30 tháng 8, 2019

Tin võ đài đánh đấm nội bộ lãnh đạo (Ngày 28/8/2019) 


1. Vụ trường Gateway vẫn đang rất lằng nhằng, công an trì hoãn công bố nguyên nhân cái chết của cháu bé. Ông tài xế lái xe cũng không được triệu tập lấy lời khai. Nếu không phải vì con Thủ tướng và trung tướng Trần Văn Vệ, trường này bị đóng cửa trong một nốt nhạc, thậm chí khởi tố cả một loạt nhân sự liên quan. Cá nhân người viết vẫn tin rằng: Vụ này được bung ra để đấu đá trước thềm đại hội, nhất là thời điểm "làm nhân sự" hiện nay.

2. Asanzo- Tuổi Trẻ đã thấy hạ nhiệt trên mạng xã hội. Tuy nhiên, theo giới thạo tin thì Tuổi Trẻ đang yếu thế trong trận chiến truyền thông và pháp lý. Cũng có tin đồn từ khoảng mươi ngày trước là: cuối tháng này sẽ khởi tố một anh Tam. Tuy nhiên có vẻ chuyện đó sẽ hơi khó xảy ra.

3. Trong khi Tư Chính của Việt Nam vẫn bị Tàu cộng xâm lấn và quấy nhiễu liên tục, hôm qua ông Trọng đã thò đầu ra khỏi mai. Tuy nhiên ra để trao huy hiệu 70 năm tuổi đảng cho Lê Khả Phiêu. (Và xin nhắc lại, năm 2000 Lê Khả Phiêu chính là người ký các hiệp định về biên giới trên bộ, trên biển với Trung cộng. Nhờ Phiêu mà Ải Nam Quan, một nửa Thác Bản Giốc danh chính ngôn thuận thuộc về Trung Quốc). Trao xong "giải thưởng" cho Phiêu, ông Trọng phủi đít không thèm nói một lời về Tư Chính. (Thời điểm nhạy cảm này mà đụng đến thiên triều, khóa tới có khi về, thằng khôn lỏi lưu manh là thằng im lặng trước chủ quyền để được lòng Trung cộng, từ đó sẽ được chúng cơ cấu làm lãnh đạo tiếp).

4. Mấy hôm nay rộ lên chuyện đồng hồ nửa tỷ của chị Ngân (bí danh cách mạng Ngân đù). Chuyện này không có gì lạ trong bối cảnh đại hội tranh ăn, giành ghế sắp diễn ra. Việc các đồng đảng- đồng chí dùng mọi thủ đoạn để triệt hạ nhau, triệt hạ phe đối thủ là hoàn toàn đúng quy trình. (Biết là chúng tự cắn nhau nhưng cứ lột truồng ra cho dân thấy cũng vui và nên cổ vũ chia sẻ chuyện các phe phái cắn nhau này).

5. Cũng là chuyện đánh đấm. Nguyễn Thị Thanh Thảo con đồng chí Nguyễn Mạnh Thắng - Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà 7 khoe trên Facebook cá nhân mỗi năm phá của bố 20 tỉ, đã 5 lần báo con số như thế. Tuy nhiên, bố chỉ mỉm cười, coi như mất tiền để con có thêm trải nghiệm cuộc sống. (Tin này được chia sẻ nhiều không kém chuyện đồng hồ chị Ngân đù. Quả này đồng chí Nguyễn Mạnh Thắng bị chính con gái bóp... ấy rồi. Dĩ nhiên các đồng đảng sẽ không bỏ qua cơ hội này để đấm cho Thắng sấp mặt, bay ghế).

6. Vụ cắn xé, đấu đá loạn xà ngầu ở Đồng Nai vẫn chưa có diễn biến mới. Trước mắt, mới chỉ có nhóm các đối tượng cầm đầu công an tỉnh bị kỷ luật thôi. Công an tỉnh Đồng Nai là một trong những ổ nhóm nhức nhối nhất trong vấn nạn công an trị ở Việt Nam. Theo dự đoán cá nhân, sắp tới ổ nhóm công an nói riêng và các quan chức- đảng viên chóp bu ở Đồng Nai sẽ còn nhiều trận đánh nảy lửa nữa!

7. Ở Hà Nội anh Chung con có lẽ đã tạm thoát nạn với các đòn đấm đá liên hoàn của đồng đảng nhắm vào: Công ty Nhật Cường buôn lậu, rửa tiền (được anh Chung cùng bộ sậu chỉ định trúng thầu hàng loạt dự án); vụ công tu của vợ con Chung độc quyền nhập và bán hóa chất làm sạch sông hồ với giá cắt cổ... Tranh thủ lúc tạm yên này, anh Chung nên tìm kiếm thêm vây cánh phe nhóm, rồi lục tìm các bê bối, sân sau của bọn đã từng chơi anh mà đấm lại anh Chung ạ. Tiên hạ thủ vi cường, anh và đàn em, phe nhóm nên tuồn tài liệu cho báo lề dân họ đăng cho. Cách phòng thủ tốt nhất là tấn công đối thủ liên tục, không để cho đối thủ có cơ hội chuẩn bị. Với tầm lưu manh như anh Chung thì anh lạ gì mấy bài đó! Nhắc anh Chung chơi trò đánh đấm, khác nào dạy đĩ vén váy!

8. Các băng nhóm liên quan đến chuyện ăn đất và ăn nhiều thứ ở Hồ Chí Minh vẫn đang gầm gừ giữ miếng và cắn nhau:

- Cách đây mấy hôm, có 2 tạp chí viết bài nhắm vào nhóm lợi ích nhà Hoa Lâm, liên quan đến chuyện tập đoàn này được ưu ái, lộng quyền ngang ngược, lấy đất xây bệnh viện biến thành đất khu chung cư cao cấp, biệt thự... (Theo giới thạo tin chọi chó thì Hoa Lâm hiện đang là sân sau của Thủ tướng Phúc kiến tạo cùng với Nguyễn Thiện Nhân. Băng này cũng có ông trùm truyền thông (kiểu tống tiền- bưng bô bẩn) Nguyễn Công Khế. Chính nhà Hoa Lâm cùng với ekip trên đập băng Hai Nhật- Cang te tua do trước đó bị "bạc đãi" không la liếm được các dự án ăn đất béo bở khác của băng Hải- Cang).

- Ngay lập tức, băng Hoa Lâm với Thủ tướng đập trả ngay: Ngày 24/8, đồng chí bị can Lê Tấn Hùng bị khởi tố thêm tội tham ô tài sản. Với tội danh và số tiền tham ô lên đến cả chục tỷ đồng, Hùng "nhớt" em trai Lê Thanh Hải rất dễ bị dựa cột nếu băng Hải- Cang còn định "phản đam".

- Nếu khôn hồn, băng Hải- Cang cứ cống nạp hết tài sản đã cướp được, chuyển giao các dự án sân sau cho phe thắng thế, có lẽ mọi việc sẽ nhẹ nhàng đi chút. Thằng nào, băng nào cũng rặt lũ cướp cả, dân đừng có thấy băng Hải- Cang bị đập sấp mặt mà vội mừng. Tải sản và thủ đoạn cướp bóc chỉ chuyển từ băng nhóm này sang băng nhóm khác, một khi thể chế độc tài này vẫn còn cai trị.

9. Sau khi Trần Đại Quang chết, đàn em sân sau đang bị đập tới tấp. Mục đích cũng chỉ là cướp lại những gì băng Trần Đại Quang đã cướp, đạp đàn em đệ tử còn sót của Trần Đại Quang khỏi các ghế đang nắm giữ để trám người phe thắng cuộc vào đó:

- Hà Nam đang phải báo cáo việc thu hồi, cưỡng chế hơn 815ha đất của dân giao cho công ty Xuân Trường xây chùa Tam Chúc.

- Đất tổ của Trần Đại Quang và Xuân Trường là Ninh Bình cũng phải báo cáo việc lấy hàng nghìn ha đất giao cho Xuân Trường xây chùa Bái Đính.

-Tương tự, Thái Nguyên cũng dính chàm dự án Khu du lịch Hồ Núi Cốc (quy mô 19,9 ha) của Xuân Trường. Điểm hay nữa là Bí thư tỉnh Thái Nguyên dính đến dự án này là Trần Quốc Tỏ, cựu tướng công an và là em trai của Trần Đại Quang.

Sau khi Trần Đại Quang chết, chuyện đàn em- sân sau bị “người ta” cho ăn bùn là lẽ dĩ nhiên, đúng quy trình vận hành của bộ máy này. Thằng cướp trước chết, thằng sau sẽ cướp lại những gì thằng trước đã cướp được. Quả này nếu Xuân Trường bị cướp sạch, Trần Quốc Tỏ bị đập cho sấp mặt bay ghế thì Trần Đại Quang có lẽ chết không thể siêu thoát, nhắm mắt. Đồng chí mà xử nhau, trả thù nhau thì nó khốc liệt lắm!

Cũng liên quan đến chuyện phe thắng cuộc đập đàn em, sân sau người chết còn có 2 đối tượng- đồng đảng nấp trong đống rơm đang nằm trong vòng nguy hiểm đó là: Bộ trưởng Bộ TNMT Trần Hồng Hà (Tuy nhiên ông này khá lưu manh khi đổ hết lỗi cho địa phương); Người thứ 2 bị dính đến vụ đánh đấm này là Bộ trưởng Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng. Ông Dũng là cựu Bí thư tỉnh Hà Nam và là người “liên quan” nhất đến chủ trương cướp đất của dân dâng doanh nghiệp sân sau Trần Đại Quang xây chùa Tam Chúc.

10. Có vẻ Thủ tướng kiến tạo, đầu tàu, trung tâm, thủ phủ… đang bị đối thủ trực tiếp tranh ghế Tổng bí thư lôi ra sàn đấu:

- Ngày 20/8, phát biểu chỉ đạo tại hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Thường trực Ban bí thư Trần Quốc Vượng đá đểu: “Tôi khuyên các bạn chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được”. (Và ông Phúc là người thường xuyên lên đồng kiểu mênh mông, đọc sướng tai nhưng không thể thực hiện).

