12 tháng 11, 2015

Từ xưng hô và sự sa đọa của văn hóa Việt


Chu Mộng Long – Trong “túi khôn” của dân tộc Việt có hai câu đối lập về kinh nghiệm phát ngôn: 1. Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. 2. Thuốc đắng dã tật, Sự thật mất lòng. Câu 1 thực sự là khôn, khôn lỏi, bởi vì không phải tốn tiền mà lời nói có thể mua được lòng người, hiển nhiên kéo theo mua được mọi thứ. Câu 2, vì nói thật mất lòng, thậm chí mất nhiều thứ, kể cả mất đầu, nên nhanh chóng bị loại bỏ ra khỏi túi khôn, và tất nhiên, trong thời buổi quá nhiều kẻ khôn nói láo thì nói thật thành ngu.


Mình mua quyển sách chỉ vì cái bìa ghi Lưỡng quốc Tiến sĩ!
Cái sự sàng lọc bỏ ngu chọn khôn này lâu nay chỉ thấy được tán dương mà lẽ ra phải báo động đỏ về sự sa đọa của văn hóa Việt. Bài viết này chỉ xoay quanh thế giới của từ xưng hô, nơi thể hiện rõ nhất cái ranh giới mập mờ khôn – ngu của người Việt, và đặc biệt chính nó phản ánh sâu sắc nhất thực trạng ứng xử của giới trí thức hiện đại.

1. Tiếng Việt thuộc loại giàu có nhất về từ xưng hô. Chỉ riêng đại từ xưng hô ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai đã có đến cả vài mươi từ tùy theo quan hệ: Tao với mày, ta với mi, ông với tôi, bố với con, mẹ với con, ông với cháu, bác với cháu, chú với cháu, anh với em, chị với em,…, Không kể những từ vốn là đại từ thay thế, từ chỉ danh phận, chức phận, danh xưng, chức xưng… được gán vào cho đối tượng xưng hô ở ngôi thứ hai, thứ ba: cu, bướm, ông chủ, con sen, đồng chí, bí thư, thủ tướng, chủ tịch, bộ trưởng, giáo sư, v.v…, có khi tự xưng luôn ở ngôi thứ nhất: Tôi tên…, hay tôi là… Tiến sĩ, Nhạc sĩ, Nhà thơ, Nhà văn… Bùi Kim H đây!.
Tôi từng bật cười khi đọc một cái đơn viết: Tôi tên là Tiến sĩ Nguyễn AQ. Dễ nhầm tưởng anh ta họ Tiến!!!
Người lớn tự hào về sự giàu có của từ xưng hô tiếng Việt, nhưng trẻ con thì nó ứ thích, nên mới có câu đồng dao từng mỉa mai cái quan hệ cù nhầy trong cộng đồng Việt: Kì đà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kì nhông, kì nhông là ông kì đà, kì đà là cha cắc ké…, Chim ri là dì sáo sậu, sáo sậu là cậu sáo đen, sáo đen là em bồ các, bồ các là bác chim ri, chim ri là dì sáo sậu…
Trước khi đi vào bản chất của sự rối rắm đến thành sa đọa trong quan hệ ứng xử của người Việt qua từ xưng hô, xin bắt đầu bằng câu chuyện rất thật. Ngày 20 tháng 11, quý bà phụ huynh khệ nệ mang túi quà đến nhà cô giáo, trân trọng kính tặng cô. Cô giáo nhận quà vui vẻ, cám ơn và khen: chà năm nay trông chị trẻ đẹp hơn năm ngoái. Quý bà phụ huynh mới vừa nhoẻn nụ cười sung sướng thì thằng bé trong nhà lũn cũn bước ra nhìn nhìn tận mặt quý bà và nói: đẹp gì mà đẹp, con thấy mặt bà giống như mặt ngựa! Chuyện cứ như trong cổ tích Bộ quần áo hoàng đế của Andersen, nhưng khác nỗi là thằng bé lập tức bị ăn ba cái tát. Ba cái tát đầu đời ấy dạy nó, từ nay không được nói thật, phải lựa lời mà nói cho vừa lòng người ta, con ạ!
Từ xưng hô bộc lộ sâu sắc mối quan hệ phân biệt tôn ti, đẳng cấp và thái độ ứng xử của người Việt trong cộng đồng Việt: cao hay thấp, già hay trẻ, bề trên hay bậc dưới, gần gũi hay xa cách, trân trọng hay coi thường, cầu cạnh hay bất cần… Xưa, nó dừng lại ở giới hạn của sự cầu thị, tôn kính để còn được xem là văn hóa. Nay, càng ngày nó càng bộc lộ rõ sự háo danh, cầu cạnh và nịnh nọt của con người hiện đại, nhất là bọn trí thức nửa mùa trong sự sa đọa nghiêm trọng của môi trường văn hóa mới.
Xác định tôn ti, đẳng cấp trong xưng hô như thế cũng phản ánh sâu sắc truyền thống của sự độc tài, toàn trị: người được cho ở vị trí cao nhất thường trở thành trung tâm điều hành của cả một hệ thống. Ở gia đình phụ quyền, người chồng là trung tâm; ở cộng đồng làng, già làng, trưởng bản là trung tâm; rộng ra các cấp khác nhau của xã hội phi dân chủ, lãnh đạo là trung tâm. Kẻ dưới chỉ bằng lời xưng hô thiếu tôn kính chứ chưa nói đến phê phán, chỉ trích bề trên đã có thể bị xem là phạm thượng và ắt bị trừng phạt nghiêm khắc!
Tao với mày, ta với mi, ông với tôi từng thể hiện quan hệ dân chủ, bình đẳng chừng như đang dần bị cấm, mặc dù người ta đang kêu gào về quyền dân chủ và bình đẳng. Nếu lỡ mồm mà xưng hô như thế giữa công đường, lập tức phải xin lỗi vì bị quy là hỗn, hoặc vô văn hóa. Đơn giản, nếu là một cấp dưới đối với cấp trên mà chỉ xưng hô tôi với ông thôi, cấp trên đã cảm thấy khó chịu. Phải gọi là thủ trưởng, sếp, hoặc đàng hoàng hơn là gắn với đủ thứ nhãn mác của các loại chức vụ, chức danh để kính thưa: Kính thưa Bộ trưởng, Kính thưa Thứ trưởng, Kính thưa Tổng biên tập, Kính thưa Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú, Nhà văn, Nhà thơ… (các loại nhà, cứ như buôn địa ốc vậy!).
Ngôn ngữ là bộ mặt của mọi quan hệ đời sống và trở thành diễn ngôn lịch sử. Không có cách mạng đích thực khi các hoạt động của nó bị tách ra khỏi ngôn ngữ.
Từ khi đảng Cộng sản ra đời, cách xưng hô tôi với đồng chí được xem là một cuộc cách mạng vươn tới quan hệ bình đẳng. Nó bình đẳng mà vẫn trang trọng, bắt đầu từ trong tổ chức đảng, sau mở rộng ra phạm vi toàn dân, cặp quan hệtôi – đồng chí trở thành an toàn khu cho mọi tình huống, mặc dù trong thâm tâm chẳng có gì là đồng chí đúng nghĩa, bởi vì các đồng chí vẫn chửi nhau, mạ lị nhau là chuyện thường ngày!
Cũng vì đại từ xưng hô đồng chí bình đẳng trong tính cách mạng của nó, và vì khi nó đã được toàn dân hóa thành bình dân, nên đến lúc tự nó lại bộc lộ sự phản cách mạng của nó bằng cách xóa ngay sự bình đẳng ấy.Đó là lúc nó buộc phải trang trọng hóa bằng cách đính kèm thêm chức danh, chức phận để làm sáng danh loại đồng chí nó muốn đội lên đầu : đồng chí bí thư, đồng chí chủ tịch, đồng chí bộ trưởng, đồng chí hiệu trưởng, đồng chí trưởng phòng , đồng chí giám đốc...như là để phân biệt với các loại đồng chí tầm thường khác. Thế là công cuộc cách mạng 70 năm trở vđiểm xuất phát đúng tinh thần văn hóa tôn ti, đẳng cấp truyền thống của người Việt.

