21 tháng 1, 2016

Hình ảnh

 
HÔM NAY
 
Qúa khứ đang vẫn ngồi đây
Nhặt đồng bạc vụn, lấm đầy bụi than
Ta đi giành lại giang san,
Nhưng chưa nối được cung đàn đứt dây .


MẸ VIỆT NAM
Mẹ tôi cúi sát xuống đường
Đi tìm quá khứ còn vương lối mòn
Quang gánh từ thuở còn son
Vẫn đang đè nặng Nước Non - Mẹ hiền
THƯ GIÃN
"Thấp cơ thua trí đàn bà
Nói vào chẳng tiện nói ra ngại lời"
(Kiều- Nguyễn Du)
CỤ RÙA VÀ CỤ TỔNG
Nguyễn Hòa An - Nhân dân cả nước đang xôn xao lo lắng khi nghe tin “cụ Rùa” Hồ Gươm nổi lên và chết ở gần khu vực đường Lê Thái Tổ chiều tối 19-1. Rất đông người dân đã kéo đến để chứng kiến cụ rùa lần cuối. Đa số người dân xem đây là điều linh thiêng 1 ngày trước khi Đại hội Đảng khai mạc và được bàn luận như một làn sóng trên mạng xã hội. 

Hình ảnh của Cụ Rùa làm người ta liên
 tưởng đến cụ Tổng. Nguồn ảnh: internet
Để ngăn chặn nỗi lo sợ đang bao trùm lên Đại hội, Ban Tuyên giáo trung ương cấm báo chí loan tin “cụ Rùa” từ trần. Tuy nhiên, trước sức mạnh của internet, việc che đậy thông tin đã thất bại. Động thái cấm lúc này không khác gì đổ thêm dầu vào lửa, khiến các đảng viên và nhân dân càng trở nên hoang mang.

Liên tiếp những câu hỏi được đặt ra, việc “Cụ Rùa” ra đi trước ngày khai mạc Đại hội Đảng phải chăng là điềm gở? và nó báo hiệu điều gì cho vận mệnh đất nước ?. Mỗi lần cụ Rùa Hồ Gươm nổi lên, cụ muốn “đòi lại” chúng ta một điều, nay Cụ ra đi mãi mãi có ý nghĩa gì?

Người ta đã tung ra các bài viết trấn an cho rằng đây chỉ là sự trùng hợp, đổ lỗi cho môi trường Hồ Gươm ô nhiễm là nguyên nhân khiến “Cụ” chết. Ô hay, nước Hồ Gươm có phải bây giờ mới ô nhiễm đâu ?.

Dẫu biết rằng “Cụ Rùa” ra đi là vì không thể tránh qui luật Sinh, Lão, Bệnh, Tử, nhưng tại sao “cụ” lại ra đi lúc này? đừng nghĩ rằng việc “Cụ Rùa” ra đi chỉ đơn thuần là ra đi. Nên nhớ, không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta đã đặt Rùa là loài vật linh thiêng nằm trong hệ thống tứ linh (long, lân, quy, phụng). Loài rùa biểu tượng cho sự hài hòa, trường cửu, bụng rùa vuông phẳng tượng trưng cho đất, mai rùa tròn cong tượng trưng cho bầu trời. Cụ rùa và Hồ Gươm tụ hội của hồn thiêng sông núi lắng nghe nỗi than thở của nhân dân, vận mệnh của đất nước. Và chẳng phải ngẫu nhiên mà người dân lại có thói quen nhân cách hóa gọi Rùa Hồ Gươm bằng “cụ”.


“Cụ Rùa” nhìn vận nước ngổn ngang như thế đành bỏ ra đi? Ảnh: internet

Hãy quan sát những diễn biến nhân sự trước Đại hội sẽ thấy đây không thể là điều trùng hợp ngẫu nhiên. Thậm chí có thể là tin rất xấu khi đại hội đảng kết thúc. Nhiều đảng viên và người dân thực sự đang rất lo lắng, không biết vận mệnh dân tộc sẽ đi về đâu? 
Hình ảnh “cụ Rùa” già nua làm liên tưởng đến “cụ Tổng” (Nguyễn Phú Trọng) ngồi họp trong Hội nghị Trung ương với cái cổ rụt, cũng già nua nhưng ở hai thái cực. “Cụ Rùa” là hồn thiêng sông núi, gắn liền với lịch sử hào hùng nay vĩnh biệt nhân dân ra đi. Còn “cụ Tổng” (là một tên lưu manh chính trị.). “Cụ Rùa” nhìn vận nước như thế đành bỏ ra đi?
Đặc biệt nhân dân cả nước và tất nhiên cả “cụ Rùa” cũng cảm nhận được “cụ Tổng” đang cố tìm cách tiếp tục làm (một kẻ bán nước.)
“Cụ Rùa” ra đi là trùng hợp ngẫu nhiên ư? trên đời này không có gì là ngẫu nhiên cả! Luật nhân quả luôn hiện hữu! Chỉ có điều người ta có đủ trình độ và kiến thức để tìm ra nguyên nhân không mà thôi. 
Vì sao ông cha ta thời xưa không viết ra truyền thuyết “thần Kim Quy” hay “truyền thuyết Hồ Gươm” bằng những con vật thiêng khác mà cứ phải gắn với con rùa? Vì sự xuất hiện của rùa đều có tính “điềm báo”, và cho đến hôm nay cũng vậy. 
Từ ngàn xưa, từ Đông sang Tây, trải qua hàng ngàn năm quan sát trong cuộc sống, người xưa đã đúc kết thành những kinh nghiệm về những dấu hiệu hay những điềm báo. Các nhà nghiên cứu phương Tây đã ghi chép rất quy củ các điềm báo. Như loài mèo có các giác quan có thể cảm nhận được những tín hiệu báo trước động đất. Hay vùng nước bỗng nhiên tụ tập đông cá mập sẽ là điềm báo cho một cơn bão mạnh sắp được hình thành. Khi có tiếng cú kêu gần nhà người bị bệnh nặng thì cái chết đã gần kề. Những người đi biển nếu thấy chim Mòng biển bay đậu trên đầu họ là điềm xui sẽ đến. Theo phong thủy phương Đông, mèo hoang xuất hiện trên mái nhà, gia đình sẽ có người gặp phải tai nạn hoặc tử vong. Tự nhiên tất cả cá nuôi trong nhà đều bị chết thì nó báo hiệu cho sự phá sản hoặc bệnh tật. 
“Cụ rùa” như 1 linh vật linh thiêng, là minh chứng sống cho những trang sử hào hùng của dân tộc ta từ ngàn năm qua. Nay “Cụ” mất đi trong tình hình đất ngước ngổn ngang, bộn bề khó khăn. Điềm xấu rất có thể là vận mệnh đất nước sẽ được đặt vào tay 1 vị lãnh đạo (........................................) 

