11 tháng 7, 2015

Obama (lẩy Kiều) :
"Ở đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi "






Cụ tổng :
 " Thưa rằng người dạy quá lời,
Thân này chỉ biết một đời đu dây "


Màn trình diễn hoàn hảo của Tổng Bí thư

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng kết thúc chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ từ 6 đến 10/7/2015. Tuy không phải là quốc khách nhưng ông Trọng đã được tiếp đón trọng thị và đã gặp gỡ Tổng thống Barack Obama tại phòng Bầu Dục Nhà Trắng ở Washington DC. Chuyến đi chưa từng có của một Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến thủ đô Hoa Kỳ được đánh giá như thế nào là chủ đề tạp chí Đọc báo trên mạng tuần này.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ báo chí sau cuộc hội đàm ở Tòa Bạch Ốc hôm 7/7/2015.
Những việc được thỏa thuận từ trước

Những gì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và phái đoàn Việt Nam đạt được trong những ngày ở Mỹ là những việc đã được thỏa thuận từ trước, qua những chuyến đi con thoi của các giới chức cao cấp Mỹ đến Việt Nam và những khoảng thời gian thảo luận chặt chẽ giữa hai chính phủ Việt-Mỹ. Thế nhưng dư luận cho rằng Nhà Trắng và Chính phủ Hoa Kỳ đã giữ lời hứa, thực hiện những điều mà Đại sứ Ted Osius tuyên bố trước đó trên báo chí Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ tiếp đón người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam một cách trọng thị.

  Ít nhất cuộc gặp gỡ này với việc hai lãnh đạo gặp nhau là một bước đi lịch sử trong quan hệ song phương giữa hai nước. Tôi đặc biệt mừng về phần nội dung của tuyên bố hai bên vì có rất nhiều nội dung liên quan đến vấn đề cải cách ở Việt Nam.

-GS Jonathan London
Và ông Nguyễn Phú Trọng có vẻ gây ngạc nhiên cho nhiều người về phong thái được cho là ung dung và tự tin của ông, nếu so sánh với 4 nhà lãnh đạo Việt Nam là Khải-Triết-Dũng-Sang đã từng vào Nhà Trắng trước ông. Ông Nguyễn Phú Trọng người sắp rời cương vị Tổng Bí Thư sau kỳ Đại hội Đảng XII vào sang năm, từng được biết đến như một nhà lãnh đạo bảo thủ giáo điều với những phát ngôn gây thất vọng cho người Việt Nam. Những điều này không chỉ thể hiện trên các trang mạng xã hội như blog hay facebook mà còn được chính các báo do nhà nước quản lý trích thuật.

Người đọc báo chưa thể quên những phát biểu điển hình của ông Nguyễn Phú Trọng như “Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” hoặc “Cương lĩnh Đảng cao hơn Hiến Pháp”. Tuy vậy, tác dụng của phương tiện đa truyền thông tường thuật hoạt động của ông Nguyễn Phú Trọng ở thủ đô Hoa Kỳ được cho là đã giúp ông lấy lại một chút uy tín.

Nội dung bản Tuyên bố về tầm nhìn chung Việt Nam – Hoa Kỳ được Nhà Trắng phổ biến sau cuộc hội đàm Barack Obama – Nguyễn Phú Trọng tuy không có những đột phá quan trọng, nhưng cũng sẽ được biết tới như thành quả của chuyến đi Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Giáo sư Jonathan London chuyên gia về các vấn đề Việt Nam và thông thạo Việt ngữ từ Hong Kong nhận định:

“Ít nhất cuộc gặp gỡ này với việc hai lãnh đạo gặp nhau là một bước đi lịch sử trong quan hệ song phương giữa hai nước. Tôi đặc biệt mừng về phần nội dung của tuyên bố hai bên vì có rất nhiều nội dung liên quan đến vấn đề cải cách ở Việt Nam.”

Câu chuyện Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp đón và đàm luận ở Nhà Trắng được giới quan sát cho là một sự kiện lịch sử. Tuy vậy họ không chờ đợi một sự đột phá nào. TS Nguyễn Thanh Giang một nhà phản biện độc lập ở Hà Nội nhận định:

“Những chuyến đi trước của ông Trương Tấn Sang và ông Nguyễn Tấn Dũng đã đẩy lên được một quan hệ hợp tác toàn diện. Đáng lẽ chuyến này đi phải đẩy lên một bước tiến mới là hợp tác chiến lược toàn diện, nhưng tôi không tin là ông Nguyễn Phú Trọng có thể làm được. Hơn nữa, trong tình hình này thì phải thiết lập được liên minh toàn diện với Hoa Kỳ trong đó có liên minh về quân sự và có việc đàm phán mở cửa cho Hoa Kỳ vào Cam Ranh. Nhưng tôi không tin rằng ông Nguyễn Phú Trọng có thể làm được những việc cần phải làm đó.”

