29 tháng 9, 2019

TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG PHẠM BÌNH MINH TẠI LHQ

Theo Phạm Huân

Chủ nhật ngày 29 tháng 9 năm 2019 4:19 PM

Bài phát biểu của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc


Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh ngày 28/09 đã có bài phát biểu với chủ đề “Tăng cường sức sống của chủ nghĩa đa phương vì hoà bình và phát triển bền vững” tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
Toàn văn bài phát biểu Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tại Liên Hợp Quốc - 1
Nhấn để phóng to ảnh
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại Hội nghị











Thưa Ngài Chủ tịch,
Tôi xin chúc mừng Ngài Tijjani Muhammad-Bande nhân dịp Ngài được bầu làm Chủ tịch Khóa 74 Đại hội đồng LHQ. Tôi tin tưởng rằng với bản lĩnh và bề dày kinh nghiệm, Ngài sẽ dẫn dắt Khóa họp của chúng ta thành công tốt đẹp.
Tôi cũng xin bày tỏ sự đánh giá cao về những nỗ lực đóng góp quan trọng của Bà Maria Fernanda Espinosa Garces, Chủ tịch Khóa 73 ĐHĐ LHQ cho công việc của Đại Hội đồng cũng như và về những nỗ lực và cống hiến của Tổng Thư ký Antonio Guterres trong thời gian qua.
Thưa Ngài Chủ tịch,
Cách đây tám thập kỷ, Chiến tranh Thế giới lần thứ II, cuộc chiến đẫm máu, khốc liệt nhất trong lịch sử nhân loại, đã bùng nổ, cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người, tàn phá các nền kinh tế, chứng kiến những tội ác kinh hoàng, cùng sự ra đời của những loại vũ khí và phương tiện chiến tranh mới với sức hủy diệt to lớn.
Trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc đó, các quốc gia nhận thức rõ ràng hơn về tầm quan trọng của một hệ thống an ninh tập thể dựa trên hợp tác đa phương và luật pháp quốc tế, lấy đó làm nền tảng cho trật tự thế giới mới hậu chiến tranh. Và thực tế đã chứng minh đây là lựa chọn đúng đắn.
Trong suốt ¾ thế kỷ qua, các cơ chế hợp tác đa phương, với trung tâm là LHQ, đã thực sự khẳng định vai trò tất yếu và không thể thiếu của mình. Các thể chế đa phương đã tạo ra cơ chế thảo luận, hoạch định chính sách chung cho các quốc gia trên các vấn đề quản trị toàn cầu – từ những chủ đề chung như hòa bình, an ninh, kinh tế, thương mại, phát triển, nhân quyền, tới những lĩnh vực cụ thể như hợp tác hàng hải, hàng không, bưu chính, viễn thông... Các diễn đàn đa phương, đặc biệt là LHQ, còn là nơi hình thành ý tưởng, xây dựng tiêu chuẩn và chiến lược nhằm điều phối nỗ lực của các quốc gia ứng phó với các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống, xử lý các thách thức toàn cầu, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Thưa Ngài Chủ tịch,
Nhân loại sắp bước vào thập kỷ thứ ba của thế kỷ 21. Chúng ta vui mừng trước những thành quả của các nỗ lực hòa bình ở các khu vực, từ Mali, Liberia đến Nam Sudan, Bờ Biển Nga. Việt Nam hoan nghênh tất cả các nỗ lực đối thoại, giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình ở các khu vực, trong đó có đối thoại giữa CHDCND Triều Tiên và Mỹ.
Những nỗ lực toàn cầu cũng đã mang lại những thành quả to lớn về phát triển. Hàng trăm triệu người đã thoát khỏi cảnh đói nghèo, giáo dục tiểu học đã được phổ cập ở nhiều quốc gia, tỉ lệ tử vong bà mẹ, trẻ em giảm đáng kể. Chúng ta đã cùng nhau xây dựng được các chiến lược quan trọng, tạo khuôn khổ cho các nỗ lực phát triển toàn cầu, như Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững, Chương trình hành động Addis Ababa về Tài chính cho phát triển, Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu…
Nhưng chủ nghĩa đa phương đang đứng trước những thách thức gay gắt hơn bao giờ hết. Các tiến trình đa phương ngày càng vấp phải nhiều khó khăn do xu hướng theo đuổi những lợi ích vị kỷ, lựa chọn sự áp đặt thay cho hợp tác, cạnh tranh, đối đầu thay vì đối thoại và phối hợp hành động, chính trị cường quyền thay vì theo đuổi những giá trị chung, tôn trọng luật pháp quốc tế. Cam kết chính trị và nguồn lực giảm sút đã ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của các nỗ lực đa phương toàn cầu.
Trong khi đó, thế giới ngày nay phải đối mặt với nhiều thách thức ở mức độ và tính chất khác hoàn toàn so với cách đây chỉ một vài thập kỷ. Những tác động trực tiếp và lâu dài của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnhảnh hưởng sâu sắc tới tất cả các quốc gia. Xung đột kéo dài ở nhiều khu vực nhất là ở Trung Đông, Châu Phi, cùng nhiều điểm nóng tiềm ẩn có thể bùng phát ở các nơi khác trên thế giới. Chiến trường không còn giới hạn trong những vùng chiến sự mà đã lan ra các thành phố, làng mạc, những khu vực tập trung đông dân cư. Nguy cơ phổ biến và sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt có nhiều diễn biến phức tạp, cơ chế quốc tế kiểm soát vũ khí, chống phổ biến bị rạn nứt rõ rệt. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đang tạo ra những phương thức và công cụ chiến tranh mới. Chi tiêu quốc phòng trên toàn cầu đang ở mức cao nhất, và như nhận định của Ngài Tổng Thư ký thì “chúng ta đang đứng bên bờ vực của một cuộc chiến tranh lạnh mới”.
Trong bối cảnh đó, chúng tôi hoan nghênh chủ đề được Ngài Chủ tịch đề ra cho Khóa họp năm nay là “Thúc đẩy các nỗ lực đa phương để xoá nghèo, thúc đẩy giáo dục chất lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bao trùm”.
Thưa Ngài Chủ tịch,
Hợp tác đa phương có vị trí đặc biệt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam gắn liền với sự tham gia của chúng tôi vào các thể chế đa phương khu vực và quốc tế. Sự hỗ trợ, ủng hộ của các cơ quan LHQ, các tổ chức quốc tế đã giúp Việt Nam tái thiết và phát triển đất nước sau hàng thập kỷ chiến tranh, xây dựng khuôn khổ pháp luật, chính sách, đẩy mạnh hội nhập, đem lại những thành quả to lớn về phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện các mục tiêu phát triển toàn cầu. LHQ và các thể chế đa phương cũng là những diễn đàn chính trị, khuôn khổ pháp lý quan trọng để Việt Nam thúc đẩy quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam tham gia chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp xây dựng, trách nhiệm trong các tiến trình đa phương. Cùng với các quốc gia ASEAN, Việt Nam đang nỗ lực tăng cường vai trò trung tâm của Hiệp hội trong duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và tăng cường phát triển, thịnh vượng trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương.
Trong khuôn khổ LHQ, các chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình, những nhà ngoại giao, các chuyên gia Việt Nam tham gia đóng góp xây dựng các nghị trình và chính sách của LHQ về phát triển bền vững, về biển và đại dương, về phát triển xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, và đặc biệt là đã có những bước đi cụ thể tiến tới chấm dứt việc sử dụng đồ nhựa dùng một lần vào năm 2025.
Vừa qua, Việt Nam vinh dự lần thứ hai được bầu làm ủy viên không thường trực HĐBA LHQ. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành của Chính phủ và nhân dân Việt Nam tới quý vị vì sự tín nhiệm và tin tưởng một lần nữa dành cho Việt Nam với trọng trách này. Là thành viên HĐBA, chúng tôi sẽ nỗ lực hết mình, hợp tác với các thành viên LHQ vì hòa bình và phát triển bền vững.
Trước những thách thức to lớn hiện nay, chúng ta cần cùng nhau tăng cường sức sống của chủ nghĩa đa phương và thúc đẩy hoạt động của Liên hợp quốc. Trên tinh thần đó tôi xin chia sẻ một số suy nghĩ về những giải pháp lớn nhằm đạt mục tiêu đó..
Trước hết, cần tái khẳng định vai trò và tầm quan trọng của luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ trong việc xây dựng một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, thúc đẩy quan hệ giữa các quốc gia và tăng cường hợp tác đa phương. Luật pháp quốc tế là nền tảng của quan hệ bình đẳng, công bằng giữa các quốc gia; bởi vậy, các nỗ lực đa phương cần dựa trên và hướng tới đảm bảo sự tôn trọng đối với nền tảng này.
Việt Nam cho rằng tôn trọng luật pháp quốc tế là cách thức hữu hiệu nhằm ngăn ngừa xung đột cũng như tìm kiếm những giải pháp lâu bền cho tranh chấp, xung đột. Việt Nam ủng hộ mọi nỗ lực thực hiện các biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp theo Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, từ thương lượng, hoà giải tới việc sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế.
Chúng tôi kêu gọi việc dỡ bỏ ngay lập tức các lệnh cấm vận đơn phương, trái với luật pháp quốc tế, đang được áp đặt đối với Cuba.
Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) – “Hiến chương của Biển và Đại dương”. Kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Biển Đông có ý nghĩa chiến lược đối với hòa bình, an ninh và phát triển ở châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Nhận thức rõ điều đó, các quốc gia liên quan đã có nhiều nỗ lực, đạt được những kết quả tích cực về giải quyết bất đồng, tranh chấp. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã nhiều lần nêu rõ sự lo ngại về những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, trong đó có việc vi phạm các quyền chủ quyền, quyền tài phán tại các vùng biển của Việt Nam được xác định theo UNCLOS 1982. Các bên liên quan cần kiềm chế và tránh có những hành động đơn phương làm phức tạp tình hình và gia tăng căng thẳng, và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.
Thứ hai, cần tăng cường kết nối giữa chủ nghĩa đa phương ở cấp độ toàn cầu và khu vực. Các hành động quốc tế chỉ có thể hiệu quả khi phù hợp với đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, địa lý của từng khu vực, quốc gia cụ thể. Bởi vậy, các tổ chức khu vực có thể phát huy vai trò định hướng quan trọng, đồng thời bổ trợ hiệu quả cho các nỗ lực chung của LHQ. Việt Nam hoan nghênh hợp tác, phối hợp giữa LHQ, nhất là HĐBA, với Liên minh châu Phi, Liên minh châu Âu và Liên đoàn Ả-rập trong nỗ lực ứng phó với các thách thức an ninh ở châu Phi, Trung Đông.
Ở khu vực Đông Nam Á, ASEAN là một thể chế khu vực được xây dựng trên cơ sở “cam kết và trách nhiệm tập thể nhằm tăng cường hòa bình, an ninh và thịnh vượng trong khu vực”. Sau hơn nửa thế kỷ phát triển, ASEAN giờ đây là hiện thân của hoài bão lớn của các chính phủ và người dân trong khu vực về một Cộng đồng gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và cùng chia sẻ các trách nhiệm xã hội. ASEAN cũng đã khẳng định vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực dựa trên luật lệ, tạo dựng các diễn đàn để các quốc gia trong và ngoài khu vực cùng trao đổi, thúc đẩy hợp tác vì phát triển bền vững, vì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Là ủy viên không thường trực HĐBA LHQ, đồng thời là Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam mong muốn cùng các quốc gia thành viên tăng cường sự phối hợp, bổ trợ lẫn nhau giữa HĐBA với các tổ chức khu vực để cùng đóng góp vào nỗ lực chung ngăn ngừa xung đột, xây dựng hòa bình bền vững.
Thứ ba, các nỗ lực đa phương cần coi con người là trung tâm. Hòa bình bền vững là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững và chỉ có thể đạt được khi người dân được đảm bảo cơ bản về điều kiện sống, về an toàn, an ninh. Việt Nam lên án các hành động tấn công dân thường cũng như những cơ sở hạ tầng thiết yếu cho cuộc sống của người dân. Việt Nam ủng hộ và sẽ tiếp tục đóng góp vào nỗ lực thúc đẩy chương trình nghị sự của LHQ về phụ nữ, hoà bình và an ninh, trẻ em trong xung đột vũ trang. Việt Nam ủng hộ Tuyên bố Trường học an toàn, cùng nỗ lực bảo đảm quyền giáo dục của trẻ em trong mọi hoàn cảnh. Chúng tôi cũng sẽ ưu tiên thúc đẩy các nỗ lực tái thiết hậu xung đột, nhất là khắc phục hậu quả bom mìn, phục vụ người dân và quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở các quốc gia.
Thứ tư, các thể chế đa phương cần tiếp tục được cải tổ mạnh mẽ để đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra, phục vụ tốt hơn lợi ích và tăng cường tiếng nói và đóng góp của các quốc gia thành viên, nhất là các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Việt Nam hoan nghênh những nỗ lực cải tổ hệ thống phát triển LHQ để tăng cường phối hợp và hiệu quả hoạt động, đồng thời cần tăng cường tính làm chủ của mỗi quốc gia trong quá trình hợp tác, trong khi huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội và cộng đồng người dân. Việt Nam sẽ cùng các thành viên HĐBA đóng góp tích cực vào tiến trình cải cách phương pháp làm việc của HĐBA theo hướng tăng cường minh bạch, dân chủ và hiệu quả.
Và cuối cùng, thưa Ngài Chủ tịch, cam kết chính trị mạnh mẽ của mỗi chính phủ, mỗi nhà lãnh đạo có ý nghĩa then chốt đối với mọi nỗ lực tăng cường chủ nghĩa đa phương. LHQ hay các thể chế đa phương chỉ có thể mạnh và hiệu quả, giúp xử lý các thách thức toàn cầu, nếu từng quốc gia thành viên vượt qua những lợi ích riêng, hướng tới các lợi ích chung rộng lớn hơn của cộng đồng quốc tế, cam kết và thực sự đầu tư ý chí và nguồn lực cho những nỗ lực chung đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể viết nên một trang mới trong lịch sử nhân loại với những đường nét tươi sáng hơn, những đường nét của đối thoại và hợp tác, và trên hết là của hòa bình và phát triển bền vững.
Xin cảm ơn.
Theo Phạm Huân

