26 tháng 12, 2019

Hồng Hà - Chân dung quyền lực Tô Huy Rứa (Kỳ 2)

Đăng bởi: Kiên Phạm on Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019 | 24.12.19


Như đã nói ở kỳ trước, luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa miễn phí cho hai bị cáo Nguyễn Thúy Hằng và Nguyễn Thị Thanh Thúy trong vụ án “Hiệu trưởng mua dâm” có liên quan đến hàng loạt quan chức tại Hà Giang, trong đó có ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô.
Tô Huy Rứa (trái) ghi sổ tang trong tang lễ ông Hồ Đức Việt.
Phẫn nộ vì cho rằng Tô Huy Rứa can thiệp thô bạo đến các quyền được hiến định của các cơ quan báo chí, ngày 11/7/2010, luật sư Trần Đình Triển đã gởi thư đến đích danh Tô Huy Rứa.

Nội dung thư cho biết, Văn phòng Luật sư Vì Dân đã nhận được tin báo, vào ngày 9/7/2010, Tô Huy Rứa với tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã gọi điện thoại mời đại diện cơ quan chủ quản một số báo chí và Tổng biên tập một số báo tới, để yêu cầu không được đăng tải thông tin về vụ việc liên quan đến ông Nguyễn Trường Tô.

Luật sư (LS) Triển cho rằng, vụ việc ông Nguyễn Trường Tô không thuộc bí mật quốc gia, do đó báo chí phải được phép đưa tin và yêu cầu ông Tô Huy Rứa phải trả lời và làm rõ sự việc trên. Nếu việc cấm cản báo chí là thật, luật sư sẽ khởi kiện ông Rứa trước các tổ chức của Đảng và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhằm xem xét tư cách Đảng viên, cũng như có hay không việc vi phạm pháp luật của ông Tô Huy Rứa.

Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử đảng cộng sản, một luật sư “dám” gởi thư chất vấn đương kim Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tuyên giáo đầy quyền lực, một người có khuôn mặt lạnh lùng và “bàn tay thép” như Tô Huy Rứa.

Còn nữa, LS Triển còn đòi đưa ông ta ra điều trần trước tổ chức đảng. Điên tiết, nhưng Tô Huy Rứa đành chịu, dù trong nhiều cuộc họp sau đó, Tô Huy Rứa thường nhắc đến tên luật sư Triển như một cái gai trong mắt mình.

Tô Huy Rứa có “ớn” LS Trần Đình Triển không? Có. Thật ra, Trần Đình Triển cũng không phải dạng vừa. Ông xuất thân là một sĩ quan của Học viện An ninh, là Tiến sĩ luật, không “hoạt động dân chủ”, không đứng theo phe nhóm chính trị. LS Trần Đình Triển đưa ra tinh thần phụng sự, tôn chỉ hoạt động tư vấn rõ ràng:

– Bảo vệ đảng,

– Bảo vệ pháp luật,

– Bảo vệ nhân dân,

– Bảo vệ công lý và lẽ phải.

Vì thế, không có bất cứ lý do gì để Tô Huy Rứa “đập” được Trần Đình Triển. Chưa kể, Rứa sợ có thể có thế lực khác phía sau “cung đình” chống lưng cho Triển, khi mà đại hội XI chỉ còn hơn 5 tháng nữa sẽ khai mạc và tương lai tái cử rồi tiếp tục tiến xa với Rứa, là rất lớn. Tô Huy Rứa không dại gì đâm đầu vào đá, vì vậy như cách các cô hoa hậu, diễn viên mỗi khi tránh thị phi, scandal trong giới showbiz, Rứa chọn cách… im lặng.

Vụ án rúng động đã khép lại. Sầm Đức Xương, kẻ “dắt gái” cho các quan chức hàng đầu Hà Giang, lãnh án 9 năm tù. Nguyễn Trường Tô bị khai trừ khỏi đảng, nghỉ hưu và xây một biệt phủ rộng hàng chục ngàn mét vuông, kinh phí hàng trăm tỉ đồng, ở ngay tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang để “vui thú điền viên”. Số quan chức còn lại không hề bị truy tố hay xử lý kỷ luật. Thế mới biết, công lý có khi chỉ là… diễn viên hài!

Sau vụ bê bối này, vị Bí thư tỉnh ủy Hà Giang là Hoàng Minh Nhất cũng nghỉ hưu. Người thay Nhất là Triệu Tài Vinh, sinh 1968. Triệu Tài Vinh đã xây dựng “đế chế” cả họ làm quan và đóng dấu sự nghiệp làm quan, với vụ mua bán, gian lận điểm thi trong kỳ thi quốc gia gây phẫn nộ, rung chấn và bàng hoàng chưa từng có, kể từ khi cái tên nước Việt Nam bắt đầu ra đời.

Ông Hồ Đức Việt
Từ sau đại hội X, nhiệm kỳ 2006-2011 với sự tái đắc cử chức Tổng bí thư của Nông Đức Mạnh và tân thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận nhiệm vụ, quyền lực bao trùm tất cả, chính thức thuộc về “cặp đôi” này. Vì thế, hàng chục dự án ngàn tỉ làm ăn bệ rạc, tham nhũng tràn lan, một nền kinh tế bê bết… nhưng luôn được che đậy. Thậm chí các đại án như PMU18, Vinashin, Vinalines cũng “xoay chiều”, rơi vào ngõ cụt…

Là Bí thư Trung ương và là Trưởng ban Tuyên giáo, được bổ sung vào Bộ Chính trị từ cuối năm 2009, Tô Huy Rứa hiểu rõ độ chênh của cán cân quyền lực hiện tại, cho nên Rứa đứng về phía Ba Dũng.

Đại hội XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Nông Đức Mạnh rời khỏi chính trường ở tuổi 71, người ngồi vào ghế Tổng bí thư là Nguyễn Phú Trọng, sinh 1944.

Theo các cán bộ cấp cao và giới thạo chính trường, lẽ ra chiếc ghế Tổng bí thư đã thuộc về Hồ Đức Việt (sinh 1947). Hồ Đức Việt là cháu nội “khai quốc công thần” Hồ Tùng Mậu và là con trai của liệt sĩ Hồ Mỹ Xuyên, phó bí thư Tỉnh ủy Nghệ An. Hồ Đức Việt là ứng cử viên nặng ký cho “tứ trụ”, hoặc chức vụ Tổng Bí thư, hoặc là Chủ tịch Quốc hội.

