24 tháng 6, 2020

Kịch bản nào trong vụ Hồ Duy Hải sẽ cứu nền tư pháp Việt Nam? 


Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình tuyên thệ nhậm chức năm 2016 

Quốc Hội lên tiếng

Tại phiên họp toàn thể của Uỷ ban Tư pháp quốc hội ngày 16 tháng 6 với sự tham gia của gần 40 thành viên, đa số thành viên Uỷ ban Tư pháp kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị xem xét lại quyết định giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, theo đúng thẩm quyền tại Điều 404 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Điều 404 nêu rõ, khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không biết được khi ra quyết định đó, nếu Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu, Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định đó.

Như vậy, để Hội đồng Thẩm phán mở phiên họp xem xét lại quyết định hôm 8 tháng 5 (không chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và giữ nguyên bản án sơ thẩm), thì cần đến bốn cơ quan yêu cầu, kiến nghị.

Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Việt Nam nhận định:

“Vụ án đó giờ đã lên đến tột đỉnh rồi. Tranh chấp quyết liệt giữa Viện Kiểm sát Tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao. Bây giờ đương trình tới Quốc hội nên cũng đang chờ xem Quốc hội có ý kiến thế nào. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của nước CHXHCNVN có một vụ án lớn chuyện, đình đám như thế. Khả năng sẽ như thế nào thì cũng khó đoán!

Theo luật sư Trần Quốc Thuận, tại phiên giám đốc thẩm kết thúc hôm 8 tháng 5, tất cả 17 vị đều giơ tay đồng thuận từng vấn đề một, tất cả ba lần. Tất cả những người đó đều phải chịu trách nhiệm cá nhân cho quyết định của mình.

Nhà báo, nhà quan sát thời cuộc Nguyễn An Dân cho biết ông nghiên cứu sâu về cả luật pháp lẫn chính trị, và ông thấy rằng Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ phải đề nghị xem xét lại quyết định giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải. Sau đó tiến tới cải cách hệ thống tòa án tối cao bằng cách dần dần thuyên chuyển, xử lý kỷ luật từng người để giải tán Hội đồng Thẩm phán cũ, lập Hội đồng Thẩm phán mới tiến bộ hơn một chút. Đây là vấn đề tồn vong của chế độ. Ông phân tích:

“Hiện giờ đảng đang có nhu cầu chấn chỉnh tư pháp để giữ lại niềm tin của người dân. Không thì sụp đổ chế độ thật. Đảng không sợ những người ở giai tầng thấp cổ bé họng như anh Hồ Duy Hải biết đảng sai. Đảng chỉ sợ những người ở tầng lớp trung lưu, thị dân và giới có hiểu biết. Đây là giới là nền tảng, là chỗ dựa của bất kỳ chế độ nào chứ không chỉ chế độ cộng sản.

Nó sẽ có kịch bản diễn ra gần giống như cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp thời xưa. Khi giới trung lưu, thị dân và giới quý tộc họ không tin vào pháp luật của một nhà nước nữa thì đó là dấu hiệu sụp đổ của một nhà nước. Đảng cộng sản Việt Nam phải tránh điều đó.”

Vụ án Hồ Duy Hải bắt đầu xảy ra từ năm 2008, tức đã 12 năm. Nhưng từ sau phiên giám đốc thẩm, vụ án nóng chưa từng có. Nhiều bản kiến nghị ra đời, giới trí thức lên tiếng không chỉ cho sinh mạng một con người, mà còn cho cả nền tư pháp Việt Nam hiện nay. Họ nhận thức được rằng, nếu những phiên tòa bất chấp pháp luật, bất chấp luật tố tụng hình sự tiếp tục diễn ra mà được cấp cao nhất là Hội đồng Thẩm phán bao che thì mọi người dân Việt Nam đều là những “tử tù dự bị”, chứ không chỉ Hồ Duy Hải hôm nay.

Tối 14 tháng 5, một bản kiến nghị đòi công lý cho Hồ Duy Hải được công khai trên mạng xã hội đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập Ủy ban giám sát vụ án để đánh giá lại tính khách quan và chính xác của phiên giám đốc thẩm. Nếu phát hiện sai sót nghiêm trọng, Quốc hội tiến hành bãi nhiệm Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và các thành viên Hội đồng thẩm phán, bầu chánh án và phê chuẩn các thẩm phán mới.