26 tháng 9, 2019

“Thần dân” nhơ Dương Tự Lập lan man với “thần đồng” thơ Trần Đăng Khoa
FB Dương Tự Lập 24-9-2019 - Khoa ạ, tôi với Khoa đã đi hết một vòng hoa giáp, tức là tròn ngưỡng 60. Sáu mươi tuổi nhìn thấu sinh mệnh, nhìn thấu danh lợi. Lục thập tầm tử đạo – sáu mươi tìm về cõi chết được lắm ru. Hà cớ Khoa cứ dối gian, sống nhơ nhuốc, lúc khạc ra, khi liếm vào, viết thế này, xóa thế nọ, nói đằng này, làm đằng nớ trong nghiệp thơ để mơ vương khanh tướng làm chi cho đời mưa bay gió cuốn, sung sướng nỗi gì hả Khoa? Từ “thần đồng” thơ, Khoa đã trở thành “thần điêu”… tiểu hiệp. Chắc có duyên nợ kiếp nào với nhau nên tôi được đồng hành cùng Khoa ngay tự buổi đầu “Từ góc sân nhà em” tới giờ đã cận kề “Ở nghĩa trang thành phố”...

Khổ thơ chửi Tổng thống Mỹ “ngu” đã bị Khoa vứt bỏ.
Những năm 1966-1968, Tổng thống thứ 36 của Mỹ Lyndon B. Johnson quyết định dùng không lực Hoa Kỳ đánh phá miền Bắc Việt Nam. Tuổi thơ chúng tôi theo xí nghiệp may dệt Hoa Đông của mẹ rời Hà Nội sơ tán về vùng Bắc Ninh – Hà Bắc. Trong không khí chiến tranh, khi tới trường học, học sinh bọn tôi ngoài cặp sách ai ai cũng đầu đội mũ rơm, vai đeo thêm túi nhỏ bông băng cá nhân phòng khi chẳng may bị dính mảnh bom mảnh đạn. Các lớp lớn tuổi hơn còn cầm theo cáng cứu thương tự đan bằng nẹp tre rất khéo.

Có buổi học trọn vẹn nhưng cũng có buổi bị dở dang vì máy bay địch quần phá trên đầu hàng giờ đồng hồ. Thầy cô giáo dắt học trò xuống giao thông hào ẩn nấp tránh máy bay Mỹ oanh tạc khi báo động, lúc báo yên thì lại ngoi lên học tiếp.

Có hôm máy bay ta và máy bay địch quần nhau trên không, mất cả buổi khi thầy trò lục tục kéo nhau lên mặt đất thì quá muộn giờ trưa nên nhà trường đành cho học sinh về nghỉ. Kiểu học bữa đủ bữa thiếu như thế mà bọn tôi cũng tốt nghiệp được… vỡ lòng. Dù viết chưa thạo nhưng đã đọc tàm tạm những bài học i tờ ê a như thế này. Chó Bảo Gà:

Gà định vào vườn rau
Chó bèn sủa gâu gâu
Công lao người trồng trọt
Vất vả đã bao lâu
Gà không được vào đó
Để phá hoại hoa mầu.


Phía dưới cùng của trang có mấy vần in đậm trong khung hình chữ nhật au / âu / ầu gì đó.

Tuổi nhỏ biết đọc rồi mà vớ được những cuốn truyện tranh của Nhà xuất bản Kim Đồng như truyện Thánh Gióng, Thạch sanh, Mai An Tiêm và sự tích quả dưa hấu, Cây tre trăm đốt, Cây Khế, Chuyện Nỏ Thần… thì thích lắm. Sách to, chữ to, tranh vẽ minh họa cho bài sinh động lại càng cuốn hút bọn choai choai chúng tôi. Mà ở thời loạn lạc, ấy sách cho trẻ nhỏ cực khan hiếm.

Cứ đều đặn cuối tháng cha đạp xe lên thăm chúng tôi. Chẳng có quà gì ngoài mấy cái bánh mỳ hình chữ nhật, to, dài như viên gạch, hồi đó gọi bánh gối. Mấy cái bánh quẩy, mấy cái bánh bao, vài cái bánh rán bọc đường, nghe tên gọi khác nhau nhưng kỳ thực cũng chỉ là một loại bột mỳ mà biến hóa ra thế.

Chúng tôi mong cha lên vì biết trong túi hàng mang theo thế nào cũng có vài ba cuốn chuyện tranh. Lần này mở túi tôi thấy ngay tập sách khổ to của Nhà xuất bản Kim Đồng: Từ Góc Sân Nhà Em, thơ Trần Đăng Khoa. Sau ấn bản lần đầu, những lần tái bản sau đổi thành “Góc Sân Và Khoảng Trời”:

Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy.


Cái tên Trần Đăng Khoa đã nhập vào đầu tuổi thơ tôi ngay từ buổi đấy. Một thiếu nhi được in sách riêng, ở đất Bắc chúng tôi thuở đó duy nhất chỉ có Khoa mà thôi. Tôi đâu hay cuốn thơ Khoa sau này luôn luôn là tâm điểm để mỗi khi tôi phạm lỗi, mẹ lại ca thán: Cũng tuổi như con mình mà con người ta (ý nói Trần Đăng Khoa) như thế, con mình thì như thế.

Còn tôi, mỗi lần nghịch ngợm bị mẹ cho ăn roi đòn thì lấy làm căm tức Khoa lắm, vì sao Khoa không thành thần sắt, thần thép, thần ma, thần quỉ, thần gì đi, mà lại thành “thần đồng” thơ để mẹ hay lôi “thần dân” nhơ nhuốc như tôi ra cho ăn đòn và lấy gương của Khoa ra rầy la tôi.

Có lúc buồn rầu sự hư đốn của tôi, bà bảo các cụ nhà ta xưa nói cấm bỏ câu nào đâu con ạ:

Đẻ con khôn mát l*n rười rượi
Đẻ con dại thảm hại cái l*n.


Thú thực sau này thâm tâm tôi cũng hay lấy Khoa ra để nghĩ về bản thân mình.

Johnson ngừng ném bom, bọn tôi trở về Hà Nội. Cha lại đem về cuốn thơ mới cũng của Nhà xuất bản Kim Đồng: Nối Dây Cho Diều. Đây là bài thơ của Chu Hồng Quý “Quý chíp” bạn của tôi sau này. Quý học tốt, lọt vào trường Cao đẳng Mỹ thuật công nghiệp 1978. Tôi học tồi, lọt vào quân đội, cầm súng đi đánh thằng giặc Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cướp nước Việt thân yêu. Cha của Quý là chú nhà thơ trào phúng Tú Sót (Chu Thành), đồng hương và bạn với cha tôi.

Dán diều dán hết buổi chiều
Vì trời đứng gió nên diều quay quay
Hay diều chê nhắn tầm dây
Để em lại nối thêm dây cho diều.

Bài thơ được đặt tên ngoài bìa cho tập thơ thiếu nhi mà trong đó hội tụ các “anh tài” nổi tiếng những năm 1970 như Trần Đăng Khoa, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Kiên, Khánh Chi… Tôi tiếc nhất cho “thần đồng” thơ Hoàng Hiếu Nhân của đất Quảng Bình với tập thơ: Đi Nữa Chú Ơi.

Năm 1972, cuộc thi thơ do báo Thiếu niên Tiền phong tổ chức, có hai người cùng đoạt giải A là Trần Đăng Khoa và Hoàng Hiếu Nhân với chùm thơ “Quả địa cầu”, “Con cò”, “Học tập”, và “Mặt trời”:

Chú cho em quả địa cầu
Em nhìn bốn biển năm châu rành rành
Trục này em vặn quay nhanh
Em đi mấy đợt vòng quanh địa cầu.