- Cũng ngày 20/8, trên CafeF có bài viết: “Ông Trần Quốc Vượng: Đi cơ sở mà tổ chức đoàn xe dài dằng dặc 'rất phản cảm'”. (Hẳn quý vị còn nhớ, trong lần về Quảng Nam vinh quy bái tổ sau khi nắm được ghế Thủ tướng, đoàn xe dài “dằng dặc” của ông Phúc đã ngạo nghễ chạy xuyên qua phố cổ Hội An (nơi cấm hoàn toàn xe ô tô). Tầm Phúc- Vượng mà bắt đầu so găng là còn ối chuyện hay và võ đài sẽ sôi động trong thời gian tới. Chỉ tiếc, nhà cái tổng lại đặt “Máy chủ” ở Trung Nam Hải.

Bùi Văn Thuận

(FB Bùi Văn Thuận)

28 tháng 8, 2019

BÀI VIẾT HAY QUÁ, NÊN ĐỌC 

Có thật là đảng “nghiêm chỉnh thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” không?

Tương Lai
27-8-2019
Người ta đang rầm rộ khua chiêng gióng trống để “nghiêm chỉnh” thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với phong trào “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”. Rầm rộ vì đây là dịp kỷ niệm 50 năm ngày công bố toàn văn Di chúc. Nhưng oái oăm thay, thời điểm rầm rộ nhắc lại “Di Chúc” cũng đúng là lúc bọn Trung Quốc xâm lược đang hung hăng và ngang ngược gây hấn trên Bãi Tư Chính nhằm nắn gân những người cầm đầu trong bộ máy toàn trị “cùng chung ý thức hệ XHCN” với chúng.

Di chúc Hồ Chí Minh. Photo Courtesy

Tín hiệu phát ra của Bắc Kinh quá trắng trợn nhằm đánh đòn cân não, giáng đúng vào cái não trạng đã nhão nhoét một mớ tín điều “ý thức hệ” ôi thiu của Nguyễn Phú Trọng khi nghe nói là Trọng đang xoay bản lề để có chuyến “công du Mỹ Quốc” mà hình như Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 20.8.2019 đã đề cập đến.
Điều này càng đặt “Tổng – Chủ” vào thế “tiến thoái lưỡng nan” trước thế nước chênh vênh. Trọng lại càng lúng túng như gà mắc tóc, trước đòn Tàu quá hiểm, mà làn sóng phẫn nộ của dân thì lại đang như nước triều dâng! Thế cuộc đang đặt Trọng đối diện với một cuộc “khủng hoảng kép” về đối ngoại lẫn đối nộiBãi Tư Chính không chỉ hệ trọng về vị trí chiến lược, mà còn có ý nghĩa sống còn về chính trị, vì để mất Bãi Tư Chính là mất hết. Nếu điều ấy xảy ra thì tính chính danh của Trọng không thể vớt vát được trước công luận quốc tế. Nhưng đáng sợ hơn với Trọng còn là cái biển oán giận ngày càng tràn đầy trong lòng dân khi bộ mặt hèn nhát cam chịu phận chư hầu ngày càng rõ trong thủ đoạn đu dây lươn lẹo với xu hướng “nhất biên đảo” bởi sự ràng buộc quá hiểm của Tập Cận Bình.
Vì vậy, sợ giặc cướp nước một thì Trọng lại sợ dân mười. Tại sao? Vì giặc xâm lược, tên cướp biển đang được trang bị những vũ khí hiện đại để uy hiếp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải trên Biển Đông với cái “đường lưỡi bò” ngang ngược kia đâu phải từ bây giờ, mà đã từ rất lâu của thời “Mạnh mượt răng chắc” rồi đến “Trọng lú” trong những chuyến triều kiến “thiên triều” vẫn chỉ một mực tung hô “lý tưởng tương thông, vận mệnh tương quan” và xem 16 chữ vàng như là bùa hộ mạng để chúng giữ được cái ghế quyền lực. Với chúng, dù nước có bị uy hiếp nhưng “còn đảng là còn mình”, cái ngai vàng của “Tổng” rồi “Tổng Chủ” vẫn còn kéo dài cho dù sự sụp đổ chỉ là sớm muộn! Vì thế mà khi giặc cướp đang hoành hành, trong những lần xuất hiện đúng vào lúc lòng dân đang sôi sục, Trọng vẫn im thin thít không dám hé răng. Định học chiêu nếm phân của Câu Tiễn để lo “đại cục” chăng? Nhưng cái “cục lớn” đã thối hoăng ra rồi đâu cần phải nếm!
Hãy chỉ nói đến một lời cảnh báo của thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược của Bộ Công An từ năm 2016 về: “Biết nhưng dường như không dám nói ra. Nói ra, nhiều khi cứ sợ mấy thứ luẩn quẩn đại loại như: Vướng vào chuyện kích động “chủ nghĩa dân tộc” bài Trung Quốc; ám ảnh bởi 16 chữ vàng như cái ‘vòng kim cô’… Điều 70 của Hiến pháp nói rằng công dân có quyền được thông tin. Nhà nước có trách nhiệm thông báo kịp thời: Tại giờ ấy, ngày ấy, tháng ấy, tại tọa độ ấy, Trung Quốc đã hành động thế này thế kia. Người dân phải được biết, hệ thống truyền thông phải thông báo kịp thời để người dân được biết. Điều này hoàn toàn khác, không phải là kích động chủ nghĩa dân tộc chống Trung Quốc.
Người dân cần phải được biết an nguy của dân tộc ở đâu. Nếu không làm chuyện này thì trách nhiệm thuộc về các cấp có thẩm quyền. Không ai làm thay được chúng ta bây giờ mình mà không chống sự bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông thì ai ủng hộ. Bây giờ tôi chỉ nói đơn giản chuyện thế này thôi. “Gã hàng xóm” đẩy cửa vào đập phá nhà “anh”, người dân xung quanh đến giúp, “anh” lại bảo: “Không có chuyện gì đâu. Bạn bè chưa hiểu nhau ấy mà”. Thế thì ai còn có thể giúp “anh” được nữa. . Nó đến nó đập nhà phá phách thế mà “anh” lại bảo không có chuyện gì cả thì thôi chứ còn gì nữa...  “Anh” phải lên tiếng phản đối thì bạn bè, bà con hàng xóm người ta mới đến giúp “anh” chứ. Nó đến nó đập nhà phá phách thế mà “anh” lại bảo không có chuyện gì cả thì thôi chứ còn gì nữa.
Vị tướng nghiên cứu về chiến lược ấy đã chỉ rất rõ ràng là: “Nếu chúng ta không có những hành động mạnh, quyết liệt thì chỉ trong vòng 15 tháng nữa (đến nửa đầu năm 2017) Trung Quốc sẽ khống chế toàn bộ biển Đông. 15 tháng còn lại kể từ tháng 4 năm 2016 này, Trung Quốc sẽ hoàn thiện tất cả các căn cứ quân sự ở biển Đông, đưa máy bay ném bom chiến lược H-6, H-6K xuống sân bay đá Chữ Thập, đưa máy bay tiêm kích J-10, J-11 xuống sân bay Gạc Ma, lắp thêm hàng chục ra đa tần số cao phục vụ quân sự ở các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa; đưa thêm các tên lửa hành trình YJ-62 chống hạm, đưa một loại tên lửa đạn đạo tầm bắn 1.400km đến Phú Lâm và các đảo khác nữa. Coi như họ hoàn thiện hệ thống quân sự trên biển Đông và khống chế hoàn toàn biển Đông... Nếu ta cứ ngồi yên như hiện nay thì họ sẽ làm như vậy!
Cũng chính vì vậy mà vị tướng công an ấy rất sòng phẳng khi nói lên điều mà những người Việt Nam có lương tri đều phải làm: “Quan điểm của tôi là cho phép người dân biểu tình trong trật tự luật pháp. Ở nông thôn, ở thành phố người dân được biểu tình. Hàng ngàn người xuống đường không ảnh hưởng đến các hoạt động của xã hội, chỉ hô vang các khẩu hiệu: ‘Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam!’, ‘Phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm chiếm trái phép lãnh thổ Việt nam!’. Hô khẩu hiệu rền vang từ núi rừng, nông thôn đến thành phố phản đối Trung Quốc quân sự hóa biển Đông, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam”.
Nên lưu ý rằng, đây là những điều tướng Lê Văn Cương trả lời phỏng vấn của VietTimes ngày 15.6.2016. Vậy thì ai đã cố tình bưng bít thông tin không cho dân biết về thế nước lâm nguy, ai đã ra lệnh đàn áp những người biểu tình ôn hoà giương cao khẩu hiệu “chống Trung Quốc xâm lược”, hô to ý chí bảo vệ chủ quyền đất nước “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”, ai ra lệnh đánh đập dã man những người trẻ tuổi mặc áo có hình “cắt lưỡi bò” với hai chữ “NO U”. Ai đã ra lệnh bao vây, chặn cửa không cho ra khỏi nhà những nhân sĩ trí thức đến đứng đối diện với toà Đại sứ hay toà Tổng Lãnh sự Trung Quốc ở Hà Nội và ở tp HCM chỉ để biểu tỏ ý chí quật cường của ông cha không bao giờ chịu cúi đầu trước kẻ thù như lũ Mạnh Trọng, mà quyết thét to lên khẩu hiệu chống Trung Quốc xâm lược.
Vậy thì ai? Ai đã sử dụng những lực lượng công an “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” biến thành những công cụ vô tri vô giác vung gậy vào những người dân chỉ có trái tim cháy bỏng lòng yêu nước, căm thù lũ cướp nước và lũ bán nước, trong tay không có một tấc sắt? Ai? Chắc vị thiếu tướng “nghiên cứu chiến lược” của Bộ Công An quá biết, mong ông hãy thẳng thắn nói ra. Cũng có thể vì thế mà ngôi sao trên cầu vai rụng xuống, chăng? Nhưng vì sự liêm sỉ và tiết tháo của một trí thức (ông phó giáo sư tiến sĩ) ông cần phải trải lòng minh bạch với nhân dân, vạch mặt lũ hại nước bị “ám ảnh bởi 16 chữ vàng như cái “vòng kim cô” như ông nói. Chính chúng bưng bít thông tin về những âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm, những hành động ngang ngược và trắng trợn trên Biển Đông, gần đây nhất là trên Bãi Tư Chính và tàu chiến của chúng chỉ còn cách bờ biển Phan Thiết 185 km. Bưng bít vì chúng sợ không kiểm soát được sự phẫn nộ của lòng dân căm thù lũ cướp nước cũng sẽ trút giận lên lũ hại nước!
Như vậy là giữa trùng khơi, các lực lượng hải quân ta trên các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư đang phải ngoan cường đương đầu với bọn Trung Quốc xâm lược trên các chiến hạm hiện đại (mà chúng gọi là tàu hải cảnh). Ai cũng biết rằng, tuy lặp lại cuộc khủng hoảng Biển Đông với “giàn khoan 981” năm 2014, cuộc khủng hoảng lần 2 này trầm trọng hơn gấp bội về tính chất và quy mô cũng như sự ngang ngược và trắng trợn. Bắc Kinh đẩy tới cuộc khủng hoảng này vào lúc Trọng với nhiều sức ép, không thể kiên định trò đu giây theo chiều “nhất biên đảo” về phía quan thầy “cùng ý thức hệ XHCN” như đã từng được nữa, mà phải bị hút vào quy luật “hệ quả không định trước” (unintended consequence).
Trọng miễn cưỡng phải chấp nhận những bước đi “chẳng đặng đừng” trong nỗi vấn vương với “người đồng chí cùng chung ý thức hệ XHCN” nên lâm vào tình thế “mối sầu sẻ nửa, bước đường chia hai”. Vì sao? Vì ám ảnh bởi làn sóng “dân chủ hoá” không sao ngăn nổi khi phải tuân theo quy luật “hệ quả không định trước”. Ác thay, đây lại chính là nỗi sợ thâm căn cố đế của một kẻ lấy ý thức hệ làm điểm tựa cho cả sự nghiệp chính trị, từng bước leo trên những nấc thang quyền lực để có được cái ghế cao chót vót hôm nay.
Cái khát vọng quyền lực ấy chính nguyên nhân của mọi tai ương chướng hoạ đưa tới sự khủng hoảng về tính chính danh mà Trọng và bộ sậu của y cố vớt vát khi đã mất sạch lòng tin của người dân yêu nước, của những cựu chiến binh có hiểu biết, nhất là của trí thức và thanh niên. Phải vớt vát vì những gì đã và đang diễn ra đã phơi bày quá rõ chế độ toàn trị phản dân chủ của Trọng cũng như những tiền nhiệm của y đã rơi vào bẫy của “ý thức hệ XHCN” mà Bắc Kinh đã giăng ra buộc phải cúi đầu lệ thuộc và tuân phục Bắc Kinh như thế nào.
Trong bối cảnh đó, rầm rộ đẩy tới phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để càng học tập thì đạo đức lại càng suy thoái, mà trước hết là những đảng viên có chức có quyền, để rồi Trọng đã dại dột mà ứng khẩu hô hoán lên tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn” phải chăng là muốn lấy đó làm cái phao cứu sinh, toan “mượn y phục của người xưa để hiện lên sân khấu mới của lịch sử” một cách vô vọng? Cái phao cứu sinh ấy lại được bơm thêm hơi nhân dịp 50 năm ngày công bố Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ấy thế mà chưa chừng, thay vì là “phao cứu sinh” lại là tự nhấn chìm bởi sự phản bội lại tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh của Trọng và những thế lực câu kết với Trọng tự phơi ra. Mà sự tự phơi bày rõ rệt nhất là Trọng đang tìm mọi cách duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ, phản dân hại nước với quyết tâm bảo vệ ý thức hệ XHCN của Đảng do Trọng thao túng và tìm chỗ dựa vào “người đồng chí cùng chung ý thức hệ XHCN của Trọng”. Để làm gì? Để đảm bảo mục tiêu “còn Đảng còn mình” nhằm giữ chặt cái ghế quyền lực đang rệu rã và lung lay trước cơn bão phẫn nộ của lòng dân?
Nhằm nói rõ hơn sự phản bội đó, nên chăng là gợi lại những điểm quan trọng nhất của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh được gửi gấm trong Di Chúc của người.
Điều đầu tiên cần thấy rõ “Di Chúc” là một sự dồn nén, chưng cất ý tưởng, tình cảm đạt tới độ minh triết của một tầm vóc tư duy không bị ràng buộc và câu nệ bởi bất cứ cái gì: thời gian thúc bách hay không gian hạn hẹp. Vì thế, chúng ta có quyền tin chắc vào độ “chín”, đạt đến sự tường minh của tư tưởng được thể hiện trong Di chúc.
Hồ Chí Minh viết “Di chúc” trong một tâm thế bình tĩnh, ung dung để có thể đắn đo cân nhắc từng chữ từng câu, từng ý. Hoàn toàn không thể có chuyện vội vã nên quên ý này, ý khác, nhầm lẫn hoặc bỏ sót từ này, chữ kia… Mà ngược lại, mỗi ý, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi dấu phẩy, dấu chấm đều được cân nhắc rất kỹ, sửa đi, sửa lại nhiều lần. Vậy mà, Hồ Chí Minh không nhắc đến mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trong Di Chúc!
Mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp Hồ Chí Minh được thể hiện rất rõ ràng, rất dễ hiểu trong “Điều mong muốn cuối cùng”, cũng là câu kết thúc Di Chúc: “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Cần lưu ý rằng, dành bốn năm để viết có một nghìn chữ, kể cả những lần bổ sung! Sau bốn năm xem lại lần cuối cũng chỉ sửa có ba từ.
Bằng sự từng trải và chiêm nghiệm của một người mà cả cuộc đời dành trọn vẹn cho việc tìm đường cứu nước, toàn bộ trí tuệ và tâm huyết cũng như bản lĩnh và kinh nghiệm của một nhà cách mạng chuyên nghiệp, một nhà văn hoá uyên bác từng dồn hết cho công cuộc chèo lái con thuyền cách mạng qua biết bao phong ba bão táp, thác ghềnh đến được cận kề với mục tiêu, vào lúc tĩnh tâm nhất để có thể đạt tới sự minh triết, Hồ Chí Minh đã hiểu rõ dân tộc mình, nhân dân mình cần cái gì. Phải bằng cách hiểu đó, chúng ta mới tiếp cận được với điều mà Hồ Chí Minh muốn gửi gắm lúc sắp ra đi.