Luật sư Đặng Đình Mạnh nhận định về hành động của Ủy ban Tư pháp Quốc hội chiều 16 tháng 6 về vụ án Hồ Duy Hải:

“Việc này thì có lẽ ban đầu Hội đồng Thẩm phán cũng không ngờ cái phản ứng của công luận nó lớn và sâu rộng đến mức độ như vậy. Nhưng sau nhưng phản ứng như vậy và sau động tác của Ủy ban Tư pháp Quốc hội thì tôi nghĩ họ phải xem lại vấn đề. Nếu họ không xem lại thì chắc bên đảng cũng phải xem lại. Mà khi đảng xem lại thì vấn đề sẽ phải thay đổi.
Nó cần phải có sự thay đổi quan điểm, cần có sự tác động đúng, một sự quyết tâm về chính trị. Mà sự quyết tâm này lại không nằm ở ngành tòa án. Nó nằm bên phía Ba Đình, là cơ quan đầu não của tổ chức đảng.”

Kết quả sẽ ra sao?

Để Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao mở phiên họp để xem xét lại quyết định hôm 8 tháng 5 theo Điều 404 BLHS thì cần đến bốn cơ quan yêu cầu, kiến nghị. Đó là Ủy ban thường vụ Quốc hội; Ủy ban tư pháp của Quốc hội; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Kết quả chưa biết ra sao nhưng theo ghi nhận của RFA thì dư luận không tin sẽ có một kết quả công bằng cho Hồ Duy Hải nếu Hội đồng Thẩm phán vẫn giữ nguyên nhân sự như hiện nay.

Luật sư Trần Quốc Thuận nêu quan điểm của ông:

“Nếu bây giờ có ngồi xét xử lại thì không thể chỉ thay ông chủ tọa mà phải thay hết 17 người đó. Trong luật tổ chức cũng như trong Hiến pháp chưa có dự liệu đó. May ra thì để cho ‘dịu’, mọi người tự hiểu với nhau thì ông Chủ tịch nước sẽ tuyên bố giảm án tử hình xuống chung thân. Chung thân mà được giảm án xuống 20 năm, thi hành án được 20 năm thì được ra.”

Nhà báo Nguyễn An Dân thì khẳng định, nếu vẫn duy trì 17 vị này thì việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải không còn quan trọng nữa. Những người đang quan sát đảng về việc này họ mong muốn một điều cao hơn, đó là sự cải tổ toàn diện ngành tòa án Việt Nam. Xa hơn nữa là cải tổ các hoạt động của tư pháp Việt Nam. Họ đấu tranh cho Hồ Duy Hải vì nhìn thấy rằng, hôm nay bắn được Hải thì ngày mai sẽ bắn được họ. Ông dự đoán:

“Sau này Giám đốc thẩm sẽ hủy quyết định lần trước và đưa vụ này về tòa án Long An xét xử lại từ đầu. Lúc đó tòa án Long An sẽ nhận được “mật chỉ” và sẽ xử lại công tâm và khách quan. Nó không liên quan đến vấn đề của tòa án tối cao. Trong lúc đó người ta tiếp tục cải tổ hệ thống tòa tối cao.”

Luật sư Đặng Đình Mạnh đưa ra một kịch bản mà ông gọi là một “kịch bản hoàn hảo” cho vụ này:

“Theo kịch bản này, có thể cơ quan tư pháp, tức ngành tòa án vẫn sẽ kiên quyết giữ bằng được quan điểm của mình. Khi đó Hồ Duy Hải chỉ còn một cửa duy nhất là xin Chủ tịch nước ân xá. Khi ân xá như vậy là mặc nhiên chấp nhận mình có tội. Sau đó ông Nguyễn Phú Trọng với tư cách là chủ tịch nước sẽ ban hành lệnh ân xá.

Với lệnh ân xá như vậy thì rõ ràng cơ quan tư pháp vẫn giữ được thể diện của mình là không chấp nhận sai và công chúng thì phần nào thỏa mãn là Hồ Duy Hải thoát án tử hình.”

Một số cột mốc đáng chú ý của vụ án xin được nhắc lại: Năm 2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bác đơn xin ân xá của Hồ Duy Hải. Năm 2014, trước phản đối của dư luận trong nước và quốc tế cũng như Quốc hội Việt Nam, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ra lệnh tạm dừng thi hành án tử hình đối với Hồ Duy Hải.

Công lý cần được thi hành là mong muốn của mọi người quan tâm đến vụ án Hồ Duy Hải!
 