Bản chất của văn hóa tôn ti này xuất phát từ tâm lí háo danh, tự ti đi liền với tự tôn từ hai phía tầng lớp dưới và bề trên trong một xã hội phân biệt đẳng cấp. Ngoài gắn nhãn chức vụ, chức danh vào tên hoặc thay thế hoàn toàn cho tên gọi để làm sang, người Việt thích dùng một danh xưng nào đó gán vào hoặc thay thế hoàn toàn cho tên gọi: Cụ Chánh, bà Hội đồng, cụ Tiên chỉ, cụ Tam nguyên, ông Lưỡng quốc trạng nguyên, (và nay tự dưng đẻ ra ông Lưỡng quốc tiến sĩ),… đến mức bây giờ một ông chủ tịch xã kí giấy tờ hành chính cũng phải gắn vào phía trước tên của mình các học vị khoa học làm cho dân quê ít học tưởng mấy ông này họ Thạc hay họ Tiến là lạ mà lâu nay họ chưa nghe; họ nghĩ có lẽ cách mạng đã giúp cho mấy ông này quên hẳn tổ tông để chuyển sang họ mới.
Đại từ xưng hô của người Việt vì thế trở thành phi lịch sử, dù có làm một trăm cuộc cách mạng thì sự thật quan hệ trong cộng đồng Việt vẫn không có gì thay đổi.

2. Cốt yếu của vấn đề vẫn là giá trị thực dụng của sự xưng hô không mất tiền mua để được nhiều thứ này chứ không phải ý nghĩa tinh thần trên kia. Khoảng cách xưng hô càng cao, giá trị càng lớn. Người bề trên cảm thấy thật đề cao, người cấp dưới tự thấy thật hạ thấp, sự nâng tầm và hạ mình ấy sẽ đổi lấy tiền tài, danh vọng mà bề ngoài cứ lẻo lẻo về sự tự do dân chủ và bình đẳng.
Trong một cuộc họp hay một cuộc gặp gỡ với cấp trên, cách cúi đầu thưa gửi: Thưa thủ tưởng cho em xin ý kiến, thưa sếp cho em xin… một cách ngọt ngào sẽ làm cho thủ trưởng hay sếp vui, hay đúng hơn là tự hào, kiêu hãnh thì dễ mua được những cái phải mua bằng rất nhiều tiền. Trong một đại hội hay đại tiệc giới thiệu chức danh của cấp trên theo cách : kính thưa đồng chí bí thư đảng ủy, hiệu trưởng, giáo sư tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, nhà thơ...càng dài càng làm cho cấp trên sung sướng, tự mãn và tiếng vỗ tay càng to càng giòn, để...hiển nhiên, sau này cấp trên tạo nhiều điều kiện nâng đỡ và cho không ( của chùa) nhiều thứ không phải mua
Công đường trở thành văn hóa chợ, dùng lời nói thay tiền mua bán. Tư cách công dân trong xã hội dân chủ của người Việt bị hủy diệt với kinh nghiệm và trào lưu lựa lời mà nói. Sự hủy diệt ấy bộc lộ ở sự tự ti quá mức và sự tự cao quá đáng giữa bậc thấp và bậc cao, cấp dưới với bề trên. Người ta lớn bởi vì ta quỳ xuống (Tố Hữu), thứ ngôn ngữ uốn gối khom lưng kia làm cho lãnh đạo hay bề trên trở thành những độc tài bạo chúa, còn dân đen bị khinh bỉ thành kẻ hèn hạ, ti tiện như nó đang bị khinh b, bởi vị thế của sự xưng hô hèn hạ ti tiện.

