24 tháng 12, 2018

Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
Sóng Việt Đàm Giang • Chủ Nhật, 23/12/2018 •

Cách đây hơn 125 năm, Việt Nam chúng ta cũng đã có một tượng Nữ Thần Tự Do. Vậy lịch sử tượng Tự do soi sáng Thế giới (thông thường được gọi là Nữ Thần Tự Do) từ khi xuất hiện cho đến khi biến mất tại Hà Nội, Việt Nam, là như thế nào? 


Trái: Đảo Tự do, Mỹ; Giữa: Đảo Thiên Nga, sông Seine, Pháp; Phải: Vườn Hoa Cửa Nam, Việt Nam.

Trước hết cần có vài hàng nói về tượng Nữ Thần Tự Do tại cảng New York.
Tượng Nữ Thần Tự Do tại hải cảng New York trên đảo Liberty phía nam đảo Ellis là một món quà đặc biệt của Pháp tặng Hoa Kỳ và được chính thức khánh thành ngày 28 tháng 10, 1886, sau hơn hai năm thực hiện tượng cùng làm chân đài, để kỷ niệm lễ độc lập ngày 4 tháng 7 1884 của Hoa Kỳ. Người thực hiện là điêu khắc gia Frédéric Auguste Bartholdi. Tượng đúng ra mang tên “Tự do Soi Sáng Thế giới” với biểu hiệu tượng là một người phụ nữ mặc áo choàng rộng đại diện cho Nữ thần La mã mang tên Libertas, đầu đội vương miện có bẩy tia dài và nhọn tượng trưng cho nguồn sáng tỏa chiếu ra khắp 7 đại dương và 7 châu, tay phải dơ cao một bó đuốc, trong tay trái ôm một tấm bảng có ghi ngày độc lập Hoa Kỳ (4/7/1776). Tượng cao 46 m. Dưới chân tượng có sợi xích sắt chặt đứt đoạn hàm ý chống lại ách nô lệ. Tượng là một biểu tượng cho Tự do và cho Hợp Chủng Quốc: một dấu hiệu đón chào tất cả những người di dân từ khắp nơi đến đất hứa.


Khi làm tượng Nữ thần, ngoài tượng chính, và một phiên bản gốc kích thước cao hơn 11 m đặt ở trên đảo Grenelle, sông Seine, Paris, Bartholdi có làm một số phiên bản gốc nhỏ có kích thước cỡ 2.85m (chiếm tỷ lệ 1/16 so với tượng chính), trong số đó, một bản đặt trong vườn Luxembourg, Paris, và một phiên bản nhỏ cùng cỡ được cho lên tàu mang sang Việt Nam để dự tham dự Hội chợ Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Việt – Xô) vào năm 1887.
Lý do sau khi chinh phục được vùng Đông Dương, và có Hòa ước Patenôtre vào năm 1884 (hòa ước Giáp Thân 1884), chính phủ Pháp muốn tổ chức một cuộc đấu xảo/triển lãm (thời đó hai chữ đấu xảo được hiểu theo nghĩa là triển lãm). Địa điểm là một khu đất cỏ trống rộng, nơi thường được tổ chức thi Hương vào những nãm có cuộc thi. Cuộc triển lãm có mục đích phô trương sự văn minh, kỹ thuật tân tiến của Pháp cùng ý đồ “khai hóa”, mang ánh sáng văn minh soi sáng dân thuộc địa qua tượng “Tự Do soi sáng Thế giới”.
Sau cuộc triển lãm năm 1887, khu đất trống phải trả lại cho trường thi Hương diễn ra cứ bốn nãm một lần, tượng được hội Bắc kỳ tương tế (Fraternite Tonkinoise) mượn tạm để khánh thành trụ sở, sau đó tượng được Pháp trao lại cho cho chính quyền Hà Nội, Việt Nam, và được mang đặt tại quảng trường bốn tòa nhà, nơi có một vườn hoa mới làm giữa bốn tòa nhà được dùng làm tòa Thị chính, Kho bạc, nhà Bưu điện, và phủ Thống sứ , nơi này sau đó được mang tên là vườn hoa Chí Linh (nơi hiện nay có tượng đài Lý Thái Tổ và mang tên công viên Lý Thái Tổ).
Khi chính phủ bảo hộ muốn mang tượng ông Paul Bert – vị Thống sứ đầu tiên của nhà nước bảo hộ đã qua đời vào ngày 11, ttháng 11, 1886, chỉ sau bẩy tháng nhậm chức Thống sứ- từ Pháp qua để kỷ niệm Quốc Khánh nước Pháp (14 tháng 7, 1890), họ muốn đặt tượng ông Paul Bert tại vườn hoa Chí Linh, và như thế là tượng Nữ Thần phải mang đi chỗ khác. Trong khi chờ đợi một chỗ đặt, tượng Nữ thần phải đứng trên bãi đất đâu đó. Một kỹ sư Pháp tên Daurelle đề nghị đặt tượng ngay trên nóc Tháp Rùa (Quy sơn Tháp), thế là sau một thời gian nằm trên đất, dân Hà nội thấy tượng Nữ thần (hay tượng Bà Đầm Xòe) đứng trên nóc Tháp Rùa, quay mặt về vườn hoa Chí Linh/vườn hoa Paul Bert/Ngân hàng Đông Dương gần cạnh đó. Vườn hoa Paul Bert còn được gọi là vườn hoa Nhà kèn, vì ở đấy có một nhà bát giác mà hàng tuần đội kèn đồng của dàn quân nhạc Pháp ra đó biểu diễn. Những chi tiết này được viết rõ trong cuốn “Le vieux Tonkin” (Bắc Ký cổ xưa) của Claude Bourrin, viết về xứ Bắc Kỳ trong thời điểm từ 1890 đến 1894 (nhà in IDEO, Hà Nội, 1941, tr. 48-49).