Không có đột phá?

Sau cuộc gặp giữa Tổng thống Barack Obama và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Nhà Trắng công bố là Việt Nam và Hoa Kỳ đạt tới Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, việc cấp giấy phép thành lập Viện Đại học Fulbright tại Việt Nam; cũng như nhiều thỏa thuận khác mà giới quan sát cho là không có tầm mức quan trọng.

Một trong những vấn đề được quan tâm rất nhiều trước chuyến đi là sẽ có đột phá về việc Mỹ công nhận qui chế kinh tế thị trường của Việt Nam, tuy nhiên điều này đã không xảy ra. Trong Tuyên bố tầm nhìn chung Việt-Mỹ, Nhà Trắng dùng lời lẽ ngoại giao ghi nhận sự quan tâm của Việt Nam mong muốn đạt được kinh tế thị trường, mà không có hứa hẹn gì cụ thể.

TS Vũ Quang Việt, chuyên gia kinh tế từng có nhiều năm làm việc cho Liên Hiệp Quốc từ New York nói về khúc mắc quan trọng khiến Việt Nam vẫn chưa được Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường:

  Việt Nam ngay cả trong Hiến pháp và các văn bản quyết định khác đều coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Nếu quốc doanh chủ đạo thì có nghĩa là nó được hưởng rất nhiều ưu tiên. Cái đó là một trong 5 lý do mà người ta không chấp nhận kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường.

-TS Vũ Quang Việt
“Việt Nam ngay cả trong Hiến pháp và các văn bản quyết định khác đều coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Nếu quốc doanh chủ đạo thì có nghĩa là nó được hưởng rất nhiều ưu tiên. Cái đó là một trong 5 lý do mà người ta không chấp nhận kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường. Với chế độ cộng sản và với nền kinh tế họ coi là quốc doanh chủ đạo thì như vậy họ sẽ làm lợi nhất cho những người ở trong Đảng và những người cầm quyền, đặc biệt việc sử dụng đất đai… họ sẽ tạo ra những cơ sở để cho đảng viên những người liện quan đến Đảng, liên quan đến chính quyền được hưởng lợi ích và giới tư nhân khó lòng mà cạnh tranh lại những người đang nắm quyền… ”

Vấn đề TPP cũng vậy, trong Tuyên bố tầm nhìn chung Việt-Mỹ, Nhà Trắng cho thấy sẽ còn các cuộc đàm phán khác và Việt Nam cần tiến hành những cải cách để đáp ứng tiêu chuẩn cao của TPP, kể cả khi cần thiết đối với các cam kết liên quan tới Tuyên bố của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO năm 1998 về Nguyên tắc cơ bản và Quyền tại nơi làm việc.

Theo các chuyên gia vấn đề vừa nêu có thể tóm tắt là Việt Nam phải cải cách chính trị và pháp luật, chấp nhận quyền tự do nghiệp đoàn. Đã có những tin không chính thức nói là Việt Nam mong muốn giảm nhẹ vấn đề này trong giai đoạn chuyển tiếp, chấp nhận hình thức người lao động có thể thành lập nghiệp đoàn riêng của mình tại cơ sở, tức là ở nhà máy, hãng xưởng nơi họ làm việc. Pháp luật hiện hành của Việt Nam cấm tự do nghiệp đoàn và cả nước chỉ có một loại nghiệp đoàn trực thuộc Đảng và Nhà nước đó là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Vấn đề nhân quyền luôn là một vướng mắc trong quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu vào chiều 8/7 tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế CSIS ở Washington DC đã nhấn mạnh, không để vấn đề nhân quyền cản trở quan hệ Việt Mỹ. Ông nói:

“Tôi hiểu trong vấn đề này, hai bên còn có những khác biệt về nhận thức và cần tiếp tục thông qua đối thoại thẳng thắn, xây dựng để có cách nhìn tổng thể về những thay đổi cơ bản mang tính hệ thống, từ đó có đánh giá khách quan hơn về vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam, không để vấn đề này cản trở đà tiến triển tốt đẹp của quan hệ, cũng như ảnh hưởng tới việc xây dựng lòng tin giữa hai nước.”

Ghi nhận tín hiệu cải cách qua chuyến đi của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Giáo sư Jonathan London từ Hong Kong phát biểu bằng tiếng Việt là ông tán dương việc Hoa Kỳ đặt nặng vấn đề nhân quyền và ông Nguyễn Phú Trọng cũng có đề cập tới.