Học trò viết đơn xin nghỉ phép, vì tôn sư trọng đạo cứ phải xưng em với thầy để mong thầy gia ân. Một công dân viết đơn lẽ ra đường hoàng đề nghị giải quyết một vấn đề nào đó về quyền lợi bình đẳng theo luật định cũng cứ phải kính thưa bề trên và cúi đầu thật thấp xưng em để được chiếu cố. Gần đây, một tập thể sinh viên viết thư cho Chủ tịch nước mà cứ phải xưng hô bác với cháu, làm như cái khổ nhục kế để cầu xin ấy sẽ động lòng bề trên, để bề trên có thể bước qua mọi ranh giới pháp lí mà cho cái sự xin hèn mọn ấy?
Một thực tế sống động cho thấy tính chất thực dụng đến quên mất vị thế công dân ngay trong giới trí thức, mà trí thức cao cấp ở trường đại học. Sự tôn kính quá mức càng bộc lộ bản chất của sự ti tiện. Trong các cuộc họp, khi phát biểu về vấn đề nào đó, rất nhiều cán bộ chủ chốt xưng em với thầy Hiệu trưởng mà quên rằng đó là một hội đồng dân chủ. Mà nữa, Hiệu trưởng là một chức vụ, còn thầy là một nghề nghiệp. Làm gì có khái niệm kép: thầy Hiệu trưởng. Trong cách xưng hô này vừa cố tình tỏ ra quan hệ “tôn sư” của đạo thầy trò (mặc dù ông ta chưa từng dạy mình nửa chữ), vừa đặt mình đứng dưới thắt lưng của kẻ có chức vụ cao hơn. Khi đã xưng hô như thế thì làm sao có được tiếng nói bình đẳng, trung thực, thẳng thắn, nếu không nói chỉ là phát ngôn vuốt đuôi hoặc cầu xin nịnh nọt. Đấy cũng là chỗ chết của các sếp, ít khi nghe được lời nói thẳng. Mà chừng như sếp nào cũng tỏ ra đắc chí, vì các ông này nghĩ mình là thầy của tất cả các thầy. Và vì ảo tưởng mình là thầy của các thầy, nên các ông này rất cao ngạo coi thường những kẻ gọi mình bằng thầy để có lúc đối xử như đối xử với những kẻ ti tiện: mạt sát, sỉ mắng, xua đuổi… Tất nhiên trong số này, có những người không hề mang bản chất ti tiện, mà chỉ là nạn nhân hay công cụ của ngôn ngữ ti tiện, đúng hơn là do diễn ngôn quyền lực sắp đặt cho họ vị thế ti tiện. Không biết những người này đã bao giờ thấm thía cái giá phải trả cho sự ti tiện này chưa?
Các lãnh tụ cộng sản cho dân xem quan là “đầy tớ”, nhưng dân lại muốn đứng dưới tầm đầy tớ thì 3000 năm nữa cũng chưa có dân chủ!
3. Nên nhớ văn hóa đẳng cấp chưa hẳn đã mang lại lợi ích mà bao giờ cũng chứa nghịch lí hai mặt. Càng được cho nhiều bao nhiêu càng bị khinh hạ bấy nhiêu. Trong khi một thực tế là bọn côn đồ giả danh trí thức bắt đầu tỏ ra khôn hơn, chúng cứ gọi thủ trưởng là “ông anh” và tự xưng là “thằng em”, tuy vẫn được tiếng là có khoảng cách tôn ti, nhưng lại gần gũi đến mức, nếu cần “thằng em bắn cho ba phát đạn” là chúng lại được “ông anh” kinh sợ và cho nhiều thứ hơn, kể cả sức mạnh đè đầu cỡi cổ người khác!!! Té ra luật giang hồ có tôn ti mà lại dân chủ hơn theo cách của nó, tốt hơn là cái văn hóa dân chủ mà bọn trí thức thứ thiệt chưa hiểu đầy đủ nghĩa của từ mà đã to mồm đòi dân chủ!
Hình như từ sau vụ án Năm Cam nổi tiếng, những cách xưng hô truyền thống của phía Nam được khôi phục lại ngay trong giới chức sắc của chính quyền như một cái mode: anh Năm, anh Bảy, anh Ba… Nghe chừng gần gũi thân mật nhưng thực chất cách xưng hô đó đã giang hồ hóa bộ máy chính quyền. Đi đâu cũng nghe nhan nhản một lũ quan chức quèn loe nhoe khoe khoang vừa mới gọi điện hay nói chuyện với Năm Hà, Bảy Dương, Hai Thanh hay Sáu Hải… đang chức rất to nào đó mà rờn rợn, vì cứ như gặp phải “đàn em” nhỏ của các “đại ca” nhớn trong băng nhóm giang hồ!
Xem ra, sự sinh sôi giàu có của từ xưng hô tiếng Việt không phải do văn hóa nào quy định mà do cái lưỡi cao su của người Việt uốn éo trăm chiều đã tạo ra để làm rối loạn đời sống đúng hơn là xác lập một trật tự đúng nghĩa của sự tự do dân chủ!
Dân Việt đối mặt với ngoại xâm thì tự tôn, tự đại, nhưng đối mặt với nội xâm thì tự ti. Goethe nói: chỉ có kẻ ti tiện mới tự ti.Không bao giờ có dân chủ khi người dân vẫn mang trong mình căn bệnh tự ti. Và như vậy, món quà lớn nhất để Làm người là Dân chủ trong nghĩa tự do bình đẳng chẳng ai cho không biếu không mà phải chịu nhục cúi đầu xin xỏ. Món quà ấy phải tự giành lấy, có khi bắt đầu bằng cuộc cách mạng về sự xưng hô, ít nhất biết nhục khi rơi vào tập quán xưng hô tôn kính nhưng thực chất là biểu lộ sự ti tiện của con người mình. Bởi lẽ, con người không chỉ là chủ thể của ngôn ngữ mà còn là công cụ của ngôn ngữ, bị thói quen ngôn ngữ điều hành một cách vô thức. Thứ diễn ngôn quyền lực sắp đặt nên thứ trật tự của món văn hóa bất bình đẳng ấy đã đè lên cuộc sống bao đời nay mà người dân chúng ta chưa thoát ra khỏi nó!
Không có gì đáng tự hào khi tỏ ra ti tiện trước quyền lực. Hãy tập cho dân ta biết nhục bởi sự ti tiện mà những kẻ đứng trên đầu ta đang ung dung hưởng thụ trên sự ti tiện đó!
https://chumonglong.wordpress.com/2012/11/16/tu-xung-ho-va-su-sa-doa-cua-van-hoa-viet/#more-1980
Được đăng bởi Lai Tran Mai vào lúc 22:11

Toàn văn bài diễn văn của Tập Cận Bình ở Quốc hội VN

 

Báo đài Việt Nam không được phép dịch và đăng tải bài diễn văn của trùm cộng sản Tàu Tập Cận Bình. Tìm mãi mới thấy đài BBC có đăng văn bản.

Sao Việt Nam phải giấu diếm như mèo giấu cứt vậy?

Kỳ lạ thật nha.

 

  • 7 tháng 11 2015
Trong chuyến thăm Việt Nam từ 5 đến 6/11, Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có bài phát biểu tại Quốc hội Việt Nam.
Tập 1
Năm 2005, khi thăm Việt Nam, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào cũng từng phát biểu tại Quốc hội, ở địa điểm Hội trường Ba Đình cũ.

