18 tháng 2, 2016




VNTB- Vì sao Obama đến Việt Nam vào tháng Năm?


Sau một thời gian lặng lẽ đủ dài, quan hệ Việt – Mỹ dường như có đôi chút ấm lại bằng thông báo của Washington về việc Tổng thống Obama sẽ công du Việt Nam vào tháng 5/2016.
Điều có vẻ kỳ quặc là vào lần này, tin tức về cuộc công du đối ngoại cũng xuất phát từ phía Mỹ chứ không phải từ Hà Nội.

Những sự kiện đối ngoại Mỹ - Việt gần nhất đã diễn ra vào năm 2015. Tháng 2/2015, đại sứ Mỹ Ted Osius bất ngờ thông tin về chuyến đi rất đặc biệt của tướng Trần Đại Quang – bộ trưởng công an – đến Hoa Kỳ. Quả nhiên chỉ sau đó nửa tháng, tướng Quang đã đi Mỹ.

Đến tháng 5/2015, không phải phía Việt Nam mà lại là Ted Osius thông báo Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ có chuyến công du Washington. Trong khi nhiều người còn bán tín bán nghi, đến tháng Bảy năm đó ông Trọng đã đi Mỹ.

Tuy nhiên, chuyến công du đáp lễ Việt Nam của Tổng thống Obama đã không diễn ra vào tháng 11/2015 như dự kiến. Một số tin tức cho biết phía Mỹ cảm thấy “quá thất vọng” trước thành tích nhân quyền không những không cải thiện mà còn tồi tệ hơn của Việt Nam. Những gì mà Tổng bí thư Trọng nói ngon trớn ở Washington về dân chủ và nhân quyền thực ra chỉ như một màn ảo thuật mà người Mỹ biết rõ nhưng không nói ra.

Tháng 10/2015, “tứ trụ” Việt Nam tiếp đón chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình. Lúc này, sức căng của sợi dây mà Hà Nội đang cố đu đã vượt quá sức chịu đựng của bản thân nó. Rõ ràng người Mỹ, vốn thẳng thắn hơn nhiều, đã không thích thế. Obama từ chối đến Hà Nội vào cuối năm  2015 là một lẽ gần như đương nhiên.

Một lý do không kích thích Obama đến Việt Nam vào cuối năm trước là cuộc xung đột quyền lực trong Bộ chính trị Việt Nam chưa có lối ra, và nhân vật tổng bí thư cùng dàn lãnh đạo mới chỉ có thể biết sau đại hội 12 của Việt Nam.

Còn bây giờ, chính trị Việt Nam đã trải qua một cung đường gai góc, dù còn lâu mới là chặng cuối. Cuối cùng, vẫn lại là Nguyễn Phú Trọng – người mà Obama đã tiếp đón một cách hy vọng tại Phòng bầu dục vào tháng Bảy năm ngoái.

Hy vọng của Obama là có cơ sở. Thành tích lớn nhất của Việt Nam hoàn toàn không phải là cải thiện nhân quyền, mà là cải thiện với gia tốc nhanh hơn quan hệ “giao lưu quân sự” với Hoa Kỳ - yếu tố mà Việt Nam cần hơn lúc nào hết để giảm bớt nguy cơ bị người bạn vàng Bắc Kinh chực chờ thôn tính.

Sau 3 năm đu dây, kể từ 2013, sự thật cho đến lúc này là Việt Nam không thể dựa vào Putin ở nước Nga xa xôi. Chỉ còn lại một nước Mỹ xa xôi hơn, nhưng không còn quá xa cách.

Sau khi lần đầu tiên dám dõng dạc tuyên bố tàu Mỹ “đi qua vô hại” ở vùng biển Hoàng Sa, Việt Nam lại cử Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ dự hội nghị ASEAN với thông điệp đề nghị Mỹ tăng cường sự hiện diện hơn nữa ở Biển Đông.

Lá bài của Việt Nam đã rõ. Cuối cùng thì giới lãnh đạo Việt Nam cũng không còn đủ kiên nhẫn để đu dây giữa Mỹ và Trung cộng. Rất dễ té lộn nhào.

Logic Việt – Mỹ cũng theo đó phát triển. Tính bất ngờ nhưng đầy tự tin đến mức chắn chắn của Mỹ khi thông báo về chuyên thăm Việt Nam của Tổng thống Obama vào tháng 5/2016 đã cho thấy đây là một kế hoạch có tính toán, đã được chuẩn bị tước và chỉ chờ “kết quả” xong dàn lãnh đạo mới của Việt Nam thì sẽ tiến hành.

Nếu không có gì thay đổi, quan hệ Việt – Mỹ sẽ nồng ấm trở lại trong ít nhất nửa đầu năm 2016, đặc biệt về “giao lưu hải quân”.