(1) Hình chụp từ phía tây hồ Gươm: tượng thần Tư do trên nóc Tháp rùa nhìn về tượng Paul Bert (góc bên tay trái), hình này lấy từ báo L’ Indépendance tonkinoise, số đặc biệt, ra tháng 7/1891
(2) Hình do Bác sĩ Louis Sadoul chụp năm 1890, có tượng thần Tự do trên nóc Tháp rùa, quay lưng vào Nhà Thờ Lớn St. Joseph bên góc phải.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội

(3) Hình vẽ (khuyết danh) từ gần đến xa cho thấy lưng tượng Paul Bert tay trái dương cờ Pháp nằm tại vườn hoa Paul Bert/vườn Nhà Kèn nhìn ra hồ Hoàn Kiếm có tượng thần Tự Do trên nóc Tháp Rùa, và xa hơn nữa là nhà Thờ Lớn bên góc phải.
(4) Post card: Công viên Chí Linh/Paul Bert/vườn nhà Kèn tám cạnh và tòa nhà Kho bạc.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(5) Hình vẽ Nữ Thần Tự Do phía sau có Nhà thờ Lớn, có Tượng Tự Do trên nóc Tháp Rùa ở Hà Nội, của Cesard, với ghi chú “Liberté sur le Pagodon du Petit – Lac à Hanoi” được đãng trong báo La Vie Indochinoise, tháng 12 năm 1896. (Nguyễn Phúc Giác Hải- DCV online.net).
(6) Hình thuộc tài liệu của R. Duboil
(7) Hồ Hoàn Kiếm, Tháp Rùa, và cầu Thê Húc.
Qua ghi chú trên những tấm hình kể trên, chúng có thể đoán rằng tượng Nữ Thần đã đứng trên nóc Tháp Rùa từ khoảng từ năm 1890 (dựa theo hình của Louis Sadoul) cho đến 1896 (theo hình vẽ và ghi chú của báo La Vie Indochinoise vào năm 1896.
Như vậy, tượng Nữ Thần bị đặt trên đất một thời gian rồi được đặt trên nóc Tháp Rùa, rồi đến năm 1896 lại được mang xuống vì bị sự phản đối và chỉ trích nặng nề của người dân địa phương và cả một số giới chức Pháp. Và rồi, tượng được chuyển đến vườn hoa Neyret ở phía đông hồ Hoàn kiếm (tức Vườn Hoa Cửa Nam gần Thư viện Quốc gia) cho đến ngày Cách Mạng Tháng 8 1945. Tượng vào thời điểm đó được mệnh danh là Tượng Đài Công Lý (Monument de La Justice).

Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(8) – (9): Bức tượng toàn thân của Paul Bert tay cầm lá cờ Pháp và một người bản xứ nhỏ bé ngồi dưới chân đã tạo nên nhiều bất bình và chỉ trích.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(10) – (11): Tượng Nữ Thần đặt tại vườn hoa Cửa Nam – vườn hoa Neyret – (1896-1945)
Vào ngày 1 tháng 8, 1945, tượng Nữ thần, và một số tượng khác (kể cả tượng Paul Bert) bị kéo đổ do lệnh của ông Trần văn Lai, thị trưởng đầu tiên người Việt của Hà Nội. (Bản tin trên báo Đông Pháp ngày 2/8/1945 cho biết, pho tượng Paul Bert bị kéo đổ lúc 9 giờ 10 phút, “Bà đầm xoè” bị giật đổ lúc 9 giờ 45 phút ngày 1/8/1945).
Những tượng đồng bị kéo đổ này được mang cất vào trong kho phế vật của sở Lục lộ thành phố Hà Nội từ năm 1945. Vào năm 1949, chùa Thần Quang thuộc làng Ngũ Xã khởi công dự án đúc tượng phật A Di Ðà. Tài liệu cho biết trong ba năm chuẩn bị đúc tượng (1949-1952), chùa đã kêu gọi khách thập phương đóng góp nhiều đồ đồng để đúc tượng nhưng vẫn không đủ số lượng nên đã đến xin chính quyền cho những tượng đồng trong kho của sở Lục lộ Thành phố, và ông thị trưởng thành phố đã chấp thuận cho chùa Thần Quang tất cả số tượng đồng trong kho, trong số đó có cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert.
Ngày 26 tháng 10, 1952, sồ đồng thu thập đủ loại và từ nhiều tượng kể cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert được đun nóng chảy rồi đổ vào khuôn để đúc tượng A Di Đà cho chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã. Pho đại tượng Phật A Di Đà ở chùa Thần Quang này có tư thế ngồi bằng. Tượng có chiều cao 3.95 m, chu vi phần dưới là 11.6m, chu vi toà sen (bệ tượng) là 15 m, tổng cộng trọng lượng là khoảng trên dưới 10 tấn.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội 
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(12) Tượng A Di Đà: chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã
Kết luận
Phiên bản Tượng Nữ thần “Tự Do soi sáng Thế giới” được Pháp tặng cho Việt Nam vào năm 1887, qua nhiều thăng trầm di chuyển nhiều lần, rồi nằm trong bóng tối nhà kho hơn bảy năm trời, sau cùng tượng đã bị nấu chảy để lấy đồng đúc tượng A Di Đà vào năm 1952. Như vậy tổng cộng tượng Tư do đã hiện diện ở Hà Nội, Việt Nam được khoảng 65 năm (1887-1952)
Năm nay 2012 là vừa tròn 60 năm tượng “Tự do soi sáng Thế giới” ở Việt Nam đã nằm trong tâm, thân của tượng A Di Đà của chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã.
Trong cõi vô thường sở hữu chủ có có không không, sự xót xa ngậm ngùi tiếc nuối nếu có tưởng cũng chẳng nên lấy thế mà mang thêm phiền muộn. Thôi thì cũng có thể nghĩ dù tượng thần “Tự do soi sáng Thế giới” ở Hà nội không còn nữa nhưng ít nhất người dân Hà Nội hay người Việt trong nước cũng vẫn còn tượng Phật A Di Đà Từ Bi Đức Độ để thờ cúng.
Sóng Việt Đàm Giang
29 Tháng 9, 2012
Đăng lại từ bài viết “Tượng Thần Tự Do Tại Hà Nội, Việt Nam”

Tạp chí Chim Việt Cành Nam

15 tháng 12, 2018

Topten ngháo và điên rồ nhất của quan chức cấp Bộ

Đây chỉ là topten của quan chức cấp Bộ, không tính tới các quan cấp cao hơn.
Topten điên rồ nhất của quan chức Việt Nam năm 2018
FB Trương Duy Nhất, 10-12-2018, Tiếng dân
1- TÙ TẠI GIA: Ý tưởng của ĐBQH, Tổng kiểm toàn nhà nước Hồ Đức Phớc. Theo đó, phạm nhân thay vì tập trung lao động cải tạo tại các trại giam, sẽ được đưa về nhốt trong một “chuồng sắt” tại nhà rồi giao cho gia đình canh giữ, chăm sóc. Chìa khoá “chuồng sắt” đó vẫn được giao cho giám thị để kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất.

2- TỰ TẠO TÌNH TRANG CHIẾN TRANH: Là sáng kiến của Bộ trưởng thông tin – truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng. Ông gọi cách tự tạo tình trạng chiến tranh, hoặc tình huống giống như chiến tranh để làm “động lực phát triển” cho xã hội.


3- BAY TỪ DELHI ẤN ĐỘ ĐẾN THƯỜNG CHÂU, TUNG QUỐC CHỈ ĐỂ CHUYỂN 1 BỨC THƯ: Ngày 28/1/2018, khi đang tháp tùng Thủ tướng trong chuyến công cán tại Ấn Độ, Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh đã nhận lệnh phải bay gấp từ New Delhi đến Thường Châu, chỉ để chuyển một bức thư thăm hỏi động viên của Thủ tướng đến đội U23 Việt Nam trước trận chung kết giải U23 châu Á gặp Uzebekistan.

4- TIẾP DÂN QUA TIVI: Tại buổi tiếp dân của Chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Thành Phong ngày 7/11/2018, hàng trăm cử tri là dân oan Thủ Thiêm đã phải kê ghế ngồi ngoài sân theo dõi ông Phong đối thoại và trả lời qua màn hình ti vi.

