30 tháng 10, 2018

THỬ TÌM HIỂU TẦNG LỚP TRÍ THỨC VIỆT NAM
Chu Hảo 


I. Trí thức và tầng lớp trí thức

Ở nước ta hiện nay có một số khá đông người được xã hội, hoặc tự mình, coi là trí thức. Nhưng “thế nào là một trí thức?” thì hình như chưa bao giờ được cắt nghĩa một cách rõ ràng. Có thể đã có nhiều cá nhân trí thức, nhưng những con người đơn lẻ ấy đã quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một giai tầng của xã hội như là tầng lớp trí thức chưa? Đặc điểm, tính cách của trí thức Việt Nam là gì? Vai trò và trách nhiệm của trí thức trước vận mệnh của dân tộc ta trong thời đại mới – thời đại kinh tế tri thức, thời đại hội nhập toàn cầu, là như thế nào?

Mỗi câu hỏi trên đây đều đặt ra một vấn đề thảo luận rất nghiêm túc và lý thú, có ý nghĩa quan trọng đối với việc huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong quá trình đổi mới - hội nhập - phát triển. Để đi đến đồng thuận chắc cần phải có thời gian. Ở đây chúng tôi chỉ xin đặt vấn đề và gợi mở, mong các bạn đọc cùng chia sẻ.

Ai là trí thức? Đã từ lâu, ở nước ta tồn tại một khái niệm đơn giản: Những người lao động trí óc là trí thức, chỉ cốt để phân biệt với những người lao động chân tay như công nhân và nông dân. Một quan niệm bớt đơn giản hơn một chút thì cho rằng hễ có trình độ học vấn từ cấp cao đẳng, đại học trở lên là trí thức. Trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc viết năm 1947 Hồ Chủ tịch đã dùng định nghĩa này. Theo chỗ tôi hiểu thì Người đã cố tình giải thích khái niệm này (cũng như một số khái niệm khác) một cách hết sức đơn giản, dễ hiểu, thích hợp với trình độ dân trí của nước ta thời đó. Ngày nay, chúng ta không nên quá câu nệ vào việc giữ nguyên định nghĩa này của Bác Hồ.

Thật ra ngay từ khi từ “tầng lớp trí thức” (intelligentsia) xuất hiện lần đầu tiên ở Nga vào nửa đầu thế kỷ 19, và sau đó là từ “người trí thức” (intellectuel) xuất hiện ở Pháp sau công xã Paris (1871), đã mang một ý nghĩa khá rõ ràng: đó là những người không chỉ có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết phải là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội nóng bỏng của thời cuộc. Cũng trong tinh thần cách mạng ấy Karl Marx đã coi trí thức là những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội nên họ phải là những người: “phê bình không nhân nhượng những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính quyền hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào”. Cần phải hiểu rằng ở đây Marx chỉ muốn nhấn mạnh trách nhiệm xã hội của người trí thức. “Những gì đang hiện hữu” là những bất cập của các chính sách xã hội hiện hành, chứ không thể là những chính sách hợp lý, tiến bộ. Người trí thức có năng lực phê phán và có tầm nhìn xa nên thường hay tỏ sự bất bình trước sự trì trệ và bất hợp lý một cách công khai và thẳng thắn.

Với những hiểu biết trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng tầng lớp trí thức của xã hội có thiên chức sau: 1) Tiếp thu và truyền bá tri thức khoa học & công nghệ hoặc văn hóa & nghệ thuật; 2) Sáng tạo các giá trị mới của tri thức khoa học & công nghệ hoặc văn hóa & nghệ thuật; 3) Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; 4) Dự báo và định hướng dư luận xã hội.

Trong đó, hai điểm đầu tiên là chung cho những người lao động trí óc. Còn hai điểm sau chủ yếu là riêng cho tầng lớp trí thức.

Quan niệm về trí thức trên đây là phổ quát đến với các xã hội văn minh cận, hiện đại. Riêng ở nước ta, từ khi có lịch sử thành văn cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, quan niệm này có lẽ chỉ thích hợp trong một giai đoạn phát triển ngắn ngủi, từ đầu đến giữa thế kỷ 20, khi xuất hiện tình huống giới trí thức mới (dùng chữ quốc ngữ) có cơ hội trở thành một tầng lớp xã hội khá độc lập với chính quyền về hoạt động nghề nghiệp và chính kiến. Ngoài giai đoạn này, chúng tôi e rằng chưa bao giờ ở nước ta thực sự có một tầng lớp trí thức như cách hiểu thông thường của thế giới.

Thường ở ta, trí thức được gán một cách không đúng cho những người gọi là “có học”, chỉ xuất hiện ở xã hội Việt Nam ở buổi đầu công nguyên từ khi nhà Hán du nhập Nho giáo vào Việt Nam với mục đích giáo hóa và đào tạo quan lại bản xứ. Sau khi giành được độc lập vào năm 939, các triều đại phong kiến ngày càng tôn sùng Nho giáo; và đến đời nhà Trần (thế kỷ 13) thì Nho giáo đã được coi là hệ tư tưởng chính thống cho đến hết các triều Nguyễn (đầu thế kỷ 20). Suốt gần một nghìn năm ấy chỉ có một thứ được dạy và được học (một cách có hệ thống) là Nho giáo (khác với sự chuyên biệt hạn hẹp của Phật giáo và Đạo giáo). Các Nho sĩ sau khi đỗ đạt sẽ được bổ nhiệm làm các quan lớn, nhỏ trong hệ thống cai trị của Nhà nước phong kiến. Các Nho sĩ thi trượt thì trở lại làng quê vừa dạy “chữ thánh hiền” như một kế sinh nhai, vừa “dùi mài kinh sử” đợi kỳ thi sau, đợi được đi làm quan để “cả họ được nhờ”!

Cái cơ hội “đổi đời” dường như duy nhất ấy đã tạo ra, một mặt là cái mà chúng ta vẫn thường tự ca ngợi là truyền thống hiếu học của dân ta, mặt khác, quan trọng hơn đã tạo nên sự lệ thuộc đến nô dịch của những người “có học” vào Nhà nước phong kiến. Và do đó, có thể nói rằng dưới các triều đại phong kiến ở nước ta chưa bao giờ tồn tại một tầng lớp trí thức theo cách hiểu đúng đắn của từ này. Các sĩ phu là những người “có học” có danh tiếng của các thời đại phong kiến, do vậy hầu hết cũng chỉ là các “quan văn” mang sứ mệnh “phò chính thống” mà thôi – họ không hẳn là người trí thức, hoặc tầng lớp trí thức, như cách hiểu thông thường.

Đến giữa thế kỷ 19 cùng với sự suy đồi của triều Nguyễn, sự xâm lược của thực dân Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh công nghiệp phương tây, tầng lớp Nho sĩ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc và xuất hiện những nhóm sĩ phu tiến bộ có đầu óc canh tân – tiền thân của nhóm trí thức đầu tiên của nước ta nửa đầu thế kỷ 20. Những nhân vật điển hình có thể kể đến là Vũ Tông Phan (1800-1851, cùng với Hội Hướng thiện); Nguyễn Trường Tộ (1828-1871); Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895); Nguyễn Tư Giản (1823-1890); Phạm Phú Thứ (1820- 1883), v.v. Đó chính là những sĩ phu có đầu óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 dù là theo đường lối bạo lực, như các phong trào Cần Vương (Phan Đình Phùng, 1844-1895), và Đông Du (Phan Bội Châu, 1867-1940); hay chủ trương tiến hành một cuộc cách mạng văn hóa - giáo dục như phong trào Duy Tân (Phan Châu Trinh, 1872-1920), và Đông Kinh nghĩa thục (Lương Văn Can, 1854-1927).

Vào những năm đầu của thế kỷ 20, cùng với sự tàn lụi của chế độ phong kiến và sự thiết lập chế độ của thực dân, ảnh hưởng của tư tưởng Dân chủ tư sản và khoa học - kỹ thuật phương Tây đã tràn vào xã hội Việt Nam thông qua Nhật Bản và Trung Hoa. Trong bối cảnh đó phong trào Duy Tân và Đông Kinh nghĩa thục đã quy tụ được một tầng lớp sĩ phu trí thức bao gồm các nho sĩ cách tân (Huỳnh Thúc Kháng, 1876-1947; Trần Quý Cáp, 1870- 1908; Đào Nguyên Phổ, 1861-1907, v.v.), và các trí thức mới dùng quốc ngữ và tiếng Pháp (Trương Vĩnh Ký, 1837-1898; Phan Khôi, 1887- 1960; Nguyễn Văn Vĩnh, 1882-1936; Phạm Quỳnh, 1892-1945; Nguyễn Văn Tố, 1889-1947, v.v.). Đây chính là tầng lớp trí thức đầu tiên của nước ta.

Hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra cho một số người điều kiện có chỗ đứng khá độc lập với chính quyền, có thể sống bằng nghề lao động trí óc của mình chứ không nhất thiết phải ra “làm quan”, và tiếng nói của họ càng ngày càng có uy tín trong xã hội. Họ phần đông là người hành nghề tự do như bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thầy giáo, nhà báo, nhà văn, hoạ sĩ, nhạc sĩ, và nghệ sĩ... Những phần tử ưu tú trong số đó chính là tầng lớp trí thức mới, và nhiều người đã đóng vai trò nòng cốt trong các tổ chức văn hóa hoạt động công khai. Đó là các hội, chẳng hạn Trí Tri, Khai trí Tiến đức, Truyền bá Quốc ngữ và Tự lực Văn đoàn, v.v. Là các báo hoặc tạp chí, chẳng hạn Đông Dương, Nam Phong, Tiếng Dân, Tri Tân, Thanh Nghị, Khoa học, v.v. Tình trạng này đã tiếp diễn cho đến năm 1945 khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ được tầng lớp trí thức ấy tham gia vào chính quyền cách mạng non trẻ của mình. Những nhân vật tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Phạm Khắc Hoè, Vũ Đình Hòe... (xuất thân từ các sĩ phu Nho học); Tạ Quang Bửu, Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Xiển, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên.... (xuất thân từ tầng lớp trí thức “Tây học”) đã và sẽ luôn là tấm guơng mẫu mực về phẩm tính cao quý của người tri thức.

Tiếc rằng từ đầu những năm 50 của đầu thế kỷ trước, ngay khi còn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tầng lớp trí thức của chúng ta với những nhân cách văn hoá đẹp đẽ ấy, lại rơi vào một thời kỳ phát triển đặc biệt mà chắc còn cần phải tốn nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu một cách nghiêm túc sự tồn tại và vai trò của họ trong xã hội. Thời kỳ phát triển đặc biệt này có thể phân kỳ thành ba giai đoạn 1945-1950 là thời kỳ cách mạng và kháng chiến nhưng hết sức “lãng mạn” của tầng lớp trí thức yêu nước, 1950-1965 là thời kỳ du nhập một cách hoàn chỉnh ý thức hệ đấu tranh giai cấp và phương pháp tư tưởng Maoist vào Việt Nam, qua các phong trào chính huấn tư tưởng, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, phê phán Nhân văn Giai phẩm và chống “xét lại”; 1965-1975 là thời chiến mọi nhu cầu tinh thần và các giá trị văn hóa đều hướng vào mục tiêu giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước; 1976-1986 là thời kỳ quan liêu bao cấp, đặc biệt là về mặt tư tưởng; 1986 cho đến nay là thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Mỗi giai đoạn trên đây đều có hoàn cảnh chính trị - kinh tế - xã hội khá đặc biệt đối với sinh hoạt tinh thần - tư tưởng của tầng lớp có học.

Sau giai đoạn giao thời 1945-1950, có lẽ tầng lớp trí thức trước cách mạng đã không tồn tại nữa. Từ năm 1950 trở đi tầng lớp có học ngày càng đông; các cá nhân trí thức thì lúc nào cũng tồn tại, có lúc hết sức hiếm hoi như giai đoạn 1950-1965; nhưng tầng lớp trí thức thì không tồn tại, ít nhất là cho đến trước đổi mới (1986). Từ năm 1986 đến nay tầng lớp có học có bằng cấp cao ngày càng đông nhưng phẩm tính trí thức thì chỉ thấy ở những cá nhân lẻ tẻ. Những cá nhân này ngày càng đông cùng với quá trình mở rộng dân chủ trong sinh hoạt xã hội, nhưng điều kiện để cho họ tự liên kết lại thành một tầng lớp có vị trí xác định trong xã hội dân sự thì chưa đủ.

Cần phải có những nghiên cứu nghiêm chỉnh về tầng lớp “có học” từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến nay để có được bức tranh hoàn chỉnh về trí thức Việt Nam từ khi có độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn vậy ngoài việc thống kê đầy đủ sự biến động về số lượng và tính chất hoạt động của những người có học vấn nói chung, cần phải nghiên cứu hồ sơ của những trí thức tiêu biểu qua từng thời kỳ. Hồ sơ của những người như: Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Nguyễn Đình Thi... cũng như của Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường... sẽ nói lên được rất nhiều điều đáng quan tâm.

Vì chưa có điều kiện tìm hiểu một cách có hệ thống nên ở đây chúng tôi đã không đề cập đến tầng lớp trí thức (hoặc “có học”) ở miền Nam trong giai đoạn 1954 – 1975.

II. Phẩm tính “trí thức” Việt Nam

Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách chung là: Tôn thờ lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ; Độc lập tư duy; Hoài nghi lành mạnh; và Tự do sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có bản sắc riêng. Chúng ta thường nghe nói: trí thức Trung Hoa thâm thúy (thâm nho), trí thức Nhật khiêm tốn (đến khách khí), trí thức Nga sâu sắc đôn hậu, trí thức Mỹ thực dụng, trí thức Anh lạnh lùng tỉnh táo, trí thức Pháp hào hoa phong nhã, v.v. Vậy trí thức Việt Nam có đặc điểm gì? Chúng ta đã từng nghe nói đến tính cách “phò chính thống”; và tính cách “quan văn”, tựu chung lại là tính “thích được chính quyền sử dụng”. Có nhiều người nói là tính cách “tuỳ thời”, nghe có vẻ dễ chịu hơn chữ “cơ hội” hay là “hèn” mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta không ngại ngần khẳng định. Nguyên cớ gì mà phải “hèn”? Đã “hèn” làm sao có nhân cách? Thiếu nhân cách liệu có xứng đáng là trí thức? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới “trí thức” Việt Nam chính là ở chỗ này!

Nhưng như vậy có lẽ chưa được công bằng cho lắm! Bởi lẽ, còn có một thực tế khác nữa cần phải xem xét. Đó là tính cách uyển chuyển, kết hợp “hành” và “tàng” của sĩ phu - trí thức nước nhà. Điều kiện cho phép thì bung ra hoạt động; lúc khó khăn thì tạm ẩn dật chờ thời, có khi “tàng” ngay trong lòng cường quyền với tâm trạng “cấp lưu, dũng thoái” (trước dòng nước xiết, can đảm thoái lui). Thế nhưng ranh giới giữa thái độ đúng đắn này với cái sự hèn thật là mong manh; chỉ “ Tự mình, mình biết cho mình” chứ khó lòng mà phán xét từ phía ngoài. Vậy thực sự trí thức Việt Nam có phẩm tính gì?

Phẩm tính cao quý nhất của người trí thức là Tôn thờ lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ, không bị gò bó bởi ý thức hệ, dũng cảm đấu tranh cho lẽ phải, không khuất phục trước uy quyền và không bị tha hóa bởi danh lợi. Nếu trong một xã hội có nhiều người có học vấn cao đồng thời có những phẩm tính như vậy lại liên kết được với nhau (chủ yếu bằng diễn đàn và giao lưu tư tưởng chứ không phải bằng các hội đoàn) thành một tầng lớp, thì đấy là một xã hội dân sự lành mạnh, có nhiều tiềm năng phát triển.

Tạm gác sang một bên khái niệm “tầng lớp trí thức” như cần được làm rõ ở mục I., chúng ta hãy xem xét tầng lớp những người “có học” trong giai đoạn hiện nay phù hợp với đối tượng điều chỉnh của NQTW7 khóa 10, mà từ những năm 60 thế kỷ trước được Đảng và Nhà nước coi là “tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa”. Trước Cách mạng tháng Tám, tầng lớp “có học”, như được xã hội đương thời công nhận, có thể bao gồm những người có học vấn từ trung học, thậm chí tiểu học, trở lên. Ngày nay, những người có bằng cấp từ đại học, cao đẳng trở lên, được coi là tầng lớp “trí thức”. Con số này vào khoảng 2,6 triệu. Trong đó có bằng Tiến sĩ khoảng 16 nghìn, Thạc sĩ 20 nghìn, Giáo sư khoảng 1, 2 nghìn và Phó Giáo sư khoảng 7 nghìn. Lực lượng này nằm đông nhất là trong các cơ quan quản lý của Đảng và Nhà nước, sau đó là ở các trường học, bệnh viện, các lực lượng quân đội an ninh, và doanh nghiệp. Lực lượng này cũng được tập hợp trong một số Hội hoặc Liên hiệp hội như: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn hóa và Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam...

Những nét đặc trưng của “tầng lớp trí thức XHCN” này là gì? Ngoài những đặc tính được Đảng và Nhà nước và phần nào là xã hội thừa nhận là ưu điểm, là tích cực như: Yêu Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với Đảng và Nhân dân; Cần cù, thông minh, sáng tạo; Không ngại khó khăn gian khổ... thì những tiêu cực không thể phủ nhận được là hết sức điển hình. Đó là:

1. Hời hợt trong tư duy và thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu.

2. Tính cơ hội, thực dụng và vụ lợi trong hành xử.

3. Ưa thành tích và chấp nhận sự giả dối một cách dễ dàng.