Thế nhưng Trung cộng cũng sẽ lộn ruột để gia tăng đột biến hoạt động gây hấn đối với Việt Nam trong năm nay.
Lê Dung / SBTN



Chiến tranh biên giới 1979: 25.000 lính Trung Quốc đã chết tại chiến trường Việt Nam
Tháng 2/1979, Đặng Tiểu Bình phái 200.000 quân Trung Quốc đánh vào biên giới Việt Nam, theo thống kê, trong khoảng một tháng, số quân thương vong cao hơn so với Việt Nam rất nhiều, số quân lính Trung Quốc thiệt mạng lên tới 25.000 người, số quân bị thương lên tới 37.000 người, cuối cùng phải rút quân.
Tháng 2/1979, Đặng Tiểu Bình phái 200.000 quân Trung Quốc đánh vào biên giới Việt Nam.
Tại sao Đặng Tiểu Bình lại ra quyết định mang đến cái giá phải trả cao đến vậy? Giáo sư đại học Phó Cao Nghĩa nói, khi Đặng Tiểu Bình quyết định xuất quân đã bị rất nhiều tướng lĩnh cấp cao trong quân đội phản đối, nhưng sau khi nghe Trần Vân phân tích, Đặng Tiểu Bình vẫn cho triển khai kế hoạch này.

Trong cuốn sách “Thời đại Đặng Tiểu Bình” của Phó Cao Thượng tiết lộ, lãnh đạo Khmer Đỏ của Campuchia là Pol Pot đã thảm sát rất nhiều dân Campuchia và kiều bào Việt Nam sống ở đó, nên Việt Nam đã điều quân đội sang Campuchia để đánh Khmer Đỏ.

Đứng trước áp lực lớn này, Pol Pot đã cầu cứu Đặng Tiểu Bình. Mặc dù chính sách thảm sát nhân dân tàn bạo của Pol Pot đã bị phương Tây kịch liệt lên án, nhưng Đặng Tiểu Bình vẫn hợp tác với Pol Pot, bởi ông cho rằng Pol Pot là lãnh đạo duy nhất của Campuchia có thể đối đầu với Việt Nam.


Rạng sáng 17/2/1979, quân đội Trung Quốc “bắn hàng vạn loạt pháo” trên toàn tuyến biên giới Việt-Trung, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. (Ảnh tư liệu: Huanqiu)

Nhưng ông Đặng không muốn mang quân sang Campuchia, ông cho rằng vậy sẽ khiến cho quân đội Trung Quốc bị sa lầy chiến sự lâu dài. Đặng Tiểu Bình muốn đánh một trận thật nhanh, giống như là trận chiến biên giới năm 1962 với Ấn Độ, một trận chiến thần tốc.

Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình lại vấp phải sự phản đối của các ủy viên Trung ương Trung Quốc khác, bởi họ cảm thấy quân đội vẫn chưa bị tốt cho việc tác chiến. Quân đội suy yếu từ Đại Cách mạng Văn hóa, thiếu kỷ luật, huấn luyện không đầy đủ. Đội quân này, ngoài những trận đụng độ nhỏ ở tuyến biên giới với Việt Nam vào năm 1978 ra, thì từ xung đột biên giới năm 1962 chưa từng đánh trận nào. Trong khi đó, quân đội Việt Nam đã liên tục đánh nhau với Pháp, Việt Nam Cộng hòa và Mỹ vài chục năm. Hơn nữa, sau 1975, Quân đội Việt Nam vẫn được Liên Xô viện trợ, cung cấp trang thiết bị quân đội hiện đại.

Trong bài “Sự thực lịch sử về cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung”, đăng trên tờ Epochtimes của Hồng Kông năm 2012, tác giả Tân Viễn chỉ ra âm mưu đằng sau ý đồ xâm lược Việt Nam của Đặng Tiểu Bình:

“Ở trong nước, cuộc cách mạng văn hóa (CMVH) vừa kết thúc, ban lãnh đạo mới của Trung Quốc hình thành.

Khi đó đảng Cộng Sản Trung Quốc rơi vào cuộc khủng hoảng lòng tin, vì vậy Đặng Tiểu Bình cho rằng cần phải phát động một cuộc chiến tranh để khuấy động lên chủ nghĩa dân tộc trong nước, lấy lại niềm tin.

Đặng biết rõ rằng trước tình hình quân đội bị rệu rã trong CMVH, nên thông qua cuộc chiến tranh với Việt Nam để tấn công vào những đối thủ trong nội bộ, thâu tóm quyền lực về mình.

Ông ta đã lấy các sĩ quan và binh lính làm bia đỡ đạn và làm bậc thang leo lên quyền lực. Đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới cuộc chiến xâm lược Việt Nam.