Chu Hồng Quý giải B, Nguyễn Hồng Kiên giải C. Tôi chỉ là độc giả nhí cùng thời theo sát tờ báo này lúc đó ra mỗi tuần một số (báo ra cuối tuần) từ những năm 1968-1970. Bỗng độc giả không thấy thơ Nhân nữa, sau này anh bỏ nàng thơ đi hợp tác lao động, tiếc biết bao tài năng thơ, Nhân mất ở quê người Belarus (Liên-xô) cũ tháng 2 năm 2014.

Trong cuốn: Chân Dung và Đối Thoại của Trần Đăng Khoa, Khoa viết không đúng về Nhân, không phải sang Nga, Nhân làm ăn chung đụng với bọn “đầu gấu” mà Nhân đi làm thuê cho bọn đầu gấu rồi bị chính bọn chúng cướp hết tiền bạc đánh anh tưởng chết, mới đúng. Chua xót thế, cái bọn vô học ngày còn ở nhà chẳng là thá gì đối với Nhân.

Cẩm Thơ bỏ thơ sang Pháp thành bà đầm trên quê hương chú gà trống Gaulois. Chu Hồng Quý “chuyền giới” thành họa sĩ. Nguyễn Hồng Kiên thành tiến sĩ sử học. Đúng là cơm áo không đùa với khách thơ. Duy chỉ còn Trần Đăng Khoa vẫn miệt mài cầy chữ để thành thi sĩ rồi đèo bòng nên về già lão Khoa này hay sĩ lại hay thanh minh.

Nhân nói chuyện lan man với Khoa ở đây, tôi còn một người bạn gái văn sĩ thân quí nữa rất thành đạt gốc quê làng hoa Ngọc Hà, Thùy Linh (Trần Nguyệt Tuệ). Mẹ Tuệ cùng viết cho tờ Lao Động với cha tôi, thường ký dưới bài: Lê Thu. Ở báo Lao Động bác Lê Thu (Nguyệt Tú) coi cha tôi như em trai của mình và cha tôi cũng coi bác Thu như người chị gái.

Năm 1985 Thùy Linh đoạt giải nhất Văn nghệ truyện ngắn: “Mặt trời bé con của tôi” cùng Hồ Anh Thái người làng Quỳnh, quê tôi, giải nhì với truyện ngắn: “Chàng trai ở bến đợi xe”.

Tôi chưa gặp Hồ Anh Thái bao giờ nhưng mỗi lần nghe đến cái tên này hoặc đọc truyện ngắn của Thái lại gợi trong tôi niềm tang thương đớn đau của mẹ hơn 75 năm trước. Tôi được biết cha Hồ Anh Thái là chú Hồ Sĩ Lạng, có ba người con trai khá thành đạt, mặc dù họ phụng sự cho chế độ cộng sản. Anh Hồ Anh Tài, nguyên Tổng biên tập báo Đại biểu Nhân dân, mà tôi đã gặp. Đến anh Hồ Anh Dũng, nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam và đồng trang với tôi là Hồ Anh Thái, nguyên Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngày đó chú Hồ Sĩ Lạng cùng trong đội công an huyện Quỳnh Lưu với cậu Hoàng Duy Tiến, em ruột mẹ tôi. Trong một buổi giữa trưa lau chùi vũ khí, chú Lạng đưa súng lên chĩa vào cậu tôi đùa: Tiến, xem tao bắn mày này, ai ngờ trong súng có đạn thật, cậu tôi nằm gục xuống mãi mãi tuổi vừa chớm 17 thương tâm. Mẹ tôi đang ngồi dệt lụa trong làng nghe hung tin bà khóc chết ngất lên chết ngất xuống mấy ngày trời.

Nhà mẹ tôi duy có hai chị em, ông ngoại Hoàng Văn Hợp chỉ huy phong trào Xô Viết- Nghệ Tĩnh, bị Pháp tử hình đầu năm 1931, lúc mẹ gần lên ba, cậu Tiến một tuổi. Bà ngoại cũng mất sớm. Âu nó là cái số đen đủi vận vào cậu vì nghĩ rằng đây do sự ngộ sát chứ không chủ ý hay thâm thù. Đớn đau tột cùng, nhưng mẹ tôi cũng không đem chuyện đó ra kiện tụng thêm khổ đau cho người còn sống là chú Hồ Sĩ Lạng.

Quê tôi thuộc xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Có con sông Lam nổi tiếng, nổi tiếng hơn sông Kinh Thầy của Khoa. Mẹ tôi cũng giống mẹ Khoa, bà thuộc Kiều và thuộc nhiều ca dao tục ngữ. Mẹ Khoa ru Khoa bằng những câu Kiều, những vần ca dao như Khoa tự sự về tuổi thơ của mình, thì mẹ tôi cũng ru con giống vậy. Bà đưa võng ngâm những vần thơ, dân ca, câu hò xứ Nghệ:

“…Ơ, (chừ) ai biết nước sông Lam răng là trong, là đục
Thì biết sống cuộc đời răng là nhục, là (ơ) vinh…”


Đất Bắc tự bao giờ có câu nói: “Nam Hành Thiện, Nghệ Quỳnh Đôi” nghĩa là Bắc nước Việt ở tỉnh Nam Định nổi tiếng có làng Hành Thiện còn ở tỉnh Nghệ An nổi tiếng có xã Quỳnh Đôi. Quỳnh Đôi có Hồ Thơm (1753-1792) đánh tan gần 30 vạn quân giặc Nhà Thanh – Trung Quốc rồi lên ngôi Hoàng đế Quang Trung, dõng dạc:

“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó bánh xe không quay lại
Đánh cho nó manh giáp không trở về
Đánh cho sử biết nước Nam anh hùng có chủ”.


Đất Quỳnh Đôi có nữ sĩ thơ Nôm danh tiếng Hồ Xuân Hương (1772-1822):

Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay.

Quê tôi không có thần đồng thơ như quê Khoa nhưng chắc chắn quê Khoa không có nhiều thần dân thơ như quê tôi. Mong có dịp mời Khoa ghé thăm làng tôi thì tới nơi mô cũng gặp thần dân thơ, nói chuyện thơ, cười khoái nhĩ, nghĩ khoái lòng.

Mà thơ tích cực chứ không hề tiêu cực đâu nhé. Thơ không chọc đảng cũng chẳng ngoáy nhà nước, thơ chẳng đả Chính phủ cũng không kích Quốc hội, thơ chống tiêu cực, cực chẳng tiêu đi, cực tích lại, lại càng cơ cực.

Nếu Khoa đến thăm nhà ông bùi Huân sẽ được nghe ông đọc thơ khen các cụ phụ lão tham gia trồng cây:

Các cụ trồng cây ở vệ đường
Cụ nào cụ nấy ngực giơ xương.


Tới nhà bà chắt Rấn lại nghe đọc thơ kêu gọi phong trào vào hợp tác xã chớ bỏ ra làm ngoài:

Hợp tác với chả hợp te
Không có mảnh vải mà che cái l*n.


Khi gặp ông cò Đạm, hay ông hoe Giàng, rồi bà lòn Ninh cũng thấy đọc thơ:

Nông trang nông trại
Đứa mô ngu dại
Thì đi nông trang
Xa xóm xa làng
Xa quê hương mãi…

Đó không phải là thơ chửi xoáy đâu nha, mà đó là thơ chọc xoáy ông cựu Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu Nguyễn Hữu Đợi, lùa dân lên rú thành lập làng xã mới, với câu nói nổi tiếng: “Chỉ bằng mo cơm, quả cà và tấm lòng cộng sản chúng ta sẽ tiến lên Chủ nghĩa xã hội“. Ghê chưa!

Hồi đó mà ông ta phát biểu cứ như thời của Cuộc cách mạng công nghiệp bốn chấm không (4.0) hiện đại. Đang học lớp ba trường làng bỏ dở, Đợi trở thành du thủ du thực, rồi thành dân anh chị có số má, có máu mặt đi bè dài buôn lợn nái, bán trâu già, thế nào mà được lọt vào Bí thư Huyện ủy, suýt nữa trúng Ủy viên Trung ương đảng.

Quỳnh Đôi quê “bì choa” tiếng tăm ngát hương là thế nhưng lại nỏ có thần đồng mần thơ, biết khi mô có đây thế mới rầu, đau chi mà đau rứa hề.

Cứ theo bộ dạng tự họa của Trần Đăng Khoa thổ lộ trong “Chân Dung và Đối Thoại” năm 1998, thì Khoa sinh năm 1958. Vào tuổi tứ thập nhi bất hoặc Khoa ngừng thơ, sang bình luận văn chương. Là con thứ trong gia đình bần nông ở xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, bên vùng sông Kinh Thầy. Phải thừa nhận từ khi “Hạt gạo làng ta” của Khoa ra đời thì người đời mới để ý nhiều hơn tới con sông Kinh Thầy này.

Quê Khoa, vùng chiêm trũng Châu thổ sông Hồng chẳng lấy chi làm tiếng tăm ấy mà sinh được bậc hào kiệt như Khoa quả là bất thường. Tôi đồ rằng, biết đâu mẹ Khoa cũng giống mẹ ông thánh Gióng, có một ngày đi làm đồng bỗng nhìn thấy vết chân ngồ ngộ của ai đó dưới ruộng rồi bà ướm chân mình vào để thử, về nhà thấy lạ trong người, mà sau đó một năm, chứ không phải chín tháng mười ngày, bà sinh cho dân tộc Việt được một thần đồng thơ Trần Đăng Khoa hôm nay chăng?

Bài thơ “Mưa”:

Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa. (1967)


Và “Hạt gạo làng ta” (kính tặng chú Xuân Diệu)

Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy… (1969).

Ở hai bài thơ này, Khoa nhìn cảnh vật góc cạnh và sắc sảo, đồng tuổi với Khoa không ai nhìn ra nổi như thế. Qua hai bài thơ càng nể Khoa hơn vì rõ ràng là bố mẹ Khoa thuần nông. “Bố em đi cày. Mẹ em đi cấy”. Thế mà sinh ra Khoa thì lại dị biệt, trái khoáy, thần đồng chứ không thần ruộng.

Cũng từ đấy Khoa được các cây đa, cây đề, cây lim, cây táo văn chương như chú Tố Hữu, chú Xuân Diệu và nhiều cô chú khác để ý, yêu chiều, chăm bẵm, nâng đỡ. Tôi từng nghe chuyện năm 1969 nữ nhà báo Pháp Madeleine Riffaud sang thăm Việt Nam, khi được giới thiệu về Khoa và hình như cũng ông Xuân Diệu dịch cho nữ nhà báo bài thơ “Gửi bạn Chi lê” (1968).

Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu…


Nghe xong nữ nhà báo thán phuc thốt lên: Khúc hát nhỏ mạnh hơn bom đạn.