4. Thiếu tinh thần hợp tác và ít lòng vị tha.

Tất cả những mặt tiêu cực điển hình của tầng lớp có học nói trên đều xuất phát từ một nguyên nhân chính là sự mất dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, trước hết trong nội bộ Đảng, rồi từ đó trong toàn xã hội. Sự mất dân chủ này đã bắt đầu từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước, sau chiến dịch Biên giới, khi ý thức hệ đấu tranh giai cấp và phương pháp tư tưởng Mao Trạch Đông, tràn vào Việt Nam theo con đường chính thống, được một bộ phận chủ chốt của Đảng tiếp thu và áp dụng một cách rốt ráo cho đến tận trước Đại hội VI.

Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, phát huy dân chủ và tự do tư tưởng đã được Đảng đề xướng (qua chủ trương “cởi trói” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh) và được toàn dân hân hoan đón nhận, nhất là tầng lớp “có học”, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ “được cởi trói”. Nhưng tiếc rằng chỉ ít năm sau đó không khí dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng dần dần bị loãng hẳn đi cho đến trước Đại hội 10. Khi Đảng chủ trương lấy ý kiến của quần chúng đóng góp cho văn kiện Đại hội 10, bầu không khí dân chủ lại đuợc thổi vào một luồng sinh khí mới từ nhân dân. Tiếc rằng ngay sau Đại hội 10 cho đến nay, càng ngày càng có những biểu hiện đáng lo ngại về thực chất của nền dân chủ của chúng ta. Điều này được thể hiện khá rõ trong việc quản lý các hoạt động báo chí và xuất bản gần đây.

Báo chí và xuất bản là mặt tiền, là thước đo của mỗi nền dân chủ. Chúng ta muốn xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì trước hết phải xây dựng được một nền báo chí và xuất bản dân chủ và công bằng. Sách và báo chí còn là vật mang, là phương tiện trường tồn của các nền văn hóa. Chúng ta muốn có một nền văn hóa tiên tiến, thấm đượm bản sắc dân tộc thì một lần nữa, trước hết phải xây dựng được một nền báo chí và xuất bản tiên tiến và nhân bản. Những nhiệm vụ nặng nề ấy không phải của riêng ai mà của tất cả: Nhà nước, cộng đồng người viết và cộng đồng người đọc.

III. Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tầng lớp trí thức ở Việt Nam

1. Các bài học lịch sử

Khẩu hiệu “Trí, phú, địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ ”, nghe nói có từ thời Xô Viết Nghệ Tĩnh, nhưng hình như không có văn bản nào chứng tỏ đó là chủ trương chính thức của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên sau Cách mạng tháng Tám, nhất là sau Đại hội lần thứ 2, nói chung khẩu hiệu này đã được thực hiện ở các mức độ khác nhau, trừ một số trường hợp được chính phủ Cụ Hồ trọng dụng, nâng đỡ ngay từ đầu hoặc có hoàn cảnh đặc biệt mà cách mạng không thể bỏ qua. Cùng với thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chúng ta đã trả giá đến tận ngày nay cho thái độ kỳ thị của cách mạng đối với các tầng lớp trí thức, công thương gia và địa chủ.

Thái độ kỳ thị này cũng giống hệt như thái độ của những người cộng sản Nga từ sau Cách mạng tháng 10 đối với tầng lớp trí thức của nước họ. Ngay sau Cách mạng tháng 10, hàng ngàn gia đình trí thức Nga đã buộc phải lưu vong ra nước ngoài. Số còn lại hầu hết đã trở thành đối tượng của cách mạng và dần dần không còn tồn tại như một tầng lớp xã hội nữa: Số muốn giữ nhân cách trí thức thì bị đàn áp không những về mặt tư tưởng mà thậm chí bị tù tội ở các khu cải tạo; số khác tự đánh mất mình bằng thái độ “trùm chăn” hoặc cơ hội chính trị. Trong cuốn sách Về trí thức Nga (ở mục Tài liệu tham khảo) các tác giả cũng phân tích khá sâu sắc sự hình thành về phẩm chất và thái độ chính trị của tầng lớp có học (mà có người gọi là “trí thức nửa mùa”) trong suốt thời kỳ Xô Viết cũ. Họ chỉ ra rằng nhà nước Xô Viết cũ đã thực hiện chính sách “cào bằng giá trị” và “đồng nhất xã hội” để không còn tồn tại tầng lớp tinh hoa - tầng lớp trí thức không đáng tin cậy dưới con mắt của tầng lớp lãnh đạo. Một số nhỏ cá nhân trí thức tiêu biểu đã chỉ được sử dụng như những bông hoa làm cảnh cho chế độ mà thôi!

Tình trạng này không khác mấy so với các biến cố đã xảy ra ở Trung Quốc đối với tầng lớp trí thức, nhất là trong cuộc cách mạng văn hóa hồi những năm 60 và cuộc vận động dân chủ hồi cuối những năm 80. Tầng lớp trí thức ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu cũng như vậy, cũng hầu như tan rã sau những biến cố thăng trầm.

Câu hỏi được đặt ra là: Vì sao tất cả các nước theo xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của các Đảng Cộng sản đều có một kết cục như nhau đối với tầng lớp trí thức như vậy? Câu trả lời có thể là: Vì trong tất cả các nước ấy đã không thực sự có tự do ngôn luận và tự do tư tưởng. Tình trạng đó đã bắt đầu từ khi Lenin áp dụng nguyên tắc Tập trung Dân chủ trong Đảng Cộng sản Nga trước và sau Cách mạng tháng 10 và trở thành truyền thống của các Đảng Cộng sản. Thay vì Dân chủ Tập trung, tức là trước hết phải thực hành Dân chủ, tôn trọng các ý kiến khác nhau kể cả khi tuân theo nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưói phục tùng cấp trên, v.v. các Đảng Cộng sản đã áp dụng nguyên tắc Tập trung là chủ yếu, Dân chủ chỉ là thêm vào. Sau khi nắm chính quyền, nguyên tắc Tập trung Dân chủ sai lầm này lại được áp dụng trong toàn bộ máy Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.

Cơ chế mất dân chủ này đã xiết chặt cái “vòng kim cô” mất lập trường giai cấp và chệch hướng XHCN lên toàn bộ sinh hoạt tinh thần - tư tưởng trong nội bộ Đảng và toàn xã hội ở tất cả các nước đã áp dụng mô hình chủ nghĩa theo kiểu Xô Viết.

Cơ chế mất dân chủ với cái “vòng kim cô” ấy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước ta đặc biệt từ khi giải phóng miền Nam: Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng dân vẫn chưa quy tụ về một mối, khối đại đoàn kết dân tộc không được như chúng ta mong muốn, nhiều khi không có sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề quan trọng của đất nước.

2. Quan điểm và định hướng

Trong quan điểm và định hướng nhất thiết chúng ta phải khẳng định rằng: Cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho tầng lớp trí thức thực thụ được hình thành và phát triển như Nghị quyết của Trung ương Đảng về Xây dựng đội ngũ trí thức đã nêu rõ. Muốn vậy, điều cốt lõi là phải thực hành nghiêm chỉnh chế độ dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng.

Phát huy dân chủ phải được đặt trên nền tảng mục đích chung của dân tộc là xây dựng một quốc gia “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Mục đích chung ấy là quyền lợi của dân tộc, phải được đặt lên trên hết, trên mọi chủ thuyết, mọi ý thức hệ và mọi lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau.

Dân chủ không phải là sản phẩm chỉ của phương Tây (dù là Hy Lạp cổ đại hay Tây Âu và Bắc Mỹ hiện đại) mà là sản phẩm của cả nhân loại, trong đó có phương Đông. Phật giáo hết sức đề cao Đối thoại và Khoan dung, là cốt lõi sâu xa của Dân chủ. Dân chủ là một chế độ, trong đó mọi công dân thực có quyền được nhận xét, phê phán và chất vấn trực tiếp các cấp lãnh đạo (ở nước ta là của Đảng và của Nhà nước). Đúng như lời của Nelson Mandela nói: “Bất cứ ai muốn phát biểu có thể được nói. Đó là Dân chủ trong hình thức thuần tuý nhất. Có thể không tránh khỏi tình trạng dẳng cấp giữa vị trí quan trọng của người này với người kia, nhưng dù là lãnh tụ hay dân thường, tướng tá hay thày thuốc, buôn bán hay nông dân, đại chủ hay tá điền, người nào cũng được nói... chính đó là nền tảng của Dân chủ: Tất cả mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến của mình và tất cả đều bình đẳng như là công dân ”.