Sau Chiến tranh, Đặng Tiểu Bình đã thành công thâu tóm được quyền lực và hạ bệ Chủ tịch Quân ủy trung ương khi đó là Hoa Quốc Phong. Còn cuộc chiến tranh này không mang lại kết quả gì cho Trung Quốc”, bài viết chỉ ra tính phi nghĩa của cuộc chiến.

Xe tăng của Trung Quốc xâm lược tiến vào địa phận Lạng Sơn của Việt Nam trong Chiến tranh biên giới 1979, một trong vô số hình ảnh vạch trần cái gọi là “Chiến tranh tự vệ chống Việt Nam” mà Bắc Kinh rêu rao. (Ảnh tư liệu: Sina)

Ngoài ra, rất nhiều quan chức cấp cao của Trung Quốc hoài nghi tính sáng suốt của việc đánh Việt Nam. Một số người nghĩ rằng Trung Quốc vừa mới hiện đại hóa, nên tập trung vào giải quyết vấn đề tìm kiếm nguồn tài nguyên để thúc đẩy công nghiệp hóa, có người lo lắng quân đội chưa có sự chuẩn bị tốt; còn có người cho rằng công kích quân sự sẽ làm cho Việt Nam coi Trung Quốc là kẻ thù trường kỳ của mình.

Điều mà một số lãnh đạo lo lắng nhất chính là, việc đánh Việt Nam có thể sẽ khiến Liên bang Xô Viết mang quân vào đánh Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình trưng cầu các ý kiến của một cán bộ kỳ cựu về khả năng can thiệp của Liên Xô. Sau phân tích đáng giá kỹ lưỡng, Trần Vân cho rằng đội quân Liên Xô có khả năng tấn công vào biên giới của Trung Quốc nhất đang thiếu quân số nghiêm trọng. Nếu Liên Xô tấn công vào biên giới Trung Quốc thì phải điều quân từ Châu Âu về, điều này phải mất khoảng 1 tháng. Vì vậy, Trần Vân kết luận, nếu thời gian tác chiến ngắn, thì khả năng can thiệp của Liên Xô là cực nhỏ.

Cuốn “Thời đại Đặng Tiểu Bình” có đoạn viết rằng, sau khi nghe Trần Vân phân tích xong, Đặng Tiểu Bình hạ quyết tâm xuất quân sang đánh Việt Nam. Tuy nhiên, ông tuyên bố rằng thời gian đánh sẽ không kéo dài như trận đánh ở biên giới năm 1962 với Ấn Độ (33 ngày), chỉ đánh bộ không dùng không quân. Đặng Tiểu Bình biết rằng lúc đó không quân Việt Nam sau khi được huấn luyện đã mạnh hơn Trung Quốc rất nhiều, vả lại Trung Quốc cũng không có sân bay nào ở gần Việt Nam, ngoài ra việc không sử dụng máy bay chiến đấu còn làm giảm khả năng Liên Xô sẽ can thiệp.

Tù binh Trung Quốc bị bắt năm 1979. (Ảnh: Internet)

Sau khi bắt đầu đánh Việt Nam, khả năng chống đỡ của quân đội Việt Nam vượt qua khả năng dự đoán của Đặng Tiểu Bình, tướng lĩnh của quân đội Trung Quốc hoảng loạn đối phó không kịp. Theo tính toán ban đầu của Đặng Tiểu Bình, trong tuần đầu tiên sẽ chiếm được 5 tỉnh của Việt Nam, nhưng thực tế sau 3 tuần quân đội Trung Quốc mới chiếm được tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam. Do số thương vong qua lớn nên Trung Quốc đã phải rút quân, chỉ để quân lại hai điểm chiếm giữ được là Lão Sơn và Giả Âm Sơn.

Theo thống kê, số quân thương vong cao hơn so với Việt Nam rất nhiều, số quân lính Trung Quốc thiệt mạng lên tới 25.000 người, số quân bị thương lên tới 37.000 người.

Bình luận chính trị gia đang sống tại Mỹ ông Trần Phá Không chỉ ra rằng, Đặng Tiểu Bình, phát động tấn công Việt Nam, ngoài việc giúp đỡ chính quyền Khmer Đỏ của Campuchia, còn có một mục đích khác là: Thông qua việc điều binh khiển tướng để cướp lấy quyền kiểm soát quân đội của Hoa Quốc Phong, rồi sau đó lật đổ Hoa Quốc Phong để nắm hết quyền hành trong quân đội, đây là thủ đoạn mượn gió bẻ măng của Đặng Tiểu Bình.

