31 tháng 8, 2018

PHÂN TÍCH VÀ NHẬN ĐỊNH

Kami - Vụ án Mobifone mua AVG bước đầu đã có câu trả lời như thế nào? 

Hình minh họa


Ngày 21/8/2018, trong bài viết "2 "vết chàm" khó tẩy của Bộ trưởng Công An Tô Lâm" (bit.ly/2wu5Ssq), theo đó vị cứu tinh của ông Tô Lâm vào thời điểm trước Đại hội 12 là Thứ trưởng Bộ TT&TT Trương Minh Tuấn cùng với "món quà" AVG. Với những tài liệu "Mật" yêu cầu duy nhất Mobifone được phép mua AVG, nhanh chóng được hợp thức hóa một cách nhanh chóng theo yêu cầu của Trương Minh Tuấn và đã được gấp rút ký. Nhờ khoản tiền lại quả hết sức lớn của thương vụ mua bán khuất tất này, đã giúp cho Thượng tướng Tô Lâm lọt vào Bộ Chính trị và Thứ trưởng Trương Minh Tuấn trúng Ủy viên TW để rồi tiếp quả chiếc ghế Bộ trưởng TT&TT sau đại hội đảng cuối năm đó.

Trong phân kết của bài viết tôi có nhận định, "Bây giờ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể bỏ qua tội trạng của Bộ trưởng Công An Tô Lâm vì đã đền ơn, song các tướng trùm An ninh Bùi Văn Nam và tướng trùm Cảnh sát Lê Quý Vương chắc chắn sẽ không thể bỏ qua, nhất là chiếc ghế Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bộ trưởng Công An mà Thượng tướng Tô Lâm đang ngự". Điều đó có nghĩa là đại án Mobifone mua AVG gây thất thoát cho nhà nước trên 7 ngàn tỷ đồng rất khó có thể chìm xuồng, cho dù đại án này có liên quan đến gia đình tỷ phú Phạm Nhật Vượng và có nhiều dấu hiệu Tổng Bí thư Trọng đã bằng mọi cách để che chắn. Cụ thể là sau khi cách chức Bộ trưởng Bộ TT&TT thì ông Trương Minh Tuấn được "ưu ái" điều về Ban Tuyên giáo TW để tiếp tục giữ chức Phó Ban thay vì về Ban Kinh tế TW như cựu Bí thư Thành phố HCM Đinh La Thăng để chuẩn bị trảm sau đó.


Cũng cần nói thêm, một thông tin từ Diễn Đàn Đầu Tư (BizLIVE.vn) trực thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư Nước ngoài cho biết, "Vụ Mobifone mua cổ phần AVG: 6 người nhận hơn 8.051 tỷ" (bit.ly/2mN9d0p) đã khiến cho dư luận xã hội hết sức bức xúc. Theo đó, trong thương vụ Mobifone mua lại cổ phần của Công ty cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu (AVG), có 6 cá nhân nhận đa số (khoảng 8.051 tỷ đồng) trong tổng giá trị của thương vụ là 8.889,8 tỷ đồng. Đáng chú ý, vẫn theo theo thông tin từ BizLIVE.vn cho biết, đăng ký kinh doanh  (AVG) tại thời điểm ngày 23/1/2015, thì vốn điều lệ của công ty AVG là 3.628 tỷ đồng, tương đương 362,8 triệu cổ phần. Trong đó, ông Phạm Nhật Vũ, một trong những cổ đông sáng lập của AVG giữ vai trò khá quan trọng tại AVG đã sở hữu tới 55,49% cổ phần của AVG, tương đương 2.013 tỷ đồng. Như vậy dễ dàng thấy rằng, giá trị thương vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG trị giá 8.889,8 tỷ đồng cao hơn rất nhiều so với vốn điều lệ của AVG khi chuyển nhượng.  Và đương nhiên ông Phạm Nhật Vũ đã hưởng lợi không ít hơn 3.000 tỷ đồng.