Hồ Đức Việt vốn học giỏi có tiếng, trước khi tham chính, Việt là Tiến sĩ Toán-Lý, giảng dạy và làm Phó chủ nhiệm khoa Toán-Cơ trường ĐH Tổng hợp Hà Nội.

Trước thềm đại hội XI, các phe bắt đầu vận động tranh thủ phiếu bầu và không quên tấn công quyết liệt, giải quyết “ân oán giang hồ”, hòng triệt tiêu các đối thủ.

Phe Thanh Hóa của Phạm Quang Nghị – Tô Huy Rứa muốn “níu” Hồ Đức Việt lại, cho nên mới có vụ việc chấn động dư luận, lẫn chính trường: Vụ “Tâm linh đàn Xã tắc”.

Xâu chuỗi những thông tin mơ hồ, suy diễn, hàng loạt đơn thư tố cáo vợ chồng Hồ Đức Việt theo đúng kịch bản, bay tới tấp đến các cơ quan đầu não. Rằng Hồ Đức Việt mê tín dị đoan, yểm bùa, lập đàn khấn trời đất, gọi “âm binh” trù úm các đối thủ chính trị. Nào là Hồ Đức Việt tham vọng quyền lực, vận động hành lang, nhắm ghế Tổng bí thư; nào là đạo đức và lối sống bản thân có vấn đề, thể hiện trong các chuyến công du…

Hội nghị 14 khóa X diễn ra từ ngày 13 đến 22/12/2010, Hồ Đức Việt lúc này là Trưởng Ban tổ chức Trung ương, phụ trách Tiểu ban nhân sự đại hội XI. Trước đó, khi trình danh sách dự kiến giới thiệu nhân sự bầu Ban chấp hành Trung ương khóa XI cho Trưởng Tiểu ban Nhân sự Nông Đức Mạnh xem. Khi thấy tên con trai là Nông Quốc Tuấn và một số “người của mình” bị loại ra vì lý do “thăm dò ý kiến phiếu thấp lắm”, Nông Đức Mạnh lồng lên, như muốn ăn thịt Hồ Đức Việt. Giọt nước đã tràn ly…

Vậy là lại suốt 10 ngày hội hội nghị bàn cãi, các phe chạy đua và tấn công nhau. Hồ Đức Việt chính thức bị “lên thớt”. Liên minh Nghị – Rứa đứng về phía họ Nông, ra đòn dồn dập về phía Hồ Đức Việt. Những chuyện không chấp nhặt đã lâu, giờ cũng thành gán ép “bê bối” dành cho đối phương. Câu nói “ba đánh một, không chột cũng què” chẳng sai bao giờ.

Hơn nửa tháng sau, Hội nghị 15 vào ngày 9/1/2011, cách khai mạc chính thức đại hội XI chỉ có 3 ngày. Lại bỏ phiếu để chốt, cái tên Hồ Đức Việt chính thức bị loại ra khỏi danh sách đề cử “tứ trụ”. Thay vào đó, Nguyễn Phú Trọng được đề cử chức Tổng bí thư khi bước sang tuổi 67, thay cho Nông Đức Mạnh nghỉ hưu. Trương Tấn Sang ngồi ghế Chủ tịch nước thay Nguyễn Minh Triết. Nguyễn Sinh Hùng được đề cử ghế Chủ tịch Quốc hội từ Nguyễn Phú Trọng, dù đã ở tuổi 65. Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục giữ chức thủ tướng nhiệm kỳ 2.

Tất cả đã an bài đúng như thế. Kết quả đại hội như mọi người đã biết, Hồ Đức Việt trắng tay, thậm chí không có tên trong danh sách Ủy viên Trung ương khóa XI và chính thức giã từ sự nghiệp chính trị ở tuổi 64.

Buồn cho nhân tình thế thái, chán chường trong thăng trầm chính sự, Hồ Đức Việt suy sụp tinh thần, đổ trọng bệnh và mất hai năm sau đó, hồi tháng 5/2013.

Về phần Nghị và Rứa, cả hai thắng giòn giã. Phạm Quang Nghị từ Bí thư Hà Nội, về nắm Thường trực Ban Bí thư. Tô Huy Rứa điền tên mình vào chiếc ghế “hái ra tiền” đỏ rực, ngồi thế chỗ Hồ Đức Việt đã ngồi trước đây: Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Từ đây, với uy vũ của “kiến trúc sư trưởng” trong công tác nhân sự của đảng, ông Trưởng ban mặc sức thao túng chính trường. Xem như Tô Huy Rứa đã toại nguyện, khi chinh phục nấc thang quyền lực cao nhất của cuộc đời kẻ xuất thân từ làng… ăn mày.

(Còn nữa)

Tô Huy Rứa – Chân dung quyền lực (Kỳ 1)