Định hướng quan trọng nhất mà chúng ta cần là phải làm rõ nội dung công thức “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói: “Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay cũng vẫn được nhắc lại như cũ. Nếu không làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn lâm vào tình trạng nói một đằng làm một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi sẽ lại phạm vào những sai lầm trong việc đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, trong khi thường xuyên nói đến công thức kể trên như một cách để nói, chứ không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy. Thực chất nội dung của công thức đó chính là đảm bảo quyền Dân chủ trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do Dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp của Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.

Rút kinh nghiệm từ những bài học lịch sử, căn cứ vào những quan điểm và định hướng kể trên, để nâng cao chất lượng thực hành Dân chủ đối với đội ngũ trí thức (hay là “có học” như nói ở trên) cần thiết phải có các giải pháp sau đây:

3.1. Trước hết phải thực hành Dân chủ ở trong nội bộ Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, trên thực tế Đảng lãnh đạo và chi phối toàn bộ hoạt động của xã hội. Nếu trong Đảng mà không thực sự có Dân chủ thì ngoài xã hội không thể có Dân chủ.

Trước hết trong Đảng phải thực sự tôn trọng nguyên tắc Dân chủ Tập trung chứ không phải Tập trung Dân chủ. Đại hội đại biểu của Đảng là cơ quan quyền lực cao nhất, sau đó đến Ban chấp hành Trung ương, rồi mới tới Bộ Chính trị. Nguyên tắc này lâu nay bị vi phạm, thường là Bộ Chính trị có quyền hạn tuyệt đối không những trong nội bộ Đảng, mà còn đối với mọi vấn đề quan trọng nhất của Nhà nước mà lẽ ra phải là trách nhiệm của Quốc hội.

Trong nội bộ Đảng, mọi Đảng viên nên đều phải được phát biểu và bảo vệ chính kiến của mình song song với nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cần phải tôn trọng và tạo mọi điều kiện để ý kiến của thiểu số được thảo luận một cách công khai và bình đẳng.

Cơ chế dân chủ trực tiếp cần phải được phát huy tối đa trong các cuộc bầu cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Việc bổ nhiệm đảng viên vào các vị trí lãnh đạo trong hệ thống Nhà nước phải được tiến hành một cách dân chủ hơn. Không áp đặt tiêu chuẩn cấp uỷ Đảng vào tiêu chuẩn lãnh đạo các cấp nhà nước. Một vị trí lãnh đạo nhà nước có thể tiến cử hai Đảng viên có ý kiến khác nhau về chủ trương về cách thực hiện để Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước lựa chọn, v.v.

Chỉ trong những điều kiện tối thiểu như trên thì tầng lớp trí thực thực thụ của nước ta mới có thể tự hình thành và phát triển một cách lành mạnh được.

3.2. Phải từng bước xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh.

Trong điều kiện chế độ chính trị có một Đảng lãnh đạo, những khiếm khuyết do chế độ toàn trị gây ra có thể được khắc phục, điều chỉnh một cách hữu hiệu bằng xã hội dân sự. Xã hội dân sự lành mạnh là đối trọng, chứ không phải là đối lập với Nhà nước. Sự đồng thuận xã hội được giải quyết chủ yếu thông qua xã hội dân sự.

Trước mắt phải xây dựng được một Luật về Hội. Các hội nghề nghiệp và quần chúng là thành phần quan trọng nhất của xã hội dân sự. Quyền tự do thành lập Hội được ghi trong Hiến pháp phải được thể hiện đầy đủ trong Luật về Hội.

Chỉ trong một xã hôi dân sự lành mạnh như vậy tầng lớp trí thức mới phát huy được phẩm tính trí thức của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3.3. Phải thực sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận của công dân như được ghi trong Hiến pháp.

Tự do ngôn luận là quyền được bình đẳng phát biểu công khai ý kiến của mỗi công dân. Đó là cốt lõi của Dân chủ, không có tự do ngôn luận thì không thể dân chủ.

Báo chí và xuất bản sách là công cụ chủ yếu để thực hiện tự do ngôn luận. Luật về Báo chí và Xuất bản cần được cải thiện hơn nữa, hướng tới chấp nhận nền báo chí và xuất bản tư nhân và mỗi cá nhân tự chịu trách nhiệm về các ấn phẩm của mình.

Không có tự do ngôn luận thì những người “có học” chỉ có thể là những người lao động trí óc (thậm chí rất giỏi) nhưng không thể trở thành một tầng lớp trí thức mà các xã hội văn minh coi là tinh hoa.

Hà Nội, tháng 6 năm 2010
CHU HẢO

27 tháng 10, 2018

Đừng để đảng Cộng sản đuổi ra

Lý Trần

26-10-2018
Tự nguyện từ bỏ ĐCS là một chuyện, nhưng bị ĐCS đuổi ra lại là chuyện hoàn toàn khác.
Cho đến nay mới có một số đảng viên CS từ bỏ ĐCSVN, như đại tá nhà văn Phạm Đình Trọng, Nguyễn Đình Cống, … Còn lại, các đảng viên CS khác nằm im nghe ngóng mặc dù họ đều biết cái ĐCSVN của họ chỉ là một đảng của một lũ quan chức tham nhũng, độc đoán, và tư tưởng hủ bại.
Vì sao?
Lý do rất khác nhau, từ miếng ăn rất nhỏ đến những món lợi kếch sù. Họ là những đảng viên CS từ cấp thấp nhất “chân đất mắt toét”, đang thỉnh thoảng được mua chuộc bằng vài trăm nghìn mỗi dịp ngày nọ ngày kia, đến những ĐV bị ám ảnh bởi nỗi sợ “ảnh hưởng đến con cái” vì các trò bẩn của ĐCS và CA, đến cái danh hão mà ĐCS trao cho, v.v…
Tham và sợ vẫn là hai lý do chính để nhiều đảng viên chán đảng mà không dám tự ra khỏi đảng.
Những người như ông Tương Lai, Nguyễn Trung, và nhiều người từng là cận thần của chế độ CS, … là những người hiểu và từng phát biếu về sự đồi bại của thể chế CS mà LX và tất cả các nước Đông Âu đã tố cáo và kiên quyết loại bỏ. Nhưng họ vẫn không dám từ bỏ ĐCS.
Khi ông Tương Lai bỏ “dáng của ông Trọng”, mọi người trông đợi ở ông một ngọn cờ nào đó cho sự thay đổi vì tương lai con cháu, vì một xã hội thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ CA, … Nhưng hóa ra ông muốn quay về với Đảng Lao động, tiền thân của ĐCS. Mọi người thất vọng và thấy đất nước này còn lầm than lâu dưới bàn tay của những ông già lẩm cẩm và u mê. Giờ đây ông Trọng nắm trọn cả chức Chủ tịch nước. Với cái vốn gọi là “kiến thức” về Mác-Lê, không biết ông và đảng của ông định giam hãm con cháu Việt Nam trong tăm tối đến bao giờ.
Ông và đảng của ông kiên định không … diễn biến để thành người.
Chừng nào các ông bà đảng viên CS không tự từ bỏ cái Đảng tham nhũng này như một số người từng làm, thì ĐCS vẫn hiểu rằng họ vẫn là cha mẹ các vị.
Trong cái bình đầy chuột ấy, đa số các vị chỉ là những con chuột đói, thỉnh thoảng được hột rơi hột vãi của lũ chuột bự thải ra.
Môi trường xã hội, môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến tất cả mọi người, không trừ một ai, nếu một lúc nào đó các vị dũng cảm hé răng lên tiếng bảo vệ môi trường, chống lại lũ quan tham và chính quyền mafia đang đục khoét đất nước, các vị sẽ được gắn cho cái mác “suy thoái đạo đức”, “tự diễn biến  …”. Một khi đảng viên CS, nhất là những người có ảnh hưởng, tự nguyện ra khỏi đảng với số lượng lớn, nó sẽ có tác động tích cực.
Thân phận đảng viên Chu Hảo sẽ là thân phận chung của nhiều vị đã được lên danh sách vào lò … vặt lông, làm thịt.
Các vị đợi đến ngày bị đuổi thì mới ra hay sao?
Bình Luận từ Facebook

