4 tháng 10, 2015

Đọc và suy ngẫm

Văn khải

Phụ nữ, ở độ tuổi sinh nở: Cứ mỗi tháng, họ hành kinh 1 lần. Lần nào, cũng phải đóng bỉm. Dùng xong, miếng bỉm ấy, lầy nhầy máu. Nó, được quăng vào sọt rác. Những người CS, đương lúc cầm quyền: Cứ 5 năm, họ Đại hội đảng 1 đận. Đận nào, cũng phải có: Báo cáo chính trị. Thông thường, những bản Báo cáo ấy, chỉ được đọc và thảo luận có 1 lần, trong Đại hội. Sau đó, chẳng còn ai, nhớ đến, sự hiện diện của nó. Tùy nơi – tùy lúc, người ta, có thể gia giảm dấm – ớt, cho nó, đỡ bốc mùi. Thêm gì thì thêm – Bớt gì thì bớt.  Nhưng, không bao giờ, những bản Báo cáo ấy, khuyết câu: “An ninh Chính trị, được đảm bảo và củng cố vững chắc”.
Thoạt nhìn, ai cũng tưởng, là như vậy. Xã hội, thời CS, yên tĩnh đến mức lạ thường: Không có biểu tình (Chỉ có tụ tập đông người) – Không có đình công (Chỉ có ngưng việc tập thể) – Không có tù Chính trị (Chỉ bỏ tù những ai, đòi Độc lập cho Đất nước và Nhân quyền cho Nhân dân) – Đào đâu ra, đối lập và phản biện. Hỏi, bất cứ 1 người dân nào, về tình cảm của họ, dành cho nhà cầm quyền. Mười người, như một chục. Họ, đều lấm lét nhìn nhau. Gặng nữa, sắc mặt của họ, chuyển từ tái sang hồng. Họ, mỉm cười và trào phúng: “Dân Việt nam chúng tao, có chỉ số hạnh phúc, đứng vào hạng thứ 2, trên thế giới. Hỏi làm gì, cho mất công”.

Chỉ đến khi, chế độ CS, thình lình, đổ sụp xuống, giống như Trời long – Đất lở. Thiên hạ, mới kinh hoàng. Yên tĩnh, chỉ là cái vỏ. Còn, trong lòng nó, có sự sục sôi của cả 1 ngọn núi lửa. Núi lửa phun, mọi sự, đã trở nên quá muộn. Thực tế, bộ máy Tuyên truyền của CS, đã “dùng thúng”, để “úp con voi” sự thật. Còn, hệ thống đàn áp, đã dùng cách, mà dân gian giễu cợt, gọi là, “bắt cóc bỏ đĩa” hoặc “dán bùa  .ồn mèo”. Để, giữ cho “An ninh Chính trị, được đảm bảo và củng cố vững chắc”. Họ, chưa từng biết đến, cuộc thảo luận, giữa Chu Văn vương và Khương Tử nha, về đề tài này.