Hồng Hà
21-12-2019
Tô Huy Rứa sinh ngày 4/6/1947 tại làng Đồn Điền, tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hoá; nay là xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình dân chài ven biển. Làng Đồn Điền, nơi “chôn nhau, cắt rốn” của Tô Huy Rứa thuở xưa vô cùng nghèo khổ, còn có tên là “làng ăn mày”.
Giai thoại cho rằng, ông tổ của làng Đồn Điền là một ông lão ăn mày. Nơi đây có ngôi đền thờ ông tổ cái bang, thờ một cây gậy và một cái bị, cũng như lưu truyền những tập tục về xin ăn. Hàng năm, ba ngày Tết cả làng có lệ bỏ đi ăn xin, bất kể già trẻ, nam nữ và những người quyền cao, chức trọng… Sau Tết mới về, khi trở về, những gì xin được phải mang ra đền làm lễ tế.
Chuyện xưa thực hư không rõ, nhưng điều này thì có thật: Những năm 1980, mưa bão triền miên, mất mùa thất bát. Để có thể sống sót, rất nhiều người dân làng Đồn Điền bỏ quê đi tứ xứ hành khất, xin ăn. Phong trào tha phương cầu thực cũng bắt đầu từ đó. Những năm 1982-1983, Quảng Thái có hàng trăm người bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Nhiều gia đình, vợ chồng con cái đều dắt díu nhau đi ăn xin. Đặc biệt, những năm sau đó, tình trạng trẻ em đang trong độ tuổi đi học bỏ học đi lang thang khắp nơi.
Thống kê những năm 1993-1994, cả xã có hơn 700 em nhỏ đi lang thang, có gia đình 3-4 trẻ đi lang thang đánh giày, bán báo, ăn xin… Một tư liệu cho biết: “Trong số hơn 400 hộ dân ở Quảng Thái, có 249 hộ có người ăn xin chuyên nghiệp. Năm 1995 có 571 lượt, năm 1998 có 167 lượt người đi ăn xin“. Các nhà nghiên cứu gọi chuyện dân Quảng Thái đi ăn xin là “hiện tượng Quảng Thái”.
Năm 2012, khi Tô Huy Rứa tái cử Bộ Chính trị khoá XI, yên vị trên chiếc ghế Trưởng Ban tổ chức Trung ương, vinh quang và cực kỳ quyền lực. Lúc này tiền của bắt đầu đổ về nhà Tô Huy Rứa không đếm xuể, mệnh phụ phu nhân Trương Tuyết Nhung về quê chồng ở Đồn Điền tạ ơn, công đức kinh phí trùng tu tôn tạo đền thờ Thành hoàng của làng trở nên hoành tráng.
Đền thờ Thành hoàng làng Đồn Điền, quê hương Tô Huy Rứa. Ảnh: báo Dân Trí
***
Nhà quá nghèo, học hành không đến nơi đến chốn, năm 1965, Tô Huy Rứa tình nguyện vào lực lượng TNXP. Ngày 6/2/1967, Rứa được kết nạp vào ĐCS và mấy năm sau, nhờ có tài ăn nói, hoạt ngôn, khéo tuyên truyền, cấp trên gởi Rứa theo học tập ở trường Tuyên huấn Trung ương (sau nâng lên Đại học Tuyên giáo, Phân viện Báo chí và tuyên truyền, nay là Học viện Báo chí và tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Từ đây, Rứa xin ở lại trường, lần lượt làm trợ giảng, giảng viên… rồi không biết bằng cách nào, lại kiếm được tấm bằng cử nhân Toán tại ĐHTH Hà Nội. Học toán học, nhưng năm 1982 Rứa lại đi Nga để hoàn thành tiến sĩ… Triết học.
Cuối năm 1993, tại hội nghị Trung ương 6 khoá VII, Lê Khả Phiêu được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị cùng với Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan.
Năm 1995, trước thềm đại hội VIII, các phe quyết đấu để tranh giành quyền lực. Nguyễn Hà Phan, đương kim Thường trực Ban Bí thư, là người được Nguyễn Văn Linh ủng hộ để ngồi vào ghế thủ tướng khoá sau, bất ngờ bị tố cáo, quy chụp chính trị.
Tháng 4/1996, hội nghị Trung ương 10, khoá VII đã khai trừ Nguyễn Hà Phan ra khỏi đảng, chấm dứt sự nghiệp chính trị. Lê Khả Phiêu thay Nguyễn Hà Phan ngồi ghế Thường trực Ban Bí thư, quyền lực nghiêng Trời. Nhờ vậy, tại đại hội VIII tháng 12/1996, Lê Khả Phiêu đã đưa được một loạt các đàn em đồng hương Thanh Hoá ngồi vào ghế Uỷ viên Trung ương, trong đó có Tô Huy Rứa và Phạm Quang Nghị. Nếu như Phạm Quang Nghị trúng cử Bộ Chính trị tại đại hội X năm 2006, thì Tô Huy Rứa phải đợi đến hội nghị trung ương 8 khoá X tháng 1/2009 mới được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị.
Cuối năm 2009 đến đầu năm 2010, một sự việc gây chấn động dư luận cả nước, đó là vụ Nguyễn Trường Tô chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, hiệu trưởng và đồng bọn “cưỡng dâm, mua dâm học sinh trung học”.
Ngày đó Tiến sĩ – Luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa hai nữ sinh bị xét xử tội “môi giới mại dâm” đã gởi đơn kiến nghị đến các cơ quan trung ương, đơn cho rằng, vụ án có dấu hiệu oan sai và bỏ lọt tội phạm: 15 cháu gái từ 13 – 17 tuổi bị gạ gẫm, ép buộc tình dục trong vụ án này đều là nạn nhân, tính chất gần tương đồng nhau, đều bị cưỡng ép, dụ dỗ, khống chế, đe dọa… buộc phải quan hệ tình dục hoặc lôi kéo người khác phục vụ cho nhóm người của Sầm Đức Xương. Nếu gọi cho đúng tội danh thì phải là “cưỡng dâm” hoặc “hiếp dâm trẻ vị thành niên”.
Luật sư Trần Đình Triển gửi kèm văn bản kiến nghị khẩn cấp, đơn kêu cứu của hai bị cáo Hằng và Thúy, trong đó ghi rõ tên, số điện thoại và chức vụ của một số cán bộ cấp tỉnh, huyện, doanh nhân tại Hà Giang đã từng quan hệ tình dục với các cháu.
“Danh sách đen” khách mua dâm của Thuý và Hằng gồm 17 cán bộ Hà Giang. Trong đó có một số tên:
  1. Nguyễn Trường Tô – Thường vụ tỉnh uỷ, Phó Bí thư – Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang – ĐT: 0913271133
  2. Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh – ĐT: 0913271307
  3. Nguyễn Hoàng Tiến – sĩ quan Công an tỉnh (em ruột Nguyễn Binh Vận, Giám đốc CA Hà Giang) – ĐT: 0912061622
  4. Định – Phó Chủ tịch huyện Vị Xuyên
  5. Thành – Giám đốc Doanh nghiệp – ĐT: 0912144888
  6. Dũng – GĐ Bưu điện tỉnh.
  7. Sầm Đức Xương – Hiệu trưởng trường PTTH Việt Lâm.
  8. Đinh Xuân Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh Hà Giang
  9. Bích – Trưởng phòng Tổ chức Công an tỉnh.
  10. Hướng – Cán bộ Hải quan cửa khẩu Thanh Thủy.
  11. Minh – Cán bộ Công an tỉnh Hà Giang.
  12. Hoà – GĐ sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.
Đơn kiến nghị & thư của Ls Trần Đình Triển. Ảnh: Tác giả gửi tới TD
Dư luận xã hội Việt Nam ngày đó “sốc toàn tập”. Bộ mặt nhà nước pháp quyền đã bị “giáng một đòn chí mạng” bằng sự tha hoá đạo đức và suy đồi về nhân cách của những cán bộ đảng viên có trọng trách, chức vụ, cũng như một số trọc phú doanh nhân ở Hà Giang trong vụ án này.
Thậm chí, khi đứng trước nguy cơ bị cách tất cả các chức vụ, trong bản báo cáo đề ngày 27/5/2010 gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô khẳng định, Nguyễn Bình Vận, Giám đốc Công an tỉnh Hà Giang cũng đã quan hệ bất chính với nhiều phụ nữ…
Hai cháu Thuý – Hằng và những tên cẩu quan
Dân chúng vô cùng phẫn nộ, đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải ra tay trừng trị, cho dù những kẻ phạm tội là ai, ở bất cứ cương vị nào. Những cơ quan, cá nhân vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng nói trên cũng cần phải bị xử lý nghiêm khắc theo pháp luật.
Cái tên Nguyễn Trường Tô và lũ yêu tinh được réo trên trang nhất các tờ báo. Hình ảnh ông quan đầu tỉnh, sa đoạ trần truồng cũng được đăng trên các trang mạng xã hội. Thế nhưng, có một người dùng quyền lực, hòng bao che cho bọn cẩu quan hung bạo, đốn mạt và cuồng dâm này. Ông ta muốn bịt miệng báo chí và dư luận, bằng cách gọi điện thoại ra lệnh cấm các Tổng biên tập đăng các bài báo liên quan các cán bộ mua dâm, cưỡng dâm tại Hà Giang.
Nhờ thế lực ở thượng tầng bảo kê, cho nên dù có đầy đủ bản cung khai trước cơ quan điều tra, của các nạn nhân; cả báo cáo đầy đủ chi tiết, tên tuổi các cá nhân hủ hoá, mang số 23- KSĐT ngày 8/3/2010 của Viện kiểm sát Hà Giang, do đích thân Viện trưởng Ấu Duy Quang ký, gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, thế nhưng, điều lạ lùng là những tên phạm tội vẫn an toàn. Chắc chắn với quyền năng của mình, có nhân vật “giấu mặt” góp phần can thiệp cho 17 tên “tai to mặt bự” sa đoạ và trác táng này, thoát vòng tố tụng. Người đó không ai khác, chính là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư trung ương đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương Tô Huy Rứa.
(Còn nữa)