Sau những năm 90, Trung quốc và Việt Nam mới hòa giải nối lại quan hệ với nhau, Trung Quốc đã giao trả lại Lão Sơn và Giả Âm Sơn (hai nơi mà họ chiếm được) cho Việt Nam.

Lê Hiếu, biên dịch từ NTDTV
(blog Tôi Thích Đọc)

16 tháng 2, 2016



Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ – ASEAN

Thứ ba, 16/02/2016, 12:22 (GMT+7)
(Chính trị) - Trong sự kiện được gọi là lịch sử, Tổng thống Mỹ Barack Obama lần đầu tiên mời lãnh đạo các nước Đông Nam Á tới Sunnylands để tham dự Hội nghị cấp cao Mỹ – ASEAN.(Đặc biệt Hội nghị không có ai thắt cà vạt)
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ – ASEAN, diễn ra trong 2 ngày 15 và 16/2 tại Sunnylands, bang California, Mỹ. Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cùng với các nhà lãnh đạo Mỹ, ASEAN tham dự phiên thảo luận về kinh tế – thương mại và phiên thảo luận về chính trị – an ninh. Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng sẽ có các cuộc tiếp xúc song phương với lãnh đạo một số quốc gia tham dự hội nghị.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Tổng thống Barack Obama chào mừng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới khu nghỉ dưỡng Sunnylands, nơi diễn ra hội nghị đặc biệt. Trong những ngày này, thời tiết ở California đầy nắng ấm, trái ngược với cái rét ở thủ đô Washington, D.C. của Mỹ. Việc lựa chọn Sunnylands để tổ chức hội nghị cấp cao giúp tạo ra không gian mở để các nhà lãnh đạo có thể đàm thoại tự do hơn.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Ông chủ Nhà Trắng chào đón Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-O-Cha. Trong những năm trước đây, Tổng thống Mỹ thường tới Đông Nam Á để dự Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – ASEAN
.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Thủ tướng Malaysia Najib Razak tới Sunnylands dự hội nghị. Trong sự kiện năm ngoái tại Malaysia, ông chủ Nhà Trắng đã mời lãnh đạo các nước ASEAN tới Mỹ để tham dự hội nghị cấp cao đặc biệt nhằm làm nổi bật các chính sách của Mỹ với khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang ngày càng lớn mạnh.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Ông Obama chào đón Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Thủ tướng Campuchia Hun Sen tới dự hội nghị. Ben Rhodes, Phó cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống, cho biết ông Obama rất thích những cuộc đàm phán tự do với các nhà lãnh đạo nước ngoài.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Tổng thống Obama chào đón người đồng cấp Indonesia Joko Widodo.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Tổng thống Philippines Benigno Aquino tới dự hội nghị.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân Lào dân kiêm Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Choummaly Sayasone tới Sunnylands dự hội nghị cấp cao Mỹ – ASEAN.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Tổng thống Obama chào đón Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah. Tổng thống Myanmar Thein Sein quyết định không tới Mỹ dự hội nghị đặc biệt vào phút chót.
Chân dung các nhà lãnh đạo dự Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN
Ông chủ Nhà Trắng chào đón ông Lê Lương Minh, Tổng thư ký ASEAN tới Sunnylands dự hội nghị đặc biệt lần đầu diễn ra trên đất Mỹ.
(Theo Tri Thức)
Giữ lại bài báo của Osin - Huy Đức : "BỘ TỨ"
Bài báo này được đăng lên mạng ngay từ trước khi hội nghi TW 14 của BCH TW đảng cộng sản ViệtNam họp từ 11-13/1/2016

Bộ Tứ


“Bộ Tứ” sẽ chính thức được quyết định vào đầu tuần tới. Xin chưa đề cập đến các vị trí khác. Chỉ mong các bạn đừng quá thất vọng nếu ông Nguyễn Phú Trọng thì ở lại mà ông Nguyễn Tấn Dũng lại ra đi.

Ông Trọng đã làm mỏi mệt chúng ta bởi những tuyên bố rất lỗi thời. Nhưng, cũng như các tổng bí thư khác, người đứng đầu đảng cộng sản làm sao có thể tuyên bố từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho dù trong số các tổng bí thư gần đây ông là người thuộc lòng cái “lý luận” ấy nhất, lẽ ra, ông chỉ nên nói điều đấy trước các đồng chí của ông trong Đảng.

Ông Trọng, rất tiếc đã “buông lá cờ cải cách”. Ở Đại hội XI, khi đa số biểu quyết bỏ “Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu” (đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội viết trong Cương lĩnh 1991), ông ở phái thiểu số, hứa sẽ “phục tùng đa số”. Nhưng ông vẫn đưa “quốc doanh chủ đạo” vào Hiến pháp và không đa sở hữu hóa đất đai.