5- CAO HỒNG SÂM CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO: Dự án chi 311.250.000 đồng từ nguồn kinh phí hoạt động của văn phòng tỉnh uỷ Quảng Ninh, để mua cao hồng sâm phục vụ cán bộ lãnh đạo.



6- TRẠM THU GIÁ: Sau làn sóng phản đối BOT giao thông và các cuộc “cách mạng tiền lẻ”, Tổng cục đường bộ và Bộ giao thông vận tải đã chống chế bằng cách đổi tên trạm thu phí thành “thu giá”.

7- GÍA DỊCH VỤ ĐÀO TẠO: Chuyển đổi “học phí” thành “giá dịch vụ đào tạo” của Bộ giáo dục trong dự thảo sửa đổi luật giáo dục đại học.

8- ĐƠN XIN RÚT ĐƠN TỪ CHỨC: Tháng 1/2018, Phó chủ tịch UBND quận 1 TP HCM Đoàn Ngọc Hải, “người hùng” của chiến dịch dẹp loạn vỉa hè bất ngờ nộp đơn “xin từ chức”. 4 tháng sau, ông gây bất ngờ hơn khi nộp đơn “xin rút đơn từ chức” trước đó.



9- SINH VIÊN ĐƯỢC BÁN DÂM 3 LẦN: Là qui định trong bộ khung chuẩn để xử lý kỷ luật học sinh sinh viên của Bộ giáo dục đào tạo. Theo đó, học sinh, sinh viên ngành sư phạm nếu hoạt động mại dâm đến lần thứ 4 sẽ bị buộc thôi học. Vi phạm lần đầu bị khiển trách, lần thứ hai cảnh cáo, lần thứ ba đình chỉ có thời hạn.



10- CHỐNG DỘT HẦM CAO TỐC BẰNG BĂNG KEO: Là cách nhà thầu dùng băng keo dán lên các khe nứt toác để khắc phục hiện tượng thấm dột trên hệ thống cầu cống, hầm chui thuộc tuyến cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi.

9 tháng 12, 2018


Tại sao Tổng thống Đức lại nói Chủ nghĩa Marx là thảm hoạ của nhân loại.
Thứ Bảy, 12/08/2018 - 04:30 — nguyenvandai 

Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh một cách hùng hồn rằng bất kỳ quốc gia nào trên thế giới bị cai trị bởi đảng cộng sản và chủ nghĩa Marx thì nó đều gây ra đau khổ, nghèo đói, lạc hậu , tham nhũng, hủ bại và các quyền con người bị tước đoạt.
Vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, sau hơn 40 năm không chịu nổi sự cai trị phi dân chủ, độc đoán và giáo điều của đảng cộng sản và chủ nghĩa Marx. Nhân dân các nước XHCN(Đông Âu cũ) đã vùng lên đập tan sự cai trị độc đoán của đảng cộng sản và chủ nghĩa Marx. Họ đã tiến hành thiết lập lên chế độ dân chủ đa đảng và ngày nay đã hội nhập vào các nước tư bản dân chủ Tây Âu một cách thành công.
Để lên án tội ác của các chệ độ cộng sản trên toàn thế giới. Ngày 25 tháng 1 năm 2006, tại thành phố Strasbourg, CH Pháp, Hội đồng Nghị viện Âu Châu đã bỏ phiếu và thông qua Nghị quyết số 1481 lên án những tội ác chống nhân loại của các chế độ cộng sản trên toàn thế giới, với đa số áp đảo 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống.

Đặc biệt điều 9 của Nghị quyết xác định rằng : "Các chế độ toàn trị cộng sản vẫn còn hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới và vẫn tiếp tục gây tội ác. Quyền lợi quốc gia không thể là cái cớ nhằm phản bác những phê phán thích đáng các chế độ độc tài toàn trị cộng sản hiện nay. Hội đồng Châu Âu cực lực lên án tất cả những vi phạm nhân quyền".