30 tháng 11, 2019

Lịch sử cận đại bị sử nô bóp méo như thế nào? 

30-11-2019
Sử gia Trần Trọng Kim và cuốn ‘Việt Nam sử lược’. Ảnh: internet
Trước khi viết tiếp vấn đề chữ quốc ngữ, về tình trạng Hán nô cả ngàn năm của giới Nho học và sự phục sinh tinh thần Việt nhờ chữ quốc ngữ, xin giới thiệu các bạn một phần bài viết của bạn Khôi Nguyễn, Đại học Oregon, Hoa Kỳ.
Bài viết vạch trần sự bóp méo lịch sử của nhóm sử nô thân Trung chống Tây có tên là Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa. Người học lịch sử lâu nay nhầm tưởng, trước sự kiện Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979, đế chế Trung Hoa đã chấm dứt xâm lăng nước ta từ sau cuộc đại phá quân Thanh của Quang Trung. Sự thật, vào cuối thế kỷ 19, nhà Nguyễn bị đặt giữa hai gọng kìm xâm lược: thực dân Pháp ở phía Nam và Mãn Thanh ở phía Bắc. Trong khi Pháp lấy Nam Bộ thì Mãn Thanh cũng đánh chiếm Bắc Bộ.
Vì tư tưởng hệ thân Trung chống Tây, cho nên nhóm sử nô (Hán) đã vơ tên giặc Lưu Vĩnh Phúc, thủ lĩnh quân Cờ Đen, làm anh hùng của mình. Thời tôi học phổ thông, học sinh chúng tôi từng bái phục ông này vì đã giết hai quan Pháp tại trận Cầu Giấy. Đó có phải là “nhận giặc làm cha” không?
Giả sử người Pháp đã không lật thế cờ, đập tan giấc mộng đế chế Trung Hoa và đi đến Hiệp ước Thiên Tân 1885 cắm mốc phân định biên giới Việt – Trung, thì Việt Nam không là thuộc địa của Tây cũng là thuộc địa của Tàu. Và như vậy, con đường tiếp thu văn hóa châu Âu để đi đến tiến bộ, văn minh của người Việt cũng bị đóng kín. Tôi khẳng định 100 năm đô hộ của giặc Tây vẫn hơn cả ngàn năm đô hộ giặc Tàu, như Hồng Kông bị đô hộ của giặc Anh so với đại lục bị nhốt trong cửa hàng Khổng-Mao vậy.
Nói ra điều này để mọi người hiểu vì sao chuyện chữ quốc ngữ tưởng không có gì phải bàn cãi nữa, bỗng dưng được đưa ra lúc này nhân Đà Nẵng dự định đặt tên đường Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes. Trong nhạy cảm của tôi, chỉ có thể nhóm sử nô 12 giáp kia đang muốn phục Trung chống Tây. Giặc ở trong nhà chứ không phải bên kia biên giới.
_____
Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên Alexandre de Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có nhiều người giảng dạy lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản đối, cho rằng Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực dân, là kẻ có tội với Việt Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút lại ý định.
Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa theo những niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và hình ảnh “Tây phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.
Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những tưởng tượng về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục và chính trị đương đại.
Tưởng tượng về Alexandre de Rhodes
Năm 1971, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, trong quyển “Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304, trích dẫn lời Alexandre de Rhodes thể hiện một âm mưu có tính thực dân của mình:
“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú”.
Ủy ban này chú thích rằng câu trích này được trích từ sách “Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de l’Orient” (Những cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr. 109-110.
Tuy vậy, người ta không thể tìm thấy câu nói ấy trong tài liệu nói trên.
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam là một định chế nghiên cứu cấp quốc gia. Vị thế của nó bảo đảm cho uy tín học thuật của nó. Thành ra từ đó, người ta cứ trích dẫn và lan truyền niềm tin lệch lạc như vậy về Alexandre de Rhodes mà không cần kiểm tra lại. Từ lâu, những nhà nghiên cứu như Vương Đình Chữ (1996), Nguyễn Đình Đầu (2006) đã chỉ ra lỗi trích dẫn này của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng niềm tin ấy vẫn chưa mất. Lá thư phản đối đặt tên đường của nhóm “trí thức” nói trên là một ví dụ.
Cũng trong sách này, Alexandre de Rhodes nói đến việc xin nước Pháp cung cấp nhiều “soldats” để “chinh phục toàn cõi phương Đông, đem về quy phục Chúa Jesus”. Cao Huy Thuần coi từ “soldat” là “binh lính” quân sự, từ đó kết tội Alexandre de Rhodes mở đường cho thực dân xâm lược Việt Nam, dù nhà truyền giáo ấy chết trước cuộc xâm lược ấy đến hai trăm năm, còn Nguyễn Đắc Xuyên coi “soldat” không phải là “binh lính” theo nghĩa đen mà chỉ “chiến binh Phúc âm”, tức giáo sĩ truyền đạo.
Số người hiểu theo cách hiểu của Cao Huy Thuần đông hơn hẳn cách hiểu của Nguyễn Đắc Xuyên, các cuộc tranh luận, đúng hơn là cãi vã, về nghĩa của từ “soldat” hầu như không đặt từ này trong toàn bộ văn bản của “Hành trình và truyền giáo” để xem tinh thần thực sự của khái niệm cũng như của sách này là gì, có liên quan đến việc đánh chiếm thuộc địa hay không.
Trí tưởng tượng nói trên về Alexandre de Rhodes sở dĩ khó có thể nhạt phai vì nó nằm trong một tưởng tượng khác, lớn hơn, về lịch sử cận đại. Tưởng tượng về lịch sử cận đại này cũng do Ủy Ban Khoa học Xã hội Việt Nam, từ tiền thân của nó là Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, xây dựng nên từ giữa thập niên 1950, sau khi Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam) lấy được miền Bắc.
Tưởng tượng về thế kỷ 19
Tôi có làm “phỏng vấn” nhỏ một số bậc thức giả, bao gồm cả những người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, một câu hỏi duy nhất: Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc đối với Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.
Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.
Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xóa khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.
Câu chuyện bị lãng quên: Nước Đại Nam trước hai “gọng kìm lịch sử” Pháp -Mãn Thanh
Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.
Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc. Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, nhằm bảo vệ mô hình thiên triều – chư hầu ngàn năm, còn Pháp quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.
Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.
Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.
Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.
Nếu như việc phải nhượng Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều – chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều – chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều – chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật-Thanh 10 năm sau đó.
Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều – chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp – Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xóa cuộc chiến này khỏi Sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.
Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp – Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp – Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp – Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.
Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.
Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung.
Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc.
Lịch sử của sự phân đôi phải / trái
Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch sử sao cho ăn khớp với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa giáo để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.
Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng.
Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.
Phục hồi ký ức?
Cuộc chiến Pháp – Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975.
Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp-Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hóa” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hóa chữ Hán”.
Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hóa, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.
Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.
Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “Chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “Chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được định hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.
Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp -Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.