Nhưng khác với những gì dân mạng mắng mỏ, ông Trọng đã rất khôn ngoan trong đối ngoại (trừ phát biểu ở Cuba mà có lẽ ông tưởng là ở nhà – và, ông sẽ khôn ngoan hơn nhiều nếu sau những thành tựu rất đáng ghi nhận, bao gồm cả việc loại bỏ [nếu thành công] một nhà độc tài, tham nhũng, ông nên vui thú điền viên, tiếp tục sống cuộc đời thanh bạch).

Khi tôi hỏi về các chuyến thăm Hà Nội – Bắc Kinh và ngược lại, Đại sứ của một nước EU nói: “Việt Nam hiểu Trung Quốc”. Còn các nhà ngoại giao phương Tây mà tôi tiếp xúc đều cho rằng, không có phe thân Mỹ hay thân Tàu trong các nhà lãnh đạo Việt Nam, họ tin là chính sách ngoại giao sẽ vẫn như thế bất luận ai lên, ai xuống.

Tôi phải nói với các bạn “thích Mỹ” rằng, nếu giờ đây Hà Nội đối đầu với Bắc Kinh, “nhất biên đảo” với Washington, Obama sẽ cuống lên ngay vì… khó xử.

Khi Trung Quốc kéo giàn khoan 981 vào biển Đông. Ông Trọng cho nhóm họp BCT ngay và đưa ra những kết luận và nguyên tắc ứng xử rất rõ ràng. Sinh thời, ông Võ Văn Kiệt vài lần gặp tổng bí thư Nông Đức Mạnh yêu cầu BCT đưa ra bộ nguyên tắc này nhưng ông Mạnh đã không làm.

Giàn khoan 981 đã xuất hiện ở biển Đông như một đường banh chạy qua khung thành đối phương khi “cầu thủ” Nguyễn Tấn Dũng đang đứng ở vị trí dễ dàng nhất để “sút”. Chính trị là một vai diễn. Trong sân khấu đơn điệu này, Nguyễn Tấn Dũng không có đối thủ.

Ba tuần sau đó, Nguyễn Tấn Dũng có chuyến thăm Philippine và ông đã rất xuất sắc khi đưa ra khái niệm “không đánh đổi chủ quyền thiêng liêng lấy tình hữu nghị viển vông”.

Tuy thoát hiểm sau vụ Vinashin, Nguyễn Tấn Dũng đã bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai với uy tín xuống chưa từng có. Kể từ sau kiểm điểm Hội nghị Trung ương 4 và đặc biệt là sau khi thoát án kỷ luật, ông đã bám rất chặt vào “lá bài chủ quyền”.

Nhưng, những người quan sát trực tiếp biết rõ, khi rời những tờ giấy viết sẵn, Nguyễn Tấn Dũng ngay lập tức trở lại với trình độ của mình.

Tại diễn đàn an ninh châu Á – Thái Bình Dương (Đối thoại Shangri-La 31-5-2013), trong bài phát biểu nói về “niềm tin chiến lược”, Nguyễn Tấn Dũng có đề cập mơ hồ tới những hành động áp đặt trên biển Đông mang tính cường quyền. Trong phần đặt câu hỏi, một nữ quân nhân Trung Quốc đề nghị ông chỉ ra những hành động “cường quyền” đó đến từ đâu, Thủ tướng Dũng đã đực ra không tìm được một từ đáp trả.

Cũng tại Shangri-La, khi được một học giả Philippine đặt câu hỏi, Việt Nam có cùng Philippine kiện Trung Quốc ra tòa không, ông Dũng cũng chỉ trả lời ấp úng. Một nhà báo Việt Nam hoạt động nhiều năm trong khối ASEAN nói: “Trong các cuộc tiếp xúc thượng đỉnh, là người Việt Nam, tôi rất xấu hổ khi trong giờ giải lao trong khi thủ tướng Lào, Thái, CPC… tả xung hữu đột, Thủ tướng Việt Nam chẳng biết bắt chuyện với ai dù có phiên dịch ngay bên cạnh”.

Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu có thể xây dựng lực lượng, thâu tóm quyền lực từ khi làm thứ trưởng Bộ Nội Vụ (1994 – Công An hiện nay) và đặc biệt, đã từng làm ủy viên thường vụ BCT trước cả Nông Đức Mạnh và Phan Văn Khải (7-1996).

Trong tất cả các đời thủ tướng của chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN, Nguyễn Tấn Dũng là người có nhiều quyền lực nhất. Nhưng rất tiếc là ông đã không tận tâm sử dụng quyền lực đó cho quyền lợi quốc gia.