Bức họa ông Hồ ngồi câu cá. Photo Courtesy

Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hànhRiêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi. 1 Đây là câu trả lời các nhà báo nước ngoài tại Hà Nội ngày 21.1.1946 với tư cách là Chủ tịch nước .
Hoàn toàn không phải là một ứng xử chính trị trong hoạt động ngoại giao của một chính khách, đây là điều tâm huyết, dường như thường trực trong tình cảm và tư tưởng của Hồ Chí Minh, trong cốt cách của Hồ Chí Minh, một người am hiểu văn hoá Phương Tây song lại rất thấm nhuần triết lý Phương Đông, xuất thân trong một gia đình nho học, bằng lao động kiếm sống để bôn ba nhiều nước của nhiều châu lục để tìm đường cứu nuớc. Vì thế, lại đọc thấy ý đó trong câu trả lời một nhà báo nước ngoài một năm sau, ngày16.7.1947: “Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt được mục đích đó tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn2.
Điều ham muốn đó, ham muốn đến tột bậc đó, hai mươi năm sau sẽ được Hồ Chí Minh đúc kết thành chân lý, thành mệnh lệnh chiến đấu của cả dân tộc “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Rồi cũng chính điều ham muốn đến tột bậc ấy theo người đến hơi thở cuối cùng, thể hiện trọn vẹn trong câu kết của “Di chúc”.
Có thể khẳng định mục tiêu của cả cuộc đời Hồ Chí Minh từ lúc bôn ba tìm đường cứu nước cho đến những ngày cuối cùng đọng lại trong Di Chúc là trước sau như một. Điều ấy thể hiện trong những cột mốc quan trọng nhất là Tuyên Ngôn Độc lập 2.9.1945 khai sinh ra nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, Hiến Pháp1946, đổi tên Đảng thành Đảng Lao Động Việt Nam năm 1951.
Với Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của của Cách mạng Pháp 1791. Cần nhớ rằng, Hồ Chí Minh đến nước Nga từ những năm 20 của thế kỷ XX và sống ở nước Nga của Cách mạng Tháng 10 khá lâu. Đâu phải chỉ vì lý do tranh thủ Đồng Minh, mà là thể hiện tầm nhìn thời đại và sự nhất quán về mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và tự do để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Chỉ một tháng sau ngày đọc tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.3
Điều ấy được tô đậm thêm với bản Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban Soạn thảo. Nghiêm cẩn nhìn lại, đối chiếu với những bản Hiến pháp sau này khuôn theo hình mẫu Xô Viết, đặc biệt là Hiến Pháp 2013 với sự thao túng của cái não trạng Nguyễn Phú Trọng đặt Cương lĩnh của đảng lên trên Hiến pháp và quyết liệt gạt bỏ nguyên tắc “tam quyền phân lập”, mới thấy tầm vóc thời đại của tư duy Hồ Chí Minh và những người tham gia soạn thảo buổi ấy.
Tiếp đó, với sự kiện đổi tên Đảng là Đảng Lao Động Việt Nam theo quyết định của Đại hội II 1951 với nhận định của Hồ Chí Minh: Đảng Lao động Việt Nam “phải là Đảng của dân tộc Việt Nam” càng hiểu rõ dự cảm thiên tài của Hồ Chí Minh vượt xa những vấn đề chiến lược và sách lược có tính thời đoạn. Giờ đây, trước diễn biến của thời cuộc, với bối cảnh mới của thế giới khi Việt Nam từng bước hội nhập và phát triển trong thời đại kinh tế tri thức của nền văn minh trí tuệ càng thấy rõ hơn điểm sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi rọi đường đi, nước bước của dân tộc trong một thế giới đầy biến động với những bước đột phá mà mọi dự đoán đều không chắc chắn.
Chính điểm sáng ấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã làm nổi bật nét u tối trong tầm nhìn thiển cận và lạc điệu của Nguyễn Phú Trọng chỉ tự giam mình trong cái vòng kim cô ý thức hệ XHCN để tìm sự hà hơi tiếp sức của kẻ thù mà Trọng xem là người đồng chí cùng chung ý thức hệ XHCN. Đây chính là sự phản bội lớn nhất đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, sự bôi nhọ tệ hại nhất với Di Chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đã đến lúc phải “nghiêm chỉnh” đọc thật kỹ, suy ngẫm thật thấu đáo về “Di Chúc” nhân dịp 50 năm ngày công bố để vạch trần sự phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn Phú Trọng và cái bậu sậu phản dân hại nước trong khi kẻ thù cướp nước đang toan tính những thủ đoạn thâm hiểm và trắng trợn. Chiến hạm Quang Trung đang rẽ sóng can trường giữa Biển Đông để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng trên Bãi Tư Chính. Lớp lớp sóng triều của ý chí quật khởi và tinh thần yêu nước đang trào dâng sẽ “nhấn chìm bọn bán nước và lũ cướp nước” như Hồ Chí Minh từng cảnh báo.
Đọc kỹ Di Chúc Hồ Chí Minh để có hành động thiết thực, trước hết là sát cánh cùng với những người con yêu của Tổ Quốc đang dũng cảm đương đầu với kẻ thù trên sóng biển, trên các giàn khoan và cũng từ đó mà nhìn rõ hơn sự bịp bợm của những lời rao giảng của những kẻ phản dân, hại nước đang bôi nhọ Di Chúc Hồ Chí Minh!
Ngày 27.8.2019
..................
1. Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 4. NXBCTQG. Hà nội, 1995. tr.161
2. Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 5. NXBCTQG. Hà nội, 1995. tr.171

3. Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 4. NXBCTQG. HN. tr.56

27 tháng 8, 2019

Tài liệu ‘mật’ được tuồn ra để đấu nhau chứ chẳng ‘thế lực thù địch’ nào thu thập được!

Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân phát biểu tại hội nghị tuyên truyền Luật Phòng, chống tham nhũng, tập huấn công tác bảo vệ bí mật nhà nước năm 2019 hôm 19 tháng 8 rằng “bí mật nhà nước là một trong những nội dung mà các thế lực thù địch thường xuyên thu thập nhằm chống phá, đả kích Đảng và Nhà nước.” Không để lọt thông tin gây bất lợi cho Chính quyền! Ông Lê Vĩnh Tân cũng nhấn mạnh việc bảo vệ bí mật nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác bảo vệ an ninh, chính trị quốc gia. Có một số vụ làm lộ bí mật nhà nước đã ảnh hưởng lớn đến chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao của đất nước. Blogger Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió), người đã từng đăng tải nhiều thông tin, tài liệu mật có liên quan đến các quan chức cấp cao trong đảng Cộng sản lên mạng xã hội, bình luận với RFA từ Berlin: “Từ xưa giờ có rất nhiều tài liệu mật của đảng Cộng sản bị tung ra ngoài. Cho nên ông Tân phải nói như vậy để ngăn chặn tình trạng đó tái diễn.” Luật sư Lê Công Định thì cho rằng việc quy định các thông tin mật là vì Chính quyền không muốn để lộ ra các thông tin gây bất lợi cho họ: “Phát biểu đó rất là buồn cười bởi vì thường thì những người mà họ gọi là các “thế lực thù địch” hay là giới tranh đấu muốn có một sự minh bạch trong xã hội Việt Nam về tất cả các lĩnh vực đời sống, an sinh xã hội. Sự thật là điều mà nhà cầm quyền Việt Nam luôn muốn che giấu cho nên khi họ đưa ra truyền thông những thông tin hay vấn đề nào đó thì họ đều muốn định hướng theo lợi ích của chính quyền. Do đó, họ rất ngại công bố những thông tin thật. Còn những người tranh đấu làm truyền thông bên ngoài chính quyền tìm cách đưa những thông tin thật thì bị chụp mũ là bôi nhọ nhà nước, bôi nhọ những quan chức lãnh đạo. Họ luôn tìm cách bảo vệ, không cho cho lọt ra ngoài những thông tin bất lợi cho chính quyền.” “Thế lực thù địch” có tự thu thập được tài liệu mật? Báo chí nhà nước Việt Nam vẫn hay dùng từ “phản động, thế lực thù địch” để chỉ những blogger có tiếng nói phản biện, những nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền, mà blogger Bùi Thanh Hiếu và luật sư Lê Công Định là điển hình.
Ảnh chụp màn hình trang web Chân Dung Quyền Lực chuyên đưa tin về các lãnh đạo Đảng Cộng sản VNCourtesy of chandungquyenluc.blogspot.com

Cả hai cùng phản bác lại thông tin “thế lực thù địch” tự thu thập tài liệu mật để chống phá đảng, nhà nước của người đứng đầu bộ Nội vụ. Luật sư Lê Công Định nói rằng không “thế lực thù địch” nào có khả năng tự thu thập tài liệu mật của nhà nước: “Chúng tôi hoàn toàn không có khả năng thu thập được những thông tin gọi là bí mật của nhà nước, trừ khi chính những quan chức trong bộ máy đó cố tình tung ra cho giới khi truyền thông bên ngoài nhà nước. Họ sử dụng truyền thông bên ngoài nhà nước để để tấn công những đối thủ chính trị ở trong Đảng của họ chứ chả ai có khả năng tiếp cận và thu thập những thông tin như vậy hết.” Blogger Bùi Thanh Hiếu cho biết mình đã nhiều lần nhận được các thông tin, tài liệu mật về các cán bộ thuộc hàng cấp cao của đảng Cộng sản. Sau khi đọc và xem xét kỹ, những thông tin nào đáng tin thì sẽ đăng tải lên mạng xã hội chứ ông hoàn toàn không tự chủ động thu thập thông tin nào cả. “Ông ấy (Lê Vĩnh Tân - PV) nói các thế lực thù địch thu thập thông tin là hoàn toàn sai và ông ấy đang vu khống. Những tài liệu mật ấy không thể nào người ở bên ngoài có thể thu thập được mà là do những cán bộ của đảng Cộng sản tung ra. Tôi ở bên Đức chứ đâu có ở Việt Nam mà có thể đi thu thập được. Hơn nữa, nếu tự nhiên tôi đi thu thập thì ai tin tôi để có thể để gửi tài liệu mật cho tôi được. Họ dùng những nickname khác nhau, những hộp thư khác nhau, hoặc nặc danh bằng nhiều biện pháp khác nhau để gửi đến cho tôi. Nếu mà nói đi thu thập thì mình phải có quan hệ với người ta. Không phải tôi thu thập gì cả mà chỉ ngồi một chỗ, rồi những người bên trong của đảng Cộng sản đấu đá nhau nên gửi đến cho tôi những thông tin đấy. Có thể họ gửi thông tin cho một nước thứ ba, rồi bên thứ ba gửi đến cho tôi chứ không phải phải họ gửi trực tiếp cho tôi.” Blogger Bùi Thanh Hiếu cũng giải thích thêm sở dĩ ông nhiều lần nhận được các thông tin, tài liệu mật là do trang facebook của ông có nhiều lượt theo dõi, tương tác. Ông xuất thân từ tầng lớp không liên quan gì đến chính trị, trung lập và không thuộc về nhóm ‘chống cộng’ hay thân cộng gì cả. Và cuối cùng là vì đang ở nước ngoài nên người ta sẽ thấy an toàn hơn khi gởi tài liệu cho ông.
Hình minh họa. Ảnh chụp một trạng thái post trên trang Facebook của Người Buôn Gió với hình ảnh và thông tin về Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc Courtesy of FB Thanh Hieu Bui

Một người khác không muốn nêu tên hiện đang ở Việt Nam, đã từng làm việc cho mạng báo độc lập trả lời RFA về các thông tin, tài liệu mật mà trang báo này từng đăng tải rằng: “Hộp mail của trang báo chúng tôi từng nhiều lần nhận được các thông tin, đơn từ, tài liệu hay hình ảnh được đóng dấu mật về các lãnh đạo cấp cao của đảng, nhà nước Việt Nam. Ví dụ, hồi trước khi Đại hội đảng Cộng sản 12 vào năm 2016 diễn ra, chúng tôi nhận được nhiều mail được ký tên là “Chân dung quyền lực” gởi những thông tin, hình ảnh về tài sản, sự xa hoa giàu có của Nguyễn Xuân Phúc (khi đó là phó thủ tướng - PV) cùng gia đình hay hàng loạt biệt thự, bất động sản của Đại tướng Phùng Quang Thanh (khi đó là bộ trưởng Quốc phòng - PV).” Những thông tin trên cùng với nhiều tài liệu khác nữa đều là do những người “nặc danh” gởi đến cho chúng tôi chứ chúng tôi cũng không có khả năng thu thập.” Tài liệu mật tung lên mạng xã hội là do “đấu đá nội bộ” Blogger Bùi Thanh Hiếu khẳng định những thông tin, tài liệu mật mà mình từng nhận được đều do các cán bộ bên trong đảng Cộng sản Việt Nam “tuồn” ra ngoài với hai mục đích: “Nguyên nhân mà các cán bộ của Đảng cộng sản tung ra những tài liệu ấy ra ngoài là để đấu đá nhau do tranh chức tranh quyền, hạ bệ lẫn nhau. Ví dụ như những lá đơn trước đại hội 16 được tung ra để tố cáo Nguyễn Tấn Dũng và nhiều thông tin khác đều là do nội bộ bên trong tung ra chứ đâu phải do thế lực thù địch nào thu thập lại. Hoàn toàn đây là do những chuyện đánh nhau.” Vào năm tới, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ có đại hội Đảng lần thứ 13. Đây là dịp đảng bầu những nhân sự quan trọng vào các vai trò lãnh đạo của đảng, nhà nước và chính phủ. RFA

ĐẤT NƯỚC

Trịnh Minh Châu
                                  Thứ hai ngày 26 tháng 8 năm 2019 6:41 PM

(Trích…)

Đất nước mình như thế phải không em
Chiến tranh mãi chưa bình yên làm lụng
Bao thế hệ muốn rời xa khẩu súng
Nhưng kẻ thù không để chúng ta yên

Yêu bầu trời ta rất muốn bay lên
Mắt nhìn rõ đời ta trên mặt đất
Đây núi non xanh kia là biển bạc
Cánh đồng vàng lúa chín gió lao xao…

Cuộc đời thường kiếp nối kiếp cần lao
Nơi đó, nơi đây chưa từng hết khổ
Không phải nhân gian là vườn hoa nở
Cho những chàng thi sĩ hát ngu ngơ

Đời nhọc nhằn nên ta lắm ước mơ
Giản dị nhất là no cơm ấm áo
Ngày giận nắng nung đêm hờn giông bão
Người đánh trần vật lộn với thiên nhiên

Đất nước mình như thế phải không em
Ngàn năm trước cha ông mình ra đảo
Thuyền nhỏ gió to sóng gầm hung bạo
Vẫn truyền đời trụ lại với mênh mông.