Xin giới thiệu với quý vị toàn văn bài phát biểu của ông Tập Cận Bình:

Thưa ngài chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
Các vị đại biểu, các đồng chí và các bạn!
Xin chào tất cả mọi người! Tôi rất vui mừng khi có cơ hội tới thăm Quốc hội Việt Nam, gặp gỡ với các đồng chí, các vị đại biểu. Quốc hội Việt Nam là cơ quan nhà nước cao nhất đại diện cho quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Tôi cảm thấy rất vinh hạnh khi đứng trên diễn đàn này.
Đầu tiên, tôi đại diện cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc, hơn nữa dùng danh nghĩa cá nhân tôi dùng những lời chúc tốt đẹp nhất tới Đảng Cộng sản Việt Nam, chính phủ Việt Nam, nhân dân Việt Nam anh em! Dùng sự kính trọng lớn nhất bày tỏ sự biết ơn đối với những người bạn đã có cống hiến quan trọng trong nỗ lực giữ gìn tình hữu nghị Trung Quốc Việt Nam trong thời gian từ trước đến nay.
70 năm trước, chính tại quảng trường Ba Đình ngoài kia, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với thế giới, chính thức thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Việc này lập dấu mốc cho quá trình phấn đấu gian khổ qua hơn nửa thế kỷ, do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, Đảng cộng sản Việt Nam với truyền thống cách mạng tốt đẹp đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam, đã thực hiện thành công mục tiêu vĩ đại giành độc lập, giải phóng dân tộc. Năm nay, nhân dân Việt Nam chào đón những sự kiện quan trọng như kỉ niệm 70 năm thành lập nước, 40 năm ngày giải phóng miền Nam, 125 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh… Trung Quốc Việt Nam tình thân một nhà, nhân dân Trung Quốc cùng chung vui, hạnh phúc với nhân dân Việt Nam.
Từ thời Cận đại tới nay, hai nước chúng ta đều trải qua quá trình gian khổ đi từ thời kỳ bị bất kỳ kẻ nào áp bức bóc lột đi tới độc lập dân tộc, từ thời kỳ bế quan tỏa quốc tới cải cách mở cửa, từ nghèo đói lạc hậu đi tới phồn vinh phát triển. Từ những năm 80 của thế kỷ trước trở đi, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam vững tin vào chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, tích cực tìm cho mình con đường phát triển thích hợp với tình hình Việt Nam, tìm tới con đường cách mạng mới thuộc về nhân dân Việt Nam, giành được những thành tựu làm cho người khác phải thừa nhận trên công cuộc phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như đưa Việt Nam hội nhập với thế giới, diện mạo quốc gia cũng như đời sống người dân có sự thay đổi sâu sắc.
Ngày nay, Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc trên con đường thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa quốc gia. Chúng tôi cảm thấy vui mừng trước những thành tựu mà các đồng chí Việt Nam đã đạt được trên con đường cách mạng Xã hội chủ nghĩa mới. Tôi tin rằng, dưới sự lãnh đạo kiên cường của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam nhất định giành được những thắng lợi không ngừng trong công cuộc cách mạng đổi mới vĩ đại. Chúng tôi nguyện ý sẽ cùng giữ gìn truyền thống cùng nhau học tập, tinh thần trao đổi kinh nghiệm, cùng dắt tay nhau nhằm phấn đấu xây dựng, phát triển sự nghiệp Chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống bình an hạnh phúc cho nhân dân hai nước.
Thưa các đồng chí, các bạn!
Giống như nhân dân Việt Nam một mực theo đuổi giấc mơ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện mục tiêu đất nước giàu mạnh, chấn hưng dân tộc, nhân dân hạnh phúc là giấc mơ trăm năm của dân tộc Trung Hoa. Giấc mơ của nhân dân hai nước có chung nhịp đập, cùng thể hiện nguyện vọng giống nhau hướng về hòa bình, hạnh phúc và tốt đẹp.
Tập 2
Image copyrightGetty
Dân tộc Trung Hoa từ trước đến nay đều yêu hòa bình, cái gen “ hòa” của dân tộc từ trước tới nay đều không thay đổi, “ hòa” trong văn hóa được bảo lưu trường tồn, mãi mãi. Từ hơn 2400 năm trước, cổ nhân Trung Quốc đã nêu ra đường lối “ Lễ chi dụng, hòa vi quý”( sử dụng lễ nghĩa thì lấy hài hòa, hòa thuận là quý trọng làm đầu). Nguyện vọng hòa bình được mọc rễ từ trong con tim của mọi người Trung Quốc, hòa nhập vào trong dòng máu của dân tộc Trung Hoa. Thời cận đại Trung Quốc đã gặp phải ngọn lửa chiến tranh và bất ổn trong hơn một thế kỉ, nhân dân Trung Quốc đã phải chịu những khổ nạn đau đớn. Nhân dân Trung Quốc yêu hòa bình cuồng nhiệt cũng như biết quý trọng cục diện hòa bình mà phải đánh đổi gian khổ mới có được. Sự phát triển của Trung Quốc không thể rời xa được môi trường hòa bình, ổn định của tình hình quốc tế và các quốc gia xung quanh, sự lớn mạnh của Trung Quốc sẽ trở thành lực lượng giữ gìn hòa bình và ổn định trên toàn thế giới.
Đối với tình hình trước mắt, Đảng Cộng sản Trung Quốc đang giương cao ngọn cờ Xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc vĩ đại, đoàn kết dẫn dắt mọi lực lượng của Trung Quốc, xây dựng xã hội khá giả toàn diện, tiến hành cải cách sâu rộng, xây dựng quốc gia pháp trị toàn diện mọi mặt, thi hành nghiêm khắc chiến lược phát triển của Đảng, nỗ lực phấn đấu hoàn thành thực hiện mục tiêu xã hội khá giả toàn diện vào thời điểm chào mừng 100 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc, đồng thời thực hiện mục tiêu to lớn đưa Trung Quốc trở thành quốc gia Xã hội chủ nghĩa hiện đại hóa, giàu mạnh, hài hòa vào thời điểm kỉ niệm 100 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Image copyrightAP
Tập 3
Chúng tôi vừa tổ chức Hội nghị Toàn thể lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18, đưa ra những đường nét cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc trong 5 năm tới, xác định đồng thời quán triệt tốt những tư tưởng phát triển then chốt như đổi mới, phối hợp, phát triển xanh, mở cửa, cùng chia sẻ. Đưa ra một loạt những chính sách, biện pháp quan trọng nhằm thúc đẩy kinh tế xã hội, tổ chức và huy động mọi nguồn lực của mọi dân tộc, các tầng lớp nhân dân khắp Trung Quốc nhằm đưa mọi mặt của kinh tế, xã hội Trung Quốc phát triển lên một tầm cao mới, đưa cuộc sống của nhân dân Trung Quốc ngày càng tốt hơn, đóng góp ngày càng nhiều, càng quan trọng hơn trong sự nghiệp phát triển con người và hòa bình của nhân loại.
Thưa các đồng chí, các bạn!
Trung Quốc Việt Nam hai nước sơn thủy tương liên, nhân dân hai nước có lịch sử giao lưu trao đổi lẫn nhau từ lâu. Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng đất nước, chúng ta đã kề vai chiến đấu, hỗ trợ lẫn nhau, xây dựng nên tình đoàn kết hữu nghị lâu bền. Trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội giàu mạnh mang màu sắc riêng của mỗi quốc gia, chúng ta học tập lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau vun trồng những kết quả phong phú, tốt đẹp. Quan hệ Việt Trung đã vượt lên trên hàm ý những mối quan hệ song phương thông thường, có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng.
Trung Quốc Việt Nam hai nước sơn thủy tương liên, nhân dân hai nước có lịch sử giao lưu trao đổi lẫn nhau từ lâu.
Trung Quốc Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao được hơn 65 năm. Tháng 4 năm nay, trong thời gian Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm Trung Quốc, tôi và ngài tổng bí thư đã tổng kết quá khứ, nhìn về tương lai. Chúng tôi đã đạt được nhận thức chung, mối quan hệ gắn bó Trung Việt đã được chủ tịch Mao Trạch Đông, thủ tướng Chu Ân Lai cùng với chủ tịch Hồ Chí Minh thế hệ lão thành tiền bối hai bên xây dựng nên, là tài sản quý báu của hai đảng, nhân dân hai nước, cần được quan tâm chăm sóc, bồi dưỡng. “ Tín giả, giao hữu chi bản” ( lòng tin là cái căn bản để xây dựng tình bạn). Trung Việt hai quốc gia có rất nhiều lợi ích chung, hợp tác hữu hảo trước sau chiếm đa số. Hai bên cần phải lấy quan hệ hữu hảo Trung Quốc Việt Nam cũng như đại cục phát triển hai nước làm trọng, giữ vững phương châm tôn trọng lẫn nhau, hữu hảo đàm phán, thu hẹp bất đồng, phát huy điểm chung, xử lí tốt mọi tranh chấp. Sự hợp tác đôi bên cùng có lợi đem đến những lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đồng thời giúp ích cho hòa bình ổn định và phồn vinh của khu vực, do đó cần được tăng cường về mọi mặt. Những kinh nghiệm và bài học quý giá này là nền tảng cơ bản trong phát triển quan hệ Trung Quốc Việt Nam, đồng thời cũng là điểm xuất phát và là điểm tựa trong công tác xử lí những bất đồng còn tồn tại giữa hai bên.