“Tôi nghĩ Việt Nam càng tiến bộ về vấn đề nhân quyền thì quan hệ song phương giữa hai nước sẽ gần nhau hơn. Chẳng hạn nếu Việt Nam làm một số điều quan trọng như thả những người nên thả và chấm dứt hành vi sách nhiễu… thì tôi có thể tưởng tượng Obama sẽ sang thăm Việt Nam trong năm nay… nhưng vẫn cần có một số tiến bộ.”

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm được gì và chưa làm được gì trong chuyến đi lịch sử tới Hoa Kỳ sẽ có thể là đề tài mà các nhà bình luận mổ xẻ. Thế nhưng trong tương lai khi người dân hai quốc gia Việt-Mỹ tránh được việc bị đánh thuế hai lần, hay các sinh viên theo học tại Trường Đại học Hoa kỳ không vụ lợi đầu tiên ở Việt Nam mang tên Fulbright, thì lúc ấy họ có thể nhớ lại một vài điều tốt đẹp của sứ mạng Nguyễn Phú Trọng.

Nam Nguyên
phóng viên RFA


Vài bệnh mãn tính của trí thức Việt

Nguyễn Quang Dy


Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử ( tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển. Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?

Có lẽ việc này cần hơn là “định nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng ta không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao điên rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.

Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng ta. Nếu chịu khó quan sát, ta có thể nhận diện một số căn bệnh mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!). 

Những nhận xét dưới đây có thể đúng, có thể sai, có thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định ngay.

Hay định kiến và chia rẽ

Người ta hay nói (nửa đùa nửa thật) rằng một người Việt thì không thua kém một người nước khác, nhưng ba người Việt thì chắc thua kém một người nước khác. Bởi vì ba người Việt thường không hợp sức mà n chia rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhau. Không hiểu vì sao tính cá thể của người Việt rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung Hoa). Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do tính bản địa, hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có tiếng là hay định kiến và chia rẽ, hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm rất khó, không phát huy được nội lực và không kết nối được năng lượng (synergy). Rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Có lẽ vì biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”, nghĩa là không đoàn kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!

Gần đây, đáng mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn, như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới này cũng khó phát triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới hình thành đã cãi nhau rồi. Chưa cần bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồi. Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta thường hiểu theo nghĩa cộng đồng chứ không phải từng cá thể. Nếu cứ định kiến và chia rẽ như vậy thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát Trung”?

Không chịu lắng nghe

Theo nguyên lý truyền thông, lắng nghe quan trọng hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình tâm mới lắng nghe được người khác, để hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều này càng quan trọng trong thời đại bùng nổ truyền thông kỹ thuật số. Muốn lắng nghe phải khiêm tốn, chân thành, nhạy cảm. Người ta nói xã hội càng “high-tech” thì con người càng phải “high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây, Việt Nam được xếp vào nhóm nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa số người Việt, nhất là giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác nghe, mà không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người còn hay “xoa đầu”dạy bảo người khác (nhất là đối với lớp trẻ). Họ thường vô cảm, không hiểu được người khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc - Nam, trong - ngoài, không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn, coi thường người khác, luôn cho mình đúng, ai không giống mình là sai.

Trong bộ máy công quyền trước đây, người ta quen độc quyền thông tin theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản tin tham khảo” (lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu đã chứa định kiến, thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà không cần lắng nghe để tìm hiểu sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường dẫn đến định kiến và chia rẽ. Điều đáng nói là không phải chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy hiểm hơn cả người khác.  
  
Học giả nhiều hơn học thật

Chưa thấy ở đâu người ta coi trọng bằng cấp và học hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt Nam. Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy, nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng nói là nó không chỉ phổ biến trong nhà trường mà còn trong giới công chức và trí thức. Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức báo động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ bé, nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí thức thật thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới trí thức Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tả, rất đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản sắc” Việt Nam.

Nguồn gốc trí thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây thời trước (cả Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa quá ít vừa “quá date” (passé rồi), nếu chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi thời thế hoặc thời gian. Thế hệ thiếu sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở thành quan chức, một số khác có tài đã trở thành trí thức thật, nhưng nay đã về hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân hóa, đa số thực dụng buôn bán kinh doanh giàu lên nhanh như “tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch nước khác. Thế hệ đi học các nước “phương tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và đa dạng, đa số kinh doanh, một số làm công chức, một số khác làm cho nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với thế giới, nhưng chưa được thực sự trân trọng.    