                                                  文启

文王问太公曰:圣人何守? Văn vương vấn Thái công viết: Thánh nhân hà thủ?
Văn vương hỏi Thái công: Những chuẩn tắc nào, mà Thánh – Hiền, phải coi, là sợi chỉ đỏ, xuyên suốt quá trình, trị Nước – an Dân?
太公曰:何忧何啬,万物皆得;Thái công viết: Hà ưu hà sắc, vạn vật giai đắc.
Thái công trả lời: Đại vương, hà tất, phải lo lắm – nghĩ nhiều. “Trăng, đến rằm, hình nó mới tròn”. Trẻ con: “Ba tháng, biết lẫy – Bảy tháng, biết bò – Chín tháng, lò dò biết đi”. Nôn nóng, tập trước cho chúng, cũng chẳng ích gì. Chỉ, khiến chúng sợ và tổn hại, đến bộ xương của chúng. Thể chế Dân chủ, trước – sau, cũng sẽ được thiết lập, trên toàn thế giới. Nhanh hay chậm, tùy thuộc, ở độ chin mùi của hoàn cảnh, ở mỗi nước.
何啬何忧,万物皆遒,Hà sắc hà ưu, vạn vật giai tù.
Đại vương, hà tất, phải nghĩ lắm – lo nhiều. “Nước, ắt phải, chảy vào chỗ trũng”. Nhân tâm, bao giờ, cũng hướng về nơi, có đủ Nhân – Đức – Nghĩa – Đạo. Đạo lí, từ ngàn đời ấy: Đúng với mọi người dân thường;  Đúng với mọi cán bộ – chiến sĩ, trong các Lực lượng vũ trang và không loại trừ, cả những nhân viên, trong các hệ thống cai trị, của chế độ Độc tài.
政之所施,莫知其化,Chính chi sở thi, mạc tri kì hóa.
Trị Nước – an Dân, phải khéo léo. Pháp luật, phải dựa trên phong tục – tập quán của người dân. Khiến, họ không nhận ra: Mình, đang bị cai trị. Mọi quá trình chuyển hóa (nếu có), cũng phải diễn ra 1 cách từ từ. Khiến dân chúng, còn không kịp nhận ra, có sự thay đổi.
Không thể, “đốt cháy giai đoạn”, để làm 1 cuộc “Đại nhảy vọt”, như ông Mao Trạch Đông. Khiến Trung Hoa cộng sản, ngay sau đó, rơi vào hỗn loạn. Không thể “đốt cháy giai đoạn”, để cưỡi lên “Thiên lý mã”, như ông Kim Nhật Thành. Khiến Bắc Triều tiên, vỡ nợ và tụt lùi khủng khiếp. Không thể “đốt cháy giai đoạn”, để thành lập những Tập đoàn kinh tế nhà nước và, đặt những đứa trẻ chăn trâu vào ghế lãnh đạo. Hậu quả: Chúng, phá tan hoang, nền kinh tế, vốn đã còi cọc của Việt nam.
时之所在,莫知其移。Thời chi sở tại, mạc tri kì di.
Giống như, thời tiết trong Tự nhiên. Nó, biến đổi 1 cách từ từ. Khiến cho, con người ta, không cảm nhận, có sự thay đổi. Họ, thích nghi với hoàn cảnh và không bị, ảnh hưởng tới sức khỏe.
Nhiều người, không hiểu nguyên tắc này. Vừa ngồi trong ô tô mát rượi, họ đã mở cửa, để bước xuống, tiếp xúc ngay, với mặt đường nhựa nóng chảy của mùa hè. Vô số người, bị đột tử. Chỉ vì, những lí do, hết sức vớ vẩn đó.
圣人守此而万物化,何穷之有. Thánh nhân thủ thử nhi vạn vật hóa, hà cùng chi hữu,
Thánh nhân, nắm chắc nguyên tắc này, để trị lí Quốc gia. Chắc chắn, họ sẽ chẳng bao giờ, bị dồn vào bước đường cùng.
Đến ngày 30- 4-1975, những người CS, đã cưỡng chiếm xong miền Nam Việt nam. Lúc này, trên toàn cõi Việt nam, có tới 3 vùng chính quyền: Miền Bắc, do CS quản lí. Một phần miền Nam, do Việt cộng quản lí. Phần còn lại, thuộc Việt nam Cộng hòa. Theo đúng sách: Họ, phải để miền Nam, cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, quản lí. Trước mắt, sẽ tìm cách hòa đồng Việt cộng và Việt nam Cộng hòa, ở miền Nam. Kế đó: Hai miền Nam – Bắc, sẽ giao thoa, cả về Kinh tế – Chính trị. Khi, đã có sự tương đồng, 1 cách căn bản: Sẽ, tiến hành Thống nhất Đất nước. Tiếc thay, họ đã không Thống nhất Đất nước, theo kịch bản đó. Họ, chọn giải pháp “ăn sống – nuốt tươi”. Và, hậu quả của nó, tưởng như, không cần phải nhắc lại.
终而复始。Chung nhi phục thủy.
Trong Tự nhiên và Xã hội, vạn sự – vạn vật, đều tuân theo quy luật: Có sinh – có tử. Chẳng có cái gì, tồn tại đến “muôn năm” cả. Kết thúc của quá trình này, lại là, khởi đầu cho 1 quá trình khác. Sự tuần hoàn, trong tự nhiên, là vô cùng – vô tận.
Chọn lọc tự nhiên”, là 1 trong những quy luật phát triển phổ biến của Sinh giới. Những gì già nua – ốm yếu, tất sẽ bị đào thải. Đừng vì, sự đào thải ấy, mà ưu tư. Thiên nhiên, rất công bằng. Và, chỉ giữ lại trong lòng nó, những gì tối ưu nhất. Trong lịch sử Việt nam: Lúc nhà Lý mạt vận, nhà Trần cường tráng, đã vươn lên chiếm chỗ. Bằng cách, để: “vợ, nhường ngôi cho chồng”. Một kịch bản,“diễn biến hòa bình”, quá ư hoàn hảo. Không biết sau này, khi xu thế Dân chủ thắng thế: Họ có dùng cách này, để bảo toàn tính mạng, cho những người, của chế độ độc tài, hay không?
Một doanh nghiệp, già nua – yếu kém: lưu luyến nó, làm gì. Thương mấy, cũng phải, cho nó phá sản. Trên đống đổ nát ấy, sẽ có sự vươn lên, của 1 doanh nghiệp non trẻ – đầy sức sống khác. EVN, là 1 ví dụ. Tổ chức của nó, cồng kềnh – Làm ăn của nó, trên bất cứ lĩnh vực nào: không thua, thì cũng lỗ. Đã thế, chúng, còn luôn to còi, dọa: “EVN mà phá sản, ngành điện Việt nam, sẽ sụp đổ”. Để, bắt bí các thượng đế và, đòi được rót vốn, một cách vô hạn độ. Thực tế, EVN phải phá sản, ngành điện Việt nam, mới có cơ hội, để phát triển một cách bền vững. Đó, là Chân lý.
优之游之展转求之;Ưu chi du chi, triển chuyển cầu chi.
Hãy thả lỏng tâm hồn và giữ cho đầu óc thư thái – không thiên vị. Trên cơ sở đó, đào sâu suy nghĩ – lật ngược vấn đề. Cố, tìm cho ra, điểm cốt lõi của sự việc. Để, điều hành Xã hội, 1 cách nhẹ nhàng. Nhưng, lại có hiệu quà nhất.
Cùng là nội chiến. Nhưng, cách mà Hoa kì xử sự, không giống với người Việt nam. Kết thúc cuộc chiến: Phe miền Bắc thắng trận. Khi tướng Lee và một đại tá tùy tùng, đến thỏa thuận điều kiện đầu hàng. Hai người, được chào đón, bởi đoàn quân nhạc của lính miền Bắc. Đại tướng Grant, cầm tay – ân cần, mà an ủi họ. Rằng: “Chiến tranh, là 1 canh bạc. Đôi khi, người giỏi nhất, cũng phải thua”.
Để, ăn mừng chiến thắng: Nhiều cuộc diễu hành ồn ào, đã được tổ chức. Grant, đã làm cho chúng: Chấm dứt, trong im lặng. Bằng cách, nhắc họ: “Những kẻ nổi loạn, là đồng bào của chúng ta đấy”. Cách hành xử, đầy Nhân văn đó, khiến: Hết chiến tranh, họ có hòa hợp và hòa giải, thực chất và thực sự. Còn chúng ta?