H1
Khi đọc lại Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ, thì ngay đoạn mở đầu ông cũng đã khẳng định thủ đô của một quốc gia là phạm trù lịch sử. Mà “cụ Rùa” gắn với Thủ đô trong quá trình khẳng định chủ quyền dân tộc. Rùa Hồ Gương là vật trấn thiên nên sự ra đi này của cụ, chúng ta phải chú ý cả đến những ẩn ý của hồn thiêng sông núi gửi đến thế hệ chúng ta.
Đằng sau chuyện rùa Hồ Gươm dâng kiếm cho Lê Lợi đánh tan giặc Minh xâm lược, còn là những ẩn ý khác, khi rùa ngoi lên nhắc chuyện trả gươm, thì phải biết gươm ấy chỉ nên dùng để đánh giặc ngoại xâm, chứ không nên dùng để thanh trừng nhau. Đinh Liệt, một vị công thần nhà Lê từng viết ra cũng nói rõ cái ý ấy: 
Trong thuở hàn vi bừng sáng nghĩa
Hoà bình hạnh phúc dễ mờ nhân?
Cầm cân mà để cân sai lệch
Nát đạo cha con tối nghĩa thần.
Nhiều người dân đã rất buồn vì hình ảnh “cụ rùa” Hồ Gươm từ lâu nay đã in vào tiềm thức, trí tuệ bao thế hệ của người dân Thủ đô, “cụ rùa” gắn liền với truyền thuyết lịch sử không thể nào quên. 
Trùng hợp ư? Không! Đã có nhiều nhà nghiên cứu Hà Nội điểm lại những lần nổi của “cụ rùa”, không ít người giật mình vì nó đều gắn với một sự kiện quan trọng nào đó của đất nước.
  • Ngày 26/12/1991, PGS.TS Hà Đình Đức đang nói chuyện trên Truyền hình Hà Nội về bảo vệ rùa Hồ Gươm thì đúng 10h sáng hôm đó, “cụ rùa” nổi lên và cảnh quay “cụ” nổi được phát sóng một cách sống động. 
  • Ngày 10/3/1992, Sở Giao thông Hà Nội đang họp bàn phê duyệt Phương án nạo vét Hồ Hoàn Kiếm. Thì sáng hôm đó, “cụ rùa” nổi lên, các đại biểu đã được xem những bức ảnh mới nhất ngay trước giờ khai mạc hội nghị. 
  • Đúng ngày 19/11/2003, Hội thảo quốc tế về Tuần lễ Bảo tồn và Tôn tạo Hà Nội diễn ra, “cụ rùa” nổi lên nằm trên gò Tháp Rùa, đầu “cụ” ngẩng cao hướng về phía đặt tượ
    ​​
    ng vua Lê. 
  • Sáng ngày 26/8/1999, Cục Thông tin cơ sở, Bộ Văn hóa Thông tin đang bàn giao mặt bằng Khu di tích tưởng niệm vua Lê, “cụ rùa” nổi lên.
  • Một sự kiện gây xúc động cả nước, vào 0 giờ 0 phút ngày 1/1/2000, khi hàng vạn người dân tụ tập quanh Hồ Gươm đón chào Thiên niên kỷ mới, đúng lúc pháo hoa bắt đầu bắn thì “cụ rùa” nổi lên mặt nước. Không ít người đã rơi nước mắt.
  • Đúng 9h00 sáng 27/9/2000, UBND TP. Hà Nội đang tổ chức lễ khánh thành Khu tưởng niệm vua Lê bên Hồ Gươm, thì “cụ rùa” lại nổi lên nằm gối đầu bên chân đảo Ngọc trước sự chứng kiến của nhiều quan chức. 
  • Năm 2002, khi Hội nghị Trung ương lần thứ năm khoá IX diễn ra, họp từ 18/2 đến ngày 2/3, “cụ rùa” nổi lên trước sự kiện đặc biệt này. 
  • Ngày 26/2/2002, PGS. Hà Đình Đức đang đi thuyền ra gò Tháp Rùa làm lễ xin phép để về Lam Kinh (Thanh Hóa) tìm hậu duệ của “cụ rùa”, bỗng thấy “cụ” nổi lên rồi bơi lại mũi thuyền. Mọi người đều chắp tay lạy.
  • Ngày 25/11/2002, trong khi các đại biểu bắt đầu chất vấn các bộ trưởng tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá XI và Tạp chí Thế Giới Mới có bài viết: “Đã tìm được “lý lịch” rùa Hồ Gươm”, thì người dân lại thấy “cụ” nổi lên gần cây phượng vĩ góc đường Lê Thái Tổ – Hàng Khay.