“Bờ tre vẫn chú dế men vuốt râu”. Khiếp thật, mới mười tuổi mà Khoa đã có câu thơ bằng tuổi lão làng thơ. Khoa mãi là thần đồng, theo tôi, nếu không có chuyện một tối đèo mẹ lên phố Hàng Buồm: Chú nhà văn Hoàng Tiến tới nhà cho mẹ tôi đôi vé đi nghe đêm thơ ở Nhà văn hóa thông tin Hàng Buồm. Người nói chuyện thơ tối hôm ấy là bác nhà thơ Trần Lê Văn. Điện Hà Nội ngày đó sử dụng 110v, lù mà lù mù chẳng rõ mặt người, lại hay bị cắt, hai mẹ con vừa vào chỗ ngồi đã nghe bác Trần Lê Văn cao giọng đọc:

Tầu về rồi tầu lại đi
Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga.


Người làm câu thơ ấy là cô bé lúc đó mới lên bẩy tuổi, đêm nay đã bẩy mươi, cũng có mặt ở đây, rồi bác chỉ tay xuống phía mẹ con tôi ngồi, tôi và mẹ giật mình ngơ ngác. Người phụ nữ ngồi cạnh bên mẹ đứng dậy quay xuống chắp tay cúi đầu chào độc giả, một tràng vỗ tay kéo dài của độc giả thịnh tình đáp lại, thì ra bà là nữ sĩ tiền chiến Ngân Giang, với mấy nghìn bài thơ đã viết. Bà giản dị ngồi chung hàng ghế với người nghe.

Chuyện kể một lần theo người bác ra ga, thấy tầu hỏa kéo còi vào ra bến, bé gái Ngân Giang thốt nên lời thơ nổi tiếng ấy. Câu thơ mà người ở tuổi bẩy mươi chưa chắc viết nổi.

Khoa không còn là thần đồng như tôi nghĩ từ buổi đó. Tôi có nhắc đến Trần Đăng Khoa, mẹ cười bảo, cậu Khoa cũng giỏi. Trên đường đèo mẹ về, bà cứ tấm tắc luôn miệng khen: Chị Ngân Giang giỏi quá con nhỉ.

Tôi hỏi: Lúc ngồi, con thấy mẹ nhỏ to gì với bác ấy đấy, tôi hỏi?

Mẹ trả lời: Mẹ chỉ hỏi mấy câu xã giao tuổi tác? Nhà cửa? Được mấy người con? Chị ấy mời, nếu rỗi rãi cứ đến chơi nhà, chị ấy sẵn lòng đọc thơ cho nghe.

Tôi hỏi: Bác Ngân Giang nói sao hả mẹ?

Mẹ nói: Đêm thơ nay chị ấy tròn tuổi bẩy mươi, nhà số 3 bãi Nghĩa Dũng gần bờ sông, có chục đứa con, vất vả cơ cực lắm.

Tôi nói: Trời, đông con như thế vất vả là phải.

Mẹ tôi nghi hoặc: Chắc chị ấy nói đùa. 

Sau chú Hoàng Tiến nói, đúng mười người con, mẹ tôi mới tin bác nhà thơ Ngân Giang không đùa.

Gần năm mươi năm trước chúng ta từng nghe trẻ mỏ Trần Đăng Khoa còn dám sửa câu thơ này của chú đại ca cung đình Tố Hữu: “Đường ta rộng thênh thang ta bước”, trong bài thơ “Ta Đi Tới”. Ai ai cũng trầm trồ thán phục, hết lời ngợi khen thần đồng thơ nhưng rồi người ta phát hiện chữ “bước” của Khoa không ổn vì mở đầu, thơ chú Hữu của Khoa thế này:

Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước
Đường ta rộng thênh thang tám thước.

Thế mà sửa như Khoa thì:
Trên đường cái, ung dung ta bước
Đường ta rộng thênh thang ta bước.

Bước chi mà bước lắm thế, bước trên bước dưới, bước thấp bước cao, bước dài bước ngắn, bước tứ bước tung. Chú Hữu đã lỡ gieo vần “bước” ở câu trên nên bị bí khi xuống câu dưới thì không thể “bước” tiếp.

Hoặc nếu theo ngu ý của tôi mà Khoa sửa thì nên sửa thế này: “Đường ta rộng thênh thang phía trước” có khi còn được chấp nhận hơn vì chữ “phía trước” bao hàm nhiều nghĩa, nhiều cả ý nghĩa:

Trên đường cái, ung dung ta bước
Đường ta rộng thênh thang phía trước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên…

Khoa vội thanh minh đó là người đời bịa đặt, chứ thực tình Khoa không dám sửa thơ của chú Hữu. Trứng làm sao mà khôn hơn vịt được. Đến giờ ta tìm đọc tiểu sử của Trần Đăng Khoa ở Bách khoa toàn thư mở Wikipedia vẫn còn ghi rõ: Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ “Đường ta rộng thênh thang tám thước” thành “Đường ta rộng thênh thang ta bước” trong bài thơ “Ta Đi Tới” của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu.

Khoa không kiện cáo kẻ nào dám hạ thấp uy tín, uy danh Khoa hay đề nghị xóa đi phần trích dẫn trên là không đúng trong tiểu sử của mình mà Khoa vẫn ỡm ờ cho để nguyên như vậy thì đích thị đúng là Khoa sửa thơ chú Hữu rồi, thanh minh gì nữa hả Khoa.

Cũng phúc tổ cho “thần đồng” Khoa, hồi đó dám mó dái “thần chết” Hữu. Khoa có biết khi xưa chú Tố Lành của Khoa là tay đồ tể khét tiếng đã từng xử trảm, gây bao thương đau cho giới văn nghệ sĩ tài hoa của nước nhà không?

Riêng về tôi, khi đọc “Ta Đi Tới” của Tố Hữu ở bốn câu cuối đoạn kết thì cứ thấy nhớ tới một con người bình dị, chân quê, bác Kim Ngọc nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phú, cũng đi hoạt động cách mạng như Hữu nhưng lại thích chia chứ không thích chung. Chia “khoán hộ” chia “khoán mười” tới từng gia đình, xã viên, người nông dân trồng nên cây lúa, làm ra hạt gạo rất phấn chấn phấn khởi.

Chính bác Ngọc thích chia nên đã bị đảng của Khoa, của chú Hữu, xúm lại phang bác Kim Ngọc tơi bời vì như vậy là đầu óc tối kiến, Tư bản chủ nghĩa, phản động, đi ngược đường lối sáng suốt đúng đắn của đảng. Bác bị kỷ luật, bị phê và tự phê, tự lên án viết tường trình kiểm điểm bản thân mình.

Ở tuổi 62 năm 1979, khi bác Ngọc mất, bọn đảng mới đem công thức “tối kiến” của bác Ngọc ra áp dụng hai chục năm sau đấy thì thấy có lý. Chúng cũng câm bặt không một lời xin lỗi vong linh hay gia đình bác Kim Ngọc.

Rồi chúng còn đưa “tối kiến” của bác vào Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, vì công luận lên tiếng, nghĩ lại thế nào đó mà sau này chúng cũng có truy tặng huy chương, huân chương gì đó. Giống đời, cha chung đã không ai khóc mà ở đây “Cha Già” chung thì lại càng không có kẻ khóc. Vậy từ chung của Tố Hữu dùng trong bài thơ này nghe sai lè:
Lòng ta không giới tuyến
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam (1955).


Gần bốn mươi nhăm năm hai miền đất nước chung làm một, kể từ 1975, nhưng thực sự lòng người ly tán, Bắc – Nam khó hòa. “Bên thắng cuộc” cứ gào mồm kêu gọi Hòa giải và Hòa hợp dân tộc. Chính họ, cộng sản Bắc Việt đã khoét sâu vết rạn để lòng người dân Nam Việt không tin nổi lưỡi mồm họ nói nữa. Tố Hữu chú yêu của Khoa đã về chầu Diêm Vương. Nếu dựng ông ngồi dậy được, tôi mạnh dạn xin phép ông sửa cho chính xác hơn bài thơ để người dân Nam tưng bừng hân hoan sống lại thời kỳ hoàng kim Hòn ngọc viễn Đông của họ:

Lòng ta chia giới tuyến (vĩ tuyến 17)
Lòng ta chia lại Cụ Hồ (cụ Hồ – cụ Diệm)
Lòng ta chia lại Thủ đô (thủ đô Hà Nội – thủ đô Sài Gòn)
Lòng ta chia lại cơ đồ Việt Nam (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, miền Bắc – Quốc gia Việt Nam Cộng hòa, miền Nam).

Với tôi phải sửa như thế và như thế mới chính xác. Như thế người dân Nam sẽ hết ấm ức hậm hực, hết nghe lải nhải Hòa giải và Hòa hợp dân tộc, ngứa tai lắm.

Giữa tháng 6 năm 1994, giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 15 tổ chức ở nước Mỹ. Cũng dịp đó, Khoa và mấy ông bạn đồng nghiệp được mời qua Mỹ không phải xem bóng đá mà để giao lưu thơ văn với các cựu chiến binh Hoa Kỳ. Người ta chờ Khoa đọc bài thơ Kể Cho Bé Nghe:

Chăm ngoan học giỏi
Là bạn thiếu nhi
Ngu xuẩn nhất nhì
Là tổng thống Mỹ (1969).


Nếu có đọc cũng chẳng sao, thậm chí người ta, nhất là người Mỹ còn khen ngợi Khoa của Việt Nam mới hơn 10 tuổi đầu mà đã giỏi tiên đoán vượt nhà tiên tri Nostradamus của Pháp để chửi thẳng mặt Tổng thống Mỹ ngu nhất thế giới. Vì nước Mỹ nổi tiếng tự do, nhân quyền, lại rất coi trọng bảo vệ trẻ em như Khoa.

Nhưng chẳng thấy Khoa đọc bài này, khi tìm lại bài thơ thì mọi người té ngửa đoạn thơ trên: “Ngu xuẩn nhất nhì / Là tổng thống Mỹ” đã bị Khoa cắt cho vào sọt rác, thủ tiêu trước khi lên thang máy bay sang Mỹ rồi.

Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Lời đã nói ra bốn ngựa khó đuổi, huống chi Khoa đã nói, đã viết, đã in thành sách. Đúng là gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. “Thần đồng” Khoa gần “thần chết” Hữu nên học được chiêu giấu như mèo giấu cứt này của chú Hữu. Năm 1954 trong tập thơ Việt Bắc của Nhà xuất bản Văn nghệ in lần đầu người ta còn thấy bài thơ: Đời Đời Nhớ Ông, Hữu khóc Stalin:

Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin. (1953)

Dối trá đến thế là cùng, nếu Hữu sống lại có dám chỉ ra cho tôi và mọi người xem đứa con nào của người Việt Nam khi tập nói mà tiếng đầu lòng con gọi Stalin. Xin được dùng từ của người dân Nam gọi những kẻ như ông Hữu là bớt xàm l*n đi. Ngay cả những đứa con người Nga khi tập nói cũng gọi Papa, Mama – Cha ơi, Mẹ ơi, chứ không tập gọi Stalin như ông Hữu phịa ra. Những lần tái bản sau, đố ai tìm được bài thơ “Đời đời nhớ ông” nữa.

