại bản đồ Châu Âu, TT Anh Neville Chamberlain và TT Pháp Édouard Daladier đành nhịn nhục cho đến khi Hitler tấn công Ba Lan mở đầu thế chiến thứ hai.
Tập Cận Bình đang vẽ lại bản đồ Châu Á và Việt Nam đang nằm trên mũi bút chì của họ Tập.
Việt Nam từng là một quốc gia có vị trí chiến lược nhưng vị trí đó đang mất dần như David Brown viết trên báo Asia Sentinel “Mỹ dường như đang vẽ lại vòng an ninh chung quanh Nhật Bản, Hàn Quốc và có thể Singapore và Eo biển Malacca …” . Bên trong vòng đai an ninh đó không có Việt Nam.
Sau Thế chiến Thứ hai, Mỹ gần như độc quyền trên vùng Nam Thái Bình Dương. Vị trí đó không còn nữa. Việc TT Barack Obama yêu cầu Tập Cận Bình ngưng bành trướng Biển Đông cũng chẳng khác gì TT Neville Chamberlain yêu cầu Hitler lấy vùng Sudetenland đủ rồi đừng thôn tính hết Tiệp Khắc. Tuy nhiên, kế hoạch Châu Âu của Hitler không dừng lại ở vùng Sudetenland và tương tự kế hoạch Á Châu của Tập Cận Bình không dừng lại ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Nếu Việt Nam tiếp tục bị cai trị bằng những người có cái đầu như Hoàng Trung Hải và nếu các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, tiếp tục bị tiêm thuốc mê “Thà sống nghèo nhưng công bằng, yên bình còn hơn giàu mà bon chen, không an toàn”, rồi đất nước sẽ tan hoang và một ngôi sao nữa gắn trên cờ Trung Quốc cũng không phải là điều ngoài tưởng tượng.

24 tháng 2, 2016

BÀI VIẾT HAY QUÁ (Bê từ Blog Tôi Thích Đọc)
Quyết tâm không còn là nô lệ nữa thì ta tự do
Charles A.O. Makmot - Tôi và vài người bạn đang đọc đi đọc lại cuốn sách miễn phí tuyệt vời, Từ Độc tài Đến Dân chủ của Gene Sharp. Chương tôi thích nhất là chương ba có tựa đề “ Quyền lực đến từ đâu?” Trong chương này tác giả trích truyện ngụ ngôn Trung Hoa vào thế kỷ thứ mười bốn của Lưu Cơ:

Một ông lão ở nước Chu còn sống nhờ bắt khỉ phục vụ mình. Người nước Chu gọi ông là “hầu công”. Mỗi buổi sáng, ông lão đều tập họp bọn khỉ lại ở ngoài sân, rồi ra lệnh cho con khỉ già nhất dẫn cả bọn lên núi hái trái cây. Theo luật mỗi con khỉ phải nộp một phần mười số trái cây hái được cho ông lão. Con nào không làm đúng như thế sẽ bị đánh bằng roi dã man. Tất cả những con khỉ đều khổ sở vô cùng, nhưng không dám than van.
Ngày nọ, một con khỉ nhỏ hỏi những con khỉ khác:

“Có phải ông lão đã trồng tất cả các cây ăn trái này?”

Những con này nói: “Không, chúng mọc tự nhiên.”

Con khỉ nhỏ hỏi thêm: “ Vậy chúng ta có thể lấy trái cây mà chẳng cần xin phép ông lão?”

Những con này đáp: “ Đúng, chúng ta ai lấy cũng được.”

Con khỉ nhỏ hỏi tiếp: “Như vậy, tại sao chúng ta nên lệ thuộc vào ông lão; tại sao tất cả chúng ta phải phục vụ lão?”

Con khỉ nhỏ chưa nói dứt lời thì tất cả những con khỉ khác bất ngờ ngộ ra và thức tỉnh.

Ngay tối hôm ấy, canh chừng thấy ông lão đã ngủ say, bọn khỉ phá hủy tất cả các rào chắn của trại đã giam cầm chúng, rồi phá hủy tan tành cả trại. Chúng cũng lấy tất cả trái cây ông lão cất trong kho đem vào rừng, và không bao giờ trở lại. Ông lão cuối cùng chết đói.