Đất nước mình em biết hay không
Khi lũ giặc đặt gót giày cai trị
Người xuống biển sâu lặn tìm ngọc quí
Người lên rừng tìm xương hổ ngà voi

Gian khổ điêu linh căm giận ngút trời
Không chịu nổi, nhân dân mình đứng dậy
Mới có Bà Trưng dựng cờ lừng lẫy
Bà Triệu hiền cũng vung kiếm cưỡi voi

Đất nước tang thương nội họa tơi bời
Đinh Bộ Lĩnh mới trở thành Hoàng Đế
Dương Vân Nga xé toang màn đế trị
Trao áo bào để giữ lấy non sông.

Đã học rồi em có nhớ không
Đất có chủ Sơn Hà Nam quốc trị
Khi có giặc hịch tỉnh lòng tráng sĩ
Sát thát một lòng trên dưới ra quân

Đất nước của mình đất nước nhân dân
Lê Thái Tổ phải nằm gai nếm mật
Bởi chẳng cam tâm đứng nhìn nước mất
Để muôn đời vang “ Bài cáo bình Ngô”

Đất nước anh hùng ta mãi tung hô
Càng xót ruột với những loài bán nước
Trần Ích Tắc bỏ hoàng thân theo giặc
Tiếc ngai vàng Chiêu Thống vứt giang sơn…

Lịch sử mỗi ngày thêm tỏ nguồn cơn
Giữ lại mãi cho chúng mình em nhỉ
Ai đó u mê, ai người tỉnh trí
Đừng dối lòng có tội với non sông

Đất nước mình em biết hay không
Ta đang sống những ngày trăn trở nhất
Đất nước thương yêu chưa ngừng trận mạc
Muốn làm giàu , ai để chúng ta yên?

Giặc ở bên ngoài chưa dám gọi tên
Giặc trong nước chưa nhìn rõ mặt
Thì em hỡi ta có hồn dân tộc
Của ngàn năm lịch sử dạy ta đi

Đất nước mình những khúc gian nguy
Thường sinh hạ những anh hùng bất tử
Khi lũ giặc mới tạm xa ngoài ngõ
Lại sản sinh chen chúc những “cậu trời”

Đất nước yêu thương không thể hết lời
Anh muốn nói và em còn muốn nói
Nhưng đâu đó trong chập chờn bóng tối
Sợi “xích thằng” ma mị trói hồn ta

Lớn lên rồi em cất bước đi xa
Trên đất nước rộng dài không bóng giặc
Với Tổ Quốc vẹn toàn là Tổ Quốc
Cho muôn đời con cháu sống bình yên.
Theo trannhuong.com

22 tháng 8, 2019



Con chim lạ Hà Huy Đỉnh (Phần cuối)

21-8-2019
Tiếp theo phần 1 và phần 2
Cuộc trò chuyện của chúng tôi chưa hết nhưng phải ngưng vì đã hết đêm. Tôi đi Huế bằng chuyến máy bay sớm. Đỉnh chở tôi đến trạm bán vé của Air Việt Nam trên đường Nguyễn Đình Chiểu. Ở đó có xe bus của hàng không đưa tôi và những hành khách khác ra phi trường. Đỉnh nói: “Khi nào vào lại Sài Gòn ông nhớ ghé, câu chuyện của chúng ta còn dài. Đêm rồi tôi nói với ông có một nửa, cái nửa Tây xâm nhập vào tôi qua con đường trường học và sách báo. Còn một nửa Ta: tôi chưa nói gì về truyền thống văn hóa dân tộc, nhất là về Phật pháp đã trở thành gốc rễ trong tâm thức tôi để từ đó tôi nhìn lại vấn đề. Ông không nên vội vã đánh đồng Phật giáo và Cộng sản như giáo hội Công giáo đã làm trước đây. Ông cũng đừng tưởng đảng Cộng sản đã điều động được nhân dân vào các cuộc chiến tranh là có thể điều động nhân dân vào cuộc cách mạng vô sản là cái đích duy nhất và cuối cùng của họ”. 