40 năm, sau khi chiến tranh kết thúc. Những người CS: Vẫn say máu – Vẫn tổ chức diễu binh – diễu hành – Vẫn tổ chức đốt pháo bông – bắn pháo hoa. Để, ăn mừng, cái mà họ gọi là, “chiến thắng”. Họ, đã “chiến thắng”, một cách vô cùng vẻ vang, những kẻ, đã buông súng đầu hàng. Trong khi đó, lại ra rả kêu gọi “hòa hợp và hòa giải”(!) Những người CS, muốn hòa hợp và hòa giải với ai? Chắc chắn, chỉ với bà con Việt kiều. Không phải, với bọn “ngụy quân – ngụy quyền”, đã nằm trong rọ của những người CS. Những người CS, muốn gì ở hòa hợp và hòa giải? Đó là, nguồn vốn của Việt kiều. Và, chỉ có thế mà thôi. Bà con Việt kiều, hãy tin tưởng, 1 cách chắc chắn rằng: Những người CS, sẽ không bao giờ, vì “hòa hợp – hòa giải”, mà gọi họ về nước. Chỉ để, phân chức – phong quyền cho họ.
求而得之,不可不藏;Cầu nhi đắc chi, bất khả bất tàng.
Lao tâm – khổ tứ, mới tìm ra được, bản chất của vấn đề. Do đó, không thể, không khắc sâu, vào trong tâm khảm.
既以藏之,不可不行;Kí dĩ tàng chi, bất khả bất hành.
Học “thiên kinh – vạn quyển”, mà làm chi. Nếu, thực tế, không bày được 1 mẹo, dù nhỏ. Học lắm – nhớ nhiều, giỏi lắm, cũng chỉ là những con mọt sách. Nếu, không biết, đem những hiểu biết đó, cống hiến cho đời.
既以行之,勿复明之。Kí dĩ hành chi, vật phục minh chi.
Quá trình thực hành, ta sẽ thấy, có nhiều sự khập khiễng, giữa nhận thức và thực tiễn. Không thể, không sửa đổi. Trong quá trình sửa đổi, tư duy của ta, sẽ sắc bén hơn.
夫天地不自明,故能长生;Phù Thiên – Địa bất tự minh, cố năng trường sinh.
Mẹ Tự nhiên, âm thầm vận động. Để, nuôi dưỡng tất cả chúng ta. Tất thảy, sự vận động ấy, đều tuân theo những quy luật riêng của nó. Nhưng “Thiên cơ, bất khả lộ”: Mẹ bao dung, giành cơ hội như nhau, cho vạn sự – vạn vật. Vì thế, sinh giới được phát triển, 1 cách tự nhiên. Loại nào, phát triển, phù hợp với quy luật của Tự nhiên. Loại đó, tồn tại. Xã hội nào, phát triển, phù hợp với xu hướng chung của Nhân loại: Dân chủ – Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Xã hội ấy, trường tồn.
圣人不自明,故能明彰。Thánh nhân bất tự minh, cố năng minh chương.
Xưa nay, chỉ thấy lũ tiểu nhân, tự vỗ ngực, mà cho rằng: “Ta, là đỉnh cao trí tuệ của Nhân loại”. Chưa từng thấy, những bậc vĩ nhân, nói lời đó bao giờ. Họ, luôn sống khiêm nhường. Thậm chí, khi từ giã cõi đời: Họ, cũng chẳng cần, được yên nghỉ, trong những lăng to – mả lớn. Nhưng, đâu phải vì thế, mà tên tuổi của họ, bị lãng quên. Họ, sống mãi với Thời gian.
古之圣人聚人而为家,Cổ chi Thánh nhân, tụ nhân nhi vi gia.
Thời nguyên thủy, con người ta, sống thành bầy đàn. Đây, mới là thời “cộng sản” đích thực: Chồng chung – vợ chạ. Hoang dã và man rợ. Các bậc Thánh hiền, soạn ra luân thường – đạo lí. Buộc, con người ta, phải sinh sống, trong gia đình. Coi đó, là những tế bào cơ bản của xã hội. Gia đình tốt, xã hội sẽ tốt. Ngược lại, khi “con, đã tố cha – vợ, đã tố chồng”, nền tảng Đạo đức trong gia đình, đã bị băng hoại. Tế bào, đã bị ung thư. Mong làm chi, cơ thể được cường tráng.
聚家而为国,Tụ gia nhi vi Quốc.
Mỗi gia đình, đều có nếp sống – của cải – con cái riêng. Chẳng nhà nào, giống nhà nào. Thánh nhân, soạn ra luật pháp. Khiến cho, các gia đình, sống hòa thuận và có trách nhiệm, trong 1 xã hội đa dạng. Tạo thành, các quốc gia chư hầu.
聚国而为天下,Tụ Quốc, nhi vi Thiên hạ.
Các quốc gia, có thể giàu nghèo – to nhỏ – mạnh yếu, khác nhau. Bất cứ lúc nào, họ cũng có thể, đụng chạm nhau, về quyền lợi và nghĩa vụ. “Cá lớn”, lúc nào, cũng có xu hướng “nuốt cá bé”. Thánh nhân, nhân đó, định lễ Đế – Vương. Liên minh chúng lại, mà cai quản và điều hòa Thiên hạ. Tỷ như, các nước:
Có thể, tụ tập nhau lại, ở Tổ chức Hiệp ước Quân sự Bắc Đại Tây Dương. Để, tự vệ, trước sự bành trướng của Nga. Có thể, tụ tập nhau lại, ở Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á. Để, chống lại sự bành trướng của Trung hoa CS. Có thể, tụ tập nhau lại, ở TPP. Để, cùng nhau hợp tác và phát triển kinh tế. Đồng thời, kéo qua – kéo lại trước mũi, làm cho Việt nam, thèm nhỏ rãi. Thông qua đó, biết đâu, dân Việt nam, được hưởng thêm, tí “Nhân quyền” còm. 
分封贤人以为万国,Phân phong Hiền nhân, dĩ vi vạn Quốc.
Đế vương, chọn và chỉ chọn Hiền – Tài, để phân chức – phong quyền cho họ. Ngày nay, ở các thể chế Dân chủ: Đế vương, tức là Nhân dân, họ vẫn theo tập tục này. Họ, dùng lá phiếu của mình, chọn ra, những người Tài – Đức kiêm bị. Để, trao cho họ, ấn – kiếm quyền lực.
命之曰“大纪”. Mệnh chi viết “Đại kỉ”.
Đấy là kỉ cương, là phép tắc lớn nhất của những Quôc gia có “pháp trị”.
陈其政教,顺其民俗,Trận kì chính giáo, thuận kì dân tục.
Thực thi Luật pháp – Giáo hóa Dân chúng, không thể, không chiếu cố, đến phong tục – tập quán của người Dân.
Người dân Việt nam, ngàn vạn đời nay, gắn bó với nền Văn minh lúa nước. Nông lịch của họ, chủ yếu, dựa vào sự tuần hoàn của mặt Trăng. Phong tục – tập quán của họ, chủ yếu dựa vào Âm lịch. Từ Lễ hội, cho đến cúng giỗ. Nhiều kẻ, kêu gào – cổ vũ cho việc, chuyển sang, chỉ dùng Dương lịch. Họ, mang những quốc gia phương Tây ra, làm gương. Họ, mang bản thân mình ra, làm ví dụ: Tết Nguyên đán, họ bỏ, không đoàn tụ gia đình – không cúng giỗ Tổ tiên. Họ, đi du lịch. Chỉ, những người lãnh đạo ngu si, mới làm theo họ.
群曲化直变于形容;Quần khúc hóa trực, biến vu hình dung.
Đất nước, được lãnh đạo, bởi những bậc Thánh nhân: Ngay cả, những kẻ hư hỏng, cũng được giáo hóa, để trở nên chính trực. Sự chuyển biến ấy, dễ dàng nhìn thấy, ngay trên dung mạo của Đất nước. Con người, hiền hòa – nhân ái và sống có ý thức. Đất nước, ngăn nắp và sạch sẽ. Thiên nhiên, được nâng niu – giữ gìn.
Đất nước, sẽ trở nên bất hạnh, khi bị bọn đầu đất và vô lương tâm đứng đầu. Khi, “sâu bọđã lên làm người”: Tất yếu, “thời đểu cáng, sẽ lên ngôi”. Ngay cả, những người tốt, cũng sẽ bị, lưu manh hóa. Ai, cũng chỉ, sống cho riêng mình. Giao thông, lộn xộn. Phố xá, nhếch nhác và bẩn thỉu. Thiên nhiên, ô nhiễm nặng nề. Trong khi, rừng bị chặt trụi. Ngay giữa Thủ đô, cây nào to, cũng bị, lũ đầu trộm – đuôi cướp này, ngang nhiên đốn hạ. Tất cả, chỉ vì tiền.