Nguồn thạo tin từ Hà Nội cho biết, ngày 29/8/2018, Ban Bí thư TW Đảng CSVN đã nhóm họp để bàn ván đề xử lý vụ đại án này và đã ra quyết định xử lý bước đầu đại án Tổng công ty Viễn thông Mobifone mua 95% cổ phần của Công ty cổ phần Viễn thông và Truyền thông An Viên (AVG). Hội nghị đã thông qua nghị quyết trình Bộ Chính trị phương án xử lý cựu Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son, theo đó sẽ bị khởi tố và bắt tạm giam để điều tra mở rộng vụ án Mobifone mua AVG. Theo ý kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì, để giữ tính "nhân văn" nên việc ra quyết định khởi tố và bắt giam cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son sẽ được tiến hành sau những ngày cả nước ăn mừng Quốc Khánh ngày 02/9.

Như vậy kể từ ngày 10/7/2018, sau khi Bộ Công An Khởi tố vụ án hình sự “Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại điều 220 bộ luật Hình sự 2015, xảy ra tại Tổng công ty Viễn thông Mobifone - Bộ TT&TT và các đơn vị liên quan. Đồng thời Khởi tố bị can đối với ông Lê Nam Trà, nguyên Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Viễn thông Mobifone và ông Phạm Đình Trọng, Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp - Bộ TT&TT, về tội “Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3 điều 220 bộ luật Hình sự năm 2015. Thì tiếp tới đây, cựu Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son là nhân vật cao cấp nhất sẽ bị bắt giữ vì có liên quan với vai trò chủ mưu trong đại án này.

Một câu hỏi được đặt ra là, vì sao vụ án Mobifone mua 95% cổ phần của AVG lại được tiến hành hết sức chậm trễ, thậm chí nhiều lúc người ta nghi ngờ rằng nó đã chìm xuồng?

Nếu biết, ông Nguyễn Bắc Son từng là Đại tá Quân đội, nguyên là thư ký của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch Nước. Và ông Lê Nam Trà, nguyên Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Viễn thông Mobifone là con Tướng Lê Phi Long - Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu trước đây, đồng thời là em con chú con bác với ông Lê Đức Anh. Cả ba người này đều cùng quê xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nói ra điều này để thấy, sự chậm trễ của đại án Mobifone mua 95% cổ phần AVG có liên quan đến lý do: Lê Đức Anh và hơn thế nữa là yếu tố Trung Quốc. Cụ thể, Chủ tịch nước Lê Đức Anh được Trung Quốc tin tưởng vì đã có công lớn trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1990. Để đổi lại điều đó, năm 1992 Đại tướng Lê Đức Anh đã được trao chức Chủ tịch Nước. Đáng chú ý vào cuối năm 2001, ông Lê Đức Anh bị hôn mê sau khi bị tai biến mạch máu não và được đưa sang Trung Quốc chữa cho đến lành bệnh. Nếu như nói Trung Quốc đã bảo kê cho Thái thượng Hoàng Lê Đức Anh kể cũng không ngoa.

Nguyên do cựu Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son đã chọn ông Lê Nam Trà, giữ chức Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Viễn thông Mobifone để xúc tiến việc mua AVG không đơn giản rằng vì Lê Nam Trà là cháu ruột của Lê Đức Anh, mà vì Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son hiểu rằng có một thế lực rất lớn đứng đằng sau, thế lực đó còn lớn hơn nhiều lần ông Lê Đức Anh.


Cũng xin được nhắc lại, ông Phạm Nhật Vũ người đại diện cho Công ty cổ phần Viễn thông và Truyền thông An Viên, là cổ đông sáng lập và cũng là một trong hai cổ đông doanh nghiệp chuyển nhượng cổ phần AVG cho Mobifone. Đồng thời ông Vũ là em trai của tỷ phú Phạm Nhật Vượng, người duy nhất có khả năng điều khiển được từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở xuống theo như đánh giá của giới thạo tin. Tuy nhiên lý do này cũng chỉ được giới phân tích xếp hàng thứ 2, trong những lý do vì sao vụ án mua AVG hết sức chậm trễ.


Có tin cho rằng, vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG hoàn toàn do Phạm nhật Vũ thao túng với sự chỉ đạo của Vượng Vin, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son khi ấy hoàn toản hiểu đây là một cú mua bán để ăn chênh lệch giá trên 7 ngàn tỷ đồng. Chính vì thế, tất cả các văn bản giấy tờ có liên quan đến thương vụ mua bán khuất tất này đều do Thứ trưởng Trương Minh Tuấn ký. Dẫu rằng nó không phải là trách nhiệm cũng như quyền hạn của Trương Minh Tuấn, song vì lời hứa sẽ nhường cho ghế Bộ trưởng từ Bộ trưởng Son nên Thứ trưởng Tuấn đã nhắm mắt làm càn. Đó là lý do vì sao cựu Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son sẽ bị trảm trước trong những ngày tới, để để điều tra mở rộng vụ án Mobifone mua AVG. Còn nguyên BT Trương Minh Tuấn vẫn chưa bị sờ đến, nhưng không phải là không thể.