Gene Sharp chẳng do dự trích thêm lời bàn của Úc Ly Tử:


“ Trên đời có nhiều kẻ trị dân bằng thủ đoạn chứ không phải bằng đạo lý chính nghĩa. Thử hỏi họ có khác gì hầu công trong truyện. Họ không biết mình dại. Vì một khi người dân hiểu ra, thủ đoạn của họ chẳng còn dùng được nữa.”

Câu hỏi xác đáng cho tôi và tôi tin cũng cho các bạn tôi những người yêu nước là: Quyền lực của người lãnh đạo của bất luận quốc gia nào xuất phát từ đâu? Nếu chúng ta có thể hiểu thấu được cách thức quyền lực chính trị hoạt động này, chúng ta có thể vận dụng sự thấu hiểu ấy tốt hơn. Vì thế tôi muốn bàn đến vài điểm rất quan trọng mà Lưu Cơ đã ám chỉ trong ngụ ngôn rất hay của ông:


1 Ông lão còn sống nhờ bắt khỉ phục vụ mình.

Truyện kể ông lão còn sống nhờ bắt khỉ phục vụ mình. Hãy lưu ý truyện không nói bọn khỉ còn sống nhờ phục vụ ông lão. Những con khỉ này có thể tự sống được như chúng đã tự sống được trong biết bao nhiêu năm trời trước khi ông lão đến bắt chúng phục vụ ông. Chắc hẳn lúc ấy ông còn trẻ khi chúng bắt đầu phục vụ ông rồi từ đấy cả một thế hệ khỉ ra đời chỉ biết phục vụ ông.

Ngày xưa chắc hẳn ông đã làm nên kỳ tích anh hùng là rào chiếm đất đai, hạ sát những loại thú ăn thịt khỉ cho nên những con khỉ cảm thấy có bổn phận phục vụ ông. Mặt khác, ông lão có thể đánh bại con khỉ đầu đàn và rồi đe dọa giết sạch tất cả các con khỉ còn lại. Như vậy, bọn khỉ có thể sợ quá phải khuất phục.

2. Mỗi buổi sáng, ông lão đều tập họp bọn khỉ lại ở ngoài sân, rồi ra lệnh cho con khỉ già nhất dẫn cả bọn lên núi…

Ông lão chọn ra những con khỉ cầm đầu dựa trên những phẩm chất biểu lộ nhưng ông cũng lưu tâm đến phong tục văn hóa của khỉ. Vì vậy con khỉ lớn tuổi nhất, có lẽ cũng mạnh nhất, được chọn làm con khỉ đầu đàn và trách nhiệm của nó là chỉ huy những con khác.

3.Theo luật mỗi con khỉ phải nộp một phần mười số trái cây hái được cho ông lão.

Ai đặt ra luật này, tôi hỏi? Tại sao một phần mười mà không một phần trăm? Những con khỉ mà trước khi ông lão xuất hiện đều tự do hái và ăn trái cây nhiều vô kể trong thiên nhiên có được hỏi ý kiến về luật này? Tôi chắc chắn có nhiều con khỉ hỏi con khỉ đầu đàn những câu hỏi này. Tôi tự hỏi con khỉ đầu đàn trả lời chúng ra sao.

4. Con nào không làm đúng như thế sẽ bị đánh đập dã man.

Tôi chợt nảy ra câu hỏi thú vị là: Làm thế nào ông lão tuy không đi vào rừng để đếm mỗi ngày mỗi con khỉ hái được bao nhiêu trái cây mà lại biết được con khỉ nào không nộp đủ 10%? Phải chăng, dưới sự chỉ dẫn của con khỉ đầu đàn, ông đã chỉ định vài con khỉ làm công việc “kiểm kê” vào lúc cuối ngày khi tất cả những con khỉ đi hái trái cây trở về? Phải chăng những con khỉ được giao việc kiểm kê không phải hái trái cây mà chúng còn được hưởng thành quả lao động của bạn mình ở một nơi đặc biệt mà ông lão đã dành riêng cho chúng? Phải chăng chúng đã chọn ra 10 % trái cây nào ngon nhất và to nhất từ trong đống trái cây của bạn mình nên nhờ thế ăn ngon hơn những con khỉ khác rất nhiều. Bởi lẽ đàn khỉ chắc hẳn hái được rất nhiều trái cây cho nên những con khỉ làm công việc kiểm kê này tha hồ mà chọn lựa trái cây vì ông lão không ngừng ban cho chúng rất nhiều trái cây để bọn chúng luôn trung thành với ông.