Các tội ác này đến từ đâu ? Điều 3 của Nghị quyết ghi nhận: "Nhân danh chủ trương đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản mà các tội ác được biện minh. Sự giải thích hai nguyên tắc này đã hợp thức hóa việc "thủ tiêu" những người bị cho là có hại cho sự xây dựng một xã hội mới, và do đó, bị xem là kẻ thù của các chế độ độc tài toàn trị cộng sản".
Điều 5 còn xác định : "Sự sụp đổ của những chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Trung và Đông Âu không được quốc tế điều tra theo dõi các tội ác gây ra. Hơn nữa, tác giả những tội ác nầy chưa hề bị đưa ra xét xử trước cộng đồng quốc tế, như trường hợp những tội ác khủng khiếp do Đức Quốc xã gây ra trước đây".
Ở Việt Nam thì đảng cộng sản đã gây ra biết bao đau khổ cho Nhân dân hơn nửa thế kỷ đã qua, và chúng vẫn còn đang tiếp tục vi phạm nhân quyền, chà đạp các quyền con người.
Những tội ác nổi bật của đảng cộng sản VN: Tàn phá và khai thác cạn kiệt rừng tự nhiên và tài nguyên khoáng sản; phá huỷ môi trường sống trong các đô thị, biển; tham nhũng trong mọi ngành mọi cấp, phá huỷ nền tảng đạo đức dân tộc, duy trì một chế độ hủ bại; bất lực trong việc kiểm soát hàng hoá tiêu dùng, thực phẩm, thuốc chữa bệnh đẩy cả dân tộc vào thảm hoạ bệnh tật, suy thoái nòi giống; tước đoạt các quyền con người về chính trị như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tư nhân, tự do hoạt động đảng phái chính trị,… Duy trì sự bất công trong xã hội, đàn áp, sách nhiễu, cầm tù những người đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền, môi trường,….
Ngoài ra, chế độ cộng sản VN còn vi phạm và phá vỡ luật pháp quốc tế trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và xuất khẩu tội phạm có tổ chức ra quốc tế,…
Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu đảng CSVN và nhà nước VN đã nhìn thấy dõ những tội ác mà đảng CSVN và chế độ của ông ta đã và đang gây ra cho đất nước và dân tộc. Nhưng trong phát biểu tại các hội nghị chuẩn bị cho đại hội 13, ông ta vẫn giáo điều nói tiếp tục giữ vững lập trường tư tưởng chủ nghĩa Marx để cai trị dân tộc VN.
Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier đã từng chứng kiến đảng CS và chủ nghĩa Marx gây ra biết bao đau khổ cho đồng bào mình ở Đông Đức trong hơn 40 năm. Nên trong chuyến thăm tới Trung Quốc, Tổng thống Frank-Walter Steinmeier phát biểu với các sinh viên Trung Quốc hôm 7/12 rằng có những “tai họa” đã xảy ra ở Đức và Đông Âu nhân danh Karl Marx.
Nhưng tư tưởng của ông Marx không chỉ là lý thuyết, ông Steinmeier nói.
"Chúng tôi, những người Đức, không thể nói về ông Marx mà không nghĩ đến những tai họa xảy ra nhân danh ông ở Đông Đức và Đông Âu trong thời kỳ khốn khổ sau Bức màn Sắt".
Trong thời gian đó, chủ nghĩa Marx là tất cả mọi thứ và các cá nhân bị coi là con số 0, các gia đình bị xé lẻ, hàng xóm hại lẫn nhau, và “con người bị giam giữ sau các bức tường còn những người cố gắng bỏ trốn đều bị sát hại”, ông nói.
Steinmeier nói: “Điều này khiến chúng tôi đặc biệt nhạy cảm và nhận thức được những gì xảy ra với những người không có chung ý kiến với số đông, những người thuộc sắc dân thiểu số, muốn thực hành tôn giáo của họ, hoặc vận động ôn hòa về các tư tưởng và đức tin của họ”.
Bởi vậy, đất nước, dân tộc Việt Nam muốn có được tự do, dân chủ, các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và có được sự thịnh vượng văn minh. Không có con đường nào khác ngoài con đường cùng nhau đoàn kết đấu tranh xoá bỏ chế độ độc đảng cộng sản toàn trị.
Chừng nào đảng CSVN và chủ nghĩa Marx còn độc quyền cai trị đất nước và dân tộc, chừng đó Nhân dân VN còn bị tước đoạt các quyền tự do và nhân phẩm.
Blog PVĐ

7 tháng 12, 2018

Tưởng Năng Tiến – Phố Trịnh Văn Bô 

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội!
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! 
Lẽ nào trời đất dung tha? 
Ai bảo thần dân chịu được? - Bình Ngô Đại Cáo


Khoảng bằng giờ này năm trước, báo Thanh Niên Online (số ra ngày 7 tháng 11) ái ngại loan tin:

Cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ, quả phụ nhà tư sản dân tộc yêu nước Trịnh Văn Bô vừa trút hơi thở cuối cùng vào đêm 5.11 tại Hà Nội trong sự tiếc thương và ngưỡng mộ của hàng triệu người Việt Nam yêu Tổ quốc. Không nhiều người biết, lúc cụ nhắm mắt, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng vẫn chưa được khơi thông, thậm chí còn là nỗi buồn nhân đôi!

Chuyện gì mà buồn dữ vậy, Trời?