  • Đúng vào ngày khai mạc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (18/4/2006) và ngày bế mạc Đại hội (26/4/2006), “cụ rùa” đều nổi lên. 
  • Tháng 11/2006, Hà Nội tổ chức hội nghị APEC và sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, “cụ rùa” liên tiếp nổi, trước sự chứng kiến của đông đảo người dân thủ đô và du khách quốc tế. Đúng dịp kỷ niệm 1 năm Việt Nam gia nhập WTO, người dân lại thấy “cụ rùa” nổi lên dưới chân Tháp Rùa.
  • Ngày 10/10/2009, đang kỷ niệm 55 năm ngày Giải phóng Thủ đô và 999 năm Thăng Long – Hà Nội, người dân lại trông thấy “cụ rùa” nổi lên bơi lội tung tăng dưới chân cầu Thê Húc. 
  • Sáng 1/10/2010, đúng ngày khai mạc Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, cụ Rùa đã nổi lên chào đón trước sự chứng kiến của hàng ngàn người dân.
  • Còn nhớ tháng 3/2011, đúng lúc người dân đang xôn xao lo lắng sức khỏe “cụ Rùa” linh thiêng thì cũng là lúc tất cả ngậm ngùi chia tay Henrique Calisto. Người đã giúp tuyển Việt Nam lần đầu tiên nâng cao chiếc cúp vô địch Đông Nam Á. 
  • Ngày 13/10/2013, “cụ rùa” đã nổi đúng ngày đưa tiễn Đại tướng Võ Nguyên Giáp về quê hương Quảng Bình.
  • Lần nổi lên gần đây nhất của “cụ rùa” là trưa ngày 21/12/2015 sau khi kết thúc Hội nghị Trung ương 13 mà mạng xã hội đưa tin đầy căng thẳng về nhân sự. 
Nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Khiêu từng nói rằng: “Mỗi lần có nguyên thủ các nước đến, “cụ” đều xuất hiện; có nước là bạn của ta, có nước không phải là bạn của ta, “cụ” nổi lên là muốn nhắn nhủ chúng ta một điều gì đó”.
Lần này “Cụ Rùa” không chỉ nổi lên mà “Cụ” đã chết, chắc chắn là điểm báo cho vận mệnh của nước ta sắp rơi vào thời kì đen tối.
Người ta đổ cho ô nhiễm. Một cái hồ thiêng liêng, gắn với biết bao tình cảm của người Việt, mà còn để cho ô nhiễm đến mức “cụ Rùa” không thể thở nổi, thì những thứ cha chung không ai khóc kia, người ta không thẳng tay tàn phá mới là lạ. Đó chẳng phải là “điềm báo” rằng thời thế mà rùa thần có tuổi thọ lâu dài như thế còn bức bối không chịu nổi, thì người dân biết phải sống ra sao với đủ thứ “ô nhiễm chính trị” khác?
“Cụ rùa” mất rồi. “Cụ” là hiện thân của Nghĩa quân Lam Sơn, của dân tộc Việt Nam anh hùng đánh đuổi không khoang nhượng với giặc Minh Trung Quốc. “Cụ” ra đi, hồn thiêng sông núi bắt đầu trỗi dậy! 
Hỡi những đảng viên chân chính hãy thức tỉnh! Các đại biểu dự đại hội lần này hãy lắng nghe hồn thiêng sông núi qua cái chết của “cụ rùa”, hãy sáng suốt trong việc sử dụng lá phiếu của mình, dù lá phiếu ấy nhẹ tựa lông hồng nhưng lại nặng ngàn cân. Nó quyết định vận mệnh cả dân tộc, chứa cả mồ hôi nước mắt và máu của muôn dân. Đừng để lá phiếu của mình bị chi phối bởi cường quyền và sự áp đặt.
Chân lý sẽ thuộc về nhân dân mãi mãi. “Cụ rùa” hãy phù hộ cho minh quân giữ vững bờ cõi, đất nước được bình an, phát triển.
Nguyễn Hòa An (Nhà nghiên cứu Hà Nội)