Biết ông lão không phải lúc nào cũng ở gần bên và chắc tin tưởng chúng mà giao chìa khóa nhà kho, những con khỉ được hưởng đặc quyền này có thể ăn xén trái cây trong kho mà ông lão không biết?

Phải chăng ông lão thực sự có thời gian và sức lực để đánh bọn khỉ bằng roi? Tôi nghĩ ông chọn những con khỉ khỏe nhất để thay ông đánh những con khỉ khác.

5. Tất cả những con khỉ đều khổ sở vô cùng, nhưng không dám than van.

Lời khẳng định này thật thú vị và rất gợi mở bởi lẽ chắc hẳn có vài con khỉ được ban nhiều đặc quyền. Phải chăng nhiều con khỉ khổ sở nhưng vẫn tin tưởng cuộc sống của chúng dù sao cũng tốt hơn dưới sự bảo vệ của ông lão? Phải chăng ông hay đe dọa bọn khỉ là những loại thú ăn thịt chúng rồi sẽ quay trở lại đến mức chúng đành cam phận? Phải chăng những con khỉ trẻ ra đời dưới sự thống trị của ông không thể nào liên hệ với quá khứ nên chỉ biết phục tùng theo? Hay những con khỉ lớn tuổi hơn, sau vài lớp học với ông lão về quá khứ kinh hoàng của chúng, chỉ truyền đạt lại những chuyện đáng sợ về những con khỉ bị hổ báo ăn thịt?

Phải chăng chúng cố tình quên những câu chuyện về tự do? Khi chúng tự do đi lại khắp nơi trong rừng, khi chúng thích đâu ngủ đó? Phải chăng có thể chúng làm như không biết sự thật là tất cả các luật lệ đều được tất cả các con khỉ tán thành?

Tại sao, với tất cả những đau khổ này, chúng không dám than van? Phải chăng vì than van bị cấm hay có thể bị trừng phạt với nhiều roi vọt hay còn tàn tệ hơn?

6. Ngày nọ, một con khỉ nhỏ hỏi những con khỉ khác: “Có phải ông lão đã trồng tất cả các cây ăn trái này?” Những con này nói: “Không, chúng mọc tự nhiên.” Con khỉ nhỏ hỏi thêm: “ Vậy chúng ta có thể lấy trái cây mà chẳng cần xin phép ông lão?” Những con này đáp: “ Đúng, chúng ta ai lấy cũng được.”

Những câu hỏi rất trọng tâm! Những câu hỏi này không chỉ đi thẳng vào điểm then chốt của nỗi khổ đau của chúng mà những câu hỏi này còn được con khỉ nhỏ hỏi một cách rất thông minh. Con khỉ này chắc hẳn đã bị những con khỉ khác khỏe hơn làm việc cho ông lão bắt nạt nhiều nhất nhưng dẫu sao nó vẫn thương những con khỉ đồng loại. Nó ắt hẳn đã nghe mẹ kể những chuyện về thời tự do ngày xưa nên ao ước những ngày tự do ấy trở lại.

Khi chúng vào rừng hái trái, tôi đoán nó nhanh chóng tách ra khỏi đàn. Nó ắt hẳn đã tiếp xúc với những con khỉ chưa bao giờ chịu cảnh nô lệ. Nhưng thay vì xin tỵ nạn và ở lại với những con khỉ tự do ấy, nó chọn quay trở về với đàn và chia sẻ những câu chuyện này với những con khỉ bạn. Nó quyết chí tự học hỏi rất cần cù cách thức giải phóng đồng loại mình.

Nó càng ngày càng can trường hơn bất chấp bao hăm dọa và răn đe của con khỉ đầu đàn và những con khỉ khác nịnh hót ông lão. Vào ngày nó hỏi câu hỏi ấy, nó tự nhiên trở thành thủ lãnh của đàn khỉ.