1 tháng 11, 2019

Trước thềm thượng đỉnh ASEAN: Sáng kiến “Vành đai-Con đường” và phản ứng của một số nước Đông Nam Á

© AFP 2019 / Manan Vatsyayana
TRƯỚC THỀM THƯỞNG ĐỈNH ASEAN VÀ SÁNG KIẾN " MỘT VÀNH ĐAI, MỘT CON ĐƯỜNG" BỊ CÁC NƯỚC ASEAN PHẢN ĐỐI
 0  0

Trong lịch trình hoạt động chính trị quốc tế, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và các nước đối tác đối thoại của tổ chức đang chuẩn bị đón sự kiện quan trọng – Hội nghị thượng đỉnh ASEAN, Bangkok 2019.
Nhân dịp này nhà báo Sputnik đã đàm đạo với PGS-TS Hoàng Thị Thanh Nhàn chuyên gia nghiên cứu về Đông Nam Á và quan hệ quốc tế-khu vực của Việt Nam, về một nội dung liên quan: Sáng kiến “Vành đai-con đường” của Trung Quốc và thái độ-cách ứng xử của một số quốc gia Đông Nam Á với kế hoạch đầy tham vọng này.

Sáng kiến “Vành đai Con đường” (BRI) trong bối cảnh khởi xướng

Đối với đất nước khổng lồ 1,4 tỷ dân, Đại hội XIX của đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 10 năm 2017 là sự kiện chính trị cực kỳ quan trọng, đặt dấu mốc cho giai đoạn phát triển xây dựng chủ nghĩa xã hội “đặc sắc Trung Quốc” trên hành trình phấn đấu hiện thực hóa giấc mơ phục hưng Trung Hoa vĩ đại, - PGS-TS Hoàng Thị Thanh Nhàn nhận xét. Theo đó, Trung Quốc tuyên cáo nguyện vọng tạo lập hệ thống kết nối ở cấp độ toàn cầu trên 4 phương diện gồm thể chế, hạ tầng cơ sở, thương mại đầu tư cùng tài chính và giao lưu nhân dân. Có vẻ là giấc mộng Trung Hoa vĩ đại mang đậm hơi thở dân tộc chủ nghĩa thực sự thôi thúc giới lãnh đạo tinh hoa ở Bắc Kinh vạch kế hoạch và hiện thực hóa hệ thống kết nối này – BRI phản ánh tham vọng lớn nhất của họ trong nửa thế kỷ qua nhằm lập lại trật tự thế giới, - chuyên gia Việt Nam khái quát.
Tập Cận Bình
© AP PHOTO / JU PENG/XINHUA
Tập Cận Bình

Trả lời phỏng vấn của Sputnik, chuyên gia Việt Nam đi sâu bàn về hệ thống kết nối cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á dưới góc độ quy chiếu BRI.
Do Chủ tịch Tập Cận Bình đề xướng lần đầu vào tháng 9 năm 2013 tại Kazakhstan, sáng kiến “Vành đai-Con đường” (BRI) là chuỗi lớn các dự án hạ tầng kết nối từ châu Á sang châu Âu và tới tận châu Phi. Trung Quốc tập trung vào việc thực hiện nhiều dự án đường bộ và đường sắt cao tốc, hoặc cảng biển với mục đích hồi sinh con đường “tơ lụa” giữa châu Âu, châu Á và châu Phi trên cơ sở vốn vay của Trung Quốc và do các nhà thầu nước này thi công. Hệ thống hạ tầng này không chỉ lôi cuốn các quốc gia nghèo cùng tham gia xây dựng con đường với Bắc Kinh bằng số vốn vay từ Trung Quốc nhiều hơn, bắt đầu từ Cộng hòa Djibouti ở châu Phi cho đến Cộng hòa Kyrgyzstan, Mông Cổ, Montenegro, Pakistan, Sri Lanka và Tajikistan ở châu Á. Ngoài ra Trung Quốc còn mở rộng sự hiện diện của họ trong nhiều dự án hạ tầng ở Belarus, Italia, Bỉ thuộc châu Âu, dự án ở Chile thuộc châu Mỹ. Tính đến tháng 3 năm 2019, có 125 quốc gia và 29 tổ chức tham gia hoặc cam kết tham gia vào BRI.