Đêm rồi thức trắng, tôi tưởng lên máy bay sẽ ngủ bù, nhưng một tiếng rưỡi trên chặng đường Sài Gòn – Huế tôi không hề chợp mắt. Những điều Hà Huy Đỉnh nói cứ đeo dính đầu óc tôi. Có những điều tôi nghe chưa lọt tai. Cũng có nhiều điều tôi chia sẻ và thích thú. Suốt mấy năm liền sau cái đêm trò chuyện dang dỡ ấy, mãi đến sau này tôi không ngừng trao đổi với bạn bè, hoặc độc thoại, nhưng chưa bao giờ có lời giải đáp dứt điểm cho vấn đề: Sự chia rẽ dân tộc dẫn đến nội chiến bắt đầu từ đâu trong giai đoạn lịch sử cận hiện đại?
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh và những người Cộng sản thì bảo: Từ phương Tây với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản và nền văn minh Ky tô giáo. Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh… thì bảo từ chủ nghĩa thực dân đế quốc và đồng thời từ sự ngu dốt, đói nghèo và hư hèn trong dân chúng. Ngô Đình Diệm và những người Quốc gia thì bảo từ chủ nghĩa và phe Cộng sản duy vật vô thần, từ Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam. Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh và Phật giáo miền Trung thì bảo từ tham sân si trong nhân loại và dân tộc.
Tôi trở lại Sài Gòn vào đầu năm 1973, sau khi hiệp định Paris được ký kết. Trong bài “Không Lên Núi” tôi đã nói chưa đầy đủ về chuyến đi này. Vẫn nhớ Hà Huy Đỉnh nhưng tôi không tìm gặp vì đinh ninh rằng Hà Huy Đỉnh không theo Mặt Trận. Tôi thì đã chính thức tham gia Phong trào đô thị của Mặt Trận từ đầu năm 1972 với lập luận đơn giản rằng, chiến tranh phải kết thúc, phải có bên thắng bên thua, hòa bình phải được lặp lại. Tôi là người Việt Nam, cũng như nhiều người Việt Nam khác, tôi không thể đứng về phía Mỹ xâm lược. Vào thời điểm đó, tôi tin rằng mình chọn đúng. Nhưng lúc ngồi viết những dòng ký ức này, gần nửa thế kỷ sau sự chọn lựa ấy, tôi vẫn chưa dứt khoát phán đoán đúng sai về sự chọn lựa của bản thân mình. Như thế sự chia rẽ dân tộc vẫn còn là vấn đề đối với chính bản thân tôi…
***
Tôi gặp lại Hà Huy Đỉnh vào cuối năm 1973, gặp tình cờ khi tôi tới tìm Nguyễn Hữu Châu Phan và Phạm Liễu ở Trung tâm Học Liệu trên đường Trần Bình Trọng. Đỉnh đứng ở phía bên kia con hẻm đối diện với Trung tân Học Liệu, chúng tôi vui mừng cùng nhận ra nhau. Đỉnh kéo tôi vào nhà, tíu tít hỏi han đủ điều, trách tôi về Sài Gòn mà không ghé. Tôi nói rất nhớ anh, nhưng bận trăm công nghìn việc. Đỉnh hỏi có phải là việc của Mặt Trận không. Tôi hỏi lại, làm sao ông biết. Đỉnh nói chính ông đã nói tại căn gác này trong đêm thức trắng hồi giữa năm 1968 rằng “về Huế chuyến này sẽ theo Mặt Trận”.
Tôi đã nói với Đỉnh như thế thật, nhưng về Huế tôi không theo Mặt Trận liền mà chần chừ, trăn trở suốt hơn ba năm. Lý do: theo Mặt Trận là theo Cộng sản, mà Cộng sản thì tôi tin ít, ngờ nhiều. (Gia đình tôi ủng hộ kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 anh tôi tập kết ra miền Bắc. Các năm 1954 – 1956, trong chiến dịch Tố cộng – Diệt cộng của chế độ Ngô Đình Diệm, nhà tôi là nơi lui tới bí mật của những cán bộ được bố trí ở lại miền Nam để đấu tranh thống nhất đất nước theo tinh thần hiệp định Genève. Lúc bấy giờ tôi 11, 12 tuổi nhưng cũng hiểu được câu chuyện tình cờ nghe được: “Ông Cửu H, người đã làm lý trưởng trước cách mạng tháng Tám, có hai người con trai đang tuổi thanh niên (16, 17,18). Để kết nạp hai người thanh niên này vào đảng, chi bộ đã thử thách lòng trung thành và tinh thần giác ngộ cách mạng của họ: báo cáo thói quen, giờ giấc đi về của cha mình. Ông Cửu H bị du kích giết sau đó. Hai người con của ông tham gia Việt Minh, tập kết ra Bắc”. Năm 1957 tôi từ Mỹ Lợi lên Huế học trung học. Một trong những cuốn sách tôi đọc chăm chú vào cuối năm 1960 là cuốn “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, tác giả Hoàng Văn Chí, xuất bản 1959 tại Sài Gòn”. Cuốn sách mô tả cuộc đấu tranh đòi tự do, dân chủ của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm trong chế độ Cộng sản trên miền Bắc”. Tôi thuộc thơ Phùng Quán, Trần Dần, cả bài thơ bán linh hồn của Tố Hữu (Đời đời nhớ Ông). Tôi thích thú đọc truyện ngắn của Phùng Cung (Con ngựa già của chúa Trịnh) và thơ, truyện, tùy bút của nhiều tác giả khác. Tôi chật vật đọc và hiểu phần nào các bài phê bình, đóng góp ý kiến với đảng Cộng sản về lãnh đạo văn hóa văn nghệ và Cải cách ruộng đất. Tôi ngưỡng mộ các tên tuổi như Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Thụy An…. Tôi bất bằng và thất vọng trước tình trạng suy đồi của chế độ mà gia đình tôi đã một thời hướng về. Tôi đối chiếu những tội ác trong cải cách ruộng đất với câu chuyện “thử thách” của chi bộ Cộng sản tại quê nhà. Tôi bắt đầu ngờ vực chủ nghĩa Cộng sản từ đó).
Tôi nói tiếp với Đỉnh là lúc này tôi không còn tâm trí để tiếp tục câu chuyện chúng tôi bỏ dỡ từ mùa hè 1968. Tôi đã theo Mặt trận và hành động theo đường lối hòa bình của Mặt Trận. Đỉnh hỏi: Mặt Trận mà có hòa bình sao? Hỏi như thế là Đỉnh vẫn muốn tiếp tục câu chuyện dài… Tôi vội vàng đứng dậy. Tiễn tôi ra cửa, Đỉnh nói: Tôi vẫn thích rong chơi, nhưng thỉnh thoảng chuyện trò với một người bận rộn như ông cũng là một cách. Chắc là không còn cách chơi nào khác. Chiến tranh sắp chấm dứt. Cộng sản sắp tràn ngập miền Nam. Bạn bè tôi có đứa đã ra đi vì sợ… Sài Gòn “đến bây giờ còn là đất của tôi”, khi nào cần hỏi han chuyện gì ông cứ trở lại.
***
Một tuần sau tôi trở lại. Tôi muốn Đỉnh giải thích sự im lặng của giáo hội Phật giáo. Tôi cũng muốn biết giới báo chí nước ngoài nhận định thế nào về tình hình Việt Nam sau hiệp định Paris. Tôi nói với Đỉnh tôi ngồi khoảng một tiếng, chắc là tôi phải trở lại nhiều lần để nghe ông nói hết.
Vấn đề thứ nhất – Phật giáo, Đỉnh nói: “Phật giáo xét từ bản chất giáo pháp, không nên thành lập giáo hội. Khi đã thành lập giáo hội rồi thì đổ vỡ là chuyện đương nhiên. Đó là chưa nói đến những hệ lụy về sau. Phật giáo còn là Phật giáo Việt Nam, mà Việt Nam thì có Trung – Nam – Bắc, có Cộng sản – Quốc gia, có duy vật – duy tâm và cả duy linh, có vô thần – hữu thần, có lương – giáo, có xâm lược – đồng minh. Nghĩa là có chia rẽ, thực tế chia rẽ trầm trọng đến chém giết lẫn nhau (nội chiến). Cuộc nội chiến này nằm trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nhân loại trên bình diện toàn cầu.
Bên này của cuộc nội chiến là phe Quốc gia nương mình trong cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đại diện cho nền văn minh Ky tô giáo phương Tây với huyền thoại tự do dân chủ. Bên kia của cuộc nội chiến là phe Cộng sản xếp hàng trong cuộc phản công và cách mạng của liên minh quốc tế vô sản đứng đầu là Liên Xô và Trung Quốc với chiêu bài giải phóng dân tộc, Xã hội chủ nghĩa, dân chủ nhân dân và nghĩa vụ quốc tế. Cả hai bên tuy có mục tiêu trái chiều nhưng đều dùng những thủ đoạn cực kỳ bạo động để loại trừ lẫn nhau. Kết quả là dân tộc và đất nước phải gánh chịu chết chóc đau thương và sự tàn phá ghê gớm chưa từng thấy trong lịch sử.
“Người Phật tử cùng với dân tộc ở giữa hai lằn đạn, hai sức mạnh chiến tranh hủy diệt, muốn thoát khỏi cuộc xung đột chết người, muốn tìm một hướng đi riêng để tự cứu mình và đề xuất với dân tộc và nhân loại một cách sống mới: tương nhượng, hòa bình và hòa giải. Người Phật tử tôi nói trên là Phật tử miền Trung – Huế dưới sự lãnh đạo của nhà sư Thích Trí Quang. Còn Phật tử miền Bắc di cư (1954) của Thích Tâm Châu, và khá đông Phật tử Đại thừa trong vòng ảnh hưởng của Mai Thọ Truyền ở các tỉnh trong thời Pháp là Nam kỳ quốc thì ủng hộ Mỹ và Nguyễn Văn Thiệu. Những Phật tử Tiểu thừa không chú ý nhiều đến chính trị, không chủ trương đường lối Dân tộc và Đạo pháp như Phật Tử miền Trung, mà âm thầm ủng hộ Mặt trận Giải phóng.
“Cuối năm 1963, chế độ gia đình trị nhà Ngô bị lât đổ. Đầu Năm 1964, Phật giáo miền Nam thành lập Giáo hội Thống nhất. Đến cuối năm 1964 Giáo hội Thống nhất tan rã. Tác động của hai bên chiến tranh là nguyên nhân gần làm nên sự tan rã này. (Nguyên nhân sâu xa là bản chất của Phật pháp). Hiện tại Phật giáo miền Nam chia rẽ thành ba nhóm có khuynh hướng chính trị khác nhau: chống Cộng, thân Cộng và trung lập. Sau hiệp định Paris, tình hình chiến tranh có chiều hướng kết thúc: Yếu tố xâm lược là Mỹ rút lui, còn lại hai bên của cuộc nội chiến tiếp tục cuộc tranh hùng. Không khó để nhận định dứt khoát rằng Việt Nam Cộng Hòa sẽ thua và Việt Nam Cộng Sản sẽ thắng. Cũng không khó để trả lời câu hỏi của ông Chu Sơn: Tại sao Phật giáo im lặng? Theo tôi: cả ba nhóm đều im lặng vì lý do sau đây:
– Nhóm chống Cộng run sợ trước cận cảnh Cộng sản thống trị miền Nam, các thủ lĩnh toan tính chạy ra nước ngoài, những người ở lại thì cam chịu sự hà khắc của chế độ mới.
– Nhóm thân Cộng đã chọn thái độ âm thầm trong chiến tranh, trước tình hình bạo lực Việt Nam Cộng Hòa còn hung hăng, họ cũng không thể làm khác.