Tín hiệu gì: Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản không phủ nhận ‘Bộ Luật về Đảng’

Đăng bởi Ha Tran on Thứ Năm, ngày 21 tháng 1 năm 2016 | 21.1.16

Ông Nhị Lê hiện là Phó tổng biên tập của Tạp chí Cộng sản - một kênh phát ngôn đặc biệt quan trọng của đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là một trong những địa chỉ thủ cựu nhất. Trước khi trở thành tổng bí thư đảng, ông Nguyễn Phú Trọng đã từng có thời làm việc tại tạp chí này.

                                                     Tạp chí Cộng sản số đặc biệt

Chỉ vài ngày trước khi đại hội 12 khai mạc, trang Viettimes đã có một bài phỏng vấn ông Nhị Lê. Gần như là lần đầu tiên, một trang báo nhà nước dám nêu ra câu hỏi: “Từ khi ra đời đến nay Đảng hoạt động chủ yếu dựa trên Điều lệ Đảng. Theo ông thì Điều lệ Đảng đã đủ chưa? Đảng có cần một Bộ Luật về Đảng không?”.

Hãy nghe ông Nhị Lê trả lời:

“Đây là vấn đề không phải bây giờ mới đặt ra. Chúng ta đã đặt ra rồi, và không phải chỉ một lần. Tôi còn nhớ cách đây chừng 7-8 năm, khi đi học tập ở Trung Quốc tôi cũng đã đặt vấn đề này ra với phía Trung Quốc. Nếu pháp luật được coi là thượng tôn thì mọi tổ chức đều phải có luật để ràng buộc.

Không phải “chỉ được làm theo pháp luật” mà “phải làm theo pháp luật”. Không ai được đứng trên và ngoài pháp luật. Đấy chính là cơ sở để đảm bảo dân chủ. Đấy là cả một quá trình tìm tòi. Chân lý không gắn với vận mệnh thì là chân lý suông. Mà vận mệnh không đạt đến mức độ chân lý thì không ai dám chắc vận mệnh sẽ tồn tại được bao lâu”.

Đáng chú ý, tuy không trực tiếp trả lời vào câu hỏi, nhung ông Nhị Lê đã không né tránh câu hỏi này.

Chủ đề “luật về đảng” được coi là đặc biệt nhạy cảm ở Việt Nam, báo chí hầu như né tránh và nội bộ không dám hé môi. Chủ đề này chỉ được giới trí thức phản biện độc lập và giới hoạt động dân chủ nhân quyền trong nước và hải ngoại đề cập. Rất nhiều ý kiến độc lập cho rằng đảng Cộng sản Việt Nam đã có đến hơn bảy chục năm hoạt động “ngoài vòng pháp luật”, không bi điều chỉnh bởi bất cứ luật nào, trong khi chính tổng bí thư đảng này là Nguyễn Phú Trọng lại từng tuyên bố “Cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp”.

Dường như đang diễn ra một sự thay đổi ngấm ngầm trong những quan điểm chủ chốt của giới lãnh đạo đảng ngay trước thềm đại hội 12 - một đại hội xung đột quyền lực lẫn thủ đoạn triệt hạ lẫn nhau chưa từng có, một đại hội mà ngày càng nhiều người tin đó là “cuối cùng”.

Về dư luận nội bộ, được biết ở Hà Nôi vừa xuất hiện một phong trào đòi hỏi “đổi mới lần 2” từ sau Hội nghị trung ương 13 và đặc biệt sau Hội nghị trung ương 14. “Cải cách thể chế” là đòi hỏi của nhiều trí thức, trong đó có cả những cán bộ cao cấp về hưu. Trong khi đó, một số trí thức đang manh nha đòi đổi tên đảng, trở về tên cũ là đảng Lao động.

Từ thái độ ông Nhị Lê không né tránh câu hỏi cực kỳ nhạy cảm “luật về đảng” của báo chí, có thể cho rằng trong và sau đại hội 12, nội bộ đảng cầm quyền sẽ diễn ra một sự thay đổi nào đó về tư tưởng. Tuy nhiên, làm thế nào để  “đưa tư tưởng vào thực tiễn” thì lại là một vấn đề hoàn toàn khác.

Lê Dung 

(SBTN)
Tin tức hàng ngày

20 tháng 1, 2016

  ÔNG NÀY MẶC DÙ LÀ ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN, NHƯNG BÀI VIẾT NÀY CỦA ÔNG ĐỌC NGHE NÓ VÀO TAI.( Đây là "diễn biến hòa bình" là "tự chuyển biến" chứ còn là cái gì ! ...!! hì !...hì hì !!!) tuy nhiên qua bài này ta thấy rõ ông Hoàng vẫn kiên trì đường lối mà ông và ĐCS đang dẫn dắt Dân tộc VN.

Vũ Ngọc Hoàng - Tự do và chủ nghĩa xã hội 

Khi nào và ở đâu mà những người lãnh đạo lãng quên vấn đề tự do, hạn chế tự do cũng có nghĩa là vô tình rời bỏ mục tiêu XHCN.

1.Các nhà tư tưởng, triết học đã bàn về tư do cách đây 500 năm, và từ đó đến nay liên tục bổ sung, hoàn thiện. Tự do là phạm trù thuộc về và gắn liền với cuộc sống xã hội của con người. Tự mình lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, đó là tự do, cũng chính là cuộc sống, đang sống, không phải đã chết. Sự tự do của con người là một tất yếu, đương nhiên, vốn có, do tạo hóa ban tặng, từ khi con người được sinh ra, nó là bất khả xâm phạm.