Huynh đệ đồng lòng, có thể chặt đứt được kim loại. Tình hình an ninh khu vực và quốc tế có nhiều biến đổi đa đoan, hai đảng hai quốc gia cùng đối mặt với nhiều thách thức hoặc vấn đề mới giống nhau. Chúng ta không chỉ là bạn bè tốt láng giềng tốt sơn thủy nối liền, mà quan trọng hơn là có lợi ích gắn chặt cùng nhau, là một khối chung có cùng chung sinh mạng, chung mục tiêu. Chúng ta càng cần giúp đỡ, chiếu cố lẫn nhau, cùng cầm tay nhau đi về phía trước hơn bao giờ hết. Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển mối quan hệ song phương với Việt Nam, với phương châm toàn diện hợp tác, nguyện cùng đi chung con đường với phía Việt Nam, cùng nhau giữ gìn hòa bình ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, trên tinh thần láng giềng tốt, đồng chí tốt, bạn bè tốt, đối tác tốt, phát triển toàn diện mối quan hệ chiến lược lâu dài Trung Quốc Việt Nam bền vững, ổn định, đưa tới càng nhiều hạnh phúc cho nhân dân hai nước.
Thứ nhất, Trung Quốc Việt Nam cần là đồng chí tốt có thể tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “ Trung Quốc Việt Nam hữu nghị tình thầm, đồng chí cộng anh em”. Chế độ chính trị của hai nước tương đồng, lí tưởng và niềm tin giống nhau, có chung lợi ích chiến lược. Trung Quốc Việt Nam kiên trì với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, kiên trì đi theo con đường Chủ nghĩa xã hội, kiên trì sự nghiệp cách mạng mới, kiên trì công cuộc cải cách mở cửa, là sự lựa chọn của lịch sử, cũng là sự lựa chọn của nhân dân hai quốc gia. Trên con đường đã bước đi này, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Đi theo con đường này về phía trước, chúng ta nhất định sẽ đạt được những thành quả huy hoàng, những tương lai phát triển rực rỡ hơn.
Thực tiễn đã nói cho chúng ta, phương hướng quyết định con đường đi về phía trước, đường đi quyết định vận mệnh. Trên vấn đề quan trọng kiên trì đi trên con đường mà nhân dân hai nước chúng ta đã lựa chọn. hai đảng, nhân dân hai nước chúng ta cần phải có lòng tin kiên định, hỗ trợ lẫn nhau, cùng dắt tay nhau đi về phía trước, kiên quyết không được để bất kì kẻ nào phá vỡ bước đi của chúng ta, kiên quyết không được để bất kì thế lực nào dao động, thay đổi bức tường bảo vệ chế độ của chúng ta.
Phía Trung Quốc hết sức ủng hộ con đường cách mạng mới của Việt Nam, chân thành mong muốn các đồng chí Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc kiến thiết xây dựng Chủ nghĩa xã hội, thành tâm nhìn thấy sự phát triển ngày càng tốt, càng nhanh chóng của Việt Nam. Chúng tôi nguyện ý cùng các đồng chí Việt Nam xây dựng niềm tin lẫn nhau, cùng giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tích cực cống hiến vì sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp phát triển của nhân loại. Phía Trung Quốc muốn cùng chia sẻ cho Việt Nam những kinh nghiệm, kiến thức phong phú, toàn diện từ lí thuyết đến thực tiễn đối với công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng Xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Trung Quốc Việt Nam cần phải trở thành những đối tác tốt trong mối quan hệ hợp tác cùng có lợi. Nhìn lại thế giới ngày nay, tình hình quốc tế đang không ngừng có những thay đổi sâu sắc, các hệ thống quốc tế, trật tự thế giới đang phát triển theo hướng công bằng và hợp lí hơn. Đồng thời thế giới cũng không hề hòa bình, có sự hỗn loạn ở quy mô cục bộ, chủ nghĩa khủng bố như âm hồn bất tán, kinh tế thế giới thiếu động lực để phát triển, sự đan xen giữa những mối thách thức truyền thống và phi truyền thống. Duy trì hòa bình, ổn định thế giới, thúc đẩy phát triển là nhiệm vụ lâu dài. Chúng ta cần phải nắm vững xu thế quốc tế, bắt kịp trào lưu của thời đại, cùng nhau xây dựng một môi trường quốc tế, trật tự thế giới có lợi cho hòa bình, ổn định ở khu vực Châu Á cũng như trên toàn thế giới. Trung Quốc ủng hộ Việt Nam phát huy hơn nữa vai trò và tác dụng của mình trên vũ đài khu vực cũng như thế giới, nguyện ý tăng cường hơn nữa hợp tác với Việt Nam ở những diễn đàn, cơ cấu hợp tác quốc tế và khu vực, duy trì lợi ích chung giữa hai quốc gia, thúc đẩy sự phát triển trong khu vực.
Nền kinh tế của hai nước Trung Quốc Việt Nam có sự liên hệ với nhau rất rộng, sự phụ thuộc tương hỗ lẫn nhau cũng lớn, qua đó gắn kết về lợi ích kinh tế cũng ngày càng chặt chẽ. Toàn cầu hóa, khu vực hóa về kinh tế mang lại cơ hội và thách thức tương đồng cho cả hai nước. Phía Trung Quốc đánh giá rất cao sự kết nối, phát triển chiến lược giữa hai quốc gia, đồng ý tăng cường hợp tác đầu tư phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng, cung ứng năng lượng trong phạm vi bộ khung “ một con đường, một vành đai”, “ hai hành lang, một vùng kinh tế” nhằm tạo động lực thúc đẩy mới cho quá trình hợp tác đối tác quan hệ toàn diện Trung Quốc Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới.
Thứ ba, Trung Quốc Việt Nam cần trở thành láng giềng tốt, quan hệ hữu hảo thân tình. Cổ nhân có câu “ ngàn vàng chỉ để mua tình láng giềng”. Giống như trong bài hát “ Việt Nam – Trung Quốc”, nhân dân Trung Việt hai nước “ uống chung một dòng nước, sớm nhìn đi, tối nhìn lại”. Nhân dân hai nước Trung Quốc Việt Nam từ lâu đã là láng giềng, từ xưa tới nay đã có quan hệ qua lại mật thiết, gần đây còn có giao tình cùng chống giặc ngoại xâm, ngày nay có cùng chung sự nghiệp chấn hưng phồn vinh. Tình hữu nghị giữa nhân dân hai quốc gia đã được khảo nghiệm qua lịch sử lâu dài cùng sự đổi thay của thời gian, là động lực vô tận cũng như là nền tảng quan trọng trong phát triển mối quan hệ song phương giữa hai bên. Hai bên cần phải lấy mốc 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao làm cợ hội, thắt chặt hơn phương hướng trong quan hệ giữa hai quốc gia, đảm bảo tình hữu nghị Trung Quốc Việt Nam đời đời lưu truyền.
Người Trung Quốc thường nói, người thân càng giúp nhau càng thêm thân, láng giềng càng quan tâm càng tốt. Giữa láng giềng với nhau cũng khó tránh khỏi va chạm, nhưng hai bên cần phải xuất phát từ đại cục quan hệ song phương, thông qua đàm phán hòa bình, giải quyết ổn thỏa tranh chấp, xử lí bất đồng, tránh việc quan hệ song phương giữa hai nước đi lệch khỏi quỹ đạo. Cổ nhân vốn có câu “ Người có viễn kiến thì mới có thể thu hoạch thêm càng nhiều lợi ích”. Tôi tin rằng, hai nước Trung Quốc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của hai đảng, hai chính phủ thì nhân dân hai nước hoàn toàn có năng lực, có trí tuệ loại bỏ mọi quấy nhiễu, cùng nhau viết nên những áng văn mới trong quan hệ láng giềng hữu hảo Trung Quốc Việt Nam. Thứ tư, Trung Quốc Việt Nam cần làm bạn bè tốt, thường xuyên thăm viếng lẫn nhau. Bà con càng đi lại càng gần, bạn bè càng đi lại càng thân. Tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước là nguồn suối động lực cho quan hệ hai bên. Vào năm ngoái, Trung Quốc Việt Nam có hơn 3 triệu lượt người thăm viếng, qua lại lẫn nhau, có hơn 14000 du học sinh Việt Nam đang học tập tại Trung Quốc, đồng thời cũng có từ 3000-4000 du học sinh Trung Quốc sinh hoạt, học tập tại Việt Nam. Những con số này làm chúng ta thật sự vui mừng.
Hôm qua, trong lúc hội đàm với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã thống nhất gia tăng thêm một bước về hoạt động trao đổi nhân viên hai phía, tăng cường các hoạt động hợp tác giao lưu văn hóa, giáo dục duc lịch…xây dựng tốt các diễn đàn cho nhân dân Trung Quốc Việt Nam, hội giao lưu hữu nghị thanh niên Trung Việt, tăng cường các hoạt động giao lưu tìm hiểu hai phía, tăng cường bầu không khí phong phú, tạo cơ hội cho các hoạt động dân gian. Trung Quốc hoan nghênh chào đón ngày càng nhiều du học sinh Việt Nam tới Trung Quốc học tập, du lịch, làm ăn, hy vọng người dân hai nước tăng cường các hoạt động qua lại lẫn nhau, tăng cường hiểu biết, tìm hiểu, vun đắp tình hữu nghị giữa hai bên.
Thưa các đồng chí, các bạn!
Từ năm 1942 đến năm 1943, trong thời gian chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động cách mạng đã viết câu thơ “Trùng san đăng đáo cao phong hậu, Vạn lý dư đồ cố miện gian”, nhà thơ đời Đường là Vương Bột cũng viết “Đăng Thái Sơn nhi lãm quần sơn, tắc cương loan chi bản mạt khả tri dã”. Quan hệ Việt Trung đã đứng trên điểm cao lịch sử mới. Chúng ta lên đỉnh núi cao, nhìn tầm mắt ra xa, cùng nhau bắt tay nỗ lực, phấn đấu mở ra một kỷ nguyên mới trong quan hệ toàn diện Trung Quốc Việt Nam, nhằm duy trì lâu dài hòa bình ổn định, tạo dựng một Châu Á và thế giới thịnh vượng, phồn vinh, góp phần tạo nên một thế giới rộng lớn hơn!
Xin cám ơn mọi người!
(Theo Giang Nam Lãng Tử blog)
XEM ĐỂ BIẾT