– Nhóm thứ ba (Phật giáo miền Trung – Huế) nhận ra rằng vai trò nhiệm vụ của họ đã kết thúc. Một khi hai phe nội chiến phân định thắng thua, thì thành phần chính trị thứ ba không còn lý do để tồn tại. Họ đang băn khoăn không biết sẽ làm gì trong đất nước do người Cộng sản cai trị? Một số trong họ (như Thích Trí Quang chẳng hạn) cho rằng, nhiệm vụ lịch sử đã chấm dứt, hết việc đời, quay về việc đạo. Một số khác (như như Thích Thiện Minh chẳng hạn) tính chuyện sống chung với Cộng sàn, chuẩn bị lực lượng đấu tranh lâu dài vì mục tiêu nhân quyền, tự do và dân chủ.
“Theo tôi, bản chất của Phật pháp khá gần gũi với chế độ dân chủ Tây phương. Qua thử nghiệm lịch sử (các phong trào đấu tranh từ 1963 – 1966), Phật giáo có khả năng đấu tranh dân chủ và nhân quyền. Phải chăng con đường trung đạo và trung lập của Giáo hội Phật giáo miền Trung không là thực tế. Có thể họ dễ dàng kết hợp với phương Tây hơn là với Cộng sản, măc dầu đã có một thời họ nghĩ và úp mở tuyên bố rằng là “Giữa Phật giáo và Cộng sản còn có điểm chung là Dân tộc. Phật giáo và Mỹ chẳng có điểm chung nào cả”.
“Nguyên lý của Phật pháp theo những gì tôi tiếp nhận được là: nguồn gốc của mọi khổ đau hoạn nạn trên đời là tham sân si. Muốn chấm dứt khổ đau hoạn nạn phải trừ diệt tham sân si, thực hiện từ bi hỷ xã. Cuộc đấu tranh hòa bình để chuyển hóa từ khổ đau qua an lạc này bắt đầu từ chính mỗi cá nhân.
“Khi mà tất cả chúng sinh đều bình đẳng và việc thực hành giáo pháp thành công hay thất bại trách nhiệm đầu tiên và cuối cùng thuộc về từng cá nhân, còn sư phụ, tăng thân, đến cả đức Thích Ca là vị khai sáng đạo Phật cũng chỉ là lực lượng hộ trì, thì việc thành lập giáo hội thống nhất có quyền lực tuyệt đối (như giáo hội Thiên chúa giáo) là không thể. Nói cho cùng bản chất của Phật giáo là tự do. Theo tôi: con đường tu hành theo giáo pháp của đức Thích Ca và con đường giáo dục của J.J Rousseau, về phương pháp có những điểm tương đồng, còn mục tiêu tuy có những dị biệt nhưng không đến nỗi mâu thuẫn dẫn đến đối kháng. Bên này, đạo Phật, sẽ có CON NGƯỜI AN LẠC thực hiện từ bi hỷ xã đến cả chúng sinh. Bên kia, học thuyết J.J Rousseau và tinh hoa của nền văn minh Tây phương, sẽ có CON NGƯỜI TỰ DO thực hiện bác ái, bình đẳng với tất cả mọi công dân không phân biệt giai tầng và địa vị xã hội.
“Vấn đề tư hữu hay công hữu: Theo tôi, một phật tử, tư hữu và công hữu chỉ là phương tiện chứ không phải là mục tiêu tối hậu phải thành đạt bằng mọi giá. Mục tiêu tối hậu của đạo Phật là an lạc cho cá nhân và nhân loại chứ không phải là tư hữu hay công hữu.
“Người Phật tử tại gia vì còn phải sống giữa đời thường nên tư hữu hay công hữu còn phải lâm thời kết hợp với xã hội để tồn tại, nhưng kết hợp trong nền tảng giáo pháp mà mình tiếp nhận được. Người phật tử tại gia không lợi dụng quyền tư hữu để bóc lột lao động, cũng không nhân danh công hữu để đàn áp người khác. Đến người Phật tử xuất gia sống đời tu sĩ tôn trọng quyền tư hữu và lý tưởng công hữu của người khác nhưng bản thân không tích lũy để làm giàu, cũng không mưu đồ quyền lực danh vọng. Do vậy đấu tranh giai cấp với mục tiêu và giải pháp bạọ lực cộng sản hoàn toàn xa lạ trong đạo Phật…”
Những gì Hà Huy Đỉnh nói về giáo hội Phật giáo tôi cũng đã nghe từ nhiều nguồn khác. Từ nhóm Trực, Minh, Tòng, Thái chẳng hạn. Sở dĩ tôi hỏi Đỉnh vì hy vọng có một manh mối gì tích cực cho công việc của tôi chăng. Thì ra cũng chẳng có gì mới. Tất cả đều bất động trước tình thế đảng Cộng sản sắp kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng, và cuộc cách mạng vô sản tiếp liền sau đó là không thể tránh được. Nhiệm vụ của tôi là nối kết phong trào Sài Gòn với phong trào Huế – miền Trung. Mà phong trào Sài Gòn không thể nổi đình nổi đám nếu Phật giáo bất động cho dù nhóm các Dân biểu đối lập, nhóm Dương Văn Minh và nhóm Công giáo cấp tiến có sốt ruột và năng nổ như thế nào.
Tôi đề nghị với Đỉnh là thay vì anh tiếp tục nói, hãy cho tôi nghe một vài tiếng nói khác trong số các nhân vật Phật giáo mà anh quen thân hoặc trong những người bạn báo chí nước ngoài của anh. Đỉnh nói là cần có thời gian để liên hệ, sắp xếp. Tôi nói là tôi ở nhà Huỳnh Văn Tòng tận bên xóm Gà Gia Định. Nếu ngại đường xa thì có thể nhắn tôi qua Nguyễn Hữu Châu Phan ở Trung tâm Học liệu.
Khoảng gần một tháng sau Đỉnh tới nhà Huỳnh Văn Tòng tìm tôi. Anh chở theo một nhà báo Đức tên là Borries Gallasch. Huỳnh Văn Tòng đang ở nhà nên cuộc trò chuyện của chúng tôi nhanh chóng diễn ra thân mật và rôm rả. Borries Gallasch mở lời trước. Ông ấy nói có một người bạn tên là Erich Wullf, bác sĩ, đến Việt Nam từ những năm đầu thập niên sáu mươi, dạy ở đại học Y khoa Huế, rất thân với thượng tọa Trí Quang và ủng hộ hết mình phong trào Phật giáo Huế. “Huế là chiến tranh, Huế cũng là hòa bình, tiếng vang nào từ Huế cũng làm cho thế giới sửng sốt cả”. Gallasch nhấn mạnh nguyên văn như thế.
Gallasch tiếp tục (với tôi): Nghe Đỉnh nói anh từ Huế vào và anh muốn nghe gì từ nhà báo chúng tôi? Tôi nói tôi chưa gặp bác sĩ Wullf, nhưng đã nghe Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Đỗ Long Vân và Đinh Cường đề cập nhiều lần về ông ấy với rất nhiều quí trọng. Chúng tôi có cảm tưởng bác sĩ Wullf, một người Đức, và Việt Nam chúng tôi có chung một nỗi niềm… Hôm nay tôi muốn nghe ông Gallasch nói về hiệp định Paris.
Gallasch nói: “Có thể nói hiệp định Paris là kết quả đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Việt Nam Cộng Hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bất đắc dĩ ngồi vào bàn hội nghị và gần như bị Mỹ bắt ép ký vào văn bản hiệp định khi hội nghị Paris kết thúc. Ký xong hiệp định Paris, Mỹ xem như thoát khỏi vũng lầy Việt Nam, và cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam xem như chấm dứt. Nhưng cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai phía Việt Nam vẫn tiếp diễn. Bên này vẫn hung hăng tử thủ, bên kia cương quyết ‘đánh cho Ngụy nhào’ để thống nhất đất nước. Nhưng hiệp định Paris còn có một điểm hy vọng cho dù đó là niềm hy vọng mong manh. Đó là điều 12a, b về những bước đi mơ hồ của hai bên nội chiến và vai trò của lực lượng thứ ba trong tiến trình hòa giải hòa hợp dân tộc.
Tôi nói ‘hy vọng mong manh’ vì hiệp định không đề ra một biện pháp chế tài nào mạnh mẽ và cụ thể để kiểm soát đình chiến, Ủy ban kiểm soát đình chiến chỉ là một tổ chức hình thức, có tính cách tượng trưng, không có quyền hạn và thực lực như một trọng tài đích thực trên sân cỏ. Trong khi đó lực lượng thứ ba tuy là tiếng nói (hòa bình và trung lập) đại diện cho đa số quần chúng miền Nam nhưng không có lực lượng quân sự, không có lãnh thổ, bị bên này (VNCH) căm ghét, bị bên kia (VNCS) lợi dụng và nghi ngờ mục tiêu trước mắt và lâu dài. Thực tế là Phật giáo không đủ tầm vóc làm gạch nối hòa giải. Giới báo chí chúng tôi nhận định: Mỹ ký cho được hiệp định Paris để rút lui, còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký cho được hiệp định Paris để “Mỹ cút”, quân Giải phóng có thời gian để dưỡng sức, củng cố và chuẩn bị lực lượng đánh trận cuối cùng cho “Ngụy nhào”.
“Tôi là một người Đức, nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ II cũng bị áp lực từ hai phía Nga – Mỹ phải chia cắt làm hai quốc gia riêng biệt, hai vùng lãnh thổ Đông – Tây, và hai chế độ chính trị đối đầu. Chúng tôi may mắn hơn Việt Nam là không phải chịu đựng cuộc chiến tranh can thiệp của Mỹ và không có cuộc chiến giải phóng miền Nam của VNDCCH. Chúng tôi cũng có khát vọng độc lập và thống nhất mạnh mẽ như các bạn Việt Nam, nhưng độc lập thống nhất trong hòa bình hòa giải, hòa hợp dân tộc sau một thời gian dài giết chóc, xâu xé lẫn nhau và chia cắt đất nước là điều cực kỳ khó. Cho dù có khó cũng phải bằng mọi cách thực hiện cho được. Berlin của nước Đức chúng tôi bị tàn phá bởi bom đạn của hai phía đồng minh Nga – Mỹ trong trận cuối cùng đánh vào sào huyệt của Hitler là bài học cho Việt Nam trong trận cuối cùng sắp tới. Tố Cộng diệt Cộng, B52 rải thảm, giết sạch đốt sạch, đếm xác, chất độc hóa học, Mỹ Lai, hàng rào điện tử, chiến dịch Phượng Hoàng,…, cuộc chiến tranh hủy diệt của Mỹ đã gây cho Bắc Việt và Mặt Trận những giết chóc tàn phá kinh hoàng. Kinh nghiệm đau thương chồng chất qua hàng chục năm như thế, làm sao tránh được hành động trả đũa của quân kháng chiến trong trận cuối cùng tại Sài Gòn? Hàng trăm ngàn người sẽ chết là nhân dân và quân đội của hai phía, Sài Gòn bị đổ nát là thảm cảnh, là bi kịch không nên để xẩy ra.
Lực lượng thứ ba, xét về phương diện bạo lực không bao giờ làm cho hai phía nội chiến nể trọng, nhưng xét về nguyện vọng của đa số quần chúng miền Nam và sự phát triển lịch sử theo chiều hướng lành mạnh lại là một yếu tố vô cùng quan trọng trong cuộc hòa giải, hòa hợp dân tộc sắp tới. Tôi nghe bạn tôi, bác sĩ Wullf, nói là Phật giáo đã tụ họp quần chúng để hình thành lực lượng thứ ba từ năm 1954 khi nghe tin Ngô Đình Diệm được Mỹ bảo trợ về nước chấp chánh. Tôi cũng nghe các đồng nghiệp người Pháp nói là, Dương Văn Minh sau khi lật đổ Ngô Đình Diệm đã toan tính một sách lược ngoại giao mở rộng: giảm bớt sự lệ thuộc Mỹ, tăng cường ngoại giao với Pháp, Tây Đức và các nước phương Tây khác để trung lập hóa miền Nam.