Cũng không may cho Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn là, quan hệ Bắc Kinh Hà nội đang xấu đi nhanh chóng, nhất là khi Hà Nội phớt lờ yêu cầu thông qua Dự Luật Đặc khu để hòa nhập vào chương trình "một vành đai, một con đường". Để tới mức Chủ tịch Tập Cận Bình đã nổi nóng, ra lệnh triệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc để giải trình cụ thể. Song ông Trọng biết sẽ bị "ăn" phóng xạ giống như Nguyễn Bá Thanh nên đã đẩy Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng sang chịu trận thay. Thì đây cũng là lúc Ban lãnh đạo Việt Nam hết "nể sợ" Thái thượng Hoàng Lê Đức Anh như trước nữa.

Nếu cựu Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Bắc Son có kết cục xấu như vậy thì chẳng có lý gì cựu Bộ trưởng Bộ TT&TT Trương Minh Tuấn được ngồi yên.

Ngày 31 tháng 08 năm 2018
© Kami
(Blog RFA)

30 tháng 8, 2018


BÍ MẬT VỀ NHỮNG TUYỆT CHIÊU PHÒNG THE CỦA CÁC MĨ NHÂN TRUNG HOA XƯA, KHIẾN ĐÀN ÔNG MÊ ĐẮM BẤT CHẤP CẢ HIỂM HỌA
Bom | 29/08/2018 22:02
3
KHÔNG PHẢI NGHIỄM NHIÊN MÀ CÁC MỸ NHÂN TRUNG HOA NỔI TIẾNG LỊCH SỬ NHƯ TÂY THI, DƯƠNG QUÝ PHI, TRIỆU PHI YẾN HAY HẠ CƠ ĐƯỢC CÁC VỊ ĐẾ VƯƠNG SỦNG ÁI SUỐT CẢ MẤY THẬP NIÊN...
Thâm cung bí sử: Bi kịch cuộc đời Cách cách Mãn Thanh sắc đẹp ‘vạn người mê’ nhưng lại là gián điệp Nhật Bản 
Thâm cung bí sử: Tiêu hoàng hậu - mỹ nhân Trung Quốc 6 lần xuất giá đều là vợ vua 
Thâm cung bí sử: Hoàng hậu xấu xí và hoang dâm nhất lịch sử Trung Hoa khởi đầu loạn bát vương khiến nhà Tấn diệt vong 
Được Hoàng đế mê đắm dù đã đến tuổi tứ tuần
Nhắc tới biểu tượng sắc đẹp của phụ nữ đời Đường không ai là không biết tên Dương Quý Phi - một trong tứ đại mỹ nhân lịch sử Trung Quốc.
Dương Quý Phi tên thật là Dương Ngọc Hoàn, sinh ra ở Vĩnh Lạc, Châu Bồ, nay thuộc huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc).

Ngay từ tuổi trăng tròn, Ngọc Hoàn đã nổi tiếng khắp xa gần bởi vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành và tài đàn ca múa hát.
Từ khi trở thành Quý phi, Ngọc Hoàn nhanh chóng chiếm được lòng yêu mến của quân vương.
"Trẫm được Dương Quý Phi như được viên ngọc quý vậy", Đường Minh Hoàng từng nói với quần thần như vậy.
Bí mật về những tuyệt chiêu phòng the của các mỹ nhân Trung Hoa xưa khiến đàn ông mê đắm bất chấp cả hiểm họa 