ASEAN trong tổng thể BRI

Theo đánh giá của PGS-TS Hoàng Thị Thanh Nhàn, từ tổng quan chiến lược bành trướng toàn cầu của Bắc Kinh, ASEAN sở hữu yếu tố tự nhiên vô cùng quan trọng là vị trí địa chính trị của Hiệp hội. Nằm ở cửa ngõ phía Nam, Trung Quốc coi trọng vai trò của cơ sở hạ tầng, Đông Nam Á không chỉ là tuyến đột phá đầu tiên triển khai Con đường Tơ lụa trên biển mà còn là địa bàn căn cứ quân sự quan trọng để Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ tác chiến biển xa bờ, bảo đảm an toàn cho tầu hàng, tầu dầu và tài sản của nhà nước cũng như công dân của họ ở hải ngoại. Theo đó, cơ sở hạ tầng xây dựng ở khu vực này, dù có gọi là cảng thương mại chăng nữa nhưng trên thực tế phục vụ cả yêu cầu dân sự lẫn hậu cần quân sự. Có thể thấy là cùng với đầu tư trực tiếp vào các quốc gia Đông Nam Á gia tăng, các dự án đường sắt, đường sắt cao tốc, đường bộ, cảng biển thuộc chuỗi BRI ở khu vực này cũng được tiến hành khẩn trương (ASEAN chiếm 6 số 10 dự án cơ sở hạ tầng có quy mô lớn nhất của Trung Quốc tính đến cuối 2018).

Trên thực tế, việc triển khai BRI ở Đông Nam Á diễn ra đến nay được 5 năm, bên cạnh kết nối thể chế, kết nối cơ sở hạ tầng được tiến hành khá khẩn trương với sự xuất hiện của hàng loạt cảng biển ở Malaysia (cảng Kuantan và Klang), ở Batam thuộc Indonesia (cảng TanjungSauh), ở Campuchia (cảng Shihanoukville và Kok Kong trị giá tuần tự 3,8 tỷ USD và 5,7 tỷ USD), ở Brunei (cảng Muara đi vào hoạt động từ năm 2017) ; bên cạnh đó còn có hàng loạt công trình đường sắt gồm có tuyến Previhear – Kaoh Kong của Campuchia trị giá 9,6 tỷ USD, đường sắt cao tốc Jakarta – Bangdung của Indonesia có tổng số vốn 5,13 tỷ USD, tuyến đường sắt Vientiane – Boten của Lào cũng lên đến 7,2 tỷ USD; dự án đường sắt phía Đông của Malaysia tổng chi phí lên đến 13,1 tỷ USD; tuyến đường sắt Bangkok – Nong Khai ước tính 10,8 tỷ USD, cảng nước sâu Kyaukpyu ở Myanmar cũng dự kiến lên đến 7,3 tỷ USD và đi kèm với nó là đặc khu kinh tế với chi phí xây dựng lên đến 2,7 tỷ USD…
Trong tổng thể kinh tế-quân sự như vậy, không ngẫu nhiên mà phần tham dự của Trung Quốc vào các tiến trình Đông Nam Á có ý nghĩa rất quan trọng đối với Bắc Kinh khi xét đến thực tế tài nguyên thiên nhiên của khu vực này. Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc tạo thế cho BRI triển khai các dự án phục vụ khai thác tài nguyên, vận chuyển hàng hóa và các dịch vụ quốc phòng khi cần. Tuyến đường huyết mạch để Trung Quốc vươn đến các nước giầu tài nguyên tất yếu quan trọng phải đi qua Đông Nam Á. Trung Quốc đã sử dụng vốn cho vay xây cất cơ sở hạ tầng ở chuỗi các quốc gia trong mạng lưới BRI để đổi lấy tài nguyên thiên nhiên nguyên liệu đầu vào cho sản xuất công nghiệp trong nước, các nước nhận vốn phải trả lại dưới hình thức thương mại hoặc bán tài nguyên khai thác từ các mỏ cho họ, đặc biệt dầu thô, khí đốt, đất hiếm hoặc khoáng sản quan trọng. Với mức độ tiêu thụ 10 triệu thùng dầu/ngày (trong đó nhập khẩu chiếm đến 7,6 triệu thùng), mức độ đô thị hóa lên đến 50% năm 2010, đảm bảo nhu cầu an ninh năng năng lượng cho số dân lên đến 1,4 tỷ người cực kỳ cấp thiết. BRI phải được thực hiện trên phạm vi toàn cầu cũng như ở Đông Nam Á để họ thỏa mãn giấc mộng Trung Hoa.

BRI không phải miếng bánh ngọt hữu hảo như Trung Quốc hứa hẹn, thực tế này ngày càng được nhiều quốc gia trên thế giới nhận chân, trong đó có lãnh đạo đa số các nước ASEAN
Tuy nhiên, nhìn chung các công trình dự án cảng biển kể trên, trừ 3 cảng  Shihanouville, Kuantan, Tanjung Sauh nằm trong Hệ thống 47 cảng biển ASEAN  được Trung Quốc chỉ định, trạng thái tồn tại rời rạc và đặc biệt là vai trò của chúng chỉ có thể được nâng lên khi các nước sở tại vận hành tốt các đặc khu kinh tế đi kèm và do Trung Quốc đầu tư xây dựng. Thực tế đó cho thấy mạng lưới cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á hút vốn đầu tư lớn, nhưng cũng chịu nhiều áp lực trả nợ Trung Quốc nếu thiếu vắng nền quản trị Nhà nước hiện đại và năng động. Trung Quốc rất biết tận dụng bẫy nợ để buộc các nước nhận đầu tư chấp nhận những nhượng bộ về chính trị, kinh tế có thể gây tổn hại cho lợi ích quốc gia của họ. Những dự án cơ sở hạ tầng cũng được phía Trung Quốc sử dụng như công cụ “trừng phạt hoặc cưỡng chế” hoặc “chiêu dụ vật chất” đối với nhóm cầm quyền muốn củng cố “tính chính danh” của họ trước các phe phái đối lập và dư luận bên trong.