Im lặng trùm chăn

Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số thường “trùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tim tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề MIA trước đây). Trong bối cảnh đó, giới trí thức văn nghệ sĩ “trùm chăn” là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để thoát khỏi nỗi sợ không đơn giản, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến cuối đời mới dám lên tiếng nói ra sự thật (như tác giả “Đèn Cù”).

Bên cạnh đa số im lặng trùm chăn (silent majority), có một thiểu số lớn tiếng (vocal minority). Những người đã định cư ở nước ngoài thường “dũng cảm” hơn và “lớn tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn nóng muốn thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp, chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay đổi, nhưng nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá trình dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy cách tốt nhất là đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân chủ gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, muốn đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao,  ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với “sức mạnh cứng”, biết kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global synergy).     

Hội nhập quốc tế chậm

Trong thời đại toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ trong quá trình đổi mới và phát triển. Đáng tiếc, giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang chuyển đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước Phương Tây sau này ngày càng đông,  riêng học tại Mỹ đến nay là 16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.

Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp cho những người trí thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực đoan và bạo lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, chỉ khi nào giới trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới thực sự phát triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói trên.      

NQD. 7/7/2015

Tuan 's blog

Thursday, July 9, 2015

Tấm lòng của bác Trọng

Phải nói một cách khách quan là chuyến Mĩ du của bác Trọng lần này “êm thuyền xuôi mái” hơn các vị trước như các bác Triết, Khải, Phiêu, Nghị. Bác Trọng không vấp phải những “sự cố” linh tinh như các bác ấy. Những phát biểu của bác Trọng trong Oval Office và các cuộc gặp mặt khác, dù chỉ là ngôn ngữ ngoại giao, làm cho nhiều người có lí do để hi vọng. Tuy nhiên, hôm nay xem qua bài diễn văn bác Trọng đọc trước CSIS (1) về người Việt trên đất Mĩ làm tôi rất … tâm tư.


Nói về cộng đồng người Việt ở Mĩ, bác Trọng nhắn nhủ chính quyền Mĩ là nên lo lắng cho “thần dân” Việt của bác ấy. Bác nói: “Tôi mong chính quyền Hoa Kỳ quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống, công việc và học tập của người Việt Nam tại Hoa Kỳ, tạo điều kiện để họ hội nhập tốt và đóng góp tích cực cho sự phát triển của Hoa Kỳ và cho quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.”

Câu này nghe quen quen. Thật vậy, bác Trọng không phải là người lãnh đạo VN nói câu này lần đầu; trước bác đã có các vị khác cũng nói tương tự khi đi công cán bên Âu châu và Úc châu. Điều này chứng tỏ rằng cái câu văn đó là sản phẩm của một người nào đó chuyên soạn diễn văn cho các bác lãnh đạo. Người đó chỉ việc cắt và dán câu văn kinh điển đó cho bất cứ ai đi thăm chính thức một nước có đông người Việt cư ngụ. Nói cách khác, nó không chỉ là câu văn sáo ngữ (rhetoric), mà còn là một câu văn vô hồn (mới có chuyện cắt và dán), chứ nó không thể hiện cái tâm thật của người viết, càng chưa chắc phản ảnh cái suy nghĩ thật của người nói.

Nhưng công bằng mà nói, tôi nghĩ với sự hiện diện của gần 2 triệu người Việt trên nước Mĩ, bác Trọng cảm thấy cần thiết nói một câu gì đó. Một câu để chứng tỏ cho người Mĩ thấy là bác cũng là một người lãnh đạo đang hội nhập thế giới văn minh, cái thế giới thân thiện và quan tâm đến sự an sinh và lợi ích của con người (chứ không dùng con người như là một công cụ chiến tranh). Tôi nghĩ câu phát ngôn của bác Trọng ra đời trong bối cảnh đó.

Sẽ chẳng có gì đáng bàn câu nói kinh điển đó, nếu 40 năm trước đa số người Việt định cư ở Mĩ ra đi một cách êm thắm và trật tự, và còn giữ tình cảm đẹp với nhà cầm quyền. Nhưng trong thực tế, chúng ta biết rằng đại đa số người Việt định cư ở Mĩ đã ra đi trong tình cảnh đau đớn, đau khổ, cay đắng, và đầy nước mắt. Họ mất cha, mất chồng, mất người thân, mất nhà cửa, mất tài sản, có khi mất tất cả. Họ ra đi trong bối cảnh “vĩnh biệt” quê hương. Thử nghe một ca khúc nổi tiếng thời thập niên 1980 thì biết:

Sài Gòn ơi, ta có ngờ đâu rằng
Một lần đi là một lần vĩnh biệt
Một lần đi là mất lối quay về
Một lần đi là mãi mãi thương đau. 