Khi ngành Dầu khí bổ nhiệm con trai làm Phó tổng giám đốc OSC, ông Võ Văn Kiệt đã cho thu hồi ngay quyết định. Khi chuẩn bị làm thủ tướng ông Phan Văn Khải cũng yêu cầu con trai rời khỏi các công ty tư nhân. Tôi không dám khẳng định có ai trong sạch trong thể chế này. Nhưng “người quân tử đi qua ruộng dưa không buộc dây giày”. Khi đương chức, những người tiền nhiệm của ông Dũng đã đều có ý thức giữ gìn rất rõ.

Thời gian vẫn còn để ông Dũng lật ngược thế cờ. Nhiều người lấy tỉ lệ phiếu Trung ương ở lần xét kỷ luật ông hay ở lần gạch tên ông Nguyễn Bá Thanh để phán đoán. Điều này hoàn toàn vẫn có thể xảy ra trong tuần sau. Nhưng phiếu của Trung ương hiện nay rất khác với hai lần trước.

Việc các ủy viên TƯ không bầu cho ông Nguyễn Bá Thanh – như tôi đã viết – là do ông khi chưa ấm chỗ ở Ba Đình đã dọa bắt với hốt. Các ủy viên TƯ cũng không kỷ luật Nguyễn Tấn Dũng vì mức kỷ luật mà BCT đưa ra chỉ là “khiển trách”, có nghĩa, dù bị kỷ luật, theo Điều lệ, ông Dũng vẫn tại vị và tái cử. Không ai dám làm nhục một kẻ vẫn ngồi trên đầu họ, đang nắm kho thóc và đại đao.

Ông Dũng có rất nhiều người bỏ phiếu cho ông trước đây vì đơn giản, trong số các nhân vật trong bộ Tứ, ông có quá nhiều gót chân A-sin. Người ta bỏ phiếu bầu cho ông như giữ một con tin. Số phận của ông ở Trung ương 14 sẽ được quyết định ở chỗ họ còn tiếp tục nắm quyền lực thông qua con tin hay tự tay làm lấy.

Nhiều người hy vọng Nguyễn Tấn Dũng ngồi lại để “làm sụp cái thể chế này”. Tôi nhìn thấy một khả năng đen tối hơn đó là sự chiếm đoạt thể chế cho một kế hoạch lâu dài mang tính cha truyền con nối.

Tôi mong những dự đoán bi quan này của tôi là sai.

Tất nhiên, cho dù chúng ta “dồn phiếu ảo” cho ai. Chúng ta không có bất cứ một vai trò nào cả. Và, tất nhiên, cho dù, chúng ta bị đặt ra ngoài cuộc chơi, số phận của đất nước này vẫn nằm trong tay người thắng cuộc trong cuộc chơi của họ.

“Hào kiệt thời nào cũng có” nhưng hào kiệt làm sao có thể xuất hiện trong một môi trường chính trị không minh bạch. Cho nên, nếu chúng ta muốn tìm hào kiệt, chúng ta phải góp tay xây dựng dân chủ. Trên con đường đi tới dân chủ đó, thay vì sợ hãi, thỏa hiệp với những tên bạo chúa, độc tài, chúng ta phải góp phần để loại bỏ độc tài, bạo chúa.

Đừng vì quá mỏi mệt với giáo điều, trì trệ mà tung hô một nhà độc tài vì nghĩ ông ta dám phá bỏ những gì đang làm chúng ta mỏi mệt.

Không nên rủi ro một quốc gia bằng cách đặt cược sinh mệnh của quốc gia đó vào tay một cá nhân vì nghĩ ông ta là một nhà độc tài anh minh. Bởi, nếu ông ta không anh minh chúng ta sẽ tốn nhiều máu xương hơn để đòi lại.

“Quyền lực có khuynh hướng tha hóa, quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối” (Lord Acton). Dân chủ chỉ là cách phân chia quyền lực để hạn chế sự tha hóa của những kẻ cầm quyền. Dân chủ không phải là sản phẩm độc quyền của phương Tây dù nó bắt đầu ở phương Tây.

Cũng như internet – không phải được phát minh ở phương Đông nhưng vẫn rất được chúng ta hoan nghênh và đang làm thay đổi xã hội phương Đông.

Mưu cầu dân chủ không chỉ là công việc của những nhà đấu tranh, những người anh hùng, mà còn là của chúng ta, bằng chính những nỗ lực hàng ngày: tẩy chay cái ác, cái xấu; đồng cảm, lên tiếng khi có thể để bảo vệ những người lương thiện.

Dân chủ không phải là thứ được ban phát bởi những tên bạo chúa đã vơ vét cho đến khi thừa mứa. Dân chủ đòi hỏi chúng ta, trước hết, phải bước ra khỏi sự sợ hãi; dũng cảm nhưng không nên liều lĩnh, vội vàng.