万国不通。Vạn Quốc bất thông.
Biên giới Quốc gia, phải được phân định, một cách rạch ròi. Và, phải được bảo vệ, một cách vững chắc. Muốn, đi sang nước khác: Phải, được sự đồng ý của phía bên kia.
各乐其所,人 爱其上,Các lạc kì sở. Nhân, ái kì thượng.
Khi, người dân, được “an cư – lạc nghiệp”, ngay tại xứ sở của mình. Họ, sẽ không phải, “tha phương – cầu thực”. Họ, sẽ không phải nhục nhã, đi làm cu-li xứ người, núp dưới cái mĩ từ “xuất khẩu lao động”. Thiếu nữ, không vì miếng ăn, mà: Phải kết hôn, với những ông già lụ khụ – Phải kết hôn, với những kẻ cụt tay – què cẳng – Phải kết hôn, với những kẻ, thần kinh có vấn đề, ở nước ngoài. Và, nhất là, không phải làm đồ chơi, cho những thằng đàn ông ngoại quốc.
Lúc đó: Họ, tự khắc, yêu mến lãnh đạo của mình.
命之曰‘大定’ Mệnh chi viết Đại định.
Đó, mới là, bức tranh toàn cảnh của 1 Đất nước, có “An ninh Chính trị, được đảm bảo và củng cố vững chắc”. Việt nam, “còn khuya mới có”.
呜呼!圣人务静之, Ô hôThánh nhân vụ tĩnh chi.
Ô hô! Tài đức của bậc Thánh nhân, có thể làm cho Trời yên – Biển lặng. Bốn phương, vui hưởng thái bình.
Không có nước Mỹ và EU, người Nga, đâu có dễ dừng tay ở Sevastopol.Không có nước Mỹ và EU, người Nga, đâu có dễ dừng tay ở Ukraina.
Không có nước Mỹ, Trung hoa cộng sản, đâu có dễ dàng chùn bước ở biển Đông của Việt nam. Không có nước Mỹ, Trung hoa cộng sản, đâu có dễ dàng chùn bước ở biển Hoa đông của Nhật bản.
贤人务正之,Hiền nhân vụ chính chi.
Trí tuệ của Hiền tài, có thể giáo hóa cho quần chúng. Khiến, họ chính trực. Thế nên, ở các siêu thị nước ngoài: Người ta, chẳng đề phòng, người Nhật. Vì, họ không ăn cắp bao giờ. Họ, chỉ đề phòng, người Việt nam. Vì, ngay cả người, dạy Đạo đức cho dân Việt, trên truyền hình: Cũng là, tay ăn cắp có hạng. Và, tái phạm, rất nhiều lần.
愚人不能正,故与人争;Ngu nhân bất năng chính, cố dữ nhân tranh.
Lũ người ngu muội, sống không bao giờ, đoan chính – ngay thẳng. Chúng, không làm cái gì, cho ra hồn. Nhưng, luôn tối mắt – tối mũi, trước khối tài sản của người khác. Và, chỉ rình, ăn cướp của người ta. Quyền, chúng tranh – Lợi, chúng giành – Trách nhiệm, chúng luôn chối bỏ. Bởi thế, chúng bị Thiên hạ, ghê tởm và chống đối.
上劳则形繁,Thượng lao tắc hình phồn.
Bị Thiên hạ, chống đối khắp nơi. Lũ giặc cầm quyền, buộc phải căng ra, “lao tâm – khổ tứ”, để chống đỡ. Hình pháp của chúng, hà khắc – Luật lệ của chúng, bạo tàn. “Không quản đượclà cấm”. Ngu dốt, nên những lĩnh vực không quản được, nhiều vô kể. Ngay cả chúng, cũng chẳng thể nhớ hết được. Nói chi, đến dân chúng.
刑繁则民忧,民忧则流亡。Hình phồn tắc dân ưu. Dân ưu tắc lưu vong.
Hình pháp, nhiều và khắc nghiệt. Sưu – thuế, nhiều và chồng chất. Việc đó, khiến người dân, nặng trĩu ưu lo. Ưu lo, không được giải quyết: “Đấtkhông lành”, “chim nào đậu” được. Họ, lũ lượt, rời bỏ quê hương – bản xứ. Họ, đóng những con thuyền tí teo, để vượt biển. Họ, thà chết, chứ nhất định, không chịu, sống dưới ách độc tài của lũ ngu dốt.
Không “lưu vong” được, về thể xác. Họ, sẽ “lưu vong” về tâm hồn. Họ, quay lung lại, với lũ “ngợm” cầm quyền.
上下不安其生,累世不休,命之曰 ‘大失’。Thượng hạ bất an kì sinh. Lụy thế bất hưu. Mệnh chi viết “Đại thất”.
Lũ độc tài cầm quyền, ngày đêm, nơm nớp lo sợ, sẽ bị quần chúng lật đổ. Do đó, chúng ra sức, kìm kẹp Nhân dân. Nhân dân, căm phẫn chúng và cũng tìm đủ mọi cách, để chống lại. Họ, luôn đợi có ngày, được lôi cổ chúng, ra trước vành móng ngựa. Cả trên lẫn dưới, đều gầm ghè nhau và không thể, sống yên ổn. Vòng tai họa luẩn quẩn đó, kéo dài, tưởng như vô tận.
Đó là, cục diện đen tối, cho Đất nước.
天下之人如流水,Thiên hạ chi nhân như lưu thủy.
Người trong Thiên hạ: Họ, đi lại và sinh hoạt đều có những quy luật. Giống như, dòng nước.
障之则止,Chướng chi tắc chỉ,
Dòng sông đang chảy, gặp cái đập nước chắn ngang, ắt dừng.
Không chảy được nữa, nước sẽ dâng lên và bắt đầu, gây áp lực, vào thân đập.  Đập, đắp cao bao nhiêu – Nước, sẽ dâng lên bấy nhiêu. Nó, luôn có xu hướng, xô đổ thân đập. Để, ra biển lớn và hòa cùng vào trong đó. Một cái đập, dù kiên cố đến đâu, cũng chỉ được thiết kế, để chịu đựng được, 1 cột nước giới hạn.  Để, đối phó với dòng nước: Người ta, phải làm cống xả, ở dưới và xây cửa tràn, ở trên. Cuối cống xả, họ chẳng quên, lắp cái tua bin của máy phát điện. Đập, được giữ vững – Nước, được tích trữ – Lại có thêm, điện để xài. Nhất cử – Tam, tứ, ngũ, lục tiện.
Tự do – Dân chủ, là xu hướng tất yếu của cả loài người. Những chế độ độc tài, hết sức lo sợ, làn sóng đó. Chúng, dùng Công an – Quân đội – Nhà tù và bộ máy Tuyên truyền dối trá, lập thành, 1 cái đê “chuyên chính”. Để, ngăn chặn làn sóng ấy. Nhưng, làn sóng ấy, chẳng thể dừng. Nó, cứ từ từ dâng lên, cho đến khi, ngấp nghé mặt đập. Lúc này:
Ngu dốt, thì chất thêm, mấy cái bao tải cát: Đựng những nghị định, phản Dân chủ – phản Tự do, lên trên mặt đập. Dẫu vậy, đâu có ngăn chặn được, làn sóng Tự do – Dân chủ ấy, tràn qua thân và, xô đổ đập. Đó, là kết cục bi thảm, cho những người CS, ở Nga xô và các nước CS Đông Âu.
Người thông minh: Họ, mở cống xả ở dưới. Để, hạ bớt mực nước. Qua đó, làm giảm bớt, áp lực vào thân đập. Đó, là cách, mà chính quyền độc tài quân sự, ở Miến Điện, đã lựa chọn. Họ, cam kết, mở rộng Dân chủ. Làm cách đó: Họ, chẳng bị thiệt thòi nhiều lắm. Trái lại: Chính quyền, được giữ vững – Cấm vận, được dỡ bỏ – Nợ nần, được tháo gỡ. Và, chẳng quên, nhận được vô số viện trợ. Để, tái thiết Đất nước.
启之则行 . Khải chi tắc hành.
Vặn vòi nước, nước ở trong ống, sẽ ào ạt tuôn ra.