Khi được hỏi tại sao Khoa cắt, vứt bỏ đoạn thơ “Ngu xuẩn nhất nhì / Là tổng thống Mỹ” trong bài Kể Cho Bé Nghe, thì Khoa thanh minh thế này: Người làm thơ luôn vận động, mỗi bài thơ sẽ được sửa chữa nhiều lần, chừng nào nhà thơ còn viết thì bài thơ chưa thể nói là có dạng hoàn chỉnh tận cùng.

Thanh minh như Khoa nghe khó lọt tai lắm vì (sửa) khác với (bỏ). Sửa là để tốt hơn, còn bỏ là vứt nó mất đi. Ngay cả làm việc đó (sửa) người ta cũng rất hạn chế bởi tính chất lịch sử sáng tác ra đời và sự kiện của nó ở thời điểm hiện tại.

***

Mấy tháng nay bọn đảng cướp Trung Quốc đem tàu vào sâu trong lãnh hải Việt Nam. Chúng âm mưu chiếm đóng và sẽ lấy trắng bãi Tư Chính trong nay mai như đã từng lấy trắng đảo Gạc Ma cũng như nhiều đảo khác.

Báo chí chính thống của nhà nước cùng đảng cộng sản của Khoa câm mồm không dám ho he. Riêng Khoa đã lên tiếng nhiều bài viết phản đối chửi rủa thậm tệ thằng đảng cộng sản Trung Quốc bẩn thỉu nhơ nhớp. Khoa không chửi nhân dân Trung Quốc là đúng vì họ cũng khốn khổ khốn nạn, chỉ sướng hơn dân Việt có một mi ly phân mà thôi.

Việc làm và hành động yêu nước của Khoa được nhân dân cả nước hoan nghênh ghi nhận. Bỗng có bọn rận rệp, khỉ ho cò gáy nào đó đóng giả lực lượng 47, đóng giả bọn dư luận, dư lợn viên tanh hôi, thối mồm thối miệng tụ lại vu cho Khoa là phản động, trở cờ trở quạt, trở giáo trở mác, trở đầu trở đít, kích động chiến tranh oánh nhau với Tàu khựa.

Nghe thấy vậy, giá như Khoa đừng thanh minh, thì tư cách Khoa càng được đề cao ngất ngưởng. Tiếng tăm “thần đồng” bất mục. Ai dè Khoa sợ sun chim tụt c*c, vội vội vàng vàng nhẩy đông đổng thanh minh, thanh tre, thanh gỗ, thanh củi gì gì, làm mất hết tin yêu của người hâm mộ “thần đồng”.

Anh nhà thơ, tác giả của “Quê hương là chùm khế ngọt” tận miền Nam nước Việt bức xúc gửi ra mấy lời chửi Khoa: “Nhắn anh Trần Đăng Khoa “thần đồng” của Xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Tôi quý trọng anh khi to tiếng phản ứng lên án bọn Trung Quốc với Việt Nam. Nhưng tôi rút lại sự quý trọng khi anh phân bua, kêu cứu anh bị bọn xấu chụp mũ ‘tự diễn biến’ anh vẫn là lính cụ Hồ, vẫn là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, không ‘phản động’ không chống đảng… Khoa! Tao với mày bằng tuổi nói thẳng cho vuông. Làm thằng cách mạng phản động như tao đ3o phải thanh minh thanh nga kêu cứu với thằng nào. Tao khỏe. Ký tên: Đỗ Trung Quân”.

Muốn để anh nhà thơ họ Đỗ và mọi người bớt nóng với Khoa về việc Khoa cứ lăn tăn thanh minh thanh nga, rằng mình bị bọn xấu chụp mũ chửi bới chống Trung Quốc. Tôi đi tìm lại bài thơ bốn mươi năm trước: Uống Rượu Với Người Bạn Nga của Khoa viết vào tháng 7/1979 tại thủ đô Moscow, nước Nga mà mình đã từng đọc.

Không có ý gì đâu, chẳng qua tôi muốn chứng minh cho mọi người rằng, không phải đến bây giờ mà từ bốn mươi năm trước, Khoa đã chửi thẳng vào mặt bọn giặc Bành trướng Trung Quốc rồi. Khi ấy tại quê nhà dân ta vừa tống cổ thằng giặc cướp nước Đặng Tiểu Bình qua biên giới:

Nào nâng cốc! Mừng quê tôi
Quân Tàu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi.
Biên giới mùa này, hoa ban nở
Loài hoa như trái tim người! (1979)

Nguyên câu này ở khổ thứ 5 trong bài thơ 11 khổ. Quái thật, tìm đi tìm lại không thấy. May sao vào một trang vẫn còn sót lại khổ thơ thứ 5 này, có lẽ Khoa đã tìm để xóa nhưng chưa hết. Từ bao giờ chẳng rõ Khoa đã âm thầm vứt biến khổ thơ trên để thay vào đó bằng một khổ thơ mới lạ hoàn toàn khác biệt, không ăn nhập gì với mạch thơ cũ:

Và em gái hái nho ấy
Mắt em như cốc rượu đầy
Chỉ nhìn vào mầu mắt ấy
Là tôi đã ngả nghiêng say.

(Lấy trong 25 bài thơ Trần Đăng Khoa tự chọn. Gồm: “Thơ tình người lính biển”- “Ở nghĩa trang thành phố”- “Lính thời bình”- “Trái đất quay”- “Uống rượu với người bạn Nga”- “Đêm Nga”…)

Hỡi ôi! Khoa dối trá, Khoa quỷ quyệt, Khoa tráo trở, Khoa lá mặt lá trái, lúc Khoa nói thế kia, khi Khoa nói thế nọ. Nếu ai có hỏi Khoa về việc tại sao vứt bỏ khổ thơ cũ rất chính xác với tính chất lịch sử của nó ở giai đoạn đó “Quân Tầu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi” năm 1979 thì không biết Khoa sẽ thanh minh sao đây?
Lão Khoa về già không lấy thanh danh làm trọng, mà chỉ ưa lấy thanh minh làm nền để người đời lấy làm khinh. Đọc: “Cái nước mình nó thế” của nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến, tôi nghiệm rằng, Khoa có căn bệnh thanh minh này đã hàng chục năm trước, lâu rồi trở thành mạn tính. Nay bệnh nặng hơn vì có thể Khoa sợ lung lay cái ghế Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam? Với cương vị ấy Khoa phải đời đời kiếp kiếp khắc cốt ghi xương công ơn của đảng, nhà nước, chính phủ, Quốc hội và trên hết là anh Tổng – Chủ Nguyễn Phú Trọng người đã ban chức tước đó cho Khoa mở mày mở mặt như đang mở.

Có thể Khoa nghĩ cỡ như chị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội; anh Xuân Phúc Thủ tướng, anh Tổng – Chủ Phú Trọng thấy Tầu khựa ăn trọn bãi Tư Chính nay đem cả phi đội tàu chiến áp sát bờ biển Phan Rang, Phan Thiết, hải cảng Cam Ranh, lấy nốt nước Việt nay mai mà còn không ai dám ho he há mồm, huống chi mình là cái thá gì, nên Khoa xóa biến mấy câu thơ chửi vào mặt thằng Tàu khi xưa của Khoa, chỉ vì sợ chúng vào rồi chúng sẽ tìm thằng nhãi ranh nào dám chửi: “Quân Tầu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi”, quật mả đào mồ nhà Khoa?

Ở cương vị Phó Chủ tịch ngôn luận cho đảng, mà Khoa cứ sống lạng quạng cò quay kiểu này dễ bị ăn đòn, dễ bị chính anh tiều phu Nguyễn Phú Trọng cho Khoa đi Hóa thân đài hoàn vũ Văn Điển lắm, vì anh Trọng là người độc nhất vô nhị rất trọng tình trọng nghĩa với nước bạn vĩ đại Trung Hoa cùng thằng em Tập Cận Bình hiền khô.

À, anh Trọng sẽ đốt Khoa ngay tại “lò tôn” của anh ấy đã hoạt động trở lại, nghe đâu sau sự cố sài đẹn trên đường vào tìm củi lim, củi gộc gì đó tận trong Cà Mau, Minh Hải, không thành. Những tưởng anh Trọng đã đi chầu ông bà ông vải rồi nhưng may cho “hồng phúc dân tộc”, anh mình bỗng tái hồi sự sống, mồm hết méo, miệng nói tròn, nay tiếp tục bới củi nổi lửa đốt lò, Khoa cứ gọi là rờ hồn đấy. Khôn hồn Khoa sống cho nó tử tế thật thà, viết cho thật kiểu như Khoa viết về anh nhà quê “Thời xa vắng” Lê Lựu qua Mỹ chơi, rồi ngó sau nhìn trước vắt cả cái chân còn nguyên giày nguyên tất lên mũi… ngửi. (Chân dung và đối thoại, trang 79).

Vào trang riêng của Lão Khoa thấy Khoa công bố với Quốc dân đồng bào, rằng Khoa đã một lần được Hội Nhà văn nước bạn vàng mời sang Trung Quốc và nếu như được mời nữa thì Khoa cóc thèm đến với bọn đê tiện đó lần hai. Không biết đâu Khoa lại đi để rồi về Khoa khoe: Tớ sang Tàu lần này chỉ đạt ước nguyện được hầu chuyện anh Tập Cận Bình bình dân chất phác. Anh Tập thích thú nghe tớ kể chuyện Tô Đông Pha ngâm nga Bạch Cư Dị. Rồi anh ấy cười khoái chí, tớ lại đọc tiếp thơ cụ Lý Bạch, nói vanh vách tới Hạ Tri Chương, anh Tập cười hiền lành rất dễ thương, tại sao dân ta cứ phải cương lên chống anh ấy. Ôi chao, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo? Đ3o mẹ Khoa!

Có một người lính, không phải lính “Cụ Hồ” như Khoa mà ông là lính Việt Nam Cộng hòa. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng sản bắt ông đi qua các trại giam khét tiếng với mười năm tù cải tạo “tư tưởng”. Chắc là để bắt ông học lại: “Sống, phấn đấu, lao động và học tập tư tưởng tác phong theo gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Tưởng chết, khi ra tù thân ông đã bị tàn, người ông đã thành phế, được xếp vào diện đi Mỹ định cư, nhưng ông từ chối, nguyện chết trên quê hương nơi sinh thành. Không một lời thanh minh nhưng ai cũng hiểu lòng ông. Người ta biết đến ông là nhạc sĩ nhiều hơn chức tước đại tá quân hàm ông mang. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” nổi tiếng: “Lòng trần còn mơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều anh ơi“.

Khoa ạ, tôi với Khoa đã đi hết một vòng hoa giáp, tức là tròn ngưỡng 60. Sáu mươi tuổi nhìn thấu sinh mệnh, nhìn thấu danh lợi. Lục thập tầm tử đạo – sáu mươi tìm về cõi chết được lắm ru. Hà cớ Khoa cứ dối gian, sống nhơ nhuốc, lúc khạc ra, khi liếm vào, viết thế này, xóa thế nọ, nói đằng này, làm đằng nớ trong nghiệp thơ để mơ vương khanh tướng làm chi cho đời mưa bay gió cuốn, sung sướng nỗi gì hả Khoa? Từ “thần đồng” thơ, Khoa đã trở thành “thần điêu”… tiểu hiệp.