Tự do và bình đẳng là cặp đôi cùng tồn tại. Không thể người này có quyền tự do hơn người khác, trừ khi người khác ấy bị tước quyền tự do vì phạm pháp. Tự do bao gồm nhiều nội dung, trong đó, quan trọng nhất là: Con người có quyền sống và mưu cầu hạnh phúc, bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, tự do tiếp cận chân lý. Con người ở mọi thời đại, mọi nơi và mọi lúc đều mong muốn và luôn chiến đấu cho tự do, đó cũng là biểu hiện tính tất yếu của tự do. Không ai không được tự do nếu như người đó không tự đánh mất. Thế nhưng, từ khi có xã hội loài người thì đồng thời quan niệm về tự do cũng chịu tác động của các quan hệ xã hội.

Nhiều nghìn năm nay, dù ở thời đại nào, ở chế độ nào cũng vậy, tự do bao giờ cũng là mong muốn hàng đầu của con người. Tiếp liền sau khi vượt qua cái đói cái chết, con người ta có nhu cầu trước tiên là tự do. Tự do là hạnh phúc lớn nhất. Tự do đem lại hạnh phúc. Con người tìm thấy hạnh phúc trong tự do. Bí mật của hạnh phúc là tự do. Bí mật của tự do là lòng dũng cảm. Trong xã hội nô lệ, con người (nô lệ) gần như hoàn toàn không có tự do, họ chỉ có thân phận như một công cụ, một phương tiện, như trâu ngựa, do ông chủ nuôi để xử dụng cày bừa, khuân vác, phục vụ ông chủ. Họ có thể bị đánh đến chết bất cứ lúc nào, hoặc bị đem làm vật bán mua đổi chác. Tức là họ không có quyền tự do được sống, không có quyền làm người. Sau chế độ nô lệ, xã hội văn minh dần, con người bắt đầu có một số quyền tự do, lúc đầu ít, lúc sau nhiều hơn, cứ thế, xã hội tiến bộ dần lên và quyền tự do ngày càng nhiều hơn. Xã hội phong kiến tự do hơn xã hội nô lệ. Xã hội tư bản tự do hơn phong kiến. Tư bản giai đoạn hiện đại tự do hơn tư bản giai đoạn đầu.

Tự do và sự phát triển của con người, từng con người, và cả cộng đồng, đó là giá trị nhân văn quan trọng bậc nhất trong tư tưởng của C.Mác. Rất tiếc là các nước XHCN ít nói đến quan điểm này, trong khi các nước TBCN phát triển thì quan tâm và giải quyết tốt hơn.

2. CNXH phải tự do hơn CNTB. Khi nào đạt được mức độ tự do cao hơn tự do của xã hội tư bản phát triển thì khi ấy mới có thể có CNXH hiện thực. Việt Nam ta tuy đã định hướng tiến lên CNXH nhưng vẫn còn đang chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng phong kiến trong vấn đề tự do. Phải ra sức khắc phục hạn chế này mới đúng là theo định hướng XHCN. Còn làm ngược lại, hạn chế tự do, thì đó không phải là con đường tiến lên CNXH, mà ngược lại, đó là con đường rời bỏ mục tiêu lý tưởng về CNXH. Đã có những quan niệm rất sai lầm và lạc hậu khi cho rằng tự do là kiểu tư bản phương Tây, còn CNXH thì hiểu như “trại lính”. Nếu CNXH mà vậy thì chẳng ai yêu thích và họ sẽ từ bỏ nó. Cuộc đấu tranh đòi quyền tự do không khi nào lạc hậu, không bao giờ là không cần thiết, luôn là vấn đề của thời đại, cũng là vấn đề thời sự, đáng quan tâm hàng đầu, vì nó hợp quy luật, hợp lòng người, hợp tâm lý, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Với lẽ ấy, tự do – bản thân nó – đã là tất yếu. Tự do là tất yếu.

Trong tuyên ngôn của mình, C.Mác đã khẳng định mục đích của xã hội tương lai (XHCN) là giải phóng con người, đem lại tự do cho con người, tự do cho mỗi người là điều kiện để có tự do cho mọi người, để con người được phát triển toàn diện. Tự do và sự phát triển của con người, từng con người, và cả cộng đồng, đó là giá trị nhân văn quan trọng bậc nhất trong tư tưởng của Ông. Rất tiếc là các nước XHCN ít nói đến quan điểm này, trong khi các nước TBCN phát triển thì quan tâm và giải quyết tốt hơn. Tự do là vấn đề bản chất của CNXH, cũng là đặc trưng quan trọng nhất của CNXH.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự do là mục đích tiếp theo, mục đích chính của độc lập. Độc lập là để có tự do. Độc lập, bản thân nó là sự tự do cho một dân tộc; đồng thời là để và phải đem lại tự do cho nhân dân, cho từng người. Hồ Chí Minh đã từng nói, nếu nước độc lập mà dân không được tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chưa có ý nghĩa gì. Khi lập nước, Người đã đưa các thành tố “dân chủ” và “tự do” vào tên gọi của nước Việt Nam mới.