26 tháng 10, 2018

Nhà văn Nguyên Ngọc tuyên bố ra khỏi đảng
TUYÊN BỐ RA KHỎI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tôi đã suy nghĩ và định làm việc này từ lâu, nhưng muốn làm một cách bình thường, không gây ồn ào. Nay sau việc Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng kỷ luật PGS.TS. Chu Hảo, tôi quyết định ra tuyên bố này, chính thức từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ hôm nay. Tức nhân dịp này tuyên bố một quyết định đã chuẩn bị từ trước, đồng thời để tỏ rõ thái độ đối với thông báo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
PGS.TS. Chu Hảo là một trí thức lớn, có công lớn với đất nước và dân tộc, đặc biệt trong công cuộc khai hóa bằng Tủ sách Tinh Hoa của Nhà xuất bản Tri Thức mà ông là Giám đốc, Tổng biên tập, đưa đến cho người đọc những tri thức căn bản nhất của nhân loại mà chúng ta nhất thiết phải biết, hiểu, nếu muốn thật sự xây dựng một quốc gia văn minh, tiến bộ, cùng thiên hạ năm châu. Tôi vinh dự và tự hào là bạn thân của ông, đã cùng ông làm việc và tham gia các hoạt động xã hội trong nhiều năm nay.
Kỷ luật ông Chu Hảo thực chất là một hành động thực hiện chính sách ngu dân, kìm hãm nhân dân trong vòng tăm tối, để dễ lừa dối và đàn áp, vì quyền lợi ích kỷ của một đảng độc tài đang cướp quyền sống và phát triển của dân tộc. Kỷ luật ông Chu Hảo với những lý do đầy tính chất vu khống còn là hành vi có chủ tâm đánh vào những người trí thức yêu nước, có tài và có tâm, luôn hành động và phát ngôn theo lương tâm của mình. Việc làm thất nhân tâm này tất sẽ dẫn đến tình trạng “sĩ phu ngoảnh mặt”, hết sức nguy hiểm cho vận mệnh dân tộc.  
Tôi vào Đảng Lao Động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) từ năm 1956, đến nay đã 62 năm. Thế hệ chúng tôi tự nguyện gia nhập Đảng vì yêu nước, hăng hái tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tôi đã có mặt suốt cả hai cuộc kháng chiến, đều ở chiến trường miền Nam.
Từ nhiều năm qua, tôi nhận thấy Đảng ngày càng xa rời lý tưởng ban đầu của mình, “tự diễn biến” thành một tổ chức chuyên quyền, phản dân hại nước. Tôi không thể còn đứng trong một tổ chức như vậy.
Tôi vẫn tin ở tương lai của đất nước, nhất là ở lớp trẻ, vì không có lực lượng vô luân nào có thể ngăn trở dân tộc này quyết định vận mệnh của mình.
Nguyên Ngọc
Ngày 26-10-2018

25 tháng 10, 2018

GS. Chu Hảo bị đề nghị kỷ luật vì ‘suy thoái tư tưởng chính trị’, trí thức phản ứng 


Giáo sư Chu Hảo.
Thông tin này đã gây chấn động trong giới trí thức Việt Nam. Một nhà quan sát nói với VOA rằng với quyết định này, Đảng Cộng sản đã “dấn thêm một bước tự chôn mình”, trong khi một trí thức khác lo ngại sẽ “quá muộn” một khi “những cơn bão sự thật” ập đến.

Sách trái quan điểm

Truyền thông nhà nước ngày 25/10 dẫn thông cáo báo chí của Ủy ban Kiểm tra Trung ương nói rằng: “Với cương vị là Giám đốc-Tổng biên tập, đồng chí Chu Hảo chịu trách nhiệm chính về việc Nhà xuất bản Tri Thức xuất bản một số cuốn sách có nội dung trái với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, vi phạm Luật Xuất bản, bị cơ quan chức năng xử lý, thu hồi và tiêu hủy”.

Theo tìm hiểu của VOA, những cuốn sách bị xem là “trái quan điểm” của Đảng là những sách về triết học, chính trị-kinh tế học như “Bàn về tự do” của John Stuart Mill, “Khảo Luận Thứ Hai Về Chính Quyền” của John Locke, “Nền Dân Trị Mỹ” của Alexis De Tocqueville…

Những cuốn sách này vẫn được giới trí thức Việt Nam xem là “tinh hoa” tri thức mà NXB Tri Thức cố gắng mang đến cho người dân Việt Nam.

“NXB Trí Thức định mang cho mọi người một chút ánh sáng nhưng bây giờ cũng không làm được. Cuộc đời rồi sẽ được những cơn bão táp của sự thật vả vào mặt thì đó sẽ là bài học ghê gớm. Lúc bấy giờ mới ngồi đọc sách thì đã muộn rồi”, nhà giáo Phạm Toàn, một người rất có tâm huyết với nền giáo dục Việt Nam, nói với VOA.

“Sách hay thì bao giờ cũng đụng chạm đến sự lạc hậu. Sách hay bao giờ cũng mở mang đầu óc con người, và sự lạc hậu thì khó chịu. Sách hay bao giờ cũng làm cho bọn phát xít sợ”, nhà giáo Phạm Toàn nói thêm.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS), tổ chức quy tụ những tên tuổi nghiên cứu hàng đầu Việt Nam đã bị nhà nước giải tán, trong đó có GS. Chu Hảo, nói rằng GS. Chu Hảo là người có công rất lớn với dân tộc, đất nước Việt Nam.

“Giáo sư Chu Hảo là một người có tiếng, là người quản lý nhà nước rất giỏi. Thời ông làm Thứ trưởng Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường, ông đã có công rất lớn trong việc giúp nhà nước hoạch định chính sách phát triển công nghệ cũng như khoa học, kỹ thuật, nhất là việc đưa internet vào Việt Nam”.

“Sau khi nghỉ hưu, ông đã tích cực hoạt động tham gia vào hoạt động truyền bá kiến thức với tư cách làm Giám đốc-Tổng biên tập NXB Tri Trức. Ông đã có công rất lớn với dân tộc Việt Nam là đã xuất bản những tác phẩm rất có giá trị trên thế giới trong Tủ sách tinh hoa của NXB. Tôi cho đó là cái công rất lớn”.

Quyết định đi ngược lợi ích đất nước

Trong thông cáo báo chí, Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho rằng vi phạm của GS. Chu Hảo là “rất nghiêm trọng”. Ngoài việc xuất bản sách trái quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, ông Chu Hảo còn có “những bài viết, phát ngôn có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng…”. Ủy ban này kết luận rằng ông Chu Hảo đã “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’” và đề nghị phải xem xét, thi hành kỷ luật đối với ông Chu Hảo.

Thông tin về việc kỷ luật ông Chu Hảo đã gây chấn động dư luận Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức.

TS. Nguyễn Quang A nói ông “thất vọng” với quan điểm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng Cộng sản. Ông nói “Quyết định như thế là đi ngược lại hoàn toàn với lợi ích lâu dài của đất nước Việt Nam”.

Ông cho rằng những đóng góp, “công lớn” của GS. Chu Hảo lâu nay đã bị “những người đầu óc rất thủ cựu của đảng Cộng sản coi là sai lầm, khuyết điểm”.

“Với quyết định này, đảng Cộng sản Việt Nam đã dấn thêm một bước tự chôn mình”, TS. Nguyễn Quang A nói thêm.

Còn nhà giáo Phạm Toàn nói: “Anh Chu Hảo năm nay đã 80 tuổi. Nếu anh ấy bị kỷ luật thì là vì anh ấy tốt quá, khác với những người được khen hoặc những người bị kỷ luật khác vì họ tồi quá”.

Giáo sư Chu Hảo sinh ngày 15/5/1940. Ông từng đi học ở Liên Xô, làm việc tại Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên của của Nga, sau đó sang Pháp làm luận án tiến sĩ. Ông được phong hàm Giáo sư năm 1983.

Ông từng đảm nhận các chức vụ Viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghệ Quốc gia, Chánh văn phòng Chương trình quốc gia về phát triển Công nghệ Thông tin, Thứ trưởng Bộ KHCN.

Năm 2005, ông được tặng Huân chương Quốc công của Pháp.

Sau khi về hưu, ông làm Giám đốc-Tổng biên tập NXB Tri Thức.

Khánh An

(VOA)

20 tháng 10, 2018

CẢNH BÁO :

 Đừng tự mình chui dần vào rọ
Tổng thống Nga Putin đang thúc đẩy thanh toán song phương không sử dụng đồng Đô la do bị Mỹ và phương Tây cấm vận quá ngặt nghèo. Nhưng đó là thanh toán qua ngân hàng. Khác xa với thanh toán tiền mặt ở biên giới Việt – Trung mà Thông tư số 19/2018TT-NHNN pháp định hóa. Hệ lụy của Thông tư số 19/2018TT-NHNN đang còn trùng điệp phía trước mà những người cho ra đời nó không thể tiên liệu hết.


Hình minh họa
Đúng một tuần, Thông tư số 19/2018TT-NHNN ngày 28/8/2018 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có hiệu lực. Không phải gió Bấc mà cái rét ớn tủy xương của đồng Nhân dân tệ đang bắt đầu tràn qua biên giới.