Chắc có duyên nợ kiếp nào với nhau nên tôi được đồng hành cùng Khoa ngay tự buổi đầu “Từ góc sân nhà em” tới giờ đã cận kề “Ở nghĩa trang thành phố” Khoa viết:

Nhưng khi ta đã nằm dưới mồ
Cỏ vẫn xanh biêng biếc ở bên trời…
Trước thiên nhiên con người như khách trọ
Như ảo ảnh chập chờn, thoáng đến, thoáng lìa xa.
Chúng ta sống bên nhau, dẫu năm này tháng khác
Thì cũng vẫn chỉ là một thoáng giữa sân ga…


Biết là vậy mà lòng thì những muốn Khoa quay về tuổi thơ “thần đồng” ngưỡng mộ. Cái tuổi trắng trong chưa từng vẩn đục tha hóa tâm hồn trước khi Khoa theo đảng để Khoa nhớ lại: Ngày ấy, tôi mới 9 tuổi, chiếc áo trắng này cả nhà dành dụm mãi chỉ để mặc một lần lên hình trên báo Thiếu niên Tiền phong.

Nghe thương bao nhiêu, nhất là Khoa mơ:

Vẫn mong ngày chú trở về
Lại ngồi với cháu bên hè đánh bi. (1968)

Nghe yêu thật nhiều. Không ngờ từ một cậu bé ngoan ngoãn, hiền lành của vùng đồng chiêm nước trũng quê làng bình yên bên sông Kinh Thầy, bươn chải ra thị thành rồi nhập vào bầy hoang thú. Khoa biến mình thành con thú trong một đàn thú hoang man rợ, ăn thịt đồng loại.

Nếu như, không phải nếu như bỏ cả thành Paris vào một cái chai đâu. Mà nếu như ngày ấy Khoa đừng thành thần đồng thơ, chắc mẹ tôi chẳng có gương nào lôi ra cho tôi noi theo và nếu có đánh tôi ba roi vì Khoa, thì nay bà bớt đi chỉ cho vào mông tôi một vụt thôi.

Nếu như ngày ấy, lúc mẹ Khoa ướm chân mình vào vết chân ngồ ngộ của ai đó khi đi làm ruộng (tôi vẫn ngờ thế) đừng đẻ ra Khoa “thần đồng” thơ, mà thành “thần nông” lúa, thì phúc tổ ngàn đời cho nước nhà bao nhiêu. Biết đâu mỗi chiều về trẻ ngồi lưng trâu hay theo sau đít bò, các bé em đùa nô bên sườn đê hay về đến cổng quê đình làng xóm chợ ríu rít cất tiếng du ca:

Hạt gạo làng ta
Có Trần Đăng Khoa
“Thần nông” Kinh Thầy
Biết bao suy tư
Cho vựa lúa đầy
Biết làm nhiều thóc
Nước nhà no lây…
Em vui em hát
Hạt gạo làng ta
Em vui em hát
Thần Trần Đăng Khoa.

Còn vui nào vui hơn vui thế, hơn cả niềm vui “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” của chú Tố Hữu Khoa là cái chắc. Mà đã là “Thần” thì mãi mãi muôn đời muôn kiếp với dân.

Trần Đăng Khoa cùng em gái Trần Thúy Giang và phóng viên báo Thiếu niên Tiền phong Ngô Viết Dinh. Bên sông Kinh Thầy tháng 3/1968.

“Mũ rơm tôi đội túi đầy thuốc men”, thời Khoa và tôi đi học.

Tổng thống Mỹ “ngu” Lyndon B. Johnson, thăm binh lính Mỹ và 
Việt Nam Cộng hòa bị thương tại Nam Việt Nam tháng 10/1966 

Theo Blog toithichdoc

19 tháng 9, 2019

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Nếu cứ nghe 'Hòa đại nhân' thì sớm muộn gì cũng sai

16/09/2019, 14:43 (GMT+7)
Những kẽ hở, bất cập, những vấn đề tồn tại trong công tác cán bộ hiện nay là gì? TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội phân tích thẳng thắn trên NNVN.


TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
“Kiến thức là một phần, sự anh minh mới là yếu tố quan trọng hơn để làm lãnh đạo”, TS Nguyễn Sĩ Dũng mở đầu cuộc trò chuyện.  

Công tác cán bộ cần một khung khái niệm mới

Thưa ông, tự bao giờ trong xã hội, những câu nói “nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ” hay “tổ Đảng nhà ta, Chi bộ nhà ta”, “cả họ làm quan”… thường được gắn với công tác cán bộ, âm ỉ thành căn bệnh, là một nhà khoa học chính trị, ông nghĩ gì về công tác cán bộ ở ta hiện nay?
Tôi nghĩ đây là một công tác hết sức khó khăn, phức tạp. Hiện nay, công tác này đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nhiều chính sách mới, nhiều quy trình, thủ tục mới về công tác cán bộ đã được đề ra. Tuy nhiên, những chuyển biến thật sự trong công tác này thì vẫn chưa nhiều. Các câu nói cửa miệng  như “Nhất hậu duệ…”, “Tổ Đảng nhà ta…”, “cả họ làm quan” quả thực đang phản ánh những vấn đề rất lớn của công tác cán bộ. Đó là vấn đề cất nhắc, đề bạt người thân, người nhà; vấn đề chạy chức, chạy quyền; vấn đề “mua quan, bán chức”…
Ngoài ra, “công tác cán bộ” là một cách nói rất “tiền khởi nghĩa”, rất xưa cũ. Có lẽ, ở thời đó, sự phân chia còn khá đơn giản: hoặc là địch hoặc là ta; hoặc là cán bộ, hoặc là nhân dân. Tuy nhiên, sự đơn giản như vậy đã trở nên bất cập trong một xã hội phát triển và hiện đại. Một khung khái niệm mới là rất cần thiết cho hoạt động mà chúng ta gọi là “công tác cán bộ” hiện nay. Đó chính là khung khái niệm về quản trị nhân lực công.
TS Nguyễn Sĩ Dũng: “Công tác cán bộ” là một cách nói rất “tiền khởi nghĩa”, rất xưa cũ.
Nguồn nhân lực của một quốc gia thì có nhân lực tư và nhân lực công. Nhân lực tư do xã hội và các doanh nghiệp quản trị. Nhân lực công thì do Nhà nước quản trị. Trong trường hợp của nước ta thì nói nhân lực công do Đảng và Nhà nước quản trị cũng hoàn toàn chính xác.
Trong giai đoạn hiện nay, nhân lực tư đang được quản trị khá hiệu quả, thậm chí, trong không ít lĩnh vực còn vượt trội hơn so với việc quản trị nhân lực công. Cứ nhìn cách các tập đoàn tư nhân như Vingroup, Sungroup,  Trường Hải… thu hút và sử dụng người tài như thế nào chúng ta sẽ thấy rất rõ điều này.
Trong khi đó, quản trị nhân lực công có vẻ đã không đổi mới kịp, cơ bản thì vẫn theo cách làm từ sau Cách mạng tháng Tám đến bây giờ. 
Vấn đề ở chỗ, chúng ta không phân chia các nguồn nhân lực công được một cách rạch ròi mà chỉ nói chung là cán bộ.
Nói như vậy có nghĩa là công tác cán bộ hay quản trị nhân lực công của chúng ta đã quá cũ?
Quả đúng là như vậy! Nhân lực công chia thành nhiều loại khác nhau và phải được quản trị khác nhau, không thể nào áp đặt một khuôn mẫu chung được. Quản lý nhân lực công nghĩa là quản trị một trong những nguồn lực hết sức to lớn của đất nước. Nếu quản trị tốt, thì đất nước sẽ nhanh chóng thịnh vượng, nếu quản trị dở, thì không chỉ nguồn lực này bị lãng phí mà những nguồn lực khác cũng dễ bị tiêu tán theo. Chẳng hạn đất nước giàu tài nguyên nhưng nhân lực quản trị không tốt, thì chắc chắn tài nguyên khó được khai thác hiệu quả, kéo theo chạy chọt, tham ô, tham nhũng… 
“Thực trạng chúng ta có nhiều người đi học để lấy bằng cấp, để hợp thức hóa mà không biết cái gì, đấy là “mua bằng”… Việc học tập của anh ta không phải để trau dồi chuyên môn mà vì tiêu chuẩn bắt buộc để thăng tiến. Nó méo mó như vậy thì làm sao có hệ thống cán bộ tốt được.Chính sự méo mó ấy làm mất đi sự cạnh tranh, so sánh, áp lực cán bộ như ở các nước”, TS Nguyễn Sĩ Dũng.
Nhìn tổng thể, nhân lực công có thể được chia thành các loại: 1. Chính khách; 2. Công chức (hay còn gọi là quan chức hành chính); 3. Viên chức; 4. Thẩm phán. Các loại này đảm nhiệm những công việc khác nhau và phải được quản trị cũng khác nhau.
Về chính khách, ở tầm quốc gia, chính khách là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, các ủy viên Bộ Chính trị, các ủy viên Ban Bí thư, các ủy viên Ban chấp hành Trung ương, các Bộ trưởng, các đại biểu Quốc hội… Đây là những người có quyền ban hành các quyết định (các chính sách). Đây cũng là nguồn nhân lực đầu tiên hết sức quan trọng của đất nước.
Các chính khách là những người có năng lực nhận biết vấn đề, xác định ưu tiên và thúc đẩy chính sách. Nghĩa là các chính khách phải phản ứng kịp thời trước các vấn đề của đất nước. Nếu đất nước đối mặt với hàng trăm vấn đề, thì các chính khách phải xác định được vấn đề nào là quan trọng nhất. Ngoài ra, chính khách phải nắm bắt được lòng dân.  Đâu là ý nguyện của người dân, đâu là cái người dân cần, sẽ được người dân ủng hộ...
Một năng lực khác của các chính khách là cân đối lợi ích. Phải biết được việc ban hành chính sách sẽ có lợi cho nhóm này và không có lợi cho nhóm kia ra sao để có thể cân bằng được lợi ích giữa các nhóm. Bởi vì ngân sách và các nguồn lực khác của đất nước đều rất hạn chế. Cuối cùng, năng lực quan trọng nhất của một chính khách ở tầm quốc gia là xác định được lợi ích của đất nước nằm ở đâu. Bởi vì lợi ích của nhóm này hay nhóm kia chưa chắc đã là lợi ích của quốc gia.
Nguồn nhân lực công thứ hai là các công chức. Đây là những người thực thi chính sách và pháp luật. Những người này không có quyền ban hành chính sách và pháp luật, nhưng thiếu họ, chính sách pháp luật không thể đi vào cuộc sống. Chúng ta thấy, khi Tổng thống Mỹ Trump ban hành sắc lệnh cấm người Hồi giáo ở 6 nước nhập cảnh vào Mỹ, ngay lập tức những người này đã bị các quan chức hành chính chặn lại tại tất cả các cửa khẩu. Thế nhưng, khi tòa án bãi bỏ sắc lệnh trên, thì lập tức các quan chức hành chính cho phép những người Hồi giáo nói trên nhập cảnh ngay. 
Tức là các công chức không đánh giá chính sách nào là tốt, chính sách nào là không tốt. Chính sách đã được ban hành thì họ thực thi ngay và một cách hiệu quả nhất. Nhưng chính sự hiệu năng này của đội ngũ công chức là sự bảo đảm cho chính sách, pháp luật  sẽ thật sự đi vào cuộc sống. Còn nếu chính sách, pháp luật đã được ban hành, mà các ông công chức muốn thực thi còn trình lên Bộ trưởng, trình lên Thủ tướng xin ý kiến chỉ đạo thì mọi việc đều sẽ rất chậm trễ. Đó là chưa nói tới rủi ro là pháp luật, chính sách cũng không còn đáng tin cậy nữa.
Vụ việc Singapore trục xuất Vũ “nhôm” là một điển hình. Quyết định trục xuất Vũ “nhôm” do Cục trưởng Cục Di trú ban hành. Ông này không phải xin ý kiến chỉ đạo của ai cả, vì ông ta chứ không phải ai khác có thẩm quyền  thực thi pháp luật ở đây.  Đối với một người vi phạm pháp luật vì mang hai hộ chiếu, thì bị trục xuất là theo quy định của pháp luật.
Nhân lực công thứ ba cũng rất quan trọng là viên chức. Viên chức là những người giúp Nhà nước cung cấp dịch vụ công cho dân. Tại sao Nhà nước phải cung cấp dịch vụ công? Tại vì có những dịch vụ tư nhân không cung cấp, như đèn chiếu sáng công cộng chẳng hạn. Quan trọng hơn, Nhà nước phải cung cấp dịch vụ công còn để bảo đảm công bằng xã hội.
Theo ông Dũng, nên để người thắng cử được quyền lựa chọn. 
Lực lượng viên chức nhiều hay ít cùng tùy thuộc vào việc các dịch vụ công do tư nhân cung cấp nhiều hơn hay Nhà nước cung cấp nhiều hơn. Trong không ít trường hợp, Nhà nước phải cạnh tranh với tư nhân, thậm chí trong nhiều trường hợp tư nhân còn cung cấp các dịch vụ này tốt hơn.
Lực lượng thứ 4 cần phải có là các thẩm phán. Các thẩm phán phải được lựa chọn là những người liêm chính tối đa, dám xả thân vì công lý tối đa. Phải chọn được những người giỏi áp dụng pháp luật để đạt được công lý. Trên thế giới người ta thường chọn những luật sư danh tiếng về trình độ chuyên môn và đạo đức, tư cách để làm thẩm phán.
Từ sự phân chia về quản trị nhân lực như thế, có thể thấy rằng, thực tế trong công tác cán bộ của chúng ta vẫn chưa thực sự rõ ràng. Quản trị theo kiểu cũ và hàng loạt vấn đề về bổ nhiệm, về chạy chức chạy quyền, về năng lực lãnh đạo… đang là những nhức nhối trong xã hội suốt một thời gian dài, thưa ông?
Chúng ta vẫn đang chưa có sự mạch lạc rõ ràng giữa việc bầu chọn các chính khách; tuyển chọn, bổ nhiệm các công chức; tuyển chọn các viên chức…
Chế độ trách nhiệm chính trị đáng ra chỉ áp dụng cho các chính khách lại đang được áp dụng cho cả hệ thống. Chính khách, công chức, viên chức hay thẩm phán muốn được đề bạt thì đều phải lấy phiếu tín nhiệm. Trong lúc đó, tín nhiệm chỉ là cách thức để vận hành chế độ trách nhiệm chính trị.
Trong lúc đó, trách nhiệm hành chính là trách nhiệm trước thủ trưởng. Đã được giao nhiệm vụ thì phải hoàn thành. Không hoàn thành nhiệm vụ được giao thì tín nhiệm cao cũng chẳng có ý nghĩa gì!
Ví dụ, bổ nhiệm anh phụ trách giao thông thì tình hình giao thông phải được cải thiện. Năm sau nếu tai nạn giao thông cao hơn năm trước thì anh sẽ mất chức. Áp lực phải hoàn thành nhiệm vụ rất rõ ràng buộc lòng anh phải chọn được người tài giúp việc cho anh chứ không phải chọn người ủng hộ anh. Nói cách khác, nếu anh không chọn được người giỏi hỗ trợ anh thì anh sẽ mất chức.
TS Nguyễn Sĩ Dũng (phải) và nhà báo Hoàng Anh