(RFA)

Nông dân vẫn là giới bị bóc lột tàn tệ nhất tại Việt Nam 


Sau bao nhiêu năm với bao nhiêu kế hoạch “tam nông,” giới nông dân vẫn là lớp người bị bóc lột tàn tệ nhất tại Việt Nam.

Nông dân gặt lúa tại một khu vực nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Hôm Chủ Nhật, 7 Tháng Năm, ông Nguyễn Như Cường, cục trưởng Cục Trồng Trọt của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn CSVN được tờ Dân Việt dẫn lời: “Một hộ gia đình muốn trồng lúa dư giả, khấm khá thì phải có quy mô 5ha trở lên, còn một hộ nông dân có 10ha trồng lúa thì có thể làm giàu.”

Sau những thập niên tước đoạt quyền tư hữu, đẩy cả nước vào vòng đói kém phải ăn bo bo, cơm độn, nhà cầm quyền CSVN buộc lòng phải trả dần quyền mưu sinh kinh tế cho dân chúng. Đất nước từ cuối thập niên 1980 từ từ gượng lại với sự hậu thuẫn của các định chế tài trợ quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới (WB), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB) cùng một số chính phủ cấp viện.

Hơn hai chục năm trước, chế độ Hà Nội đã đưa ra kế hoạch “tam nông” (nông nghiệp, nông dân, nông thôn) nhằm biến ba phần tư dân số cả nước thoát đói nghèo với sự hậu thuẫn quốc tế.

Nhưng cái điệp khúc “được mùa rớt giá” cứ lập đi lập lại, ngay cả năm “được mùa được giá” thì người nông dân cuối mùa thu hoạch, trả nợ xong tiền vay làm mùa, cũng chỉ còn tí gạo chuẩn bị mùa vay mới, vòng xoáy mới, nghèo vẫn hoàn nghèo.

Những năm gần đây, nhà cầm quyền CSVN bàn tính tới chuyện cho các tư bản đỏ “tích tụ ruộng đất” để có thể phát triển nông nghiệp theo hướng quy mô, áp dụng các phương pháp canh tác cơ khí, kỹ thuật để tăng năng suất và hiệu quả đầu tư. Nếu chương trình này được thúc đẩy, giới nông dân sẽ trở thành những kẻ làm thuê trên cánh đồng hoặc phải tha phương cầu thực.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn CSVN thống kê hồi năm 2017, cả nước có 10 triệu hộ nông dân, với 70 triệu mảnh đất nông nghiệp. Diện tích trung bình hộ nông nghiệp chỉ đạt khoảng 0.46 ha, trung bình được chia thành 2.83 mảnh. Tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam, dân đông đất hẹp nên diện tích ruộng của một gia đình nông dân lại còn nhỏ bé hơn nữa.

Cũng vì vậy, nhiều tỉnh hàng năm đều phải xin nhà cầm quyền trung ương cấp gạo “cứu đói giáp hạt.” Trong khi chờ thu hoạch vụ mùa thì nhà chẳng còn hột gạo nào để ăn, gặp cơn bão lụt ập đến lại còn thê thảm hơn nữa.

Theo tờ Dân Việt ngày mùng 2 Tháng Sáu, “Hiện, các tỉnh ĐBSCL bắt đầu thu hoạch lúa hè thu, giá lúa đầu vụ tương đối cao. Tại Đồng Tháp, giá bán lúa tươi vụ hè thu 2020 tại ruộng cao hơn vụ đông xuân 2019-2020 từ 1,000 đến 1,200 đồng/kg. Đối với lúa IR50404 với giá 5,517 đồng/kg và lúa chất lượng cao giá 6,000 đồng/kg.”
Lúa phơi khô ngay trên cánh đồng được dồn vào bao. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Theo nông dân trồng lúa, mức giá này đang cao hơn 1,000 đồng/kg so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi trừ hết chi phí lúa hè thu lãi hơn 30 triệu đồng/hécta. Nhưng đại đa số nông dân chỉ có một vài công đất thì làm gì có số tiền vừa kể.

Ngày mùng 5 Tháng Năm, tờ Lao Động dẫn chứng cho thấy hàng triệu người ngày ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” sản xuất nuôi chế độ, khổ cực như thế mà được đền bù ra sao, qua lời kể của người nông dân “được mùa, được giá.”