Tác giả bài báo thượng dẫn, nhà báo Quốc Phong, cho biết:

Năm 1954, sau khi Cách mạng về tiếp quản Thủ đô, hai vợ chồng cụ Trịnh Văn Bô khi đó đã cho Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái mượn ngôi biệt thự tại 34 Hoàng Diệu, Hà Nội có khuôn viên rộng 3.000 m2 trong 2 năm. Lý do tướng Thái muốn mượn là vì nó rất tiện cho công việc. Nhất là lúc này, đất nước vẫn còn chia cắt và cuộc chiến đấu giải phóng đất nước vẫn chưa trọn vẹn. Vị trí này rất tiện làm việc vì nó rất gần Bộ Quốc phòng. Theo như lời hứa của tướng Thái (sau này là đại tướng) thì "khi nào Bắc Nam thống nhất, quân đội sẽ trả anh chị"...

Thế rồi, phải đến ngày 9.9.1994, vợ chồng cụ Trịnh Văn Bô mới có quyết định của Thủ tướng trả nhà, dù rằng có chút tế nhị, ngôi biệt thự 34 Hoàng Diệu được ghi là "Tặng" gia đình, do ông bà Trịnh Văn Bô có công lao to lớn đối với đất nước trong Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc... "Ngày vui vắn chẳng tày gang", tiếc thay, vì lý do nào đó, quyết định "Tặng nhà" trên đã bị tạm dừng (tháng 3.1995) đến nay vẫn chưa được thi hành.

Qua đến năm nay, câu chuyện về “nỗi buồn sâu thẳm” kể trên lại “rẽ” hướng khác (e) cũng chả vui gì – theo bản tin của báo Người Lao Động, số ra hôm 5 tháng 12 năm 2018: “Hà Nội Chính Thức Có Phô Mang Nhà Tư Sản Trịnh Văn Bô.”

Sự kiện này khiến tôi nhớ đến bức thư (“Gửi Bạn Ở Cõi-Bên-Kia”) của dịch giả Dương Tường, viết vào ngày giỗ đầu của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:

“Mình đang đi trên một con phố mới, hình như ở Hải Phòng. Lạ hoắc song lại có nét gì quen quen mà không tài nào xác định nổi. Giống như khi ta cố nhớ ra một cái tên rất thân quen, chắc chắn nó ở quanh quanh đâu đây trong bộ nhớ, chỉ dấn chút xíu nữa là ‘bắt’ được mà nó vẫn vuột mất để rồi đến một lúc thôi không cố nhớ nữa thì nó lại bất ngờ hiện ra. À, đây rồi cái biển tên phố gắn trên một cột đèn. Mình tiến lại và đọc thấy: BÙI NGỌC TẤN…

Thế là mình thức giấc. Và ngồi viết thư cho Tấn đây...

Hà Nội đã có những đường phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng… , những điểm son của văn học Việt Nam. Thế còn bao giờ Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán? Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn? Một dự cảm tâm linh nói với mình: rồi những giá trị đích thực sẽ được trả về đúng vị trí. Con đường mình vừa dạo chơi trong mơ – đường Bùi Ngọc Tấn – rồi sẽ thực sư có trong thực tại. Và biết đâu đấy, mình lại có dịp thả bộ trên con đường ấy, như đã thả bộ trên đường Văn Cao dăm năm trước... ”

Con đường “trong mơ” của Dương Tường, tiếc thay, chưa chắc đã được mọi người chia sẻ:

“Tôi thỉnh thoảng dạo phố vẫn hay dừng lại nhìn lên một tên phố mà chuyện trò lặng lẽ với con người ngồi ở trên cái bảng sắt tây dó. Để nghe anh ta giãi bày. Và cũng để anh ta đừng tưởng bở.

Thí dụ Văn Cao, ngày hai lượt ra trung tâm thành phố và về Cầu Giấy, tôi từng có lần hỏi anh: Cậu khỏe không?... Bây giờ ở trên cao này có thấy sao không?” Thì Văn Cao bảo tôi: “Tao làm nhạc, làm thơ, vẽ, ai hay nay làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài. Mày với tao sống trong cái chăn toàn rận này, mày lạ đ. gì nữa.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Cái chăn đời của Bùi Ngọc Tấn không chỉ toàn rận mà còn thấm đẫm biết bao nhiêu mồ hôi cùng nước mắt. Ở trang bìa sau tác phẩm cuối cùng (Hậu Chuyện Kể Năm 2000) của ông, do Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2014, có in những dòng sau:

“Tôi mong đợi từng ngày và mong đợi quá lâu rồi, sự sụp đổ của cái trật tự bóp chết con người, bóp chết tự do, sự dối trá thống trị, cái trật tự làm thành một bầu trời đá xám úp chụp lên đầu..! Cái trật tự xã hội tôi đã sống gần trọn đời và ghê sợ nó.”
 