Việt nam, đang khát vốn, một cách trầm trọng. Để, xây dựng Đất nước. Kiều bào ta, có nguồn tư bản, hết sức dồi dào. Nhưng, dẫu có yêu Tổ quốc đến đâu, họ cũng không thể, về nước để đầu tư. Đơn giản, vì những chính sách: không nhất quán và thiếu đứng đắn của nhà cầm quyền Hà nội. Một khi, những trở ngại này, được gỡ bỏ: Lo chi, chuyện thiếu tiền.
动之则浊, Động chi tắc trọc.
Khi, bị khuấy lên: dòng nước, sẽ đục ngầu. Khi, kích lên hận thù của cuộc “đấu tranh giai cấp”: Xã hội, ắt sẽ động loạn. Và, chém giết lẫn nhau. Mãi, không thôi.
静之则清。Tĩnh chi tắc thanh.
Dòng suối, êm đềm chảy ra, từ những khe núi: Nước của nó, trong vắt. Con người ta, sống với những bản tính nguyên thủy của loài người: Họ, lương thiện và sống hiền hòa – tương thân – tương ái. Xã hội, thanh bình.
呜呼,神哉!圣人见其所始,则知其所终。Ô hôThần taiThánh nhân kiến kì sở thủy, tắc tri kì sở chung.
Ô hô! Thần kì thay, trí tuệ của bậc Thánh nhân: Chỉ cần, nhìn sự việc, lúc nó khởi đầu. Họ, đã biết ngay, chung cuộc của nó.
Cần gì, phải có trí tuệ của bậc Thánh nhân. Nhìn, mây đen vần vũ và đang sầm sập kéo đến. Chỉ đồ ngu, mới không biết: Bão, đang ập đến. Và, “ba chân – bốn cẳng” chạy về. Để, lo chèo chống, căn nhà của mình.
Cần gì, phải có trí tuệ của bậc Thánh nhân. Nhìn, chín chục ngàn công nhân, đồng lòng bãi công. Để, phản đối, chính sách bảo hiểm của Quốc hội CS. Nhìn, bà con – cô bác, đốt lửa giữa đường, chặn đứng huyết mạch Giao thông của Đất nước. Thậm chí, mặt đối mặt, đánh nhau với công an. Để, phản đối chính quyền CS, nhập công nghệ cũ của Tàu, gây ô nhiễm môi trường. Nhìn, bà con nông dân, cả nhà sẵn sàng “quyết tử”, để giữ đất…Chỉ đồ ngu, mới không biết: Đất, dưới chân những người CS, sắp sụp
Cần gì, phải có trí tuệ của bậc Thánh nhân. Nhìn, con cái của lãnh đạo, nối đuôi nhau, chạy ra nước ngoài và, chỉ xin gia nhập quốc tịch của bọn Tư bản. Chỉ đồ ngu, mới không biết: Khi, chuột đã cuống cuồng nhảy lên bờ. Đó là lúc, con thuyền CS, sắp chìm.
文王曰:静之奈何? Văn vương viết: Tĩnh chi nại hà?
Văn vương hỏi: Thế, muốn Thiên hạ thái bình, phải làm cách nào?
太公曰:天有常形,民有常生,Thái công viếtThiên hữu thường hình, Dân hữu thường sinh.
Thái công trả lời: Trời – Đất, vận hành theo thường quy. Dân chúng, sinh hoạt theo tập quán.
与天下共其生而天下静矣。Dữ Thiên hạ cộng kì sinh. Nhi Thiên hạ tĩnh hĩ.
Chỉ có, mỗi một cách, để giữ cho, Thiên hạ thái bình. Đó là: Người lãnh đạo, luôn phải “Cộng an – sinh nghiệp” với quần chúng. Hãy vui, cái vui của Thiên hạ. Cùng lo, cái lo của Thiên hạ
Trước khi, bắt con của dân thường đi lính: Con của lãnh đạo, phải làm gương. Không thể, vô liêm xỉ và trâng tráo như anh Hùng hói. Anh nói: Con cháu anh, luôn ở diện, được miễn. Còn con dân đen, thì không.
Khi, lãnh đạo, đã xuống “Ba cùng”, với bà con Nông dân. Lúc đó, làm gì có chuyện: Cán bộ CS, thờ ơ nhìn, dưa hấu thối chất đống, ở cửa khẩu.
Dĩ nhiên, đấy chỉ là “Nếu”. Còn thực tế: Việt nam, đã trải qua, mấy chục năm nội chiến – Chết, hàng triệu con người. Bây giờ, riêng những người CS, đắc lợi:
Quyền lực, những người CS, độc chiếm. Mà họ, nào có giỏi giang gì. Họ, đã có rất nhiều quyết định hết sức sai lầm, trong việc Bảo vệ và Xây dựng đất nước. Những quyết định sai lầm ấy, đã dẫn toàn bộ dân tộc Việt Nam, đến sát bờ vực thẳm. 
Đất đai – Tài nguyên thiên nhiên – Khoáng sản – Thuế má… những người CS, độc quyền chiếm giữ và ban phát. Vì độc quyền, nên giá cả, họ cũng tự ý định đoạt. Còn dân chúng, bắt buộc phải mua. Và, bắt buộc phải để cho, những người CS móc túi.  
Tư tưởng, phải nhất nhất, nghĩ như, những người CS. Hôm nay, họ bảo: “Trung quốc, là kẻ thù truyền kiếp”. Ngày mai, họ có nói: “Trung cộng, là bạn bè, hết sức tốt của ta”. Cũng phải nhớ, mà “vâng”. Trái với họ, là “thù địch”. Ngược với họ, là “phản động”. Và, có thể, bị “xử lí”, vào bất kể lúc nào.  
Thiên hạ, không đại loạn, ấy mới là, chuyện lạ.
太上因之,其次化之。Thái thượng nhân chi, kì thứ hóa chi.
Trị Nước – an Dân, nguyên tắc tối cao, đó là phải: Thuận theo Tự nhiên – Tôn trọng Xã hội. Sau đó, dùng Đạo đức của mình, để giáo hóa dân chúng. Dĩ nhiên: Không thể, dùng kẻ cơ hội Nông Đức Mạnh, để phát động phong trào “học tập và làm theo tấm gương Đạo đức Hồ Chí Minh” – Không thể, dùng kẻ cắp Kiều Trinh, để dạy Đạo đức cho dân Việt.
夫民化而从政,Phù dân hóa nhi tòng chính.
Dân chúng, phải được giáo dục và dạy dỗ từ bé. Lớn lên, họ mới tôn trọng Tự nhiên và Pháp luật.
Dân Singapore, không vứt rác ra đường. Đâu hẳn chỉ vì: Họ, sợ bị phạt, mấy chục USD. Tài xế, ở các nước Văn minh, không vượt đèn đỏ. Đâu hẳn chỉ vì: Họ, sợ bị tước bằng lái xe…
Dân Việt nam, dưới thời CS: Họ, sẵn sàng, làm tất cả những việc ấy. Bởi, từ bé: Họ, đã không được dạy Luân thường – Đạo lý, một cách cẩn thận. Họ, chỉ được nhồi nhét và thấm nhuần 4 chữ: “còn đảng – còn mình”. Nghe theo đảng, thì sống. Chống lại đảng, thì chết. Tự nhiên – Xã hội – Ông bà – ông vải, là cái con tườu. Làm gì mà Xã hội, chẳng lộn tùng phèo.
是以天无为而成事,Thị dĩ Thiên vô vi nhi thành sự.
Tôn trọng những quy luật của Tự nhiên – của Xã hội: Vạn vật, trường tồn – Vạn sự, công thành – danh toại. Trái với nó, sẽ bị đào thải.
民无与而自富,Dân vô dữ nhi tự phú.
Đừng tước đoạt quá mức của người dân, thông qua sưu cao – thuế nặng. Họ, chắc chắn giàu có. Dân, có giàu – Nước, mới mạnh.  Đó, là chân lý. Vĩnh viễn, không bao giờ thay đổi.
此圣人之德也。Thử Thánh nhân chi Đức dã.
Muôn tâu Đại vương, tất cả những thứ đó, gộp thành: Đạo đức của bậc Thánh nhân. Nói, mà không làm: Chẳng ai tin.
文王曰:公言乃协予怀,夙夜念之不忘,以用为常。Văn vương viết: Công ngôn nãi hiệp dư hoài. Túc dạ niệm chi bất vong. Dĩ dụng vi thường.
Lời Tiên sinh, thật hợp, với hoài bão của Ta. Ngày – đêm, Ta sẽ, nghiền ngẫm về nó. Để, không bao giờ quên. Và, thường xuyên sử dụng nó, trong việc trị Nước – an Dân. 
Nguyễn Tiến Dân
Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội
Điện thoại: 0168-50-56-430
Đọc và suy ngẫm