“Lấy quyển sổ ghi chép ra tính toán lại, ông Võ Thành Đông (54 tuổi, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ) cho biết: Vụ lúa đông xuân vừa rồi, gia đình ông trồng 1ha lúa hạt dài, thu hoạch cho năng suất khoảng 6 tấn, giá bán được 4,800 đồng/kg. Sau khi trừ mọi chi phí, trung bình mỗi công, ông Đông lãi khoảng 3 triệu đồng (30 triệu/hécta).”

“Năm nay trồng lúa ai cũng trúng, lãi ít hay nhiều tùy vào năng suất, giá bán từng thời điểm khác nhau. Nếu vụ hè thu tới mà trúng tiếp, tui ước tính sẽ thu lãi tiếp 30 triệu đồng nữa. Một năm làm 2 vụ, coi như lãi 60 triệu đồng,” ông Đông phấn khởi cho biết.

Tờ Lao Động làm con tính: “Thu nhập 60 triệu đồng/12 tháng. Tính ra mỗi tháng ông Đông có 5 triệu đồng. Tuy nhiên, đây chưa phải là con số cuối cùng. Để có được thành quả trên đồng ruộng, không chỉ ông Đông mà còn có mồ hôi và công sức của vợ ông và đứa con trai út. Nếu tính cả 3 người thì mỗi tháng thu nhập của họ chỉ hơn 1.5 triệu đồng, thấp hơn cả lương của một công nhân thử việc.

(Người Việt)

TS. Phạm Quý Thọ - Đại hội 13: Vấn đề Biển Đông: ‘điểm mới’ trong Báo cáo chính trị có tạo nên tư duy chiến lược? 


Truyền thông nhà nước gần đây cho biết một trong ‘điểm mới’ của Dự thảo Báo cáo chính trị – văn kiện quan trọng trình Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam dự kiến tổ chức vào đầu năm 2021 là ‘vấn đề biển đông’.

Thiếu chiến lược toàn diện về biển khiến đất nước đã không thể ‘mạnh về biển’. Trong lịch sử là tư duy ‘ứng phó’ về chống xâm lược từ biển và trong thời bình là ‘tư duy kinh tế’ bị níu kéo bởi ý thức hệ XHCN là nguyên nhân quan trọng. Nay trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy, tham vọng địa chính trị, hung hăng tại Biển Đông và một ‘trật tự thế giới mới’ đang hình thành, Việt Nam cần thay đổi tư duy để xây dựng chiến lược biển xứng tầm.

Liệu tư duy chiến lược về Biển Đông có là quyết sách tại Đại hội 13?

‘Tư duy ứng phó’

Việt nam là quốc gia có chiều dài bờ biển hơn 3000 km, có thể gọi quốc gia biển, thế nhưng thay vì ‘một tư duy chiến lược chủ động’, thì thực tế lịch sử phản ánh ‘tư duy ứng phó’ với những đặc trưng trong thời chiến là ‘phòng thủ’ và trong thời bình là ‘kinh tế’.

Bối cảnh thể chế có sự tương đồng với Trung Quốc trong suốt lịch sử hơn nghìn năm là phong kiến tập quyền và hiện nay là chế độ cộng sản toàn trị, ngoại trừ hơn 20 năm đất nước bị chia cắt (1954-1975). Đây là đặc điểm có ảnh hưởng lớn đến tư duy về biển.
Mới đây, cuối năm 2019 bãi cọc gỗ, được tìm thấy ở huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng, có liên quan đến trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Khảo cổ ‘các di tích bãi cọc’ phản ánh các trận địa bãi cọc, từng được bày bố tại các nhánh của sông Bạch Đằng để phục vụ mục đích quân chống xâm lược từ biển. Trong đó có trận chiến chống quân Nam Hán năm 938 trên sông Đá Bạch (Bạch Đằng) do Ngô Quyền lãnh đạo, chiến tranh Tống–Việt năm 981 dưới thời nhà Tiền Lê và trận Bạch Đằng chống quân nhà Nguyên Mông năm 1288 dưới thời nhà Trần.

Trong thời chiến tranh chống đế quốc các biến cố như ‘‘Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958’, ‘Hải chiến Hoàng Sa’ và ‘Đá Gạc Ma’ thuộc quần đảo Trường Sa đã phản ánh âm mưu và dã tâm của chính quyền Trung Quốc lợi dụng niềm tin ‘ngây thơ’ về ý thức hệ và tình hình phức tạp để chiếm đoạt Biển Đông. Các biến cố này là sự trả giá đắt, làm tổn thương truyền thống bảo vệ chủ quyền của dân tộc Việt Nam.