Chả ai ước mơ được đặt tên đường trong một cái xứ sở mà mình “mong đợi từng ngày” cho nó “sụp đổ” cả. Đã thế, thực chả vinh hạnh chi khi tên mình bị đặt nằm giữa những con phố đầy rẫy bất trắc và tệ đoan xã hội:

- “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô

- “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin

- “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô

- “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet

- “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng” – báo An Ninh Thủ Đô

- “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí

-“Đột Kích Hàng Loạt Tụ Điểm Mát Xa Kích Dục Trên Đường Nguyễn Duy Trinh” – Báo Vnexpress.

Thế còn Trịnh Văn Bô? Liệu cụ có hào hứng đứng cạnh các vị “danh tướng” (Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp) mà chính họ hay con cháu đã giựt mất tài sản và nhà cửa của gia đình mình không? Tôi cũng không tin rằng cụ lại “muốn làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài” trong khi cái đảng ôn dịch này không chỉ vô ơn mà còn độc ác nữa:

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột... 

Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều... Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.(Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Sau đường Trịnh Văn Bô, rồi ra sẽ có đường Nguyễn Thị Năm, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo chăng? Cứ giết người, cướp của, đầy đọa, chôn sống nhân tài rồi tìm cách xí xoá mọi chuyện bằng một cái bảng tên đường (vớ vẩn) gì đó là coi như xong sao? Chuyện đời đâu có giản dị như vậy. Trúc Nam Sơn có thể không ghi hết tội nhưng mạng internet thì bảo đảm sẽ lưu giữ không thiếu thiếu tội nào. Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
 
Tưởng Năng Tiến
 
(Blog Tưởng Năng Tiến) 
Đăng trên TTHNO

4 tháng 12, 2018

Những trò hề của Giang Trạch Dân khiến quốc tế phải kinh ngạc

Từ khi trở thành người đứng đầu ĐCSTQ, ông Giang Trạch Dân thường biểu diễn và thể hiện hình tượng trong các trường hợp ngoại giao, cũng vì thế mà rất nhiều hình ảnh xấu xí của ông cũng thể hiện ra hết trên báo chí nước ngoài.