Lời đáp cho những câu hỏi này ắt hẳn phải là kết quả của nhiều lần huấn luyện mà nó đã hướng dẫn cho một số con khỉ được tuyển chọn để dạy chúng rằng chúng có thể tự do và cũng chỉ cho chúng thấy trái cây thực ra là quyền của tất cả con khỉ.

Tại sao lại phải hỏi? Vì lời giải cho cuộc đấu tranh đầy thử thách của chúng đã luôn luôn có sẳn ở trong lòng chúng! Hãy lưu ý là những câu hỏi của con khỉ nhỏ cũng diễn ra theo từng giai đoạn và ắt hẳn trước đấy những câu hỏi này ban đầu đã được đặt ra cho một nhóm nhỏ những con khỉ nhỏ. Khi số lượng thành viên nòng cốt tăng lên với những con khỉ càng biết nhiều hơn và khôn ngoan hơn thì chính tự do đã luôn luôn có sẳn ở trong lòng chúng bắt đầu thể hiện!

7. Con khỉ nhỏ hỏi tiếp: “Như vậy, tại sao chúng ta nên lệ thuộc vào ông lão; tại sao tất cả chúng ta phải phục vụ lão?”

Sau khi cuộc mưu tìm tự do của tất cả con khỉ đã chín muồi, con khỉ nhỏ nhưng khôn ngoan hỏi câu hỏi sinh tử mà phá tan xiềng xích gông cùm đang giam hãm chúng!

8. Con khỉ nhỏ chưa nói dứt lời thì tất cả những con khỉ khác bất ngờ ngộ ra và thức tỉnh.

Thật là ngày tuyệt vời khi tất cả những con khỉ bao gồm con khỉ đầu đàn, các con khỉ thi hành luật một phần mười và những con khỉ đánh roi trừng phạt thảy đều trở nên thấu hiểu và nhận thức tất cả chúng đều đang ở trong nhà tù. Con khỉ đầu đàn và lũ khỉ nịnh nọt chắc xấu hổ và ân hận biết bao.!
Tuy nhiên chúng mau chóng tha thứ cho nhau và nghĩ ra kế hoạch.

9. Ngay tối hôm ấy…

Tại sao vào chính ngay đêm ấy? Vì không có con khỉ nào, sau khi khám phá mình có thể tự do, lại muốn ở tù thêm dù chỉ một ngày. Tự do trở thành nhu cầu khẩn thiết và cấp bách mà chẳng có gì ngăn chặn được.

10.… canh chừng thấy ông lão đã ngủ say,..

Tại sao giữa đêm khuya vắng lặng? Tại sao không giữa ban ngày để chúng có thể nhìn rõ ràng hơn cái gì chúng cần phải phá hủy? Và tại sao chờ ông lão ngủ say? Tại sao, chúng đánh lúc ông lão dể bị tổn thương nhất?

 

11. Bọn khỉ phá hủy tất cả các rào chắn của trại đã giam cầm chúng, rồi phá hủy tan tành cả trại.

Tại sao lại phá hủy tất cả các rào chắn của trại giam nếu chúng không dự định trở lại? Vì những ai đã thoát được sẽ không muốn những kẻ khác phải trải qua cảnh nô lệ như mình! Ông lão biết đâu có thể lại đi bắt bầy khỉ mới về phục vụ ông?
Chúng phá tan tành cả trại. Chúng không để lại dấu vết nào của cuộc đời nô lệ của chúng trước đây.

11. Chúng cũng lấy tất cả trái cây ông lão cất trong kho…

Tại sao không để lại cho ông một ít trái cây ông có ở trong kho? Vì trước tiên tất cả trái cây đều thuộc về chúng cho nên chúng phải lấy lại. Bất công đã gây ra phải được sửa sai.

12. đem vào rừng…

Tại sao không đuổi ông lão đi và ở lại trong nhà ông, qua đấy chế nhạo ký ức tàn ác của ông? Chính là vì lý do chúng hành động không phải vì căm thù mà vì công lý. Chúng cũng không muốn chính cách đối xử tàn ác như thế có chỗ để lại trỗi dậy lần nữa. Chúng ra đi bỏ lại đằng sau tất cả mọi thứ.

13. và không bao giờ trở lại.