Tạo hình Dương Quý phi trong phim.
Một số sử gia sau này cho rằng, lý do khiến Đường Minh Hoàng sủng ái Dương Quý Phi có lẽ không chỉ bởi nhan sắc.
Dương Quý Phi muốn giữ sự sủng ái của vua Huyền Tôn nên luôn luôn chú trọng trau chuốt về ba mặt: sức khỏe, sắc đẹp và tính kỷ (kĩ thuật chăn gối nam nữ).
Tương truyền rằng khi "cung cấm" có dấu hiệu của tuổi tác Dương Quý Phi đã dùng cách làm thu nhỏ âm đạo bằng cách rất riêng của người Trung Hoa xưa.
Vì thế nên mười năm trôi qua, âm đạo của bà vẫn như những cô gái còn son, chưa hề có dấu hiệu "lỏng lẻo", khiến nhà vua luôn sủng ái bà hết mực.
Dương Quý Phi đã dùng rất nhiều loại thuốc chiết xuất từ thiên nhiên như: tinh dầu hoa nhài, dầu cây trinh nữ, tinh dầu huân y thảo, dầu đương quy và xà sàng tử.
Đặc biệt bà rất thích ăn trái vải vì thứ trái cây này có dược tính làm cho thể lực kiện khang.
Vì thế, bà đã luôn giữ được khí sắc tuyệt vời và có tài chiều vị vua đáng kính của mình, không bao giờ mất đi sự sủng ái.
Việc thích ăn một trái gì đó để tăng cường thể lực ở nhiều nơi cũng có.
Ví như, bên Ai Cập xưa, các Nữ hoàng muốn da thịt mình bóng loáng, đẹp đẽ đã cho ngâm trân châu vào rượu để uống.
Đồ uống này đã có tác dụng rất lớn đối với làn da và vẻ đẹp của người phụ nữ xưa.
Thuật "hoàn tân" của người đàn bà qua tay bao đàn ông mà vẫn như "trinh nữ"
Hạ Cơ vốn là con gái nước Trịnh sống vào thời Xuân Thu Trung Quốc vốn được nhắc đến hầu hết trong các cuốn sách về bí quyết phòng the nổi tiếng thời xưa.
Theo giai thoại và một số ghi chép không chính thống thì ai đã từng ân ái với Hạ Cơ đều không thể dứt tình vì nàng có thuật "hoàn tân".
Chuyện "trở lại thành trinh nữ" của Hạ Cơ có thể được tô vẽ nhiều qua các giai thoại, nhưng ít nhất thì sự thực vẫn là, nàng cho những người đàn ông ân ái với mình cảm giác như đang "quan hệ" với gái tân.
Theo các chuyên gia y học ngày nay, có thể Hạ Cơ có cơ quan sinh dục cấu tạo rất đặc biệt, màng trinh mỏng và có độ đàn hồi lớn, vòng âm đạo có khả năng co thắt theo ý muốn và hưng phấn nên tạo cho người tình cảm giác "chặt chẽ, khát khao".
Ngoài ra, để được các vương tôn, khanh tướng lao vào như thiêu thân ngay cả khi ở tuổi trung niên, Hạ Cơ có kỹ thuật phòng the vô cùng điêu luyện, khiến trang nam tử nào đã được "nếm" thì không dứt ra được.
Cũng theo một số ghi chép xưa thì người đương thời kháo nhau rằng Hạ Cơ còn có thuật "hấp tinh đại pháp", hút hết khí lực của đàn ông để "bồi bổ" cho mình.
Vì thế bao nhiêu đàn ông được nàng "ban ân huệ" phải trả giá cho khoái lạc cực điểm của mình bằng cái chết.
Nạn nhân đầu tiên chính là công tử Man, anh trai và cũng là tình nhân thời niên thiếu của nàng, bị ốm dặt dẹo rồi chết sau ba năm thông dâm với em gái.
Thấy con gái làm loạn cung cấm, vua nước Trịnh sợ quá không dám kén rể gần, phải vội vàng gả nàng sang nước Trần, làm vợ Hạ Ngư Thúc.
Người chồng này cũng ốm yếu dần dần rồi chết khi con trai vừa tròn 12 tuổi.
Hai tình nhân khác suýt bị con trai của nàng giết là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ chạy thoát khi sống lưu vong ở nước ngoài cũng sinh bệnh mà chết do thường gặp ác mộng liên quan đến những ân oán xuất phát từ cuộc tình trụy lạc với Hạ Cơ.
Bí mật về những tuyệt chiêu phòng the của các mỹ nhân Trung Hoa xưa khiến đàn ông mê đắm bất chấp cả hiểm họa 