08/11/2015

Hình ảnh : QUỐC YẾN MỜI TẬP HÍP CÓ NHỮNG GÌ ?

Quốc yến hai bác Nguyễn và Trương chiêu đãi bác Tập 



Ảnh của một người được mời cùng tham dự quốc yến.
Về thực đơn, liên quan đến chuyên môn, nên mình đặt 
sự chú ý đến món "bánh dân tộc" trên bàn tiệc.
Bên tiếng Trung Quốc thì "bánh dân tộc" 
chỉ được dịch là "điểm tâm".
Từ đây trở xuống là thuần túy lưu tư liệu lấy về 
 từ trang của người đó.

---

Ngọc Báu Đàoさんが新しい写真21枚を追加しました 

今天晚上越南共产党委员会总书记阮富仲与夫人,
越南社会主义共和国国家主席张晋创与夫人宴请
中国共产党委员会总书记、中华人民共和国国家
主席习近平与夫人。祝越中两党和两国人民友谊
万古长青,越中全面战略合作伙伴关系不断发展。 

Tối nay, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam 
Nguyễn Phú Trọng và phu nhân, 
Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
và phu nhân đã mở yến tiệc chiêu đãi Tổng bí thư
 Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước 
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và phu nhân.
Chúc tình hữu nghị hai Đảng và nhân dân hai nước
 Việt Trung mãi mãi xanh tươi, chúc quan hệ 
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Trung 
không ngừng phát triển. 