Thông tư số 19/2018TT-NHNN cho phép bắt đầu từ ngày 12/10/2018 được thanh toán đồng Nhân dân tệ (CNY) của Trung Quốc, bằng tiền mặt hay qua ngân hàng, trong thương mại biên giới Việt – Trung. Dẫu rằng có điều kiện hạn chế, nhưng thực chất đây là quyết định mở một phần cánh cửa biên giới để đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc có thêm chiếc ô hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam.

Thông tư số 19/2018TT-NHNN là hiện thực hóa điều 8 của Hiệp định thương mại biên giới giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung quốc ký ngày 12/9/2016 tại Bắc Kinh. Điều 8 quy định thanh toán bằng tiền Việt Nam, hay tiền Trung Quốc, hay ngoại tệ chuyển đổi cho thương mại biên giới Việt -Trung.

NHỮNG TỰ AN ỦI MONG MANH

Dẫu có người biện hộ rằng, Thông tư số 19/2018TT-NHNN “phù hợp với thực tiễn thanh toán thương mại biên giới Việt – Trung” và “đã có những quy định tương tự từ 24 năm trước đây như Thông tư số 06/TT-NH8 ngày 18.3.1994 cũng như Quyết định số 689/2004/QĐ-NHNN ngày 7.6.2004 của Ngân hàng Nhà nước”, nhưng trên thực tế về bản chất, Thông tư số 19/2018TT-NHNN phá bỏ vị thế duy nhất của Đồng tiền Việt Nam theo quy định của Hiến Pháp. “Phù hợp với thực tiễn thanh toán thương mại biên giới Việt – Trung” không có nghĩa là bắt Hiến Pháp phải thay đổi theo thanh toán biên giới Việt – Trung.

Ở mặt khác, Thông tư số 19/2018TT-NHNN đã bỏ qua các nguyên tắc quản lý tài chính kinh điển của một quốc gia có chủ quyền, không tồn tại trong thực tiễn hoạt động tài chính của các quốc gia văn minh hiện đại.

Mặc dù Thông tư số 19/2018TT-NHNN đã đưa ra những điều kiện hạn chế, và rằng đồng Nhân dân tệ chỉ được lưu thông cho thương mại biên giới Việt -Trung, thì trên thực tế, trong trạng thái xã hội bây giờ, đồng Nhân dân tệ sẽ lưu thông từ Lạng Sơn qua Nha Trang cho đến Phú Quốc, trên khắp các tỉnh thành cả nước. Ở đâu người Trung Quốc đến, ở đó đồng Nhân dân tệ lưu hành.

Còn nữa là hai tự an ủi mong manh sau đây.

Một là, cho rằng Thông tư số 19/2018TT-NHNN y hệt như đã cho phép đồng Kip của Lào và đồng Riel của Campuchia đã được phép lưu thông ở biên giới.

Hai là, Thông tư số 19/2018TT-NHNN cho phép thương nhân Trung Quốc sử dụng tiền VN bình đẳng như phía Trung Quốc cho phép thương nhân VN sử dụng đồng Nhân dân tệ của TQ.

Biết rằng, trong quan hệ quốc tế tồn tại nguyên tắc “có đi có lại”. Cụ thể là “điều kiện cho anh như thế nào thì điều kiện cho tôi như thế đấy”. Về mặt ngôn từ và số học thì đây là điều kiện bình đẳng. Nhưng thực ra thì không hẳn như vậy.

Để dễ hiểu hơn, lấy thí dụ về giảm vũ khí hạt nhân. Nếu nước A có 10 000 đầu đạn hạt nhân và nước B có 5000 đầu đạn hạn nhân với công suất mỗi đầu đạn hạt nhân như nhau. Áp dụng quan hệ “có đi có lại”, “điều kiện cho anh như thế nào thì điều kiện cho tôi như thế đấy”, mỗi nước cắt giảm đi 4000 đầu đạt hạt nhân. Rõ ràng là sòng phẳng như nhau. Nhưng chắc chắn là nước B không đồng ý, vì đã ở thế bất lợi còn bị đẩy vào thế bất lợi hơn.

Viện dẫn ra điều trên, để thấy được:

Cho đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc, đồng Kíp của Lào, đồng Riel của Campuchia lưu thông ở biên giới cùng một văn bản y hệt nhau mà thực tế lại không như nhau.

Cho thương nhân VN tiêu tiền TQ và thương nhân TQ tiêu tiền VN y hệt điều kiện mà hóa ra lại không bình đẳng.

Không như nhau bởi vì đồng Nhân dân tệ khuynh đảo được thị trường Việt Nam mà Kip và Riel thì không có thể. Còn VN Đồng lại càng không thể “sủi bọt” ở thị trường TQ.

Không bình đẳng vì lượng hàng hóa của Trung quốc bán sang Việt Nam thì nhiều vô kể mà lượng hàng hóa của Việt Nam bán sang Trung quốc lại nhỏ nhoi đến mức tủi lòng.

Vì thế, không chỉ không như nhau, không chỉ không bình đẳng, mà cho đồng Nhân dân tệ lưu thông trong bất cứ hạn chế nào trái với thông lệ quốc tế, là nguy hiểm cho Việt Nam.

Dưới đây là 11 hệ lụy nguy hiểm của Thông tư số 19/2018TT-NHNN.

I. 11 HỆ LỤY NGUY HIỂM CỦA THÔNG TƯ SỐ 19/2018TT-NHNN

1. TỰ NGUYỆN TỪ BỔ LỢI ÍCH TÀI CHÍNH HỢP PHÁP THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ

Khi đi đến một quốc gia nào bạn chỉ có thể sử dụng được đồng tiền của quốc gia đó. Bạn buộc phải đổi tiền. Sang Thái Lan phải tiêu bằng đồng Bạt. Sang Singapore phải dùng đồng Đô la Singgapore. Đến Liên minh Châu Âu phải dùng đồng Euro…

Đến phải đổi tiền – mất phí chuyển đổi. Đi phải đổi tiền – lại mất phí chuyển đổi. Tối thiểu là hai lần mất phí chuyển đổi cho nước mình đến.

Một quốc gia có nhiều khách nước ngoài mua hàng hóa và đến du lịch hay công tác sẽ thu được một khoản lợi khổng lồ từ tác nghiệp chuyển đổi ngoại tệ.

Nay Thông tư số 19/2018TT-NHNN NHNN cho phép thương nhân biên giới, cả người VN lẫn TQ được thanh toán CNY trực tiếp mà không qua chuyển đổi sang tiền Việt Nam, tức là đã từ bỏ lợi ích chuyển đổi ngoại tệ hợp pháp mà tất cả các nước đều thực thi, một quyết định mang lại tổn thất tài chính không nhỏ cho Việt Nam. Nhớ rằng hàng hóa TQ xuất sang VN lớn hơn nhiều so với hàng hóa VN xuất sang TQ. Cho nên thương nhân TQ có được lợi thế nhiều hơn thương nhân VN.

Như vậy, Thông tư số 19/2018TT-NHNN thêm một lần nữa minh chứng sự tùy tiện lạc lõng của Việt Nam trong tiến trình phát triển của nhân loại. Đừng viện vào những nước nghèo ở châu Phi. Mà hãy học theo các nước phát triển.

2. THÚC ĐẨY BUÔN LẬU

Nếu trước đây, mọi tác nghiệp mua bán phải thanh toán qua ngân hàng, thì Thông tư số 19/2018TT-NHNN sẽ góp phần hợp pháp hóa hàng buôn lậu. Vì tất cả các hàng hóa buôn lậu sẽ được trả tiền trực tiếp tay đôi giữa hai bên mua bán, mà không qua ngân hàng, không phải lo tìm cách cách đổi và chuyển tiền lậu qua biên giới.

Có người phản bác rằng, theo quy định của Thông tư số 19/2018TT-NHNN thì chỉ được giữ đồng CNY trong 7 ngày là phải nộp vào ngân hàng. Chưa có Thông tư số 19/2018TT-NHNN mà đồng CNY đã nghênh ngang trên thị trường, huống chi là cho phép mang công khai đồng CNY trong 7 ngày. Sau 7 ngày không nộp, trong 7 ngày làm được những thương vụ gì? – hãy tự đi buôn, hay hỏi thương nhân thì khắc biết.

Lại lập luận rằng cầm đồng CNY là chỉ có thương nhân pháp nhân Việt Nam ở biên giới được phép. Người Trung Quốc có thể trở thành thương nhân pháp nhân Việt Nam ở biên giới không? Hằng hà sa số!

Sau Thông tư số 19/2018TT-NHNN, hàng hóa Trung Quốc buôn lậu sang Việt Nam sẽ tăng lên và đạt những con số còn khủng khiếp hơn. Nhất là trong bối cảnh Mỹ đánh thuế gắt gao lên hàng hóa xuất xứ Trung Quốc, buộc Trung Quốc phải đùn hàng hóa sang các thị trường khác. Thông tư số 19/2018TT-NHNN là một thang thuốc chống lưng cho Trung Quốc cầm cự với Mỹ trong cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung.