Chúng đã hoàn toàn từ bỏ trong tâm hồn và thể chất cách đối xử độc đoán mà chúng đã chịu đựng và sẽ không bao giờ trở lại với tình cảnh ấy.

14. Ông lão cuối cùng chết đói.

Điều thú vị là chúng để cho ông lão sống. Ông đã già rồi, chúng có thể giết ông lão để thỏa mãn sự trả thù nhưng thay vì thế chúng quyết định từ chối cho ông chính điều mà giúp ông còn sống. Đó là sự phục vụ, phục tùng, và trung thành của chúng.

Ông lão chỉ còn lại một số phận duy nhất. Chết đói.

“ Trên đời có nhiều kẻ trị dân bằng thủ đoạn chứ không phải bằng đạo lý chính nghĩa. Thử hỏi họ có khác gì hầu công trong truyện. Họ không biết mình dại. Vì một khi người dân hiểu ra, thủ đoạn của họ chẳng còn dùng được nữa.”

Vậy, quyền lực đến từ đâu??

Charles A.O. Makmot
Trần Quốc Việt dịch

Dịch giả gửi tới Dân Luận



Nguồn: Dịch từ blog Afrikanpatriot ngày 4/5/2012. Tựa đề của người dịch là lời của Étienne de La Boétie trong tác phẩm kinh điển đầu tiên về bất bạo động“ Discourse on Voluntary Servitude” được viết ra cách đây gần 500 năm.

https://afrikanpatriot.wordpress.com/2012/05/04/the-monkey-master-fable-whence-comes-the-power/
(Theo Dân Luận)
BÀI VIẾT NÀY RẤT ĐÁNG QUAN TÂM 
 ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI YÊU TỔ QUỐC VIỆT NAM

Tướng Lê Mã Lương: "Không sợ chiến tranh nên mới có hòa bình"



Chúng ta đã để lại “khoảng lặng” hàng thập kỷ về chiến tranh Biên giới 1979. Sự thiếu sót này là có tội với lịch sử, tiền nhân, đồng bào...


LTS: Thông tin thời gian tới, khi công bố khung chương trình tổng thể, chương trình bộ môn, Bộ GD&ĐT sẽ xem xét để đưa nội dung về các cuộc chiến tranh vệ quốc bảo vệ biên giới, hải đảo (1976 - 1988) vào sách giáo khoa khiến dư luận hết sức quan tâm.


Trước đó, nội dung về cuộc chiến tranh vệ quốc này chỉ được đề cập rất ít trong sách giáo khoa...


Xung quanh nội dung này, phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc phỏng vấn với Thiếu tướng Lê Mã Lương, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Quân sự Việt Nam.


PV: Theo ông, cần nhìn nhận như thế nào cho đúng với bản chất cuộc chiến tranh Biên giới 1979?


Tướng Lê Mã Lương: Về bản chất, đây là một cuộc chiến tranh xâm lược mà đối phương đã có ý đồ (từ những năm 50 của thế kỷ trước), nhằm đưa các nước Đông Nam Á vào trong quỹ đạo của Trung Quốc.


Mặt khác, Việt Nam là nước có một vị trí chiến lược, địa chính trị cực kỳ quan trọng ở Đông Nam Á.


Trong lịch sử, Trung Hoa đã phát động 16 cuộc chiến tranh lớn hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt Nam để thôn tính Đông nam Châu Á.


Nhà cầm quyền Trung Quốc lúc bấy giờ muốn nắm Việt Nam, khống chế bán đảo Đông Dương, tạo hành lang xâm nhập Đông Nam Á.


Họ coi chúng ta là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược “trỗi dậy Trung Hoa” như cái cách ông Chu Ân Lai từng nói trong cuộc gặp giữa đại biểu 4 đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Lào) tại Quảng Đông tháng 9/1963.


"Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cửa một con đường xuống Đông Nam châu Á..."


Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế, ngăn cản cách mạng của chúng ta lớn mạnh để tiện thực hiện âm mưu mở rộng ảnh hưởng của mình. 


Khi ý đồ kiềm chế không thực hiện được, từ chỗ bí mật, họ chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và trắng trợn tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với những tuyên bố lừa bịp như “dạy cho Việt Nam một bài học”, “cuộc đánh trả tự vệ”…




Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trong lịch sử, Trung Hoa đã phát động 16 cuộc chiến tranh lớn hòng thôn tính Việt Nam(ảnh: QUỐC TOẢN).