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1720169218217810&id=100006742453145&pnref=story





















11 tháng 11, 2015

SAO KHÔNG MỞ MẮT RA
( Lục bát nói hài vnthidan.com trang 65 )
Nước ta từ thuở Hồng Bàng*
nhà Ân đã bắt đầu sang cướp rồi
Trung Hoa lịch sử lâu đời
Dòng máu bành trướng sục sôi Thiên triều.
Nước ta nghìn thuở xiêu điêu
Chống bọn Trung Quốc - cú diều xâm lăng
Ông cha ta đã dạy rằng
Không làm bạn tốt với thằng này đâu :
"Ai ơi chớ vội làm giàu
Thằng Tây nó tếch, thằng Tầu nó sang" **

Toàn dân ta hãy sẵn sàng
Cầm súng tiêu diệt sói lang (Tập) Cận Bình !!!!
16 chữ vàng lung linh
Hóa ra vàng mã Bắc Kinh nó lừa.
Vụ dàn khoan***, mở mắt chưa
Sao không thấy tiếng cụ Rùa hồ Gươm ?????.
-------------
* (Vua Hùng thứ 6)
** Ca dao của người Việt
*** Dàn khoan Haiyang 981 của Tầu cẩu
Nhân sự kiện Tập Cận Bình - Chủ tịch nước, bí thư đảng CS Trung Quốc sang Việt Nam ( tháng 11/2015), đọc bài bài thơ trên trang Chiêm Nghiệm (trang 55) của vnthidan.com
Nước ta trải mấy nghìn năm
luôn luôn đánh bại xâm lăng giặc Tầu

Trải qua nhiều cuộc bể dâu

từ thời cận đại mà đau đớn lòng
Hôm nay dậy sóng biển Đông


giặc Tầu cướp biển của ông cha mình

Bao nhiêu thế hệ hy sinh

máu xương đổ xuống để giành Trường Sa

Càng nghĩ lại càng xót xa,
càng căm giận với bao la hận sầu

Từ Nam Quan đến Cà Mau
muôn người như một bên nhau xuống đường....
Mới hay qua mỗi đêm trường
ngày càng hiện rõ một phường vong nô.
Mười sáu chữ vàng ! Ô hô !!!
Nha Trang tháng 6/2014

10 tháng 11, 2015

  Lưu bài này để suy ngẫm

NGUYỄN PHÚ TRỌNG THỪA NHẬN HOÀNG SA VÀ MỘT PHẦN TRƯỜNG SA THUỘC TRUNG QUỐC?!