3. TỔN THẤT VỀ THU THUẾ

Không chỉ mất phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch thương mại, Chính phủ Việt Nam còn mất một khoản thu lớn nữa do không thể đánh thuế lên hàng hóa buôn lậu. Mà khối lượng này sẽ mỗi ngày một tăng, đạt con số hàng chục tỷ USD hàng năm. Chính phủ đang thiếu tiền, mà lại chủ động từ bỏ nguồn thu thuế chính đáng này để tận thu ở những khoản khó khăn khác. Quả là đường quang không đi lại quàng vào bụi rậm.

4. KHÔNG KIỂM SOÁT ĐƯỢC THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA

Công dân Liên minh châu Âu đến Thụy Sĩ không cần Visa và ngược lại. Lưu thông giữa Thụy sĩ và Liên minh châu Âu không khác gì một khối thống nhất. Vậy mà đồng Euro phải chuyển đổi sang đồng Franc Thụy Sĩ nếu muốn tiêu ở Thụy Sĩ. Vì thế Thụy Sĩ kiểm soát hoàn toàn nguồn hàng hóa bán ra mua vào trên lãnh thổ của mình qua đồng Franc Thụy Sĩ.

Nay người Trung quốc sang Việt Nam tiêu tiền Trung Quốc thì Bộ Công Thương không kiểm soát được thị trường. Kéo theo Chính phủ Việt Nam không thể kiểm soát được nguồn hàng hóa mua vào bán ra. Còn Tổng cục thống kê không thể đưa ra số liệu sát thực về tổng sản phẩm xã hội.

5. MẤT QUYỀN KIỂM SOÁT VÀ ĐIỀU HÀNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Cùng với mất quyền kiểm soát hàng hóa là mất quyền kiểm soát tài chính. Bộ Tài chính sẽ không kiểm soat được dòng tiền. Nguy hiểm hơn,Thông tư số 19/2018TT-NHNN đã tự nguyện san sẻ quyền điều hành nguồn tài chính cho Trung Quốc.

6. TRỞ THÀNH THỊ TRƯỜNG THUỘC ĐỊA CỦA TRUNG QUỐC

Nếu trước đây, hàng hóa Trung quốc đã tràn ngập Việt Nam, nhưng giao dịch chính thức vẫn bằng đồng tiền Việt Nam thì Việt Nam vẫn giữ được chủ quyền thị trường của mình.

Ba nhân tố cơ bản để hình thành nên thị trường là con người, hàng hóa và tiền tệ. Trung Quốc đã có hàng hóa và con người tràn ngập thị trường Việt Nam. Điều Trung Quốc đang thiếu là tiêu đồng Nhân dân tệ hợp pháp tại Việt Nam.

Nay với Thông tư số 19/2018TT-NHNN thì tiền Trung Quốc được giao dịch tại thị trường Việt Nam. Từ đây, về mặt pháp ly, lý luận và thực tế, một phần lãnh thổ Việt Nam đã trở thành thị trường của Trung Quốc.

Như vậy Thông tư số 19/2018TT-NHNN là phép mở rộng biên giới thị trường Trung Quốc sang lãnh thổ Việt Nam. Trên cùng một thị trường cùng có hai đồng tiền của hai quốc gia được lưu thông, thì một trong hai sẽ là thị trường thuộc địa. Nghĩa là, một phần lãnh thổ Việt Nam, nơi đồng Nhân dân tệ được hợp pháp lưu thông, đã trở thành thị trường thuộc địa của Trung Quốc.

Đừng bào chữa bằng thị trường Đô La chợ đen. Một đằng là hợp pháp. Một đằng là bất hợp pháp.

7. TIẾP TAY CHO THAM NHŨNG

Những người quyết định ra đời Thông tư số 19/2018TT-NHNN, cho phép đồng Nhân dân tệ lưu thông tự do hợp pháp tại khu vực biên giới Việt – Trung, có thể đã không dự liệu được một hậu quả nguy hại khác, đó là tiếp tay cho tham nhũng phát triển.

Ai cũng biết doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu là nhờ vào hối lộ. Không chỉ ở Việt Nam mà khắp mọi nơi trên thế giới. Như tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã lưu ý, doanh nghiệp Trung Quốc sẵn sàng lại quả tối thiểu là 30% “tiền tươi”. Đó là trong thời kỳ đồng tiền phải chuyển qua ngân hàng, mọi giao dịch bị kiểm soát trên bảng thanh quyết toán. Việc rút tiền mặt hối lộ phải biến hình qua nhiều công đoạn tinh vi, để tránh sự phát hiện của chế tài chống tham nhũng.

Nay đồng Nhân dân tệ lưu thông và chuyển đổi tự do hợp pháp trên thị trường Việt Nam thì các doanh nghiệp Trung Quốc tha hồ đút lót mà không sợ bị phát hiện, không phải vất vả thu xếp nguồn tiền. Một cách vô tình, Thông tư số 19/2018TT-NHNN đã trở thành vũ khí tiếp tay cho tham nhũng.

8. GIÚP CHO TRUNG QUỐC THÂU TÓM CÁC DỰ ÁN KINH TẾ

Xa hơn, Thông tư số 19/2018TT-NHNN là phương tiện giúp cho Trung Quốc thắng thầu các dự án kinh tế trọng điểm, thao túng đấu thầu cổ phiếu để sở hữu các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trong tiến trình cổ phần hóa. Nguy hiểm nữa là tăng cơ hội giúp cho Trung Quốc thâu tóm đất đai.

9. THAO TÚNG TIỀN TỆ VÀ ĐE DỌA PHÁ GIÁ TIỀN VIỆT NAM

Những điều nêu trên chưa phải là tất cả. Một ‘bí kíp” trong “liên hoàn cước” hạ đo ván Việt Nam của Trung Quốc đang được cất dấu. Đó là khi Trung Quốc nhờ Thông tư 19/2018TT-NHNN mà dự trữ được một lượng lớn tiền Việt Nam ngoài ngân hàng, và một lượng khổng lồ đồng Nhân dân tệ trên thị trường Việt Nam, ngoài tầm kiểm soát của NHNN Việt Nam, thì một phép chuyển đổi tiền tệ của Trung Quốc sẽ là cú đấm thôi sơn lên nền tài chính hom hem của Việt Nam, làm đồng tiền Việt Nam mất giá theo ý muốn của Trung Quốc.

10. ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN KIỂM SOÁT NỀN KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ

Khi mà Bộ Tài chính không kiểm soát được thị trường tài chính, khi mà Bộ Công Thương không kiểm soát được thị trường hàng hóa, khi mà Tổng cục thống kê không có số liệu chính xác về tổng sản phẩm xã hội, thì thử hỏi Chính phủ có kiểm soát được nền kinh tế quốc dân không? Đó là chưa nói đến các bất lực khác đã đề cập ở trên: bị thâu tóm các dự án kinh tế, bị thao túng đấu thầu cổ phần hóa, bị đe dọa phá giá đồng tiền Việt Nam ngoài ý muốn của Chính phủ.

11. ĐE DỌA AN TOÀN XÃ HỘI VÀ AN NINH QUỐC GIA

Còn nữa là những cú đâm lén.

Cứ nghĩ đến đặc khu Vân Đồn và quyết định của NHNN Việt Nam cho lưu thông đồng Nhân dân tệ trong thương mại biên giới Việt – Trung mà rùng mình.

Rồi đây các băng nhóm tội phạm chạy từ Trung Quốc sang, cùng với hoạt động của xã hội đen, sẽ đem đến bất an cho toàn xã hội.

Rồi đây thương nhân Trung Quốc sẽ thêm phương tiện để tung hoành mà phá hoại nền kinh tế Việt Nam.

Không cần dùng đến hình thức bình phong “Vải thưa che mắt thánh” kiểu Vũ Nhôm, Cơ quan tình báo Trung Quốc tha hồ mà múa võ trên lãnh thổ Việt Nam.

Trên đây là 11 hệ lụy nguy hại mà Thông tư số 19/2018TT-NHNN sẽ mang đến cho Việt Nam. Còn những nguy hại khác nữa chưa thể kê khai đầy đủ ở đây. Điều mà người dân lo lắng cuối cùng, chính là an nguy của Tổ Quốc. Do đó không thể không đặt vấn đề tại sao lại xuất hiện Thông tư số 19/2018TT-NHNN vào lúc này, và làm thế nào để giảm thiểu tai họa của nó.

II. AI KHÁT KHAO HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI BIÊN GIỚI?

Theo báo cáo gần nhất của Bộ tài chính, từ 2013 đến hết quý I/2018 Việt Nam xuất sang Trung Quốc khoảng 100 tỷ USD và mua của Trung Quốc 250 tỷ USD. Mỗi năm thâm hụt trung bình 25 tỷ USD. Đó là chưa kể hàng chục tỷ USD hàng hóa nhập lậu mỗi năm qua biên giới từ Trung Quốc mà Bộ Tài chính không có số liệu.