Sài Gòn ơi, ta có ngờ đâu rằng
Một ngày qua là một ngày li biệt
Một ngày qua là ta mất nhau rồi
Một ngày qua là muôn kiếp chia phôi.

Rồi họ sống sót. Một thời gian sau, bằng đôi tay cùng ý chí tự lực cánh sinh cũng như sự bao dung của cộng đồng người Mĩ, người Việt cũng ổn định cuộc sống, lập ra những khu phố phồn thịnh như ngày nay. Người Việt ở Mĩ ngày nay đã ổn định, và đóng góp nhiều tỉ USD cho bên nhà. Đó là số tiền có thể xem là “viện trợ không hoàn lại” lớn nhất so với các nước khác tài trợ. Thật vậy, chưa có một nước nào trên thế giới đã và đang "viện trợ" bền bỉ cho VN mỗi năm hơn 15 tỉ USD như người Việt ở nước ngoài.

Trong thời gian 40 năm qua, người Việt ở Mĩ và khắp nơi trên thế giới đã định cư và phát triển hoàn toàn chẳng có dính dáng gì với chính quyền trong nước, chứ nói gì đến “giúp đỡ” của chính quyền hiện hành. Đó là chưa kể đến lúc người Việt bỏ nước ra đi, vị thủ tướng thời đó là Phạm Văn Đồng đã phỉ báng rằng họ là thành phần ma cô, đĩ điếm. Trớ trêu thay, ngày nay bác Trọng, người trong hệ thống chính quyền đó, lại nhắn nhủ chính quyền Mĩ là nên chăm sóc cộng đồng người Việt ở Mĩ! Thật không có gì trớ trêu hơn, nếu không muốn nói là … trơ trẽn.

Tôi tưởng tượng rằng sáng nay, mấy bác HO và tị nạn ở Quận Cam đang nhâm nhi cà phê và bàn râm ran câu phát ngôn của bác Trọng. Có lẽ họ xem đó là một câu tiếu lâm hiện đại. Đối với những người đã về VN làm việc hay kinh doanh hay nghỉ hưu, có lẽ câu đó nên là câu của ông Obama: “Tôi mong chính quyền Việt Nam quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các người Mĩ gốc Việt có một cuộc sống an bình, làm việc và kinh doanh, để họ đóng góp tích cực cho sự mối bang giao giữa Hoa Kì và Việt Nam.” Dĩ nhiên, tôi chỉ nói đùa, chứ ông Obama đâu có nói theo kiểu… hối lộ như thế.

Thật ra, tôi nghĩ câu nhắn nhủ đó không cần thiết. Thứ nhất, đó là một câu phát biểu mang tính nhờ vả, hối lộ. Nó cũng giống như cách nói gửi gắm: này, chúng nó là thần dân của tôi đấy nhé, các anh nhớ quan tâm chăm sóc chúng nó dùm tôi. Nó cũng giống như quan lớn gửi gắm con cháu cho một cơ quan khác dưới quyền. Thành ra, đó cũng là cách nói của một kẻ có quyền cao chức trọng nói với kẻ có quyền thế thấp hơn, và như thế là trịch thượng. Thứ hai là nó không thích hợp, bởi vì ở Mĩ, nơi các thiết chế pháp lí khá hoàn chỉnh, nơi mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nơi có chế độ an sinh đàng hoàng, thì chuyện gửi gắm chỉ làm cho người Mĩ khó chịu, nếu không muốn nói là mỉm cười. Mang cái tư duy Việt Nam (gửi gắm) sang một xã hội văn minh rất ư là không thích hợp, và hành động đó nói lên rằng thời gian hội nhập hình như chưa đủ. Và, sau cùng là câu nói đó chỉ làm cho người Việt ở nước ngoài nhìn bác Trọng một cách tội nghiệp, vì bác ấy bị mấy người viết diễn văn làm người khác nhìn bác ấy như chẳng biết gì về quá khứ và lịch sử của cộng đồng người Việt ở Mĩ.

Lần sau, tôi đề nghị các vị lãnh đạo đi công cán ở nước ngoài, và nếu họ muốn nói câu gì đó đến người Việt ở địa phương, họ nên tự mình viết ra. Không nên để cho những người soạn diễn văn chuyên nghiệp chấp bút, vì họ chỉ là những cái máy viết, mà cái máy thì nó vô hồn, vô cảm, và không hay.