Từ yêu cầu của cuộc sống, có những việc đã đến độ bức xúc, cộng với tâm lý ủng hộ tự do của cộng đồng, nếu không được đáp ứng sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa nhà cầm quyền và dân chúng, giữa thuyền và nước, từ đó sẽ tích lũy những bất ổn. Trước đây, có thời kỳ nước Đức bị chia đôi, Đông Đức theo hướng XHCN, Tây Đức theo hướng TBCN. Có một giai đoạn ở Đông Đức rất nhiều người (nhất là trí thức) vượt biên giới chạy qua Tây Đức. Vì sao người ta bỏ đi nhiều vậy? Nhân dân nói rằng ở Tây Đức tự do hơn, nhất là tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, làm ăn cũng dễ hơn, điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Ngày ấy đáng lẽ Đông Đức phải cải tổ ngay, trở bộ ngay, thay đổi căn bản cách quản lý xã hội, nhưng họ không làm vậy mà lại đi xây ngay một bức tường và dùng hàng rào dây thép gai ngăn lại không cho dân từ Đông Đức qua Tây Đức nữa. Bố trí các trạm gác của lực lượng vũ trang, ai leo rào vượt qua thì bắn chết. Liên Xô đã giúp Đông Đức xây bức tường ấy trong một đêm. Vậy là mâu thuẫn giữa yêu cầu tự do chính đáng và sự kìm hãm tự do không được giải quyết, còn tiếp tục bị dồn nén. Cho nên sau đó, khi ở Liên Xô có sai lầm trong cải cách, thì hàng triệu người dân Đông Đức đã cùng nhau xô đổ bức tường Béc-lin để thống nhất Đông Đức vào với Tây Đức.

Một sự kiện khác, đó là mùa xuân năm 1968 ở Tiệp Khắc. Sau này người ta gọi sự kiện đó là Mùa xuân Praha. Khi ban lãnh đạo của Tiệp Khắc quyết định cải tổ vì nhận thấy con đường đi không đúng, không phát triển được và cũng không đến được CNXH hiện thực, họ chủ trương về kinh tế thị trường và vấn đề dân chủ, thì liền trong đêm ấy Liên Xô đã đổ quân (nghe nói 200 nghìn quân và 2000 xe tăng) vào Tiệp Khắc, ép phải thay đổi ban lãnh đạo Tiệp Khắc, không cho cải tổ, nói rằng những người lãnh đạo ấy của Tiệp Khắc là “Chủ nghĩa xét lại” bị các thế lực từ bên ngoài giật giây. Với cách giải quyết kiểu bức tường Béc-lin và mùa Xuân Praha, những nhà nghiên cứu chính trị- xã hội cho rằng nó đã báo hiệu Liên Xô, Đông Đức và các nước XHCN ở Đông Âu tất yếu sẽ sụp đổ, do chính con đường sai lầm ấy.

3. Đó là chưa nói một vấn đề quan trọng hơn nữa, liên quan đến mục tiêu cốt lõi, là tự do đem lại sáng tạo, sự phát triển và hạnh phúc cho con người. Tự do sẽ giải phóng năng lực, trước nhất là năng lực tư duy, từ đó mà tạo ra sức sống và sức sáng tạo của từng người, của cả một tập thể, một cộng đồng, làm cho năng lực và sức mạnh trí tuệ không ngừng phát triển, để dân tộc hùng mạnh lên, để con người làm chủ nhân xứng đáng của vũ trụ, thành chúa tể của muôn loài.

Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, với tự do tư tưởng, và tự do ngôn luận kèm theo, con người đã có những bước tiến nhảy vọt, nhờ trí tuệ của cộng đồng bổ sung cho nhau, tiếp cận được chân lý khách quan, chọn được giải pháp tối ưu cho xã hội, điều chỉnh kịp thời những sai lầm và cũng tạo ra sự phát triển của con người. Nếu yêu cầu tự do chính đáng và hợp lý mà chậm đáp ứng thì kìm hãm sự phát triển, tạo nên sự xơ cứng và thụ động, làm mất động lực, mất sức mạnh của một tập thể, một cộng đồng, một dân tộc. Tốt nhất là giải quyết đáp ứng các yêu cầu chính đáng về tự do một cách không chậm trễ, không trì kéo, để mở đường, để thúc đẩy phát triển.

Ngày xưa, có thời kỳ châu Á đã có những bước tiến quan trọng trên con đường văn minh thì châu Âu còn trong đêm dài của thần quyền. Ai nói khác giáo hội sẽ bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Vậy mà sau đó, qua các phong trào khai sáng, phục hưng, và tiếp sau nữa, châu Âu đã có bước tiến nhảy vọt trên con đường giải phóng tự do cá nhân, từ đó (và tất nhiên không chỉ thế) châu Âu đã phát triển vượt lên, bỏ châu Á lại phía sau trong đêm dài của chế độ phong kiến.