Nguyễn Tiến Dân
4-10-2015
 THIỂU CHÚNG
Song phương, đương lúc “tương trì – đối lũy” (lính, nằm trong công sự – đạn, đã lên nòng – súng, chĩa thẳng vào nhau). Được – Thua, có rất nhiều thứ, để đem ra so sánh. Tương quan lực lượng, chỉ là, 1 trong những yếu tố đó.
Mạnh được – Yếu thua”, vốn là lẽ thường tình. Chỉ, những người dũng cảm, mới dám “lấy yếu chống mạnh” – “lấy ít địch nhiều”. Trên đẳng cấp ấy, là những người tuyệt giỏi. Không chỉ, dám làm cái việc “châu chấu đá xe”. Mà, chung cuộc, họ còn làm cho, “cả cỗ xe nghiêng”.
Xét theo lẽ đó, Dân tộc Việt, hết sức dũng cảm và tài giỏi. Ba lần, đánh bại Nguyên Mông – Mười năm, kháng chiến chống quân Minh – Quét sạch 20 vạn quân Thanh, chỉ trong có 1 tuần. Đó, là những ví dụ tiêu biểu.
Tiền nhân thắng, không phải, vì họ nóng mắt – đánh bừa. Họ, quyết chiến và, họ biết cách đánh, để giành thắng lợi. Cách ấy là:
以弱制强,或攻人之不备。 Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị
以寡敌众,常设伏以出奇。Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kì.                            
(Bình Ngô Đại cáo)
Tạm dịch: Lấy yếu chống mạnh, phải đánh vào nơi, kẻ kia không phòng bị.
Lấy ít địch nhiều, thường phải dùng phục binh, để xuất kỳ trận.
Đó, cũng là, tư tưởng chính thống của Khương Tử Nha.
                                                        少众    
武王问太公曰:吾欲以少击众,以弱击强,为之奈何? Võ vương vấn Thái công viết: Ngô dục dĩ thiểu kích chúng, dĩ nhược kích cường, vi chi nại hà?
Võ vương hỏi Thái công: Ta, muốn lấy ít, địch nhiều. Muốn lấy yếu, chống mạnh. Phải làm như thế nào?
太公曰:以少击众者,必以日之暮,伏于深草,要之隘路. Thái công viết: Dĩ thiểu kích chúng giả, tất dĩ nhật chi mộ, phục vu thâm thảo, yếu chi ải lộ.
Thái công trả lời: Muốn lấy ít, địch nhiều, tất phải:
Đánh địch, khi trời tối. Trong đêm tối, địch không nhìn rõ địa hình – địa vật. Dẫn đến, khả năng cơ động kém. Khó quan sát mục tiêu, nên hiệu suất chiến đấu, không cao. Không có chỉ huy giỏi, chúng sẽ khó khăn, trong việc phối hợp tác chiến. Quân đông, cũng chẳng ích gì. Có khi, còn thêm rối.
Trong chiến dịch Linebacker II (12 ngày đêm, dùng B-52, tập kích Hà nội), người Mỹ không những chọn cách đánh đêm – mà họ còn dùng, kính thưa các loại nhiễu. Cả tiêu cực, lẫn tích cực. Tất cả, chỉ nhằm mục đích: Bịt mắt, hệ thống Phòng không Hà nội. “Bắt được B-52 trên màn hình rađa, cực khó. Bắt được nó rồi, bắn quả nào, trúng quả ấy”. Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt, đã từng, thú nhận như thế. Ông, không hề ngoa ngôn. Ngày 21/12, ông và đồng đội.chỉ trong vòng 2 phút với hai quả tên lửa, đã liên tiếp, bắn rơi hai chiếc B-52. Trong đó, có 1 chiếc, rơi tại chỗ.
Xem ra, các tướng lĩnh Hoa kỳ: Binh thư, thuộc lòng – Vận dụng, nhuần nhuyễn. Đen cho họ, gặp phải 1 đối thủ: Vừa lỳ lợm – vừa điệu nghệ. Chỉ bắn mò thôi, họ cũng xơi tái của chú Sam, vài chục con Bê (B-52). 
Bay ban ngày, từng tốp B-52, sẽ dễ dàng, bị phát hiện từ rất xa, bằng những khí tài quang học. Kèm theo đó, khó gì, mà không xác định được, tọa độ chính xác của chúng. Những dữ liệu này, sẽ bổ trợ, cho hệ thống Radar ngắm bắn của Bắc Việt. Khi ấy, đàn Bê, mà chú Sam, cất công nuôi dưỡng trong bao năm: Chắc gì, còn con nào.
Đánh đêm, còn có ưu điểm: Địch quân mệt mỏi – sĩ khí sa sút.  
Tôn Tử, giải thích rõ thêm, trong bộ Binh pháp của ông: 朝气锐,昼气惰,暮气归. 善用兵者,避其锐气,击其惰归. Triêu khí nhuệ, trú khí nọa, mộ khí qui. Thiện dụng binh giả, tị kì nhuệ khí, kích kì nọa qui.
Tạm dịch: Sáng sớm ra, con người ta hưng phấn. Đến trưa, sĩ khí giảm dần. Tối khuya, mắt nhắm – mắt mở. Sĩ khí, đi theo giấc ngủ. Tướng giỏi, phải biết, tránh nhuệ khí ban đầu của giặc. Đánh chúng, phải chọn lúc, sĩ khí của chúng chùng xuống.
Mai phục, nơi cây cối um tùm. Phục kích – ém quân sát nách địch. Rồi, lấy yếu tố bí mật – bất ngờ để đánh. Khiến, chúng kinh hoàng – trở tay không kịp. Chỉ có ta đánh chúng, còn chúng, chẳng kịp đánh ta. Làm gì, mà chúng chẳng chết.
Mai phục, để tạo ra “Thế hiểm – Tiết đoản”. Đó là cách, mà quân dân Đại Việt hay dùng. Và, giành được nhiều chiến thắng vang dội. Trận Bạch Đằng ; Trận Rạch Gầm – Xoài Mút, là những trận phục kích kinh điển.
Chẹn địch, nơi ải hiểm. Nơi ấy, một người phòng thủ, dễ địch muôn người.
Ải Chi lăng của Việt nam, quá hiểm trở. Nó, được nghĩa quân Lam sơn, chọn làm địa điểm phục binh. Nhằm, tiêu diệt viện binh của quân Minh. Họ, dụ Liễu Thăng vào. Và, chém chết y, tại trận.
Quân Trung quốc, vô cùng sợ hãi, khi đi qua địa danh này. Chính chúng, đã đặt cho nó, cái tên “Quỷ môn quan”. Ngụ ý, đi qua cái cửa quan này, là đã về đến cõi chết.
以弱击强者,必得大国之与. Dĩ nhược kích cường giả, tất đắc đại quốc chi dữ,
Muốn lấy yếu, chống mạnh: Trước tiên, phải có, Đại quốc chống lưng.
Các nuớc nhỏ, muốn chống lại, sự áp bức – hà hiếp của nước lớn này: bắt buộc, họ phải liên kết được, với các nước lớn khác. Các nước Châu Âu, đa số chọn NATO. Để, chống lại, sự bành trướng của Nga. Các nước Châu Á, dù to hay nhỏ – dù mạnh hay yếu, đa số chọn Hoa kỳ. Để, chống lại, sự hung hăng của Trung cộng. Rất ít nước, chọn kẻ chống lưng, là Liên bang Nga và Trung quốc. Ngoại trừ, Việt nam. Bởi, họ chẳng còn, sự lựa chọn nào khác. Ngoài ra, ban lãnh đạo Việt nam, chỉ gồm những kẻ: ương ngạnh – bảo thủ – khôn vặt – thích đu dây và chẳng đáng tin. Vì thế, rất khó thuyết phục, để được những nước lớn chống lưng.
Xưa, đánh Pháp – đánh Mỹ, còn dựa vào súng đạn của Nga xô và Trung cộng. Đánh Trung cộng năm 1979, còn có Nga xô, đứng sau lưng. Bây giờ, “tứ cố – vô thân”. Súng đạn – xe pháo – tàu bay – tàu bò, tiền đâu mà mua. Trung cộng mà đánh, chết chắc.
Khơ me đỏ, nhỏ và yếu. Nhưng, họ vẫn dám, đánh nhau với người Việt nam. Bởi, sau lưng họ, còn có ông thầy Trung quốc. Trung cộng, cung cấp cho họ: Vũ khí – Lương thực – Vật tư… Để, họ làm cuộc “chiến tranh ủy nhiệm”: đánh Việt nam, cho Trung cộng.
Nay, Trung cộng, dùng những thủ đoạn ngoại giao, hết sức xảo quyệt. Họ, mớm vào mồm Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và, cả cái ban lãnh đạo CS Việt nam, “Chính sách ba không”. Qua đó, người Việt nam, đã tự trói chân – trói tay mình, trước dã tâm của Trung cộng. Việt nam, đã hoàn toàn, bị cô lập. Không có Đại quốc chống lưng: Việt nam, vô phương chống cự, trước “ông bạn vàng” khổng lồ Trung cộng. Họ, đã “gửi trứng cho ác”. Còn, Nhân dân Việt nam, phải gánh chịu hậu quả.