Tôi thử tưởng tượng mình là bác Trọng, và đang công cán bên Mĩ, tôi sẽ viết gì cho đồng hương bên đó. Có lẽ tôi sẽ viết: “Nhân danh là một người Việt, tôi muốn chân thành gửi đến tất cả đồng hương người Việt trên đất Mĩ lời chúc sức khoẻ. Tôi biết và hiểu rằng một số trong các bạn vẫn còn bị quá khứ chi phối đến tình cảm của các bạn dành cho Việt Nam ngày nay. Tôi không kêu gọi các bạn quên đi quá khứ đau buồn, tôi chỉ mong muốn các bạn hãy bỏ quá khứ sau lưng, và cùng chúng tôi ở trong nước chung tay bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, tự do, dân chủ, và bác ái. Tôi cũng hi vọng các bạn đóng vai trò cầu nối tích cực cho mối bang giao Việt – Mĩ đang càng ngày càng tốt đẹp.

Tôi muốn lặp lại câu Kiều mà ông Biden đã nói với tôi (nhưng thiết nghĩ giữa người Việt với nhau, câu đó không cần thiết), nhưng tôi muốn nói với các bạn rằng các bạn và tôi đang ở ngay một thời điểm lịch sử, khởi đầu cho cuộc hành trình vì một Việt Nam tươi sáng. Tôi chân thành kính mời các bạn cùng tôi tham dự vào cuộc hành trình lịch sử này.”

Các bạn đọc những ‘rhetoric’ đó thấy thuyết phục chưa? :-) 
====
(1) http://www.vietnamplus.vn/toan-van-bai-noi-chuyen-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-csis/331933.vnp

10 tháng 7, 2015

Obama :" Thôi ông về đi, những điều cần nói , tôi đã nói hết với ông rồi, còn ông suy nghĩ thế nào thì tùy ông "

THÔNG NÃO CẦN LAO. | Phọt Phẹt

THÔNG NÃO CẦN LAO. | Phọt Phẹt

Thứ Năm, ngày 09 tháng 7 năm 2015

AI CŨNG PHẢI CHUYỂN MÌNH

Rút cục thì Nguyễn Phú Trọng, TBT ĐCSVN phải dẫn phái đoàn quan chức CS sang Hoa Kỳ để ký nhiều điều khoản hợp tác. Chẳng ai lạ gì sự tô vẽ của CSVN. Ngay cả những trận đánh thua tan tác, chết sạch sành sanh cũng được tô vẽ thành thắng lợi. Như thắng lợi mang tính chất chính trị, thắng lợi vì thăm dò được khả năng quân địch, thắng lợi có ý nghĩa đột phá....

Lặn lội bầu đoàn kéo đến nhà người ta cách nửa vòng trái đất, nhất là nhà của kẻ mình trước nay tuyên bố thù hận không đội trời chung. 

Chỉ từng ấy cũng đủ để hiểu là cái vị thế đang ra sao. Không phải nói nhiều. Hãy cứ để cho bộ phận tuyên truyền của CSVN tìm cách xuyên tạc sự thật để giữ thể diện,  rằng Hoa Kỳ phải chấp nhận đàm phán, chấp nhận cộng sản, phải công nhận Việt Nam tiến bộ, dân chủ gấp ngàn lần tư bản....Sự thật thì ai cũng thấy rồi. Chẳng đôi co bóc mẽ những kẻ đã vào đường cùng làm gì.

Người hiểu biết cư xử, khi cho ăn mày tiền, không bao giờ họ đứng xa ném đồng xu vào cốc gã ăn mày. Họ lại gần, cúi xuống thả đồng xu nhẹ nhàng vào trong cốc.

 Đã là  Minh Quân ý chí muốn thâu phục thiên hạ,  không bao giờ hạ nhục hàng tướng địch đến dưới trướng mình, họ ân cần đối đãi tử tế như người bạn thân xa cách lâu ngày giờ quay lại cố hương.

Từ ngoài hè phố đến cung điện người ta đều cư xử như vậy.

Đến hơn nửa thế kỷ nay  tư tưởng thù hằn, chống đối, nghị kỵ, không đội trời chung với Hoa Kỳ luôn ngự trị trong tim óc người CSVN. Thậm chí tư tưởng hận thù ấy còn được tuyên truyền cho thiếu nhi, học sinh lòng căm thù đế quốc Mỹ. Còn được dựng thành đài tưởng niệm bia căm thù trên khắp quê hương. Được khuyến khích sáng tác những tác phẩm văn học, nghệ thuật khích động lòng căm thù đó.