Dẫn ra điều trên để khẳng định rằng, Trung Quốc khát khao Hiệp định thương mại biên giới hơn Việt Nam nhiều lần. Và chính Trung Quốc đã hối thúc để sớm ra đời Hiệp định thương mại biên giới giữa hai nước.

III. SAO LẠI LÀ LÚC NÀY?

Không biết Trung Quốc đã ban hành quyết định cho lưu thông đồng tiền Việt Nam trên lãnh thổ Trung Quốc hay chưa, nhưng nhiều người Việt Nam bất ngờ về thời điểm ra đời Thông tư số 19/2018TT-NHNN của NHNN Việt Nam.

Một cách ngẫu nhiên, Thông tư số 19/2018TT-NHNN ngày 28/8/2018, được ban ra ngay trước ngày 2/9 và có hiệu lực vào ngày 12/10, đã phủ nỗi buồn lên đầu nhiều người Việt Nam trong dịp Quốc khánh 2/9. Ở mặt khác Thông tư số 19/2018TT-NHNN lại là niềm vui cho lãnh đạo Bắc Kinh trong dịp Quốc Khánh 1/10. Tại sao lãnh đạo của NHNN Việt Nam không thể chờ được ít tuần nữa?

Không nghi ngờ gì về việc Trung Quốc hối thúc Việt Nam triển khai điều 8 Hiệp định thương mại biên giới càng sớm càng có lợi cho Trung Quốc. Nhưng sức nóng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung buộc Trung Quốc phải nhanh chóng mở rộng thị trường, bù vào sự thâm hụt của thị trường Mỹ. Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung khiến Trung Quốc gia tăng áp lực để điều 8 của Hiệp định thương mại biên giới phải thực thi sớm hơn dự định của đối tác Việt Nam. Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung đã gián tiếp ép đẻ non Thông tư số 19/2018TT-NHNN.

IV. MỘT QUYẾT ĐỊNH KHÔNG SÁNG SUỐT

Trong suốt mấy chục năm tồn tại, NHNN Việt Nam đã có những quyết định sai lầm, gây ra nhiều tổn thất cho nền tài chính nước nhà. Điển hình nóng hổi là những quyết định về thành lập và sát nhập ngân hàng từ sau năm 2000 đến nay, đã làm điêu đứng nền tài chính Việt Nam, mà hậu quả là một loạt các vụ án lớn về ngân hàng đang phải xét xử. Nhưng hậu quả của các quyết định đó không thể so với hệ lụy của Thông tư số 19/2018TT-NHNN.

V. ĐỪNG TỰ MÌNH CHUI DẦN VÀO RỌ

Các Thống đốc NHNN Việt Nam không đủ giỏi để bỡn cợt với tài chính mà đi ngược với thông lệ quốc tế. Và cũng chưa đủ già giặn để hiểu hết Trung Quốc.

Trung Quốc đang dùng kế sách “Một vành đai một con đường để thâu tóm thế giới”. Thủ tướng Malaysia Mahathir gọi đó là Chính sách Thực dân mới. Còn Việt Nam thì đã bị Trung Quốc giăng lưới “Liên hoàn kế” bao vây nhừ nát khắp mọi nơi rồi. Nay lại tự mình chui dần vào rọ thì không ai có thể cứu giúp được.

VI. QUAY ĐẦU LẠI LÀ BỜ

Đừng nghĩ rằng các điều trên là phóng đại, là hoang tưởng. Cũng không phải do thế lực thù địch xúi dục để phá hoại tình hữu nghị và sự hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc. Càng không phải tự diễn biến để chống phá nhà nước.

Như con gà xù lông trước vòng lượn của con diều hâu trên trời cao, như con bò lồng lên trước một trận động đất sắp xẩy ra, lòng yêu nước của nhân dân là cảm ứng kế biến thiên trước sự xuất hiện mọi đe dọa an ninh nước nhà. Không phải cảnh giác, mà không thể ngủ được khi Tổ Quốc bị đe dọa.

Nguyễn Ngọc Chu

(FB Nguyễn Ngọc Chu)

16 tháng 10, 2018

Lê Phú Khải - Nguyễn Duy, người “nâng cấp” ca dao


Nhà báo Lê Phú Khải













Ca dao là những viên ngọc lung linh, trong suốt, lấp lánh trên bầu trời văn hóa của dân tộc. Tưởng chừng không ai có thể làm cho nó đẹp hơn, hay hơn được nữa. Thử nghĩ, ai có thể gọt dũa thêm, trau chuốt hơn những câu ca dao như thế này:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

Vậy mà thật bất ngờ cho tất cả những người Việt trong nước và trên toàn thế giới phải sững sờ, phải lặng người đau đớn khi đọc bài thơ “Cướp” của Nguyễn Duy:


Nhà thơ Nguyễn Duy














Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan ( ca dao)

Cướp xưa băng nhóm làng nhàng

Cướp nay có đảng có đoàn hẳn hoi

Có con dấu đóng đỏ tươi

Có còng có súng dùi cui nhà tù


Ai qua thành phố Bác Hồ

Mà coi cướp đất bên bờ Thủ Thiêm

Bây giờ mẹ phải dặn thêm

Quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày

Hai câu thơ cuối của bài “Cướp” đã “nâng cấp” ca dao có từ ngàn đời của dân tộc thành ca dao của thời đại Đảng trị độc tài ăn cướp có “Con dấu đóng đỏ tươi”.

Sau này con cháu chúng ta học văn học dân gian trong nhà trường, các nhà soạn sách giáo khoa, các thầy giáo dậy văn ắt hẳn phải dậy rằng, có những câu ca dao hữu danh, cứ đánh vào Google là thấy Nguyễn Duy!

Đề tài “ Cướp đất” lâu nay đã xuất hiện trong thơ ca Việt hiện đại. Nhà thơ Bùi Minh Quốc trong bài thơ “ Vì nhân dân quên mình” viết năm 2014 có đoạn:

“ Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh

Nay mẹ tự lột truồng lăn mình ra giữ đất!”

Có tác giả còn viết:

“Những ngày tôi sống đây

Sử gia sẽ viết gì?

Đàn ông uống thuốc rầy giữ đất

Đàn bà cởi truồng chống Đảng!” (LPK)

Nhưng phải đến Nguyễn Duy “phù phép” bằng những câu lục bát thì “cướp đất” mới thành ca dao của thời đại. Hóa thân thành ca dao là hóa thân vào cõi bất tử!

Đã từ lâu, thơ Nguyễn Duy làm chức năng Con chim báo bão của đất nước và dân tộc mình. Là người lính, Nguyễn Duy đã linh cảm thấy:

Xét cho cùng sau một cuộc chiến tranh

Phe nào thắng thì nhân dân đều bại!

Khi cái gọi là “Đổi mới” ra đời (1986), từ Mátxcơva tháng 5 năm 1988 , trong bài thơ nổi tiếng “Nhìn từ xa…Tổ quốc” anh đã viết:

đổi mới thật không hay giả vờ đổi mới

máu nhiễm trùng ta có đổi được không?

(Đường xa, NXB Trẻ 1989)

Trong bài “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ” đăng trên tạp chí Cửa Việt 1992, dự báo về cái gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nguyễn Duy đã viết:

thời buổi thị trường mọi việc đều có thể

có thể nước này mua trọn gói nước kia

có thể lập những liên minh ma quỷ

những công ty bán nước từng phần…

Gần đây, chuyện sẽ xây nhà hát giao hưởng 1500 tỷ trên mảnh đất Thủ Thiêm còn dòng dòng máu và nước mắt của dân oan mất đất ở Thủ Thiêm sau 20 năm đi khiếu kiện, dư luận trên mạng xã hội đã ném đá dữ dội những kẻ được xem là “văn nghệ sỹ trí thức” như Trần Du Lịch, ca sĩ Mỹ Linh đã tung hô, nói leo, ăn theo cái quyết định bất lương này của “hội đồng chuột” TP.HCM…Nhiều người đã băn khoăn là làm sao những người tạm gọi là “ưu tú” đó, lại có thể đồng tình với cái ác, cái xấu, cái đểu đó ?!

Riêng tôi thì không. Vì tôi đã đọc kỹ thơ Nguyễn Duy. Anh đã nhận diện những con người này từ lâu rồi, và vẽ chân dung họ rất sinh động:

Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng

Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn

(Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội nhà văn 2010)

Giai tầng “điếm cấp cao” này đã nẩy nở trong xã hội kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa những năm gần đây.

Nguyễn Duy xứng đáng là một nhà thơ lớn của thời đại chúng ta. Tôi nghĩ vậy.

Lê Phú Khải