Ngày 5/3/1979, gần 20 ngày sau khi tấn công xâm lược Việt Nam, quân Trung Quốc chỉ tiến sâu được 10 km, đồng thời lực lượng bị tổn thất lớn, có nguy cơ sa lầy vào cuộc chiến này.


Mặt khác, trước sức ép của dư luận trong nước và thế giới, đặc biệt là việc Liên Xô đưa lượng lớn binh sĩ, hỏa lực, áp sát biên giới Trung – Xô, đã buộc Đặng Tiều Bình phải tuyên bố rút quân, chấp nhận thất bại cay đắng tại chiến tranh Biên giới. 


Tuy nhiên, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Quốc tiếp tục kéo dài ở biên giới tỉnh Hà Giang, đặc biệt ác liệt ở Vị Xuyên những năm 1984 - 1986.


Rõ ràng, đây là cuộc chiến xâm lược thực sự, không đơn thuần là sự “dằn mặt” của Trung Quốc như cách hiểu của nhiều người.


Bởi lẽ không có nước nào dại dột đến mức đưa hàng chục vạn quân cùng nhiều vũ khí, khí tài áp sát biên giới nước khác, đồng thời chịu thiệt hại về mình, rồi lớn tiếng tuyên bố đó là “đòn cảnh cáo”, “dạy bài học”.  


Và nếu không tỉnh táo, nhận định trước tình hình, chủ động ứng phó kịp thời chúng ta đã mất nhiều tỉnh biên giới phía Bắc…


Cũng cần phải nói thêm rằng, trên thế giới chưa có nhà lãnh đạo một nước nào mang danh là cách mạng, là “xã hội chủ nghĩa” lại cư xử với bạn bè một cách thô lỗ, tồi tệ như những nhà cầm quyền Trung Quốc giai đoạn đó.


Sự kiện chiến tranh Biên giới 1979 đã đưa lại cho chúng ta bài học lớn trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc nói riêng, các nước trên thế giới nói chung?


Tướng Lê Mã Lương: Liệu ở đâu trên thế giới này, một dân tộc luôn đi rao giảng về "nhân, "nghĩa" của đạo Khổng, về “môi, răng” của “tình láng giềng hữu nghị” lại hành xử thiếu suy nghĩ như vậy không?


Trong khi đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng tuyến bố: “Bá quyền và quân phiệt không có trong huyết quản của người Trung Quốc”, hoặc “phô bày sức mạnh quân sự chỉ thể hiện anh thiếu tầm nhìn hoặc thiếu cơ sở đạo đức chức không cho thấy anh mạnh”. 




   Bộ Giáo dục sẽ đưa cuộc chiến tranh biên giới, hải đảo vào sách giáo khoa (Ảnh: tienphong.vn)


 Tuy nhiên, chúng ta hãy xem cách họ đã làm với Việt Nam và nhiều nước trên thế giới để thấy rõ bản chất những toan tính, được che lấp bởi những phát biểu không thực chất của nhà cầm quyền Trung Quốc.


Vấn đề đặt ra là, trong quan hệ quốc tế, chúng ta phải luôn trong thế chủ động, cảnh giác trước những âm mưu, nguy cơ từ những tham vọng, tính cơ hội…


Đó còn là bài học kinh nghiệm nghiệm bằng sương máu của hàng vạn người con Việt Nam đã ngã xuống trong cuộc chiến vệ quốc, vấn đề phòng thủ đất nước, hoạch định chính sách ngoại giao với các nước khác trong tương lai. 


Từ những phân tích trên, theo ông việc không đưa đầy đủ dữ liệu về cuộc chiến tranh Biên giới 1979 trong sách giáo khoa, đã xứng đáng với ý nghĩa, tầm vóc của nó?


Tướng Lê Mã Lương: Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, chiến tranh vệ quốc 1979 đứng hàng đầu.


Cuộc chiến kéo dài hơn một thập kỷ là khoảng thời gian không phải dài, nhưng cũng không phải ngắn so với những gì chúng ta đã trải qua trước đó.