4.Tự do, như ta đã biết, bản thân nó đã là tất yếu, và rất rộng, trên tất cả các lĩnh vực, ở nơi đâu có hoạt động của con người. Nhưng mặt khác, tự do bao giờ cũng có giới hạn! Đó là giới hạn không xâm phạm tự do của người khác, không gây hại cho cộng đồng, cho quốc gia, gắn với trách nhiệm xã hội. Thông thường các khái niệm đều được giới hạn bởi một cái khác ngoài nó. Riêng tự do lại không giới hạn như vậy, mà lại được giới hạn bởi chính nó. Tự do được giới hạn bởi chính tự do (của người khác), tức là giới hạn bằng chính nó, chứ không phải bằng cái khác. Không được gây hại cho cộng đồng, cho quốc gia về bản chất cũng chính là không xâm phạm đến tự do của những người khác, giới hạn bằng tự do của người khác ấy cũng hình thành mặt thứ hai, là mặt “tất yếu” của tự do. Nói cách khác, tự do và tất yếu là hai mặt của cùng một chỉnh thể không tách rời nhau, không mâu thuẫn và không loại trừ nhau. Tự do được bước sang từ vương quốc tất yếu – là cách nói của Ăng-ghen. Như vậy, tự do là tất yếu, tất yếu phải tự do, tự do gắn với tất yếu, tất yếu để bảo đảm cho tự do, tất yếu bằng tự do (của người khác), tự do và tất yếu cùng song song tồn tại và phát triển.

Không thể bằng ý chí chủ quan của người lãnh đạo mà chống lại yêu cầu tự do và cũng không thể tự do vượt trước quá xa trình độ phát triển khách quan của xã hội (để tránh rối loạn). Mặt khác, mức độ tự do còn phụ thuộc tâm huyết, sự nhạy cảm và nhất là tư tưởng khai minh của người lãnh đạo có được đến đâu.

Tuy nhiên, không được lợi dụng mặt thứ hai là “tất yếu”, nhân danh nó để cản trở tự do. Khi giai cấp (hoặc tập đoàn) cầm quyền mà không tiến bộ, kìm hãm lịch sử, C.Mác gọi họ là phản động, thì thường giải thích rằng tự do phải trong khuôn khổ ý chí của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền cho phép đến đâu thì mọi người được tự do đến đó. Thực chất, đó cũng là ngụy biện. Trong một quốc gia văn minh, xã hội được quản lý bằng luật pháp tiến bộ, với tư tưởng pháp quyền tối thượng, mọi người đều phải tuân theo, không ai, không tổ chức nào được đứng trên pháp luật. Đó cũng là mặt “tất yếu” của tự do. Mặt khác, pháp quyền ấy phải là pháp quyền tiến bộ, pháp quyền trên nền tảng của tư tưởng dân quyền (nền dân trị), trong đó quyền tự do của con người, nói cách khác là tự do cá nhân, và quyền dân chủ của công dân là hạt nhân trung tâm – cốt lõi. Như vậy, nền pháp quyền tiến bộ là nền pháp quyền không kiềm hãm tự do. Pháp quyền vừa là mặt “tất yếu” của tự do, vừa là công cụ bảo vệ tự do, giải phóng con người, làm cho con người được tự do và phát triển.

Bác Hồ nói, không có gì quý hơn độc lập tự do. Độc lập là cho tổ quốc, tự do là cho nhân dân, cho mỗi người. Vậy nên, cuộc đấu tranh cho tự do vừa là cuộc chiến đấu cho giá trị nhân văn, cho dân tộc phát triển, đồng thời cũng là cho chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa với những gì tốt đẹp thật sự chứ không phải trên danh nghĩa, lời nói và các khẩu hiệu.

Cũng cần nói thêm rằng, tự do là khách quan. Không thể bằng ý chí chủ quan của người lãnh đạo mà chống lại yêu cầu tự do và cũng không thể tự do vượt trước quá xa trình độ phát triển khách quan của xã hội (để tránh rối loạn). Mặt khác, mức độ tự do còn phụ thuộc tâm huyết, sự nhạy cảm và nhất là tư tưởng khai minh của người lãnh đạo có được đến đâu. Khi thời gian đi qua, dấu vết của các nhà lãnh đạo chỉ còn lại ở những bước tiến đáng kể về văn hóa, trong đó vấn đề tự do của con người luôn là vấn đề số một, còn lại tất cả những cái khác sẽ lần lượt mất đi đến một lúc sẽ không còn gì nữa. Đây là nói chuyện văn hóa, nhằm góp thêm một ý kiến cho những người lãnh đạo có tâm và có tầm, thật lòng vì dân tộc và đất nước – những con người đáng tôn trọng ấy lúc nào cũng có, dù có lúc “Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa Thu”.

Năm 1868, Hoàng đế Minh Trị mở đường cho cuộc đại cải cách nước Nhật đã cho in một triệu bản sách “Bàn về tự do” tung ra khắp nước Nhật (khi ấy dân số Nhật mới chỉ bằng khoảng 1/3 dân số Việt Nam hôm nay). Từ một nước Nhật “người lùn” trước đây, nay thành một nước Nhật phát triển văn minh, một cường quốc kinh tế - quá trình ấy gắn với công lao canh tân đất nước của Minh Trị Thiện Hoàng cách đây 150 năm. Nghiên cứu quá trình phát triển của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ (như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore), những nơi mà trước kia chẳng hơn gì Việt Nam ta, nhưng nay đã phát triển khá xa về phía trước, đều có liên quan đến vấn đề tự do mà chúng ta đáng phải suy nghĩ.