Huy Đức
Blog Osin

15 tháng 2, 2016

  THƯ GIÃN
 (st trên Net)













































ĐỌC ĐỂ NHẬN DIỆN CUỘC SỐNG XÃ HỘI

"Kiêu ngạo cộng sản" là nguy cơ lớn nhất của Đảng

Đăng bởi Trung Lập on Thứ Hai, ngày 15 tháng 2 năm 2016 | 15.2.16

Ông Vũ Mão nhận định: "Điều nguy hiểm là ngay trong nội bộ Đảng xuất hiện dấu hiệu rạn nứt, bằng mặt nhưng không bằng lòng".

LTS: Nhân dịp đón xuân Bính Thân, chia sẻ với độc giả Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Vũ Mão – Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nhận định, muốn giữ được niềm tin của nhân dân, cách duy nhất là Đảng phải đoàn kết, khiêm tốn, đổi mới thực chất vai trò lãnh đạo và chống tham nhũng triệt để.

Cho đến hôm nay, ông hy vọng điều gì ở Ban chấp hành Trung ương khóa mới?

Ông Vũ Mão: Tôi thấy qua Đại hội Đảng XII vừa rồi, tinh thần đoàn kết đã được thể hiện rất rõ, đấy là yếu tố hết sức quan trọng. Có đoàn kết thì mới thống nhất được, mới đồng tâm nhất trí được, mới tạo được sức mạnh để vượt qua những khó khăn nội tại và cả những vấn đề phức tạp từ bên ngoài.

Chúng ta đã thấy trong mấy năm vừa rồi, phải nói một cách thẳng thắn là trong nội bộ Đảng xuất hiện những dấu hiệu rạn nứt, bằng mặt nhưng không bằng lòng.

Từ bên trong nội bộ tung ra nhiều tin đồn, nó không chỉ ảnh hưởng tới uy tín chung của Đảng, mà còn ảnh hưởng tới uy tín của từng đồng chí lãnh đạo.

Từ những sự việc đáng tiếc như vậy, nhân dân nghi ngờ, không còn nguyên vẹn niềm tin vào Đảng.

Vấn đề thứ hai chúng ta đã thấy là Đảng thể hiện được sự khiêm tốn, vấn đề này cần phải được phát huy mạnh mẽ.

Chúng ta biết rằng căn bệnh nguy hiểm nhất đó là “kiêu ngạo cộng sản”.

Vì vậy, tôi hy vọng rằng Ban chấp hành Trung ương XII tiếp tục phát huy được tinh thần khiêm tốn học hỏi, không chủ quan ngạo mạn.

Ông Vũ Mão nhấn mạnh, Ban Chấp hành Trung ương 12 phải coi nhiệm vụ chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng nhất. ảnh: Ngọc Quang.

Dẹp đi bệnh "kiêu ngạo cộng sản”, 200 ủy viên Trung ương còn phải đối diện với quốc nạn tham nhũng, đây có lẽ là đòi hỏi lớn nhất hiện nay của nhân dân đối với Đảng?

Ông Vũ Mão: Nói về tham nhũng thì cả xã hội đều rất bức xúc, nhưng chung quy phải xử lý thế nào, chứ chỉ nói suông rồi để đấy thì uy tín của Đảng ngày càng suy giảm, nhân dân không còn tin tưởng nữa thì làm sao tạo ra sức mạnh đoàn kết được.

Suy cho cùng nói tới tham nhũng là nói tới tài sản cá nhân. Trong số 4,5 triệu Đảng viên thì chỉ có một số giữ chức vụ thôi, và người dân cũng chủ yếu quan tâm tới số cán bộ ấy, xem họ có lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà Đảng giao hay không, có lợi dụng sự tín nhiệm của nhân dân để vun vén cho cá nhân mình không?

Nếu chúng ta chỉ kê khai tài sản cá nhân qua loa đại khái như vừa rồi thì tốt nhất là không làm nữa, vì chẳng giải quyết được gì cả.

Ai cũng thấy đó chỉ là chuyện hình thức, còn thực tế nhiều cán bộ còn rất nhiều chuyện chưa ổn.

Không ít vị để cho vợ con, họ hàng lợi dụng chức quyền của vị lãnh đạo ấy để kiếm lợi.

Tôi phải nói thẳng rằng, với cơ chế hiện nay của chúng ta thì chống tham nhũng vô cùng nan giải. Chúng ta đã nói về vấn đề này rất nhiều, mà điển hình là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần khóa VIII; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI… mỗi lần Trung ương thảo luận và ra nghị quyết thì các Đảng viên đều hy vọng, nhân dân đều hy vọng, nhưng thực tế thì kết quả chống tham nhũng chẳng đạt được bao nhiêu.