"Cuộc chiến đấu của quân và dân ta bảo vệ biên giới phía Bắc kết thúc vào đầu năm 1988 với hơn 3 vạn lính Trung Quốc phải đền tội và hàng nghìn phương tiện chiến tranh bị phá hủy....", 
Thiếu tướng Lê Mã Lương nói.


Nếu chúng ta tôn trọng lịch sử, hướng tới tương lai để bảo vệ đích thực toàn vẹn lãnh thổ, thì phải tổ chức tổng kết một cách nghiêm túc về cuộc chiến tranh vệ quốc này.


Nhưng nhiều năm qua, chúng ta đã không làm được điều đó. Đây là một sự thiếu sót lớn. 


Trước đó, ngày 30/12/2013, trong hội thảo do Hội khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý đưa cuộc chiến tranh vệ quốc (1976 – 1988) vào sách giáo khoa.


Nhưng từ đó đến nay, Bộ GD&ĐT vẫn chưa có động thái gì. Một sự im lặng khó hiểu!


“Khoảng lặng” hàng thập kỷ ấy khiến người dân không hiểu được bản chất cuộc chiến tranh này.


Sự thiếu sót này là có tội với tiền nhân, lịch sử, đồng bào, đồng chí, những người chiến sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp chiến tranh giải phóng, bảo vệ tổ quốc.


Theo ông, khi đưa vào sách giáo khoa, vấn đề liên quan tới chiến tranh Biên giới 1979, và một số nội dung liên quan tới Hoàng Sa, Trường sa cần nhấn mạnh điều gì?


Tướng Lê Mã Lương: Cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc ở Biện giới Tây Nam, Biên giới phía Bắc và Biển Đông (1976 – 1988), phải đặt nó đúng bản chất, xứng đáng với tầm vóc lịch sử vốn có.


Do đó, trước hết cần tổ chức hội thảo khoa học, làm rõ bản chất cuộc chiến tranh này để cho toàn thể người dân Việt Nam hiểu rõ bản chất của cuộc chiến vệ quốc bi hùng ấy.


Vấn đề là đưa như thế nào để chúng ta vẫn giữ được hòa khí, mối quan hệ đối với các nước, nhưng vẫn nói lên đầy đủ bản chất của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.


Làm cho người dân thể hiện được niềm tự hào của mình trước thế hệ người dân Việt Nam đã bằng sương máu của mình, vì sự toàn vẹn của đất nước.


Lịch sử là sự khách quan, công bằng, trung thực. Nếu không đưa những sự kiện trên vào sách giáo khoa một cách đầy đủ, trung thực thì đó quả thật là một thiếu sót to lớn.


Để rồi người lớn đừng có trách thế hệ trẻ, ít quan tâm hoặc quay lưng với lịch sử nước nhà.


Hơn bao giờ hết, chúng ta phải tôn vinh đồng bào, những người chiến sĩ bởi chính họ là những người đã ngã xuống vì đất nước này. 


Người ta không sợ chiến tranh nên mới có hòa bình, nhưng không đồng nghĩa với sự hiếu chiến. Trong "gen" người Việt Nam, trong tư duy quân sự, và từ điển quân sự Việt Nam không bao giờ có hai từ “run sợ”. Điều này đã được chứng minh qua hàng ngàn năm lịch sử...


Do đó, không thể đánh đổi xương máu của đồng bào để che lấp sự thật lịch sử đồng thời nhận lấy thứ hòa hiếu viễn vông, không thực chất.


Việc trang bị những kiến thức lịch sử có tính chất thực tế đó góp phần xác lập bản lĩnh con người là vô cùng cần thiết để thế hệ trẻ bước vào đời, thực hiện trách nhiệm công dân với xã hội.


Nếu che đậy sự thật, không thực hiện cải cách nội dung lịch sử sẽ tạo ra sự hụt hẫng về kiến thức lịch sử Việt Nam và thế giới, để lại những hệ quả đáng lo ngại về việc kế thừa các giá trị di sản lịch sử và văn hóa dân tộc, trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, trong định hướng phát triển nhân cách, trí tuệ, bản lĩnh con người Việt Nam…

QUỐC TOẢN (THỰC HIỆN)

(Giáo Dục)