Càng như vậy, mới thấy sự chuyển mình của CSVN khi TBT Nguyễn Phú Trọng, kẻ thù Mỹ một cách cực đoan, lại dẫn phái đoàn quan chức cấp cao đến tận Hoa Kỳ để xin xỏ, nhờ vả là sự chuyển mình, thay đổi đáng ghi nhận.

Người thấy  CSVN như thế, họ nói thế này. 

Chẳng qua bọn CSVN sắp chết, chúng bám víu, cầu cạnh tìm lối thoát, chúng hết tiền, chúng đói khát, chúng van lạy tứ phương, bất chấp danh dự....

Với tôi, tôi cho rằng CSVN lần này can đảm. Cái can đảm là dám vượt qua những định kiến cố hữu, bắt tay với kẻ cựụ thù mà mình vẫn rêu rao , chỉ trích bao lâu nay..

 Nếu nhìn công tâm,  chắc bên trong nội bộ những người CSVN, họ cũng phải trăn trở, vật vã, cân nhắc...thậm chí là thanh trừng những ý kiến cản trở,  để đi đến quyết định hợp tác với Hoa Kỳ. Một quyết định quan trọng và lớn lao như thế, chỉ riêng sự túng bẫn thôi thúc là chưa đủ. Phải có thêm sự can đảm vượt qua chính tư tưởng, định kiến của bản thân mình. Lúc Hàn Tín luồn trôn anh hàng thịt, đó cũng là sự can đảm để vượt qua chính mình. Không phải bất cứ hành động cầu xin nào cũng là hèn nhát,  không phải lúc nào sự hạ mình cũng do nhu cầu sinh tồn thôi thúc.

CSVN đã chuyển mình, tự thay đổi để thích ứng với thời cuộc mới. Chắc chắn CSVN phải nhận ra sự thay đổi, chuyển mình ấy mang lại cho họ lợi ích hơn việc không thay đổi. Và vì thế họ thay đổi, chuyển mình.


Ngay sau ngày người cộng sản bảo thủ số một Nguyễn Phú Trọng bắt tay thân thiện, cởi mở với tổng thống Obama trong phòng Bầu Dục. Hãng truyền thông quốc tế BBC phỏng vấn một cựu chiến binh VNCH có tên là Ngô Kỷ. Những ai ở Cali đều biết Ngô Kỷ là người chống Cộng không đội trời chung. Ông ta chống CSVN y như những người CSVN chống Hoa Kỳ. Nếu CSVN từng coi bất kỳ ai dính dáng đến Hoa Kỳ đều là tay sai của thế lực thù địch, thì Ngô Kỷ cũng coi bất kỳ ai kể cả đồng đội của ông ta là tay sai cộng sản nếu như không chống CSVN theo ý ông ta.

Ở một nét chống đến cùng, chống sắt máu, không đội trời chung. Ông Ngô Kỷ và ông Nguyễn Phú Trọng không khác gì nhau.

Thế nhưng ông Nguyễn Phú Trọng thay đổi, còn Ngô Kỷ thì vẫn thế.

Sở dĩ BBC chọn Ngô Kỷ phỏng vấn, là bởi Ngô Kỷ đại diện tiêu biểu cho tinh thần chống CSVN đến mức một mất, một còn. Không thể đứng song song cùng tồn tại. Hãy cứ dạo trên các trang mạng xã hội, diễn đàn, các tờ báo, các hội nghị để thấy tinh thần ấy không hề nhỏ một chút nào.

Có thể cái khác nhau là tinh thần ông Ngô Kỷ xuất phát từ chánh nghĩa quốc gia, là lá cờ vàng 3 sọc đỏ có từ thời vua Thành Thái, là vì một nước VNCH nhân bản, văn minh, tiến bộ, là ý chí của hàng triệu người Việt hải ngoại. 

Nhưng thế cuộc đang diễn ra thế nào mới là điều đáng nói. Cái tinh thần mà ông Ngô Kỷ đại diện ấy, làm thế nào để chuyển biến nó thành hiệu quả là tiêu diệt được đảng CSVN, thành lập lại chế độ VNCH.? Vận động quyên góp tiền bạc, lập quân đội như Hoàng Cơ Minh, Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Tuý tiến về giải phóng quê hương.? Hay tuyên truyền vận động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa lật đổ chế độ CSVN và phục dựng lại chế độ VNCH.? Hoặc là nhờ các cường quốc tạo áp lực cô lập, cấm vận, phong toả khiến CSVN tan rã, tự sụp đổ để chế độ mới lên.?