Đảng CS Việt nam, trước – sau như một, “kiên trì giữ gìn môi trường hòa bình và ổn định”. Để, những người lãnh đạo, yên ổn mà hưởng lạc, trên đầu – trên cổ Nhân dân. Họ, mặc kệ cho lũ giặc, ung dung gặm nhấm dần từng đảo, từng đảo một của Tổ quốc. Cuối cùng, chắc chắn là, chúng sẽ ngoạm, cả Biển Đông.
Đó, nào đã phải, là thảm họa. Kịch bản xấu xa nhất: Trung cộng, sẽ nuốt chửng, cái mảnh đất hình chữ S của chúng ta. Và, biến Việt nam, thành 1 bang của nó.
邻国之助. Lân quốc chi trợ.
Phải vận động được, các nước láng giềng, đồng tình và giúp đỡ.
Trong cuộc chiến tranh Việt nam, những người CS, phải đổ quân và hàng tiếp tế, từ Bắc vào Nam. Họ buộc phải, đi qua hành lang, ở Lào. Đồng thời, để đảm bảo an toàn, họ phải lập các căn cứ hậu cần, trên đất nước Căm pu chia, thanh bình – tươi đẹp. Cho nên, họ đã dỗ ngon – dỗ ngọt, chính phủ của 2 nước này, tham chiến. Vì việc đó, chiến tranh, đã lan ra, khắp bán đảo Đông dương. Kết thúc cuộc chiến, những người CS, giành được chính quyền. Những Chính phủ, hợp hiến – hợp pháp, ở 2 nước kia, vì nghe theo lời xui dại: Tất cả, đều bị lật đổ.
武王曰:我无深草,又无隘路,敌人已至,不适日暮. Võ vương viết: Ngã vô thâm thảo, hựu vô ải lộ, đich nhân dĩ chí, bất thích nhật mộ.
Võ vương hỏi tiếp: Địch, nó không ngốc. Nơi chúng đến, đất trống – đồi núi trọc. Không hề, có cỏ cây um tùm. Đường đi – lối lại, đều bằng phẳng. Không hề, có ải hiểm. Chúng dẫn xác đến, khi trời còn sáng. Không hề, có bóng đêm bủa quanh.
我无大国之与,又无邻国之助,为之奈何? Ngã vô đại quốc chi dữ, hựu  vô lân quốc chi trợ, vi chi nại hà?
Ngày thường, ta chuyên giở giọng, “chó đéo vào đây”. Khiến cho: Nước lớn, họ khinh ghét ta – Lân bang, họ xa lánh ta. Vậy, phải làm như thế nào?
太公曰:妄张诈诱,以荧惑其将,迂其道,令过深草. Thái công viết: Vọng trướng trá dụ, dĩ huỳnh hoặc kì tướng, vu kì đạo, lệnh quá thâm thảo.
Thái công trả lời: Phải chủ động, tạo thế. Cụ thể, hãy hư trương thanh thế. Dùng thủ đoạn dối trá, mà dẫn dụ địch quân. Lấy đó, để mê hoặc tướng địch. Đánh trước – luồn sau, dẫn địch đi đến nơi, có rừng sâu – cỏ rậm. Nơi đó, quân ta, đang phục kích. Và, chuẩn bị sẵn, giấy thông hành. Để, cấp cho chúng, đi về nơi Địa phủ.
Xưa, để tấn công Tân dã: Tào Tháo, cấp cho Hạ hầu Đôn, mười vạn tinh binh. Phía phòng thủ, Khổng minh, có tận mấy nghìn quân sĩ. Trong đó, quá nửa, là linh mới. Quan – Trương, nhị tướng: Mỗi người, được ông cấp cho một nghìn quân. Không phải, để “lùa dê vào miệng cọp”. Tức là, đối đầu trực diện với Hạ Hầu Đôn. Hai tướng, lĩnh mệnh: Tập kích và đốt lương thảo của địch. Để, tạo hỗn loạn, cho quân Tào. Riêng Triệu Vân, được cử ra khiêu chiến. Vân, vừa đánh – vừa chạy, khiến Hạ Hầu Đôn, còn chút nghi ngờ. Đuổi 1 lúc, Đôn nghe thấy, tiếng pháo lệnh. Đồng thời, thấy Lưu Bị, dẫn 1 toán quân “mai phục”, vừa ít – vừa xộc xệch, xông ra tấn công. Đôn cả cười, hết nghi. Rồi thúc quân, toàn lực xông lên đánh giết. Lưu Bị và Triệu Vân, đấu không lại. Họ, bỏ chạy… vào cái bẫy, mà Khổng Minh, đã giương lên. Khi, đội hình tấn công của Hạ Hầu Đôn, đã lọt vào trận địa phục kích: Khổng Minh… nổi lửa, nướng chín quân Tào. Tào quân, đại bại. Xác, chất đầy đồng – Máu, chảy thành sông.
Có lẽ, nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi, cũng dùng cách này, để chém chết, viên tướng kiêu dũng Liễu Thăng của giặc Minh.
远其路,令会日暮. Viễn kì lộ, lệnh hội nhật mộ.
Tạo trở ngại, bắt chúng, phải đi đường xa. Khi, chúng đến nơi hội chiến, trời đã bắt đầu, nhá nhem tối.
Thế kỷ 4 TCN, Tôn Tẫn dùng kế “vây Ngụy cứu Hàn”, để đánh Bàng Quyên. Trên đường đi, ông cố tình giảm bếp, để lừa Bàng Quyên. Bàng Quyên, mất cảnh giác. Cứ thế, đuổi Tôn Tẫn, đến Mã Lăng. Lúc này, Mặt Trời đã khuất sau núi. Gặp 1 cái cây, ngáng ngang đường. Trên đó, có viết mấy chữ. Đốt đuốc lên, vừa đọc được dòng chữ: “Bàng Quyên, sẽ chết dưới cái cây này”. Cũng là lúc, hàng vạn cây nỏ, bắn tíu tít vào đó. Bàng Quyên, chết. Quân của nước Ngụy, tử vong, nhiều không kể xiết
前行未渡水,后行未及舍. Tiền hành vị độ thủy, hậu hành vị cập xá.
Tiền quân của địch, chưa hoàn thành, việc vượt sông. Để, đánh chiếm đầu cầu. Hậu quân của chúng, chưa kịp, đến nơi cắm trại. Đó là lúc, sĩ khí của chúng, chẳng còn. Chúng, mệt mỏi – đói ăn – khát uống. Loại sức cùng – lực kiệt này, ai đánh mà chẳng được.
Trận Xích Bích, Tào Tháo, bị liên quân Ngô – Thục đả bại. Ông ta, dẫn tàn quân, ôm đầu máu tháo chạy. Đến bất cứ nơi nào, định nghỉ lại, y như rằng: Khổng Minh đã bày trận sẵn, để tiêu diệt. Chạy đến Hoa Dung lộ, người – ngựa, mệt đứt hơi. Chính lúc, gặp ngay Vân Trường. Thoát thân được, là nhờ: Tào Tháo, đánh đúng yếu điểm “quân tử Tàu” của Quan Vũ.
发我伏兵,疾击其左右,Phát ngã phục binh, tật kích kì tả hữu.
Phục binh của ta, dốc toàn lực công kích. Mãnh liệt – chớp nhoáng, đánh địch cùng lúc. Vào cả cánh phải, lẫn cánh trái của chúng.
车骑扰乱其前后,敌人虽众,其将可走. Xa kị nhiễu loạn kì tiền hậu, địch nhân tuy chúng, kì tương khả tẩu.
Chiến xa và kị binh của ta, làm nhiễu loạn và chia cắt đội hình địch. Khiến tiền – hậu của chúng, không ứng cứu được cho nhau. Kẻ kia, dẫu quân đông – trang bị tôt: Chúng, cũng chỉ còn, có mỗi 1 cách. Đó là, tháo chạy.
事大国之君,下邻国之士. 厚其币,卑其辞. Sự đại quốc chi quân, hạ lân quốc chi sĩHậu kì tệ, ti kì từ
Muốn nắm và sử dụng được chiến pháp này: Hoàn toàn, phải nhờ vào, những thủ đoạn ngoại giao phối hợp. Từ việc, tiếp xúc với vua nước lớn – Cho đến, kết bạn với kẻ sĩ của những nước láng giềng. Đều phải nhớ: Cung kính và khiêm nhường – Bổng lộc tặng họ, nên nặng tay 1 tý.
Xưa, là thế. Nay, cũng vẫn phải thế. Hoa kỳ, muốn làm đồng minh với Việt nam. Họ, chẳng những, không lấy tiền của Việt nam. Trái lại, họ còn mang tiền của nhà mình ra, để giúp đỡ chúng ta. Họ, chìa cả 2 bàn tay ra, để nắm lấy, cánh tay của chúng ta.  Họ, chỉ đòi hỏi chúng ta, món quà “Nhân quyền”. Chẳng phải, cho Nhân dân nước họ. Mà, cho chính Nhân dân nước ta. Trước mắt, vấn đề “nhân quyền”, chỉ gói gọn, trong thứ  “tài nguyên”, mà chúng ta, thiếu cha gì. Đó là, “tù chính trị”. Tiếc gì, mà không thể, tặng không cho họ, từng container. Để, đổi lấy đồng minh. Sau này, nếu thiếu, ta lại bắt tiếp. Đất Việt khốn khổ, nhìn đâu cũng thấy, “các thế lực thù địch và phản động”. Bởi thế, nguồn “tài nguyên” này, có thể nói, là vô tận. Không sợ hết, như dầu mỏ hoặc than đá.
如此则得大国之与,邻国之助矣! Như thử, tắc đắc đại quốc chi dữ, lân quốc chi trợ hĩ!