Sự tiếp nhận BRI của ASEAN

Trong điều kiện trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ của Trung Quốc, với vai trò cường quốc khu vực, chính sách mở rộng ảnh hưởng của họ đối với châu Á nói chung và ASEAN nói riêng chứa đựng rất nhiều cơ hội và thách thức. Về tổng quát, không như EU, ASEAN là tổ chức hàm chứa rất nhiều khác biệt. Quy mô quốc gia khác biệt. Lịch sử kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước thành viên từ hàng trăm năm qua chịu ảnh hưởng bởi nhiều thế lực ngoại bang, bởi lựa chọn thể chế, bởi xu hướng vận động của các dòng chảy tư tưởng lý thuyết cũng như bởi các hình thái tôn giáo vốn không chia sẻ những giá trị đồng nhất… Vì những lẽ đó, phản ứng chính sách của mỗi nước ASEAN trước BRI cũng tùy thuộc vào tính toán riêng của lãnh đạo ở mỗi quốc gia.

Chuyên gia Hoàng Thị Thanh Nhàn tán đồng với ý kiến khảo cứu của Tiến sĩ kinh tế học Phạm Sĩ Thành (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, ĐHQG Hà Nội), chia phản ứng của ASEAN trước Sáng kiến Vành đai Con đường thành 3 loại : i/ Nhóm các nước tương đối đón nhận gồm Lào, Campuchia, Singapore, Malaysia (thời cựu thủ tướng Najib Razak) và Philippines (thời Tổng thống Duterte- 2016 đến nay); ii/ Nhóm các nước thận trọng hơn hoặc hoài nghi gồm Philippines (thời cựu Tổng thống Aquino , 2010-2016), Việt Nam (giai đoạn 2013-2015), Malaysia (thời Thủ tướng Mahathir Mohamad, 2018 đến nay); iii/ Nhóm các nước theo đuổi tự kiềm chế gồm Brunei, Indonesia, Myanmar, và Thái Lan.
Để phân tích phản ứng chính sách của các thành viên ASEAN trước sự “xâm lăng” của BRI, quyền lực “bất đối xứng” được sử dụng như khung khổ lý thuyết, nó giúp sáng tỏ đối tượng nghiên cứu. Trong quan hệ quốc tế hiện đại, lý thuyết quyền lực “bất đối xứng” bao hàm tiếp nhận luận điểm:  lợi ích quốc gia trong hiện thực cổ điển, thể chế và hợp tác trong tân tự do, quyền lực trong chủ nghĩa bá quyền và ý thức đi cùng tương tác trong lý thuyết kiến tạo. Điểm mấu chốt của “quyền lực bất đối xứng” là trong trạng thái bình thường “bất đối xứng” vẫn tồn tại hòa bình nếu cả bên mạnh hơn và bên yếu hơn biết quản lý vấn đề của mình để sức mạnh của bên lớn hơn không bị “thử thách” (thách thức) và quyền tự chủ của bên nhỏ hơn vẫn được bảo toàn (không bị “đe dọa”).
Sự phân hóa phản ứng của các thành viên ASEAN là không thể tránh khỏi vì những khác biệt rất lớn như đã kể trên. Dù vậy, nguồn vốn đầu tư và giá trị các hợp đồng xây dựng của Trung Quốc đổ vào ASEAN vẫn tăng mạnh, tính riêng 6 tháng đầu năm 2019 lên đến 11 tỷ usd, tăng gấp đôi 6 tháng cuối năm 2018. Tính chung từ năm 2014 đến 2018, trong các dự án thuộc BRI toàn cầu, ASEAN chiếm đến 35%. Có thể thấy nguồn vốn Trung Quốc để và các dự án trong khuôn khổ BRI  đánh trúng nhu cầu khát vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á hiện tại không chỉ ở các quốc gia ASEAN thu nhập thấp (như Lào, Campuchia, Myanmar) muốn lấp khoảng trống về hạ tầng mà ngay cả những nước có thu nhập cao (Malaysia, Indonesia, Thái Lan) muốn thông qua xây cơ sở hạ tầng mới để thúc đẩy hơn nữa tốc độ công nghiệp hóa.

Cảng Sihanoukville
Cảng Sihanoukville

Trong nhóm 1, quốc gia hưởng ứng nhiều nhất phải kể đến là Campuchia. Năm 2010 hai nước nâng tầm quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện, từ đó, mở ra chương mới trong quan hệ kinh tế song phương mà trọng tâm của nó là cột chặt Phnom Phenh vào BRI. Trong 5 năm (từ 2013 đến 2017) đầu tư trực tiếp của Trung quốc đổ vào Campuchia là 5,3 tỷ USD, riêng năm 2018, Trung Quốc tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất trong tổng FDI 3,1 tỷ USD. Năm 2017, tổng kim ngạch thương mại song phương đạt 6 tỷ USD, trong đó, riêng xuất khẩu từ Trung Quốc chiếm đến 87% con số này; dự kiến, thương mại hai chiều có thể cán mốc 10 tỷ USD vào năm 2023. Đầu năm 2019, Bắc Kinh cam kết hỗ trợ gần 600 triệu USD cho Campuchia trong 3 năm. Có thể nói, lãnh đạo nhà nước ở quốc gia này đang sử dụng nguồn hỗ trợ từ Trung Quốc không kèm theo điều kiện “can thiệp vào nội bộ” để duy trì và củng cố tính chính danh của mình, điều đó giải thích tại sao Campuchia rất hoan nghênh sáng kiến Vành đai-Con đường. Tuy nhiên, những năm đây, dư luận quần chúng và phe đối lập với đảng cầm quyền phản ứng gay gắt với các hệ lụy chính trị cũng như xã hội từ nhận viện trợ và vốn vay của Trung Quốc. Với sự bành trướng quá mạnh và lộ liễu như vậy, người dân Campuchia không chỉ mất việc làm mà trật tự xã hội bị đảo lộn, đặc biệt ở thành phố biển Shihanouklville – nơi được ước tính có đến 20% cư dân là người Trung Quốc;  họ buôn bán, hoạt động trong ngành xây dựng, mở song bạc…để kiếm lợi nhuận và rửa tiền (nhiều người Trung quốc giầu có bất minh đã chuyển sang Campuchia kinh doanh để tránh né chiến dịch chống tham nhũng do Chủ tịch Tập Cận Bình tiến hành nhiều năm qua). Tất cả thay đổi quá lớn ở thành phố cảng biển này khiến người dân địa phương vô cùng bất bình, thậm chí họ ghét người Trung Quốc.