Mục tiêu mà chúng ta đã chọn để phấn đấu là một quốc gia XHCN. Tự do thuộc về bản chất, là đặc trưng hàng đầu của CNXH, thể hiện bản chất nhân văn của chế độ, nó là hạnh phúc, nó đem lại hạnh phúc, tạo ra sự phát triển của con người – vấn đề trọng tâm của CNXH. Tự do đem lại sáng tạo, từ đó mà tạo ra sự phát triển của một quốc gia; và chỉ có phát triển mới có CNXH, bằng sự phát triển mà dẫn đến “tất yếu” sang CNXH như dự báo của C.Mác. Khi nào và ở đâu mà những người lãnh đạo lãng quên vấn đề tự do, hạn chế tự do cũng có nghĩa là vô tình rời bỏ mục tiêu XHCN.

Vũ Ngọc Hoàng

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng là uỷ viên T.Ư Đảng, Phó trưởng ban Tuyên giáo TƯ Đảng.

(Thanh Niên)

19 tháng 1, 2016

Những tục lệ trinh tiết 'lạ đời' nhất thế giới

Nhiều nơi trên thế giới, trinh tiết được coi là thước đo cho phẩm hạnh của người phụ nữ. Gắn liền với trinh tiết, có rất nhiều tập tục kỳ lạ khiến người ta phải rùng mình.
Quan hệ với gái trinh sẽ... bị điên
Các cô gái Oklan.
Vào thời cổ đại, người Oklan có quan niệm rằng những chàng trai mà quan hệ với các cô gái còn trinh sẽ chết vì bị điên. Do đó, các cô gái sẽ phải trải qua nghi lễ để bỏ màng trinh dưới sự chỉ đạo của những người quyền lực trong bộ tộc.
Cả nhà kiểm tra trinh tiết cô dâu
Theo phong tục cổ tại Algeria, sau nghi lễ cưới hỏi, cô dâu và chú rể sẽ đến phòng tân hôn, còn cha mẹ và anh em, gia đình 2 bên ở bên ngoài. Nếu cô dâu không chứng tỏ được mình còn trong trắng thì ngay tối hôm đó, anh trai hoặc cha cô gái sẽ giết chết cô.
Còn nếu cô gái vẫn “còn nguyên” thì chú rể sẽ chìa tấm vải có máu của cô cho mọi người xem, sau đó hai bà mẹ của cô dâu, chú rể ôm nhau mừng rỡ cho sự nguyên vẹn và tất cả mọi người có một bữa tiệc liên hoan chúc mừng hạnh phúc.


Các cô dâu Algeria sẽ phải chứng tỏ mình còn "nguyên vẹn" trong đêm tân hôn.
Loaded: 0%
Progress: 0%
00:00
Làm người giúp việc hoặc gái mại dâm nếu mất trinh
Tại Morocco, những cô gái trẻ mất trinh trước khi cưới phải chịu số phận vô cùng nghiệt ngã. Họ chỉ có 2 con đường để lựa chọn: làm người giúp việc hoặc gái mại dâm. Nếu kết hôn, họ phải chịu sự khinh miệt của nhà chồng và cắn răng chịu đòn roi mà không được ý kiến nửa lời.
Các cô gái Morocco sẽ phải làm "gái" nếu mất trinh trước khi cưới.
Hủ tục khắt khe này đã được lưu truyền nhiều đời nay dù những năm gần đây, văn hóa phương Tây đã xâm nhập đời sống của người dân Morocco nhưng những quan niệm truyền thống, đặc biệt là đề cao sự trinh trắng của phụ nữ, vẫn luôn được duy trì.

Tục dâng hiến trinh tiết kỳ dị
Thời xưa tại Ấn Độ, tăng lữ và thầy cúng là những người đại diện cho thần linh để đón nhận sự dâng hiến trinh tiết của các trinh nữ. Những trinh nữ này sau đó sẽ không được kết hôn mà phải ở vậy cả đời.
Thiếu nữ Ấn Độ.
Tục lệ này còn được áp dụng với cả vua chúa. Theo đó, khi nhà vua tổ chức lễ cưới với hoàng hậu thì trong 3 ngày đầu, nhà vua không được tiếp xúc với thân thể hoàng hậu. Ngày thứ 3, nhà vua dâng hiến đêm đầu của hoàng hậu cho những người có vị thế cao nhất trong giới tăng lữ. Chỉ sau đó thì nhà vua mới được ân ái với hoàng hậu.
Mua bán trinh tiết công khai
Tục hiến trinh của một bộ lạc gần xích đạo của châu Phi còn ly kỳ hơn. Trong cuốn sách “Hành vi tình dục đen” có ghi chép lại: một bộ lạc gần xích đạo của châu Phi có một tập tục công khai mua bán trinh tiết của thiếu nữ. Khi người thiếu nữ đến tuổi trưởng thành, trinh tiết của họ được mang ra rao bán cho bất cứ người nào cần mua.
Các cô gái ở bộ lạc châu Phi sẽ được đem ra để rao bán trinh tiết.
Bộ lạc sẽ tổ chức một ngày hội mà ở đó, tất cả các thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cùng tham gia. Họ bị bó chặt cơ thể trong những bộ quần áo bó sát và các thanh niên trai tráng trong làng sẽ vác từng người đi một vòng cho mọi người xem.
Những người xung quanh lựa chọn thiếu nữ mình ưng ý và thỏa thuận giá cả để qua đêm. Cha mẹ của các thiếu nữ này được quyền bán trinh tiết của con chứ không được từ chối tập tục này.
Tuệ Linh