Làm được như thế, lo gì, không được Nước lớn chống lưng và các Nước láng giềng trợ giúp.
武王曰:善哉!Võ vương viết: Thiện tai!
Võ vương bình rằng: Thế mới là, “Lời vàng – Ý ngọc”.
Lời bàn
1-Nhà kia nghèo rớt, sống ở bìa rừng. Họ, thường bị, lũ thú dữ, bắt trộm lợn, gà – Họ, thường bị, bọn lâm tặc, lấn chiếm ruộng, nương. Căm lắm, mà không làm gì được. Nghe nói, berger là giống chó, giữ nhà rất tốt. Họ, trồng khoai – xúc tép đem bán. Rồi, mua về 1 con. Dáng điệu, oai phong – Giọng sủa, trầm hùng. Thiên hạ, ai cũng ngưỡng mộ. Đẹp mã, nhưng chảnh. Ăn, toàn thịt bò non – Uống, rặt sữa tươi tiệt trùng. Thiếu, là “tâm tư”, nằm dài ra, ăn vạ. Ăn lắm, nó béo rụt cổ – Uống nhiều, nó không ngậm được mõm. Tốn kém là thế, ông chủ, vẫn cắn răng chiều. Hy vọng, “nuôi chó 3 năm”, sẽ có dịpdùng nó 1 giờ”.
Một ngày kia, lũ lâm tặc, tay búa – tay súng, kéo đến tận nhà ông chủ. Chúng ngang nhiên, đóng cọc vào ruộng của ông. Rồi, nhận xằng chủ quyền. Con berger, sợ. Nó, chúi đầu, vào gầm giường. Không dám, thở mạnh. Nó, để mặc ông chủ, đẩy các con của mình ra, làm “cột mốc chủ quyền”. Và, bị lũ lâm tặc kia, đánh cho tơi tả. Tranh chấp, rồi cũng phải tạm lắng. Bà chủ, lôi con berger ra, hạch tội. Nó nhâng nháo trả lời: “Chó, sao có thể, đấu được với súng – đạn. Chó, sao có thể, đấu được với Hổ – Báo. Bà, hãy cho tôi, ăn gan Trời – trứng Trâu. Lượng đổi – Chất đổi. Đời con – đời cháu của tôi, chúng sẽ có mình đồng – da sắt. Lúc đó, nhất định, chúng sẽ giúp bà chủ, đòi lại chủ quyền. Biện chứng, phải là như thế”. Bà chủ, cười nhạt: “Tiên sư cụ nhà mày. Bà đây, không ngu ngốc. Để, tin vào những thứ hoang đường, còn hơn cả chuyện cổ tích của mày. Đối với bà: Nuôi chó, là để giữ nhà. Chó, phải lăn xương – xả thịt, để bảo vệ ông chủ, cùng với những người thân của họ. Hổ, báo đến, không dám đánh nhau. Trộm cướp đến, không dám cắn sủa. Loại chó ấy, chỉ còn cách, cho nó vào nồi. Đó, là phép Biện chứng của bà. Trong tư duy của bà, không có từ: đau đẻ, chờ sáng trăng. Đối với bà, mọi chuyện, phải luôn  ngayNgay bây giờ, bà đã chuẩn bị đủ, giềng – mẻ – mắm tôm và, bà làm thịt mày luôn đây”. Thế là, hết đời đứa vô dụng, lại còn lẻo mép.
2-Trong 1 lần, tiếp xúc với Cử tri. Viên thượng tướng Huỳnh Ngọc Sơn, phát biểu, chẳng chút ngượng mồm: “Không lẽ bây giờ bà con bảo là đánh nhau…. Nhiều lần ta cũng nghĩ tới việc lấy lại nhưng trong lúc này chưa thể lấy lại được. Để đời con đời cháu chúng ta lấy lại. Trung Quốc bây giờ họ củng cố gần như là bất khả xâm phạm rồi”.
Ông thách thức: “Ta như thế này thì bà con thấy ta ăn thua với họ được không? Ai tài giỏi thì thử chỉ huy ra đó coi có thắng không? Đánh được rồi nhưng có giữ được không?”
Đúng là: “Ta như thế này”, thì không thể: “ăn thua đủ với họ được”.
Muốn “ăn thua đủ với họ”, trước tiên, phải “cải tổ lại Bộ Quốc phòng” (Lời của Thiếu tướng Lê Mã Lương, tại Hội thảo: Con đường Tơ lụa của Trung quốc, ngày 20/6/2015).
Muốn “ăn thua đủ với họ”, phải “thiết mưu – định kế”. Việc đó, không phải, dành cho lũ ù lỳ – đầu đất và đần độn.
Ông, tự nhận mình dốt. Chịu, không nghĩ ra cách, đòi lại Biển – Đảo, đã bị lũ giặc cướp. Cho nên, kêu gọi những người giỏi hơn, ra chỉ huy. Rất đúng. Nhưng, muốn người ta, chỉ huy thay mình, hãy: Trả lại quân hàm, cho Quân đội – Trả lại chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội, cho Nhân dân. Rồi, về nhà, làm cái công việc vinh quang: Nấu nướng và, giặt giũ cho vợ. Có thế, mới trao được Quân – Quyền, vào tay Hiền – Tài. Để, họ đưa Đất nước tiến lên. Năng lực tồi – Đạo đức kém, nhưng vẫn ham quyền – cố vị. Sẽ, làm cho Đất nước và Nhân dân cùng khổ.
Huỳnh Ngọc Sơn, chỉ cần, tụng niệm 4 từ “còn đảng – còn mình”, là đã có thể, được phong quân hàm thượng tướng của CS. Là viên tướng võ biền, ông nghĩ rằng: “Ăn thua đủ với họ”, dứt khoát, phải “thượng cẳng chân – hạ cẳng tay”. Tay này, chắc cả đời, chưa cầm đến quyển Binh thư.
Binh pháp Tôn tử – thiên Cửu địa viết rằng :
敢问; 敌众整而将来,待之若何 ?曰:先夺其所爱则听矣   Cảm vấn : “Địch chúng chỉnh nhi tương lai , đãi chi nhược hà” ? Viết : “Tiên đoạt kì sở ái , tắc thính hĩ ”
Xin hỏi: “Lũ giặc cậy đông – vũ khí hiện đại – huấn luyện tốt – đội ngũ lại chỉnh tề, ầm ầm kéo đến. Ta, phải đối phó, như thế nào ?”. Đáp: “Sợ đếch gì chúng. Trước tiên, phải tìm ra, yếu điểm của địch. Sau đó, cứ nhè vào đấy, mà phang. Giặc, sẽ phải, tuân theo sự điều động của ta”. Gọn lại, chỉ có 4 từ “tị thực – kích hư”. (Tránh chỗ mạnh – Đánh chỗ yếu)
Người khôn ngoan, không đem cái yếu của mình ra, để đánh vào cái mạnh tương ứng của đối phương. Kẻ ngu đần, sao biết cách, tìm điểm mạnh của mình, để đả vào điểm yếu cố hữu của địch.
Ở biển Đông, Trung Cộng, mạnh nhất là cơ bắp – là vũ khí. Chúng, sợ nhất cái gì? Sợ nhất, bị đưa ra trọng tài Quốc tế – Sợ nhất, phải đàm phán đa phương. Tất cả, bởi chúng đuối lí. “Chúng, không hề có bằng chứng, về chủ quyền, đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh). Đó, là điểm yếu cố hữu của chúng. Chúng, như con Cú vọ. Sao dám bay, dưới ánh sáng Mặt trời.
Trước tiên và cơ bản, phải nhằm vào cái này. Khi đó, tự nhiên, sẽ tạo được đồng thuận và ủng hộ của các Đại quốc: Hoa kỳ – Nhật bản và dư luận tiến bộ trên toàn Thế giới (Thủ tướng Cộng hoà liên bang Đức, là bà Angela Merkel. Bà, đã từng, công khai tặng Tập Cận Bình, bức địa đồ Trung Hoa. Trong đó, không hề có, cả Trường sa, lẫn Hoàng sa). Khi đó, sẽ tạo được, khối thống nhất ý chí, trong các nước lân bang ASEAN. Cộng với, khối Đại đoàn kết của cả Dân tộc. Kẻ kia, liệu có dám, múa gậy vườn hoang, để làm càn?
Trong cuộc đấu tranh Pháp lý, chúng ta, nhất định thắng.
Trừ phi, ban lãnh đạo CS Việt nam, đã có những thỏa thuận khác, với Trung cộng. Mà, họ không cho Nhân dân Việt nam, được biết. Chính vì thế, họ không dám: kiện Trung cộng, ra trước Tòa án Quốc tế.
Thỏa thuận Thành Đô, là 1 ví dụ.
__
Nguyễn Tiến Dân.
Tạm trú tại: 544 đường Láng – quận Đống đa – Hà nội.
Điện thoại : 0168-50-56-430.

3 tháng 10, 2015



 


ĐẤT NƯỚC TÔI, ĐẤT.....NƯỚC TÔI !


Ngày trước chúng mình yêu nhau

Em hay nũng nịu, ngả đầu vào anh

Chờ xây xong tổ yên lành

Bây giờ vợ đã hóa thành yêu tinh.

Chồng nghèo, vất vả hy sinh,

Độc quyền, giờ chỉ một mình vợ xơi.

Hãy đi hỏi khắp gầm trời

Xem có ai hận như người chồng em ?

Bao giờ cho nổi bão lên,

Cho căn nhà sập, để em đứng đường.!!!