Thêm nữa, bên cạnh sử dụng đầu tư và gia tăng trao đổi thương mại, Trung Quốc không ngừng sử dụng truyền thông để lôi kéo các quốc gia ASEAN, thuyết phục các chính trị gia trong khu vực đồng thuận cao nhất với BRI. Đến nay, Trung Quốc đã kiểm soát tới 80 hải cảng tại 40 nước. Thông qua BRI, họ không ngừng đưa các quốc gia nhận vốn, đặc biệt là ASEAN vào guồng quay trật tự quyền lực mới do Trung Quốc cầm trịch. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ cũng như lợi ích cốt lõi của mỗi nước ASEAN sẽ còn những diễn biến khó đoán định bởi nó tùy thuộc vào nguyên tắc cơ bản của lý thuyết quyền lực “bất đối xứng” và cục diện quyền lực toàn cầu.Trong nhóm 3, Myanmar là ví dụ về theo đuổi tự kiềm chế khá rõ nét. Là quốc gia nghèo khát vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, nước này tiếp nhận hàng loạt dự án cảng nước sâu Kyaukpyu, đường sắt Dali – Thủy Lệ, đường sắt cao tốc Kyaukpyu -  Côn Minh. Tuy nhiên, do e ngại vướng vào bẫy nợ của Trung Quốc, lãnh đạo quốc gia này đã phải cân nhắc hiệu quả đầu tư nếu cảng nước sâu Kyaukpyu không phát huy vai trò khi ở xa trung tâm phát triển công nghiệp như Đặc khu kinh tế Thilawa do Nhật Bản xây dựng nằm ở ngoại ô Yangon. Bên cạnh đó, Myanmar cũng phải đa dạng hóa vốn vay cho dự án Nhà máy điện khí đốt Myingan với tỷ lệ góp vốn chỉ 20 triệu USD từ Trung Quốc , trong khi huy động 58 triệu USD từ WB và 42,2 triệu USD từ ADB. Trung Quốc không nhận được thiện cảm của dư luận trong dân địa phương, trừ một bộ phận lãnh đạo nhà nước Myanmar. Những hậu quả về môi trường, về xã hội từ các dự án của Trung Quốc ở quốc gia này lý giải những bất bình trong dân chúng nước này.
Trừ Campuchia – quốc gia hồ hởi nhất với dòng vốn từ Trung Quốc (vì những lý do bên trong) – các nước còn lại đều chia sẻ quan điểm Hợp tác – Thận trọng ở những mức độ khác nhau. Trung Quốc rất biết hiện trạng này, nhưng với tiềm lực kinh tế khổng lồ, với cách thức tiếp cận đa chiều và tự tin cao độ, Trung Quốc thông qua lợi ích vật chất cũng như công cụ truyền thông toàn cầu  “bóc tách ASEAN như bóc từng lớp củ hành tây” để đạt được những lợi ích sâu xa bên trong của họ. Mọi cái vẫn ở phía trước!
Nga và BRI
Theo nhận xét của PGS-TS Hoàng Thị Thanh Nhàn, LB Nga giữ thái độ thận trọng với BRI, có vẻ như Matxcơva không thể và không muốn cạnh tranh quyền lực với Bắc Kinh để kiên quyết giành vị trí cường quốc đứng đầu thế giới. Nga đặt mức tiếp cận đến BRI một cách có cân nhắc, như vai trò trung gian kết nối Á – Âu, khai thác tài nguyên, tiềm năng quá cảnh thương mại và mạng lưới logistics giữa hai đầu tầu kinh tế thế giới và tiềm năng tự có về địa chính trị. Dù bị bao vây cấm vận, thương mại hai chiều Nga – EU vẫn chiếm đến hơn 40% tổng thương mại quốc tế của họ. Trong bối cảnh bị trừng phạt kinh tế do Mỹ và phương Tây áp đặt, Nga đến gần với Trung Quốc hơn, nhưng không hoàn toàn thực chất vượt hơn ngoài quan hệ của hai nhà lãnh đạo cấp cao. Dường như ASEAN có vị trí không cao bằng EU và Trung Quốc trong tư duy sắp xếp bàn cờ chiến lược của Điện Kremlin. Vì lẽ đó, hiện tại Nga hầu như không can dự vào BRI của Trung Quốc ở Đông Nam Á.
Vladimir Putin và Tập Cận Bình
© SPUTNIK / VALERIY SHARIFULIN/POOL
Vladimir Putin và Tập Cận Bình

Nhưng xét về mọi mặt ASEAN vẫn là địa bàn hấp dẫn và là lực lượng đáng kể trong xu thế mới của toàn cầu nhiều biến đổi. Xây dựng và thực thi đường lối chuyển hướng về phía Đông, chắc là Nga sẽ tiếp tục khai thác điểm thuận lợi truyền thống và những thành tựu quan hệ đối tác chiến lược hiện tại, thông qua quan hệ với Việt Nam để đến với ASEAN trong tư cách bạn hàng hạn chế, bảo vệ vòng ngoài lợi ích cốt lõi của Matxcơva. Tâm thế này hẳn cũng được khuyến khích nhờ thái độ của Hà Nội, mà trong Diễn đàn Kinh tế Đông EEF ở Vladivostok mới đây, Phó Thủ tướng Việt Nam Trịnh Đình Dũng tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng trở thành cầu nối thúc đẩy hợp tác giữa ASEAN và EAEU nói chung, và đặc biệt là với Nga", - PGS-TS Hoàng Thị Thanh Nhàn dự đoán.