Lựa chọn cán bộ rất khốc liệt nhưng không tạo ra sự cạnh tranh vì phẩm chất cần thiết

Thưa ông, liệu rằng với công tác cán bộ “chưa mạch lạc” như vậy có phải là hạn chế sự cạnh tranh, hạn chế trong việc tìm chọn người tài hay không?
Quy trình lựa chọn cán bộ có sự cạnh tranh rất khốc liệt. Nhưng quy trình ấy lại không tạo ra sự cạnh tranh vì những phẩm chất cần thiết.
Trong cuộc sống, nếu chúng ta cạnh tranh theo cách xấu xa, thì Sa tăng sẽ thắng cuộc. Cạnh tranh theo cách tốt đẹp, thì Thiên thần sẽ thắng cuộc. Mấu chốt là cạnh tranh vì cái gì thì ở mình không rõ. Bởi vì ở mình, đằng sau sự cạnh tranh theo cách “xấu xa” có thể là tiêu cực là quà cáp, là biếu xén để lấy phiếu. Còn cạnh tranh “tốt đẹp” thì lại chưa thật sự rõ ràng.
Điều này có nghĩa là nếu muốn chọn được người tài lãnh đạo, công tác cán bộ được tốt hơn thì phải thay đối phương thức quản trị, thưa ông?
Quả thực là phải như vậy.
“Cần phải có cơ chế để những người giỏi chuyên môn hơn sẽ được chọn. Phải thiết kế được một hệ thống luật chơi mà người thắng cuộc là người tài, người phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước tốt hơn. Nó giống như cơ chế cạnh tranh thị trường vậy. Hàng tốt hơn và rẻ hơn sẽ được lựa chọn, để người tiêu dùng có sản phẩm tốt đẹp. Còn nếu lựa chọn kiểu tiêu cực như cạnh tranh để làm hàng giả, hàng kém chất lượng thì sẽ thêm nhiều tình trạng đi đêm với quan chức mà thôi”, TS Nguyễn Sĩ Dũng.
Nếu muốn chọn được người tài thì đối với các chính khách, phải tiến hành tranh cử trong Đảng để lựa chọn người tài. 
Đối với các công chức, phải thi tuyển như ở các nước Đông Bắc Á để chọn được người tài.
Đối với các viên chức, phải cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân để tuyển chọn người tài.
Đối với các thẩm phán, phải tìm hiểu và áp dụng kinh nghiệm tuyển chọn của các nước như đã nói ở phần trên.
Chính khách thì phải tranh cử. Mình không đa đảng nên phải tổ chức tranh cử trong đảng. Hình thành quy chế tranh cử. Anh muốn làm Bí thư thì anh phải làm sao để các đảng viên nghe được trình bày của anh, giải pháp của anh, chứng minh được anh giỏi hơn để họ ủng hộ.
Nên để người thắng cử được quyền lựa chọn. Người thắng cử làm Thủ tướng Nhật sẽ lựa chọn những người làm Bộ trưởng. Người thắng cử làm Thủ tướng Anh sẽ loại bỏ những Bộ trưởng bất đồng chính kiến với ông. Với ê kíp như vậy mới làm việc được. Còn nếu ông Thủ tướng đi đường này, ông Bộ trưởng đi đường kia thì làm sao mà làm việc được.