Theo tôi Phật giáo của nhà sư Trí Quang và nhóm Dương Văn Minh là hai nhân tố cần thiết để hai phía Việt Nam (Cộng sản và Quốc gia) nếu không thực hiện được điều 12a, b của hiệp định Paris thì cũng chấm dứt cuộc nội chiến trong thắng lợi của một nền hòa bình đích thực. Hơn thế nữa, một Việt Nam độc lập, thống nhất còn phải hòa giải, hòa hợp với phương Tây để có điều kiện ban giao bình thường với Trung Quốc – quốc gia mà nhiều triết gia xã hội học phương Tây từ rất lâu đã cảnh báo về hiểm họa da vàng…”
Theo sự sắp xếp của Hà Huy Đỉnh tôi sẽ gặp để lắng nghe hai ông thầy mà Đỉnh rất tôn kính ở trường luật là Vũ Văn Mẫu và Bùi Tường Huân, nhưng tôi có việc gấp phải đi Huế, rồi đi Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nha Trang; hai tuần sau trở về lại Sài Gòn, nghe Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Văn Tòng, Nguyễn Trực, Bùi Minh nói là hai ông Huân – Mẫu là người gần gũi khắn khít với thầy Trí Quang, mà thầy Trí Quang và giáo hội Phật giáo Ấn Quang đang có những chuyển biến tích cực nên tôi không còn nhu cầu lắng nghe như những ngày “khủng hoảng” nữa.
Từ đó tôi không gặp lại Hà Huy Đỉnh cho đến tháng 2/1976, Hà Huy Đỉnh đi Huế tìm thăm tôi. Lúc bấy giờ tôi đang lên cơn sốt li bì do bị tràn dịch màng phổi, phải nằm bệnh viện nên cuộc gặp lại sau hơn hai năm xa cách và sau biến cố lớn 30.4.1975 ấy chúng tôi không trò chuyện được gì. Trong cơn đau vùi, tôi lờ mờ nghe Đỉnh nói là anh có mặt tại dinh Độc Lập trong thời khắc lịch sử Dương Văn Minh đầu hàng, và anh cũng mới ở tù về.
***
Đầu tháng 6/1976, tôi có việc đi Sài Gòn, tìm thăm Đỉnh tại căn gác trong hẻm Trần Bình Trọng. Đỉnh cho tôi xem toàn bộ các tấm ảnh anh chụp tại dinh Độc Lập và đài phát thanh sáng trưa 30.4. Ảnh chiếc xe tăng to đùng nằm trước cổng dinh gãy đổ, ảnh Dương Văn Minh và mấy người đồng sự của ông dong tay đầu hàng trước họng súng của quân Giải Phóng, ảnh Dương Văn Minh ngồi trên chiếc bàn vuông giữa những người đồng sự và quân Giải Phóng.
Trong ảnh tôi nhận ra hai người bạn Nguyễn Hữu Thái và Huỳnh Văn Tòng. Ảnh chụp Hà Huy Đỉnh bận áo bà ba nâu, tóc bối đứng giữa đám đông người của hai phía. Tôi hỏi Hà huy Đỉnh làm sao vào được dinh Độc Lập vào đúng thời điểm trọng đại đó, ông vào đó với tư cách gì? Đỉnh nói:
“Tôi theo dõi tình hình qua BBC, VOA và đài phát thanh Sài Gòn. Không khó lắm để phán đoán chính xác kết cục của trận đánh cuối cùng. Tôi theo dõi từng bước cuộc tấn công của quân Mặt Trận và những diễn biến chính trị tại Sài Gòn. Từ giữa tháng Ba, sau lệnh rút khỏi Tây nguyên của Nguyễn Văn Thiệu, tôi và Gallasch thường xuyên gặp nhau trao đổi tình hình.
“Gallasch rất sợ bom đạn khi hai bên giáp chiến trong trận cuối cùng, và cũng sợ quân Cộng sản ngộ nhận mình là người Mỹ. Gallasch nói đã có hai bác sĩ người Đức đồng nghiệp của Wullf dạy học ở đại học Y khoa Huế bị giết trong Mậu Thân vì lý do này. Tôi nói trận Mậu Thân khác, trận này khác. Tôi vốn không tin vào sách lược hòa giải, hòa hợp của Cộng sản, nhưng nghe ông Chu Sơn nói đi nói lại nhiều lần nên cũng ngã lòng. Tôi thuyết phục Gallasch ở lại với cùng một luận điểm ông Chu Sơn đã thuyết phục tôi. Gallasch ở lại và cùng tôi ra phố giúp tôi mua sắm máy ảnh và các dụng cụ nghề nghiệp của một phóng viên.
“Gần trưa 30/4, tôi vào dinh Độc Lập, Gallasch vào khoảng 30 phút sau đó. Chúng tôi đã cùng chứng kiến và cùng chụp ảnh cảnh xe tăng và quân Cộng sản hùng hổ, ào ạt vào dinh, cảnh nội các Dương Văn Minh hoảng sợ đầu hàng. Tôi giới thiệu Gallasch với Bùi Tùng, trung tá chính ủy quân Giải Phóng. Có lẽ thấy tôi mặc áo quần bà ba nâu, để râu gần giống cụ Hồ nên trung tá Tùng tưởng tôi là người cùng phe, đề nghị tôi và Gallasch ngồi xe jeep với ông đến đài phát thanh Sài Gòn để Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
“Ở đài đài phát thanh tôi và Gallasch chụp cảnh Bùi Tùng ngồi viết lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh đọc, cảnh tổng thống Việt Nam Cộng hòa đọc tuyên bố đầu hàng, cảnh Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Văn Tòng giới thiệu chương trình và phát biểu. Số ảnh tôi chụp tại dinh Độc Lập và đài phát thanh có 65 kiểu tất cả.
“Sau khi từ dinh Độc Lập về, tối 30 tháng 4 và mấy ngày đêm sau đó, tôi ngỡ ngàng nhìn lại chính mình. Một người không muốn dính líu đến chính trị, đặc biệt là chính trị Cộng sản, cũng không là phóng viên, nhà báo, bỗng dưng trở thành chứng nhân của một sự kiện lịch sử trọng đại mà bản thân tôi vừa muốn nó xẩy ra vừa lo sợ nó xẩy ra! Cái duyên nghiệp gì đây? Đúng một tuần sau sự dính líu chủ yếu do óc tò mò ấy, duyên nghiệp kéo đến với tôi trùng trùng. Người của thành ủy đến, người của tình báo đến, người của quân báo đến, người của các báo đến. Toàn những người lạ hoắc, nhưng chắc chắn mới từ trong rừng ra, từ ngoài Bắc vào.
“Họ hỏi tôi là người của tổ chức, cơ quan nào? Ai giao nhiệm vụ? Tôi nói tôi không thuộc về đâu cả. Không ai cử tôi đến. Tôi đến vì tò mò chứ không vì mục đích nào khác. Người của A(?)25 bám tôi đến cùng. Họ yêu cầu tôi nói cho họ những gì tôi biết về ‘Mỹ – Ngụy’. Họ yêu cầu tôi trao cho họ mấy cuốn phim tôi đã chụp hôm 30.4.
“Cuối tháng 8 tôi tự ý đi Hà Nội để cho biết thủ đô của nước Việt Nam độc lập thống nhất nhân dịp quốc khánh 2.9. Nhưng đến Phan Rang tôi bị chặn bắt đưa trở lại Sài Gòn. Tôi bị giam suốt 4 tháng để thẩm vấn. Thẩm vấn ngày, thẩm vấn đêm. Họ hỏi tôi đã cộng tác với Mỹ – Ngụy như thế nào? Tôi đã quan hệ với ai và nhận nhiệm vụ cụ thể gì để chống phá cách mạng trong kế hoạch hậu chiến? Họ hỏi tôi về các mối quan hệ giữa tôi và ‘bọn tình báo nước ngoài đội lốt phóng viên nhà báo hoạt động tại Việt Nam’. Họ hỏi tôi có phải làm việc cho Mỹ qua trung gian của Gallasch? Tôi và Gallasch đến dinh Độc Lập hôm 30.4 theo chỉ thị của Mỹ? Hàng trăm câu hỏi đại loại như thế họ buộc tôi phải trả lời với cả đe dọa và hứa hẹn…
“Tôi nói tất cả sự thật về nhân thân tôi trong các mối quan hệ chính trị mà tôi đã từng nói với ông Chu Sơn. Nghĩa là tôi không có gì để trở thành đối tượng cho họ nghi ngờ, khai thác để loại trừ cả. Đến Tết âm lịch họ thả tôi ra. Trong những lời khai tôi có nhắc đến tên ông (Chu Sơn): ‘Một người hoạt động nội thành của Mặt Trận mà tôi quen biết’.”
***
Bốn tháng bị nhốt thẩm vấn và những lời căn dặn răn đe của công an trước khi được thả ra, sự quản lý của phường khóm, tổ dân phố đã khiến Hà Huy Đỉnh lâm vào tình trạng khủng hoảng, khủng hoảng nặng nề hơn hồi năm 1961 khi ở Tổng nha cảnh sát chính quyền Ngô Đình Diệm về. Lần này Đỉnh hoảng sợ thực sự. Hoảng sợ khi nghĩ tới khả năng bị bắt lại bất cứ lúc nào. Hoảng sợ khi nghĩ tới sự khó khăn trong sinh kế.
Hồi còn chiến tranh trong chế độ cũ, Hà Huy Đỉnh sống nhờ vào việc làm tư vấn cho các phóng viên, các nhà báo nước ngoài, dạy Anh văn, Pháp văn cho con em các gia đình bạn bè thân thích, thiết lập hồ sơ và tư vấn chuyên môn cho các doanh nhân tập tểnh vào nghề. Nay cả ba nguồn thu nhập đó không còn nữa: Các phóng viên, nhà báo nước ngoài một đi không trở lại, các gia đình bạn bè thân quen số thì đã di tản, số thì phải đi học tập cải tạo, số còn lại bị kiệt quệ sau các đợt cải tạo, đổi tiền và chính sách dành cho ‘dân ngụy’, các cá nhân muốn làm ăn riêng lẻ bị triệt đường sống bởi kinh tế quốc doanh.
Phải khó khăn lắm Đỉnh mới xin được phép của công an thành phố đi Huế để thăm tôi hồi tháng 2.1976 nhằm giải tỏa những bức xúc. Đến Huế thấy tôi đang li bì trong cơn sốt tại bệnh viện, Hà Huy Đỉnh thất vọng trở lại Sài Gòn.
Trong khoảng 25 năm, từ mùa hè 1976, tôi và Hà Huy Đỉnh không gặp nhau lần nào. Hè 1991 tôi có việc đi Sài Gòn dài ngày, tìm thăm Đỉnh ở căn gác trong hẻm Trần Bình Trọng, không gặp. Hỏi quanh, tôi tìm ra chỗ ở mới của anh trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ). Tôi ngỡ ngàng mừng vui thấy anh chẳng những đã qua cơn hoạn nạn mà còn tỏ ra tươi tắn, ổn định.
Đỉnh cùng đứa cháu trai đang tuổi thanh niên cư trú trong một biệt thự sang trọng có vườn rộng trên ngàn mét vuông. Căn biệt thự, theo lời Đỉnh, của một thượng nghĩ sĩ quốc hội Việt Nam Cộng Hòa tên là Trương (?) Ngọc Oành đang ở nước ngoài, anh chỉ là người ở đậu (để giữ nhà). Chắc là Đỉnh nói thật. Anh chỉ sử dụng nửa sau ngôi nhà chính và toàn bộ công trình phụ, kể cả garage, nửa trước là nơi thờ tự và bỏ trống.
Nhìn qua sinh hoạt của Đỉnh, tôi nói nửa đùa nửa thật: Tưởng ông khó khăn, té ra ông đã “trưởng giả hóa”: Đi xe hơi, ở biệt thự, áo quần bảnh bao (tôi không thấy Đỉnh mặc bà ba nâu nữa), có vẻ ông đã là người của chế độ mới. Đỉnh nói: Tùy duyên thôi. Không điên đã là may. Không tự tử được thì phải sống, chứ biết làm sao? Ở tâm bão ít bị tàn phá hơn.
Tôi hỏi, vậy thì học thuyết Rousseau và tư tưởng Phật giáo ông để đâu rồi? Đỉnh nói, “đó là chuyện xa vời mộng mị. Tôi còn cả tuổi già và đứa cháu kêu bằng cậu … Ông Chu Sơn biết không, tôi đã từng là chủ một trại heo hàng ngàn con. Người nuôi heo, heo nuôi người, lầm than chật vật quá…”