Trong thời bình, những năm gần đây Việt Nam đã đề cập về chủ trương xây dựng một quốc gia ‘mạnh về biển’ nhưng thường gắn với phát triển kinh tế biển, mang nặng kiểu ‘tư duy kinh tế’. Năm 1997 Đảng CS ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, mười năm sau, năm 2007, mới có Nghị quyết số 09-NQ/TW “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Tuy nhiên những dự đoán sai về tình hình ‘thế kỷ 21’ với cách tiếp cận thiếu toàn diện về biển đã không thể có một chiến lược kinh tế biển phù hợp. Sai lầm của chính sách tăng trưởng ‘nóng vội’ cộng với quản lý kinh tế yếu kém đã để lại hậu quả thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và bất ổn vĩ mô. Các tập đoàn hàng hải như Vinashin, Vinalines… bị phá sản, việc xây dựng tràn lan các bến cảng to nhỏ dọc bờ biển gây nên sự lãng phí lớn vốn đầu tư công…

Để ‘sửa chữa’ sai lầm trên một ‘nỗ lực chính sách’ về biển được thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội 12 (2016-2021). ‘Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045’ được ban hành theo Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Trên cơ sở đó, tháng 3/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm để cụ thể hoá ‘chiến lược kinh tế biển’ nêu trên. Tính khả thi của chiến lược này đang gặp thách thức trước bối cảnh thế giới thay đổi và Trung Quốc tham vọng địa chính trị tại Biển Đông.

‘Tư duy chiến lược biển’

Một trong những nguyên nhân không thể trở thành quốc gia ‘mạnh về biển’, phát triển kinh tế biển như nêu trong các nghị quyết của Đảng là tư duy chiến lược biển đã không theo kịp thời đại, và ngoài ra, có phần bị níu kéo bởi ý thức hệ.

Trước hết, Mỹ và các nước Phương Tây đã nhận ra sự sai lầm và hậu quả của ‘chính sách can dự’ của Trung Quốc, theo đó trong bối cảnh toàn cầu hoá – Mỹ, ‘bỏ qua’ sự khác biệt ý thức hệ, đã mở rộng quan hệ kinh tế với sự tham gia của Trung Quốc với quan niệm rằng tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy dân chủ. Từ thời Tổng thống Barack Obama Mỹ đang thực thi chính sách ‘xoay trục’ sang Châu Á và Tổng thống Donald Trump phát động thương chiến Mỹ – Trung. Cuộc chiến này ngày càng leo thang căng thẳng sang mọi lĩnh vực và hiện hữu nguy cơ biến thành cuộc chiến tranh lạnh 2.0.

Ngoài ra, đại dịch COVID-19 đang đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái sâu nhất so với các cuộc khủng khoảng kinh tế trong một thế kỷ qua. Chuỗi cung ứng toàn cầu đứt, gãy khiến các nước nhận ra sự phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc không chỉ hàng hoá thông thường mà cả thiết yếu như y tế và thuốc chữa bệnh. Quan hệ thương mại có thể thay đổi, các nước đang thay đổi chính sách hướng đến tự chủ. Cuộc gặp thượng đỉnh EU và Trung Quốc trong tháng 6/2020 không có tuyên bố chung, khi lãnh đạo EU công bố sách trắng về bảo vệ thị trường và nhấn mạnh rằng Mỹ vẫn là đối tác số 1 và Trung Quốc chỉ là bạn hàng cần thiết. Các nhà nghiên cứu đang phân tích sự thoái trào của toàn cầu hoá và dự báo ‘một trật tự thế giới mới’.

Hơn thế, chính quyền Trung Quốc, lợi dụng đại dịch COVID-19 bắt nguồn từ Vũ Hán lan rộng toàn cầu, số ca lây nhiễm và số tử vong tăng nhanh và các quốc gia đang bị động đối phó vì chưa có vaccine, đã thể hiện chính sách ngoại giao ‘lang sói’, như kiểu đe doạ và trừng phạt kinh tế với nước Úc, khi thủ tướng nước này đề xuất ‘một cuộc điều tra độc lập về sự khởi phát đại dịch’. Bản chất hung hăng của chế độ độc tài hiện hữu trong quan hệ chính trị và thương mại quốc tế.