Trong cuộc gặp với nhà vua Tây Ban Nha, Giang Trạch Dân lấy lược ra và chải đầu ngay trước nhà vua. (Ảnh trên Twitter)
Năm 2002, khi ông Giang Trạch Dân đến thăm Iceland, trong buổi quốc yến do Tổng thống Iceland tổ chức, ông Giang Trạch Dân ăn được nửa chừng, đột nhiên đứng dậy cao giọng hát, khiến cho cả chủ nhà và khách mời khi đó đều phải kinh ngạc. Vợ của ông là Vương Dã Bình khi đó với vẻ mặt càu nhàu, biểu hiện vô cùng lúng túng. Đoàn nhân viên tháp tùng phía Trung Quốc cũng nhìn Giang với ánh mắt coi thường. Tổng thống Iceland cũng nhìn vào Giang, tỏ vẻ lúng túng.
Giang Trạch Dân
Hình ảnh Giang Trạch Dân hát trong buổi quốc yến do Tổng thống Iceland tổ chức năm 2002 (Ảnh từ internet)
Toàn bộ tình cảnh đã bị tờ báo lớn nhất Iceland đưa tin chi tiết bằng những bức ảnh màu, ông Giang Trạch Dân khiến truyền thông quốc tế được một phen chế giễu.
Việc ông Giang Trạch Dân không quan tâm đến lễ nghi và trường hợp ngoại giao, lúc nào cũng có thể ca hát nhảy múa cũng không phải là hiếm.
Năm 1996, ông Giang Trạch Dân có chuyến thăm Philippines, buổi tối, Tổng thống Philippines Fidel V. Ramos mời ông Giang Trạch Dân yến tiệc trên du thuyền. Trong bữa tiệc, ông Giang Trạch Dân đột nhiên đứng dậy cầm micro hát bài Love me tender.
Cuối tháng 6/1996, ông Giang Trạch Dân đến thăm Tây Ban Nha. Quốc vương Tây Ban Nha Juan Carlos I mời ông Giang Trạch Dân cùng tham dự lễ kiểm duyệt tam quân. Điều khiến vua Juan Carlos I kinh ngạc đó là, đột nhiên ông Giang cầm một cái lược ra và chải đầu ngay trước mặt khiến nhà vua kinh ngạc há hốc mồm đứng nhìn.  
Buổi tối nhà vua mở tiệc chiêu đãi, ông Giang ngồi bên phải Hoàng Hậu, lại một lần nữa chải đầu trước ống kính máy ảnh. Sau việc này, tờ báo lớn nhất Tây Ban Nha là “Nhật báo Quốc gia” và nhiều tờ báo khác đã đăng lên trang nhất của mình với tiêu đề: “Quốc vương Juan Carlos I xem Giang Trạch Dân chải đầu”
giang trạch dân
Rất nhanh, nhiều tờ báo khác trên thế giới cũng bắt đầu đưa tin này. Nhiều Hoa kiều ở nước ngoài đọc xong bất giác cảm thấy thể diện của người Trung Quốc đã bị Giang làm mất hết.
Ngày 30/3/1993, ông Giang Trạch Dân đi cùng Tổng thống nước Áo Thomas Klestil đến thăm nơi ở của Mozart tại Salzburg. Bộ sưu tập có giá trị nhất trong dinh thự cũ của Mozart là một cây đàn piano do ông mua ở Vienna năm 1785; được biết, ngoài cây đàn này ra thì không có cái thứ 2, trên thế giới cũng chưa có người thứ 2 nào đàn qua. Ở phía trước của cây đàn, có một thông báo “cấm chạm vào” bằng tiếng Đức và tiếng Anh.
Nào ngờ, sau khi Tổng thống Klestil giới thiệu xong về cây đàn này, ông Giang Trạch Dân lại ngồi xuống ghế, bắt đầu đàn. Hành động đột phát của Giang khiến cho những người đi cùng thuộc Đại sứ quán Trung Quốc (những người biết rõ về bối cảnh văn hóa của Áo) phải kinh ngạc và hổ thẹn, còn Tổng thống Áo có ý ngăn cản hành động này của Giang, nhưng lại chiếu cố đến lễ tiết ngoại giao nên biểu cảm vô cùng lúng túng.  
Trong mắt người Áo, Mozart giống như một thánh nhân, đối với hành động không tôn trọng kỷ vật của Mozart, thì chính là xỉ nhục người Áo. Ngày hôm sau, truyền thông Áo tràn ngập tin tức trên trang nhất về vụ việc này, trong đó có một tờ báo đăng một tranh biếm họa với tựa đề : “Giang Trạch Dân cầm búa và liềm đánh đàn”.
Ngày 24/10/1993, ông Giang Trạch Dân đến thăm một bảo tàng ở Pháp, đã kéo tay phu nhân của Tổng thống Pháp Jacques Chirac là bà Bernadette Chirac cùng nhảy điệu Waltz, hành động này khiến cho ông Jacques Chirac rất không vui, ông cho rằng Giang làm mình khó xử. Còn người dân Pháp lại càng sôi sục căm phẫn, cho rằng đây là điều xúc phạm đối với dân tộc Pháp.
giang trạch dân
Ông Giang Trạch Dân kéo tay phu nhân Tổng thống Chirac để cùng nhảy điệu waltz. (Ảnh từ internet)
Ngày 21/2/2002, tại Đại Lễ Đường ở Bắc Kinh, ông Giang Trạch Dân mở tiệc chiêu đãi Tổng thống Mỹ George W. Bush. Khi đó, ông Giang Trạch Dân cất cao giọng hát bài “Mặt trời của tôi” trước hàng trăm khách mời, khi đó Tổng thống Bush lập tức vỗ tay, và còn nửa đùa nửa thật mời Ngoại trưởng Colin Powell hát một điệu nhạc nhẹ, Colin Powell đã cười và lịch sự từ chối.
Trong tiệc tối, ông Giang Trạch Dân lại kéo Đệ nhất Phu nhân Mỹ Laura Bush cùng khiêu vũ, sau khi khiêu vũ xong, Giang lại lần lượt kéo Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ khi đó là bà Susan Rice và phu nhân của Đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh là Sarah cùng khiêu vũ.
giang trạch dân
Tổng thống Bush đến thăm Bắc Kinh, một tay ông Giang đẩy vợ ra sau, một tay đẩy Tổng thống Bush qua để chuẩn bị lao tới bắt tay phu nhân ông Bush (Ảnh internet)
Trong các bản tin công khai của truyền thông quốc tế, ông Giang Trạch Dân không phân thời gian và trường hợp mà làm ra những hành động kỳ quái như ngâm thơ, làm thơ, hát hò, khoe khoang tiếng Anh, trước nơi quần chúng đông người mà ngoáy mũi, nhìn chăm chăm vào cô gái trẻ đã thành điều thường thấy. Ông Giang Trạch Dân với thân phận là nguyên thủ quốc gia, nhưng khi thăm nước ngoài lại liên tục có những vụ tai tiếng, cũng đã khiến cho hình ảnh quốc gia và dân tộc mất đi sự tôn nghiêm trên vũ đài quốc tế.
Theo Trithucvn