Thậm chí là kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng còn có phần khác biệt với sự đánh giá của Đảng.

Có thể thấy ngay một thí dụ là trong văn kiện Đại hội Đảng đã chỉ ra rằng, tham nhũng có nhiều diễn biến phức tạp, kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân.

Thế nhưng kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng mà Thanh tra Chính phủ trình ra kỳ họp Quốc hội thứ 10 vừa qua thì lại cho thấy, qua thanh tra, kiểm tra phát hiện số vụ tham nhũng rất ít.

Ngay cả hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cũng thông tin với công luận là không phát hiện có tham nhũng.

Ở nhiều bộ, ngành, hình như cán bộ đều rất trong sạch… đấy là những kết quả trái ngược hoàn toàn với đời sống thực tế, và tất nhiên từ đấy người dân thấy rằng báo cáo của cơ quan quản lý là không đúng với thực tế.

Người xưa đã dạy “một lần bất tín, vạn lần bất tin”, liệu rằng nhân dân còn tin được vào cơ quan công quyền với những kết quả kiểu ấy?

Tại Đại hội Đảng XII vừa qua, đồng chí Tổng Thanh tra Chính phủ được giới thiệu tái cử nhưng không trúng.

Điều đó cho thấy, những người dự Đại hội XII, phần náo đó thể hiện sự quyết liệt trong công tác phòng chống tham nhũng giai đoạn tới.

Trách nhiệm của các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương XII là rất nặng nề, nhưng tôi nghĩ rằng dù thế nào thì các đồng chí cũng phải coi chống tham nhũng (trong đó có việc tự chống tham nhũng) là nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ đầu tiên phải làm cho bằng được, nếu không thì nhân dân sẽ tiếp tục mất niềm tin vào Đảng. Mất niềm tin nghĩa là mất tất cả.

Liệu rằng công tác cán bộ tại Đại hội Đảng XII vừa qua có hội tụ đủ các điều kiện để đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và chống tham nhũng thành công, thưa ông?

Ông Vũ Mão: Tại đại hội vừa rồi, Đảng ta đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác cán bộ, tất nhiên còn rất nhiều việc phải làm thì mới đưa được đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn.

Nói về sự đổi mới trong lãnh đạo, tôi nghĩ rằng thời gian tới đây Đảng ta cần dành thời gian nghiên cứu, sửa đổi Điều lệ Đảng. Vừa rồi, chúng ta mới chỉ nói tới văn kiện Đại hội và công tác nhân sự, còn Điều lệ Đảng thì chưa dành thời gian tổng kết, đánh giá xem mặt nào được mặt nào chưa được để điều chỉnh. Đây là vấn đề nhận thức chưa đủ tầm.

Từ khi nước ta thành lập đến nay đã nhiều lần sửa đổi Hiến pháp, đó là vì thực tế cuộc sống yêu cầu nên chúng ta phải sửa đổi.

Đảng lãnh đạo đất nước thì Đảng cũng phải tích cực đổi mới, mà cái thể hiện rõ nhất chính là Điều lệ Đảng, đó là đạo luật cơ bản của Đảng, xác định xứ mệnh lịch sử của Đảng trước nhân dân, đất nước.

Vấn đề này đặc biệt quan trọng, bởi vì Điều lệ Đảng cần xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan và cá nhân trong công tác quản lý của Đảng.

Trên thực tế hiện nay đã có chuyện vượt quyền, lấn quyền, những chuyện ấy không thể để tiếp diễn được, vì chỉ có minh bạch, công khai thì nhân dân mới tin, mới ủng hộ.

Chúng ta mới đưa ra chủ trương dân chủ, chủ trương phản biện... Như vậy là mới hô to mà chưa (hoặc quá chậm) đi vào thực chất, chưa đề ra các giải pháp, các quy định pháp luật và chưa có chương trình hành động để thực hiện.

Trong Hiến pháp, không nước nào quy định vai trò lãnh đạo của Đảng, chỉ ở nước ta mới có quy định này, tức là có tính đặc thù rất rõ. Điều đó cũng đòi hỏi trách nhiệm của Đảng rất cao, phải làm sao thực hiện được đúng như như Hiến pháp quy định.

Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, nhưng quan trọng là Đảng phải chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Đảng phải chịu sự giám sát của nhân dân. Vậy cơ chế nào, luật pháp nào để làm được điều đó?

Vấn đề này tôi đã nêu ra từ khóa VII, nhưng từ đó đến giờ việc sửa đổi Điều lệ Đảng cho phù hợp với tình hình mới của đất nước vẫn chưa thực sự được quan tâm.

Trân trọng cảm ơn ông!

Ngọc Quang (Thực hiện)
(Giáo Dục)