Nếu cứ nghe “Hòa đại nhân” thì sớm muộn gì cũng sai

Trong công tác cán bộ, thực tế chỉ ra rằng “con ông cháu cha” được xem như những “hạt giống đỏ” của đất nước, thừa hưởng nền tảng tri thức của gia đình, đều được đào tạo bài bản, được học ở nước ngoài, được kỳ vọng sẽ tôi luyện để họ có bản lĩnh vững vàng trong thực tiễn công tác. Thực tế cũng chứng minh có những vụ bổ nhiệm cán bộ khiến dư luận hết sức hoài nghi, thậm chí là bất bình như việc cô Tô Linh Hương (con gái nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Tô Huy Rứa), 24 tuổi đã là Chủ tịch một công ty thành viên của Vinaconex, Vũ Quang Hải (con trai nguyên Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, 25 tuổi đã là TGĐ PVFI, sau đó là Sabeco)… Ông kiến giải như thế nào về những vụ bổ nhiệm như thế?
Thực tiễn chính trị khác với thực tiễn hành chính và chúng ta không thể nói chung chung.
Ví dụ Tổng thống Pháp được bầu khi chưa đến tuổi 40, nhưng nếu nói thực tiễn chính trị thì ông ta có chứ, vì ông ta sinh hoạt trong đảng lâu rồi.
Đối với các “hạt giống đỏ” cũng vậy, thực tiễn của đời sống chính trị là hoạt động trong đảng. Nếu anh hoạt động trong đảng, thì anh có thể có thực tiễn đó.  Còn nếu anh từ bên ngoài vào thì rõ ràng anh không có thực tiễn chính trị, anh được đỡ đầu thôi, đến khi hết đỡ đầu có thể anh rớt. 
Còn đối với những trường hợp như đã nêu ở trên thì thực tiễn chính trị không có ý nghĩa gì lắm vì đó là các chức vụ chuyên môn. Phải học hành, phải có trình độ chuyên môn thì mới đảm nhiệm được.
TS Nguyễn Sĩ Dũng: Thực tiễn chính trị khác với thực tiễn hành chính và chúng ta không thể nói chung chung.
Vậy thì vấn đề của “hạt giống đỏ” liệu có phải là kiểm soát linh hoạt quyền lực không, thưa ông?
Tôi không thấy có mối quan hệ nào đủ rõ ràng về việc “kiểm soát quyền lực linh hoạt ở đây”.
Thực chất quyền lực kiểm soát bằng cả hệ thống chứ không chỉ một khâu đơn lẻ nào. Bây giờ rõ ràng là một loạt thiết chế kiểm soát quyền lực đã có. Ví dụ giám sát của cấp trên, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương; giám sát tập thể có Thường vụ; giám sát phê bình, tự phê bình, đó là những giám sát của ta. Hiệu quả hay không thì quả thực còn có những ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, đây là những hình thức kiểm soát cần thiết trong bối cảnh của nước ta.
Vậy theo ông, những khó khăn “hạt giống đỏ” thường gặp phải là gì?
Trước hết, khó khăn mấy thì cũng thuận lợi hơn những người trẻ tuổi khác. Anh được cơ cấu, anh được luân chuyển, anh được cân nhắc đề bạt rất nhanh. 
“Đối với thực tiễn chính trị đòi hỏi người trẻ phải hiểu biết quy tắc, cách thức, bởi nếu anh được đỡ đầu, thiếu thực tế thì rất dễ bị mạo nhận. Khi anh lên nhờ cái ô đỡ đầu lớn, ô còn, người ta có thể châm chước chỗ này, chỗ kia… Khi không có ô nữa, “bố thiết kế xong rồi bố nghỉ”, anh vẫn còn ngộ nhận thì chắc chắn anh bị bật ra ngoài. Hoặc có thể anh vẫn ở nguyên đó nhưng không có quyền hành gì”, TS Nguyễn Sĩ Dũng.
Cái đầu tiên chúng ta phải nói là rất thuận lợi. Thế nhưng cái gì nó cũng có 2 mặt. Thách thức đầu tiên là anh lên dễ quá. Dễ dàng quá thì tự tin, nếu không muốn nói tự phụ. Tự phụ thì mất khả năng lắng nghe và sớm muộn cũng sẽ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền.
Thách thức thứ hai, kiến thức là một phần nhưng sự anh minh mới là yếu tố quan trọng hơn để làm lãnh đạo. Mà sự anh minh thì phải có  trải nghiệm mới có được. Chỉ học không sẽ không có được sự anh minh. Học chỉ có kiến thức, kiến thức kết hợp với trải nghiệm mới có sự anh minh. Nhiều khi quyền lực nằm trong tay rồi, không ai dám nói khác, anh lên quá cao không ai nói khác anh được. Bây giờ thách thức là khó nghe được lời nói thật. Nếu anh biết dựa vào đội ngũ cựu lão thành, những người đàn anh, những người chẳng phụ thuộc gì nữa, thì may ra anh còn nghe được những lời nói thật. Bằng không, anh chỉ nghe được các “Hòa đại nhân” và không sớm thì muộn sẽ quyết định sai.
Các cụ xưa dạy rằng “đạo đức và uy tín của người cha là tài sản lớn nhất của người con”, chúng ta đang ở trong một giai đoạn mà nền giáo dục, thứ được xem là cốt lõi của việc tìm hiền tài cho đất nước, những người cha, người mẹ sẵn sàng bỏ tiền tỷ để chạy điểm cho con (hầu hết là những cán bộ cốt cán ở nhiều địa phương). Trong một môi trường như thế thì việc dư luận hoài nghi về phẩm chất, năng lực của con ông cháu cha âu cũng là điều dễ hiểu. Theo ông, những “hạt giống đỏ” cần một môi trường như thế nào, cần phải rèn luyện như thế nào để phát triển, để chứng minh phẩm chất, năng lực của bản thân, để thực sự trở thành hồng phúc của dân tộc?
Con theo nghề cha là điều dễ hiểu. Vì kiến thức, kỹ năng thường được lưu truyền cho thế hệ tiếp nối. “Hạt giống đỏ” có lẽ cũng nằm trong xu hướng đó. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải bảo đảm công bằng xã hội. Nếu tranh cử hoặc thi tuyển công tâm mà các “hạt giống đỏ” giành phần thắng, thì không có chuyện gì phải bàn ở đây cả. Còn nếu vì cơ cấu, nâng đỡ mà các bạn trẻ khác bị cướp mất cơ hội thì hoàn toàn không nên.
Xin cảm ơn ông!
HOÀNG ANH(Ảnh: Trần Anh)

2 tháng 9, 2019

Hai bức thư Hồ Chí Minh gửi cho Stalin năm 1952 

Bùi Xuân Bách
2-9-2019
Trong cuộc triển lãm mới mở gần đây, nhân dịp 50 năm ngày mất của ông Hồ Chí Minh, triển lãm “Chủ tịch Hồ Chí Minh cuộc đời và sự nghiệp từ tài liệu lưu trữ Việt Nam và quốc tế”, người ta đã trưng bầy những bức thư ông viết cho các Tổng thống Hoa Kỳ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kể từ năm 1946 cho tới trước khi qua đời vào năm 1969.
Tuy vậy có lẽ họ đã cố tình quên hai bức thư quan trọng của ông gửi Đại Nguyên soái Stalin trong chuyến đi bí mật sang Liên Xô năm 1952. Có khi cũng chả phải quên, nhưng làm đúng truyền thống “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”. Trong hai bức thư này, ngoài việc ông Hồ xin viện trợ vũ khí và thuốc men, xin cho gửi học sinh sang Liên Xô học, ông còn thừa/thú nhận chính ông là người đã vạch ra Cương lĩnh Cải cách ruộng đất, với sự giúp đỡ của hai đ/c Cộng sản Trung Quốc là Lưu Thiếu Kỳ và Vương Giá Tường.
Chúng ta đều biết rằng CCRĐ là một “cuộc Cách mạng long trời lở đất”, mà trong bài viết của RFA “Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền bắc (Bài 1)” có viết: “Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị ‘đào tận gốc, trốc tận rễ’ nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.
Con số này có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thừơng thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản muôn năm.
Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế”.
Để bổ sung thêm cho sự thiếu sót đó của triển lãm, mời các bạn đọc lại nguyên văn hai bức thư này đã được dịch sang tiếng Việt cách đây 5 năm.
***
LẦN ĐẦU CÔNG BỐ 2 BỨC THƯ ÔNG HỒ CHÍ MINH GỬI ĐẠI NGUYÊN SOÁI STALIN
20/09/2014
Thư của ông Hồ Chí Minh gửi Đại Nguyên soái Stalin
Bùi Xuân Bách sưu tầm, dịch, chú giải và giới thiệu
Bức thư thứ nhất (30-10-1952)
Thưa đồng chí I. V. Stalin kính mến,
Tôi đã bắt đầu soạn Dự thảo Cương lĩnh Cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, và nó sẽ được trình lên đồng chí trong vài ngày tới (1). Tôi có một số thỉnh cầu dưới đây xin gửi tới đồng chí và cũng hy vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những yêu cầu này:
1. Xin cử tới Việt Nam một hoặc hai đồng chí Liên Xô để tìm hiểu và nghiên cứu tình hình ở đó. Nếu những đồng chí này thành thạo tiếng Pháp thì họ có thể giao tiếp với các tầng lớp nhân dân rộng rãi hơn. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi cần khoảng mười ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi sang Liên Xô học tập khoảng từ 50 tới 100 học sinh. Họ đã học xong lớp 9 ở Việt Nam, trong số đó có cả đảng viên lẫn ngoài đảng. Tuổi của họ từ 17 tới 22. Liệu đồng chí có đồng ý với đề nghị này?
3. Chúng tôi mong đồng chí gửi cho 10 tấn ký ninh một năm, để nhân dân và quân đội dùng, cũng có nghĩa là cứ 5 tấn cho mỗi nửa năm.
4. Chúng tôi cần các loại vũ khí sau:
(a) Pháo phòng không 37mm trang bị cho bốn Trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu.
(b) Pháo dã chiến 76,2mm cho hai Trung đoàn, tổng cộng là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu.
(c) Súng máy phòng không 12,7mm – 200 khẩu cùng 10 cơ số đạn.
Sau khi nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề đã nêu trên, tôi dự định sẽ rời Mạc tư khoa vào ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng 11.
Xin gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và những lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Hồ Chí Minh
30 tháng 10 năm 1952
_______
Ghi chú:
(1) Nguyên văn tiếng Nga là “nó sẽ được trình lên đồng chí sau đây ít lâu (hoặc: một thời gian sau)” nhưng căn cứ vào nội dung thư là ông Hồ dự định chỉ ở lại Mạc tư khoa thêm có 10 ngày nữa, và hành động tiếp theo của ông là ngay ngày hôm sau, 31/10, ông gửi tiếp bức thư thứ hai cùng Dự thảo Cương lĩnh Cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, nên tôi dịch thoát là “trong vài ngày tới”.
***
Bức thư thứ hai, ngày 31-10-1952
Phông lưu trữ Tổng thống Liên bang Nga
Thưa đồng chí Stalin kính mến,
Tôi xin gửi tới đồng chí bản dự thảo Cương lĩnh Cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Bản dự thảo Cương lĩnh này do tôi soạn với sự giúp đỡ của các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Vương Giá Tường. Xin đồng chí xem xét và cho chỉ thị về vấn đề này.
Gửi đồng chí lời chào cộng sản.
Ngày 31 tháng 10 năm 1952
Hồ Chí Minh
Ghi chú chữ nhỏ bên dưới:
Bản sao đã gửi tới các đ/c Malenkốp, Môlôtốp, Grêgôrian.
______
Ghi chú:
Trong bức thư thứ hai của ông Hồ gửi Stalin, tên của hai người Trung Quốc là Lưu Thiếu kỳ và Vương Giá tường.
Лю Шао-ци là phiên âm ra tiếng Nga của Liu Shaoqi (劉少奇).
Ван цзя-сян là phiên âm ra tiếng Nga của Wang Jiaxiang (王稼祥).
Lưu Thiếu kỳ đã từng là Chủ tịch nước và là nạn nhân của Mao trong thời kỳ CM Văn hóa, thì nhiều người đã biết.
Vương Giá tường là thành viên nhóm 28 Bôn-sê-vích, do Quốc tế Cộng sản cử về để đấu tranh với đường lối tả khuynh của Lý Lập Tam. Tuy so với Vương Minh, hay Lạc Phủ Trương Văn thiên, Bác Cổ Tần Bang hiến thì Vương không có gì nổi trội nhưng cũng thuộc loại “cây đa cây đề” của Đảng CSTQ. Là Đại sứ đầu tiên của nước CHND Trung Hoa tại Liên Xô, sau đó làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Ủy viên Trung ương Đảng khóa 8 và khóa 10.
Экспонаты историко-документальной выставки
“Советско-вьетнамское экономическое и научно-техническоесотрудничество. 1950 – 1990 гг.”
Письмо Хо Ши Мина И.В.Сталину. 1952 г.
Một điều đáng lưu ý nữa: Hai bức thư này đều do cùng một thư ký người Nga viết (chắc chắn thông qua phiên dịch), ông Hồ chỉ ký tên. Trong bức thứ nhất ông ký bằng chữ Hán, trong bức thứ hai – bằng chữ Việt.
Đây là chuyến đi bí mật của ông Hồ sang Nga vào thời đó nên cả hai bức thư không được công bố. Cả hai bức thư được lưu trữ tại Phòng lưu trữ Tổng thống Liên bang Nga.
Bổ sung: Hiện nay trên trang mạng của cơ quan lưu trữ Nga, nơi trước đây đã đăng ảnh chụp của hai bức thư (3 hình chụp 3 trang), ảnh đã được/bị rút xuống (theo yêu cầu của ai đó, chứ người Nga chả có việc gì phải sợ). Tuy nhiên, nó đã được chụp lại và đăng trong cuốn sách “(Le communisme vietnamien (1919-1991), Céline Marangé, Paris, SciencePo/Les Presses, 2012, Phụ lục 4, tr. 534-535).