Chẳng biện pháp nào là hữu dụng cả, nó chỉ trên lý thuyết mà thôi. Chừng nào những người chống CSVN mà còn tư duy phải một mất một còn ngay với CSVN như đánh xóc đĩa, mở ra là phải có chẵn, có lẽ, có được, có thua ngay. Chừng đó những hoạt động nỗ lực của các bạn sẽ là gáo nước đổ vào xe cát. Lý thuyết là một gáo nước sẽ làm thấm đống cát, ngàn gáo nước sẽ làm trôi đống cát. Nhưng để có ngàn gáo nước là vấn đề của thời gian, mà bạn không biết bao giờ mới có đủ ngàn gáo nước.

Hoa Kỳ tiếp đảng trưởng CSVN Ngyễn Phú Trọng. Có nghĩa Hoa Kỳ công nhận ĐCSVN.?

Đúng là vậy, nhưng chưa đủ. Công nhận ĐCSVN có nghĩa Hoa Kỳ sẽ còn công nhận hàng chục đảng phái khác ở Việt Nam. Nếu Hoa Kỳ muốn Việt Nam đa đảng, không có lý do gì Hoa Kỳ chiều lòng các đảng phái Việt Nam khác để tiêu diệt và xoá sổ Đảng CSVN. Các nước Pháp, Đức...đảng cộng sản vẫn được phép hoạt động như bất kỳ đảng phái nào. ĐCSVN vẫn hoạt động và các đảng khác cũng sẽ phải được hoạt động.

Và trong một quan điểm rõ ràng tiến bộ chung của toàn cầu như thế. Không có lý do gì mà Hoa Kỳ lại ủng hộ đảng này tiêu diệt, xoá sổ đảng khác. Các đảng phái phải phải học cách cạnh tranh lành mạnh để giành quyền lực chính trường.

Có lẽ đến lúc các đảng phái có tinh thần chống CSVN không đội trời chung, phải thay đổi quan điểm của mình. Thay đổi không phải là hèn nhát, không phải là từ bỏ bản thân mình, là thoả hiệp mắc mưu CSVN. Thay đổi là để phù hợp với một cuộc chiến mới, một tình hình thực tiễn đang diễn ra.

Điều cần thiết bây giờ là công khai thành lập đảng tại Việt Nam, có cương lĩnh, đường lối, hoạt động ôn hoà, dùng lý lẽ vận động quần chúng ủng hộ đảng mình. Một trong những đòi hỏi đầu tiên là đòi quyền chính danh của các đảng phái, tiếp tới đòi sửa đổi điều 4 hiến pháp...tiếp tới nữa thì đảng nào được nhân dân tin yêu, đảng đó nắm quyền. 

Biết đâu nhân dân vẫn tin ĐCSVN, bầu lá phiếu cho họ nắm quyền giữa muôn trùng đảng khác. Cũng phải vui vẻ chờ lần sau.

Một số bạn sẽ nói, lập đảng phái công khai sẽ bị bắt tù hết ư.?

Yên tâm đi, nếu các bạn bị bắt tù vì lập đảng phái ôn hoà. Đó sẽ là khúc xương ném giữa hiệp định toàn diện mà Hoa Kỳ và CSVN đang thực hiện. Nó sẽ làm cản trở, thậm chí là tan vỡ những gì mà Hoa Kỳ và ĐCSVN giao ước. Một khi hiệp định này tan vỡ, CSVN trở về con đường cũng quẫn, lúc đó chả ai biết nó sẽ sụp đổ hay tồn tại kiểu gì. Khi Đảng CSVN đã bước chân đi đến Hoa Kỳ thế này, con đường quay lại chẳng hề dễ chút nào. Họ sẽ phải lựa chọn là để cho các đảng khác hoạt động trong khi họ còn đầy đủ sức để lấn át để nắm quyền hơn là lựa chọn tiêu diệt các đảng khác, rồi cùng dắt tay đi đến thiên đàng CNXH sớm nhất bằng cách thăng thiên.

Nhưng không thể hoạt động với tiêu chí một mất một còn với ĐCSVN. Họ đã không còn thế với Hoa Kỳ, các bạn cũng nên nghĩ lại cho phù hợp thực tại.

Tái bút.
Cũng như thường lệ, đây là bài tào lao, chém gió, thiển cận không đánh giá hết mọi vấn đề, suy diễn,  không có lý luận cơ sở nào đúng đắn. Xin hãy đọc với tính chất giải trí. Bài viết của một  kẻ vô học, cơ hội, chọc ngoáy để câu like. Thoả mãn thói háo danh tầm thường. Hoàn toàn không có giá trị tham khảo.
Người Buôn Gió