Posted by adminbasam on 10/11/2015

Nguyễn Thanh Giang
10-11-2015
Thế là Tập Cận Bình đã kết thúc hai ngày thâm nhập Việt Nam. Trong hai ngày đó, ông ta đã lần lượt hội đàm, hội kiến với các lãnh đạo Việt Nam: Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội. Củng cố tình hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt với Trung Quốc là sách lược sống còn. Tuy nhiên, hơn bất cứ nước nào, ta cần hết sức cảnh giác khi tiếp xúc với Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bây giờ phải quán triệt sâu sắc phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Lắng nghe các buổi hội đàm để xem các nhà lãnh đạo Việt Nam đã thể hiện tinh thần ấy thế nào?
Về chính trị, không mấy ai buồn nghe những khẩu ngữ vừa mông lung, vừa vô nghĩa như: “bốn tốt”, “mười sáu chữ vàng”, “tầm cao chiến lược”, “đại cục”…, người ta quan tâm đến lĩnh vực kinh tế và tình hình Biển Đông.
Khi bàn về kinh tế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đều xoáy vào vấn đề nhức nhối hiện nay, vấn đề mất cân bằng cán cân thương mại. “Thủ tướng đề nghị hai bên thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác thực chất đạt tiến triển mới phù hợp tiềm năng, trình độ của hai nước, đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên; phát huy hơn nữa vai trò của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc trong chỉ đạo, điều phối, đưa những thỏa thuận và nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đi vào thực tế; thúc đẩy thương mại hai nước tăng trưởng bền vững, từng bước giảm nhanh nhập siêu của Việt Nam, tăng cường thương mại chính ngạch, quy phạm hóa và quản lý hiệu quả thương mại biên giới”.
Cũng như Thủ tướng, “Chủ tịch nước đề nghị hai bên thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, triển khai có hiệu quả các thỏa thuận đã đạt được trên các lĩnh vực kinh tế – thương mại, đầu tư; đưa các thỏa thuận hợp tác này có tiến triển thực chất, góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước phát triển theo chiều hướng cân bằng, bền vững trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau. Hai bên cần sớm có biện pháp hữu hiệu để hướng tới cân bằng cán cân thương mại Việt – Trung và tăng cường hợp tác đầu tư các dự án lớn tại Việt Nam tiêu biểu cho trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến của Trung Quốc, góp phần thúc đẩy kết nối hai nền kinh tế trên một số lĩnh vực và tăng cường tin cậy, đem lại lợi ích thiết thực, lâu dài cho nhân dân hai nước”.
Tiếp thu “huấn thị” nghiêm túc đó, Tập Cận Bình phải hứa (có thể là hứa hão): “Về hợp tác kinh tế, hai bên cần thúc đẩy hợp tác thiết thực, kết nối chiến lược phát triển; hợp tác về năng lực sản xuất giữa hai nước trong các lĩnh vực; thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác trọng điểm và các dự án tiêu biểu, cùng nhau tháo gỡ khó khăn để nâng cao hiệu quả của một số dự án hợp tác như Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Nhà máy đạm Ninh Bình…; tăng cường hợp tác biên giới; tích cực giải quyết mất cân đối thương mại giữa hai bên; đi sâu hợp tác tiền tệ, đẩy mạnh tự do hóa thương mại, đầu tư song phương”.
Trong khi đó, Nguyễn Phú Trọng không hề đề cập đến vấn đề bức thiết ấy dối với quyền lợi dân tộc mà thề thốt “… thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác phát triển thực chất, cân bằng, hiệu quả. …thúc đẩy các dự án hợp tác kết nối khuôn khổ “hai hành lang, một vành đai” với những nội dung phù hợp trong sáng kiến “một vành đai, một con đường” trên cơ sở tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, bình đẳng cùng có lợi”
Sao lãng quyền lợi quốc gia, Nguyễn Phú Trọng tập trú vào phục vụ sáng kiến “một vành đai, một con đường”. Nhưng, “một vành đai, một con đường” là thế nào?
Một vành đai, một con đường sẽ đi qua ba lục địa Á – Âu – Phi, kết nối Trung Quốc, Trung Á, Nga và châu Âu (vùng Baltic); nối liền Trung Quốc với vịnh Persian và Địa Trung Hải qua Trung Á và Tây Á; kết nối Trung Quốc với Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Nó bao gồm Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa (SREB) – được xây dựng dọc theo hành lang Âu – Á từ bờ biển Thái Bình Dương tới Baltic. Kế hoạch này thực sự là một phần của phản ứng với những sự tái liên minh chiến lược đã và đang diễn ra tại các nước láng giềng của Trung Quốc vài năm qua và sự tái cân bằng chiến lược của Mỹ với châu Á. Sáng kiến này không chỉ đơn thuần là phản ứng với sự tái cân bằng của Mỹ hay môi trường chiến lược thay đổi trong khu vực mà trước tiên là nhằm phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Trước mắt nó không thật cần thiết đối với Việt Nam.
Đất nước còn nghèo, tại sao Nguyễn Phú Trọng không nghĩ đến vấn đề bức thiết làm cho nhân dân sớm bớt khổ mà chỉ lo “vác tù và hàng tổng” và tận tụy phục vụ Bắc triều?
Sang đến vấn đề biển đảo. Lần này thì chủ tịch Trương Tấn Sang rất đáng hoan nghênh khi mở đầu buổi hội đàm ông đã đốp thẳng vào mặt đối phương: “Những năm gần đây, lòng tin về quan hệ hai Đảng, hai nước trong một bộ phận quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên đã bị suy giảm bởi những tranh chấp, bất đồng giữa hai nước về vấn đề trên biển cũng như việc một số thỏa thuận hợp tác giữa hai nước không được thực hiện đầy đủ. Bất đồng giữa hai nước về vấn đề Biển Đông là thực tế, nhưng quan trọng nhất là hai bên phải tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, kiểm soát tốt tình hình, phải thực hiện nghiêm túc những thỏa thuận và nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, thông qua đàm phán giải quyết các mâu thuẫn một cách thỏa đáng, không có hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, không theo đuổi mục tiêu quân sự hóa ở Biển Đông; đảm bảo an toàn hàng hải, hàng không và các hoạt động đánh bắt hải sản bình thường của ngư dân; cùng nhau tạo dựng và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định phục vụ mục tiêu phát triển của cả hai nước và của khu vực”.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhấn mạnh: “Hai bên cần nghiêm túc thực hiện các thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao về vấn đề trên biển; nhất là “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc” bằng các hành động thực tế, nhất quán; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt – Trung, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Duy trì hòa bình, ổn định và kiểm soát bất đồng trên biển; chân thành và thẳng thắn trao đổi, nghiên cứu vấn đề phi quân sự hóa ở Biển Đông; bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông; bảo đảm an toàn cho các hoạt động đánh bắt hải sản trên biển của ngư dân.
Vấn đề đau đáu lo cho dân sinh đang bị Trung Quốc tước đoạt tàn bạo, đòi phải “bảo đảm an toàn cho các hoạt động đánh bắt hải sản trên biển của ngư dân”, không hề xuất hiện trong hội đàm của Nguyễn Phú Trọng mà chỉ thấy lơ mơ láng máng: “Kiểm soát tốt bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, không để vấn đề này ảnh hưởng quan hệ hai nước. Đề nghị hai bên phối hợp chặt chẽ để kiểm soát hiệu quả tình hình trên biển; tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau; thực hiện nghiêm túc các nhận thức chung và thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; duy trì nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình…”
Không chỉ lơ mơ láng máng mà còn ngu xuẩn một cách tệ hại !
Sao lại ngửa tay xin được duy trì nguyên trạng một cách rất mơ hồ như vậy, Hoặc là phải nói rõ là nguyên trạng nào. Nguyên trạng theo đời Nhà Thanh của họ hay theo đời Nhà Nguyễn của ta, lúc ấy tất cả các bản đồ đều xác định cực nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Hoặc phải nói tạm thời chấp nhận hiện trạng. Trong ngữ cảnh ở đây, nói duy trì nguyên trạng có nghĩa là thừa nhận sự duy trì vĩnh viễn cái hiện trạng Trung Quốc đang chiếm đóng Hoàng Sa và tám đảo ở Trường Sa. Sự mơ hồ này cực kì nguy hiểm vì câu nói đó xuất phát từ miệng của vị đại diện cao nhất của Việt Nam. Không thể nói đây chỉ là khẩu thiệt vô bằng vì đã có ghi âm, ghi hình đàng hoàng. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang bị đối phương triệt để lợi dụng, câu nói này của Nguyễn Phú Trọng sẽ được bọn họ xem là bửu bối. Cho nên đây là tai họa lớn gấp nhiều lần mà Nguyễn Phú Trọng quàng thêm lên cổ đất nước, không biết làm thế nào để gỡ ra.
Rất may là cả Trương Tấn Sang lẫn Nguyễn Tấn Dũng không ai nói như Nguyễn Phú Trọng.
Sự mơ hồ Nguyễn Phú Trọng chỉ có thể giải thích bằng sự ngu xuẩn hoặc giả ngây giả ngô, làm nội ứng để xẻ thịt cắt da tổ quốc dâng cho giặc.
Xét các sai lầm nghiêm trọng đã thành hệ thống:
– Nhân danh Tổng Bí thư, không phán ánh đúng tinh thần Bộ Chính trị, tự tiện đưa ra chủ trương song phương hóa tranh chấp Biển Đông Việt Nam – Trung Quốc (xem bài viết ngày 22 tháng 10 năm 2015 “Ai phải chịu trách nhiệm đưa Trung Quốc xâm lấn Trường Sa?” trong thư viện online www.nguyenthanhgiang.com)
– Nhân danh Tổng Bí thư, không phản ánh đúng tinh thần Bộ Chính trị, tự tiện mời công an Trung Quốc vào chế ngự Việt Nam (xem bài viết tháng 5 năm 2013 “Mấy nghi vấn đối với bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc do ông Nguyễn Phú Trọng kí kết” trong thư viện trên).
– Nhân danh Tổng Bí thư, không phản ánh đúng tinh thần Bộ Chính trị, tự tiện thừa nhận Biển Đông của Việt Nam thuộc vào thành phố Tam Sa của Trung Quốc.
(v v…)
Đề nghị Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN ra quyết định đình chỉ công tác để làm kiểm điểm, tiến tới truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Phú Trọng.
Hà Nội 10 tháng 11 năm 2015
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 5, ngõ 341 đường Trung Văn
Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội
Mobi: 0984 724 165