Việt Nam có thể đứng trước nguy cơ bị ‘phong toả bán phần’ với thế giới văn minh từ Biển Đông bởi tham vọng địa chính trị của Trung Quốc. Quốc gia này đã trỗi dậy mạnh mẽ trong hơn một phần ba thế kỷ để trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới. Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy Tập Cận Bình thâu tóm quyền lực tối cao để thực hiện ‘giấc mộng Trung Hoa’.

Từ năm 2013 đến nay chính quyền Bắc Kinh đã có nhiều động thái hung hăng trên Biển Đông, sử dụng đường ‘tự vẽ’ là ‘đường chín đoạn’, vi phạm Công ước về Luật Biển 1982, quân sự hoá và hành chính hoá các đảo chìm nổi, xâm phạm chủ quyền biển đảo và đe doạ dùng vũ lực đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, theo các nhà quan sát, vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) được đề xuất bao trùm cả 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, là ‘âm mưu có chủ đích’ của chính quyền Bắc Kinh chỉ đang chờ thời điểm thích hợp để công bố.

Tuy có thái độ ‘cứng rắn’ hơn trước những hành động của chính quyền Trung Quốc vi phạm chủ quyền lãnh hải, uy hiếp các giàn khoan dầu khí, đâm chìm tàu thuyền đánh cá của ngư dân… Việt Nam đang đứng trước sự lựa chọn khó khăn giữa ý thức hệ, sự lệ thuộc kinh tế và đe doạ chủ quyền, giữa liên kết với Mỹ, các nước Phương Tây vì ‘đảm bảo tự do hàng hải’, phát triển thương mại, thu hút đầu tư và các giá trị dân chủ, nhân quyền.

Hơn lúc nào hết, trong bối cảnh hiện nay Việt Nam cần có tư duy chiến lược biển với một tầm nhìn toàn diện và các chính sách đột phá. Một số điểm chủ yếu, theo tôi, tư duy chiến lược biển cần hướng đến:

Một là, chiến lược phát triển đất nước đến 2045 dự kiến được quyết định trong đại hội 13 cần coi chiến lược biển phải là bộ phận thiết yếu dựa trên sự thay đổi tư duy về biển trong tình hình mới. Củng cố và cụ thể hoá quan điểm phát triển kinh tế với quyết tâm bảo vệ chủ quyền căn cứ trên luật biển quốc tế;

Hai là, Việt Nam, mặc dù tương đồng về ý thức hệ, nhưng không lệ thuộc vào nó để trở thành ‘đồng minh’ của Trung Quốc, mà khẳng định sự độc lập và quyết tâm gìn giữ chủ quyền. Ngoài ra, cần nhận thức rõ hơn ý thức hệ giáo điều bảo thủ thường gây nên hiệu ứng ngược đối với các nhà đầu tư, cản trở quá trình cải cách hệ thống chính trị theo hướng phù hợp với thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế;

Ba là, xây dựng các phương án chính sách để dần hạn chế sự phụ thuộc kinh tế, đồng thời đón nhận làn sóng dịch chuyển đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc. Các chính sách như vậy cần dựa vào cộng đồng doanh nghiệp và sự tham gia rộng rãi của người dân để có sự đồng thuận và huy động nguồn lực xã hội;

Bốn là, nhận thức rõ hơn sự thay đổi địa chính trị trên thế giới, cân nhắc ảnh hưởng từ chính sách ‘xoay trục’ của Mỹ sang châu Á để có đối sách phù hợp về an ninh, ngoại giao để hạn chế ‘sự phong toả’ từ ‘chiến lược biển’ của Trung Quốc;

Năm là, thúc đẩy cải cách thể chế theo hướng dân chủ nhằm tăng hiệu quả của ‘chính sách Việt Nam can dự’, coi trọng việc thực hiện thực chất các cam kết cải cách trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) và đầu tư (IPA) với các nước phát triển. Tuy nhiên, trong các hiệp định ký kết với Liên minh Châu Âu thì các điều khoản về quyền lao động, lập hội đoàn và bảo vệ môi trường trong EVFTA và IPA được đề cao…

Tư duy chiến lược biển có tầm quan trọng để Việt Nam tái định vị trên bản đồ thế giới trong thế kỷ 21. Liệu ‘vấn đề Biển Đông’ trong Báo cáo chính trị, được coi là ‘điểm mới’ có đề cập đến một tư duy xứng tầm làm cơ sở để xây dựng một chiến lược biển?

Phạm Quý Thọ gửi từ Hà Nội

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

(RFA)