Ảnh minh họa.
Người chồng thứ hai của Hạ Cơ là Tương Lão, mới cưới chưa đầy năm đã phải đi đánh trận, rồi bị bắn chết.
Trong thời gian chồng đi vắng, không nén nổi lửa dục, Hạ Cơ tằng tịu với con trai của chồng là Hắc Sái, làm anh chàng này mê mẩn đến mức biết tin Tương Lão chết cũng không dứt nổi mà đi tìm xác cha. Sau này, Hắc Sái cũng bị chết.
Tuy nhiên, rất nhiều khả năng đây là những câu chuyện mà người xưa đồn đoán do Hạ Cơ đã gây họa nhiều nơi vì sắc đẹp của nàng.
Sở dĩ Hạ Cơ có được sự say đắm với bao người như vậy kể cả khi đã có chồng chính bởi thuật hoàn tân, quan hệ xong lại như mới.
Lý giải cho điều này, trong cuốn Thế giới kỳ bí của NXB Thanh Hóa, bài viết của bác sĩ Hồ Đắc Duy cho rằng: Hạ Cơ được sự co thắt theo ý muốn như trường hợp một vài người có thể điều khiển vành tai, cho nên lúc nào giao hợp, dương vật cũng được âm đạo ôm sát và co bóp liên tục.
Cảm giác đó làm cho người đàn ông tưởng "như mới".
BS. Phạm Thị Vui, Nguyên bác sĩ sản khoa Bệnh viện 19.8 lại cho rằng: "Có thể Hạ Cơ có cấu tạo về thân thể và kỹ nghệ "yêu" mà phần lớn phụ nữ khác không có".
Trúng nam nhân kế rồi biến mình trở thành vũ khí tiêu diệt kẻ địch
Tây Thi, còn gọi là Tây Tử, là một đại mỹ nhân trứ danh thời kì Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền, Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước, gọi là Trầm ngư.
Theo BS Quế Hương (nguyên cán bộ phòng Tổng hợp BV Việt – Đức) chia sẻ, từ xa xưa các mỹ nhân giữ chồng ngoài vẻ đẹp chim sa cá lặn, đều có bí kíp riêng.
Nàng Tây Thi đã quyến rũ Ngô Vương Phù Sai bằng bí kíp luyện tập yoni (âm đạo). Nhờ vậy từ con gái một người kiếm củi nàng đã khiến Ngô Vương Phù Sai mê mẩn tới mất nước.
Theo Tây Thi truyện, thời điểm vào cung nước Việt, Tây Thi chỉ khoảng 14 tuổi, và cô đã lọt vào mắt xanh của quan đại phu Phạm Lãi.
Phạm Lãi chính là người đề ra mưu mỹ nhân kế để phá hoại nước Ngô và ông có nhiệm vụ đào tạo Tây Thi trở thành một gián điệp thân cận Phù Sai.
Phạm Lãi phải thường xuyên gặp gỡ riêng Tây Thi để đảm bảo yếu tố bí mật và dạy dỗ cho người đẹp Trầm ngư cách để tiếp cận, chiếm lấy sự tin yêu của Phù Sai một khi đã vào cung Ngô.
Bí mật về những tuyệt chiêu phòng the của các mỹ nhân Trung Hoa xưa khiến đàn ông mê đắm bất chấp cả hiểm họa - 

Ảnh minh họa.
Có giai thoại kể rằng trong các bài học dành riêng cho Tây Thi trong gần một năm được luyện ở cung có cả nghệ thuật phòng the nhằm phục vụ cho việc làm Phù Sai mê mẩn.
Những bài tập như vậy do các cung nữ giàu kinh nghiệm và cả những người có nghề trong thanh lâu được mời vào trong cung luyện.
Tương truyền rằng một nữ cao thủ ở thanh lâu còn dạy cho Tây Thi những bí thuật phòng the của Hạ Cơ từng làm khuynh đảo vua tôi nước Tần hơn 100 năm trước.
Không hiểu Tây Thi đã học được của nữ cao thủ này những gì nhưng về sau nàng độc chiếm chốn hậu cung của Phù Sai.
Phương pháp quyến rũ Ngô Vương Phù Sai của Tây Thi là ngồi thẳng, hít vào nhưng xẹp bụng, chú ý giữ bụng xẹp khi hít vào (bình thường hít vào bụng phình ra), nhíu hậu môn và giữ càng giữ lâu càng tốt.
Như thế luyện cho các cơ khép của âm vật, phần phụ co bóp đàn hồi tốt, khi hành sự sẽ dẻo dai hơn vì máu đưa đến nhiều.
Động tác này tập khi làm việc hoặc giải lao tranh thủ 5 – 10 phút, tập càng nhiều càng tốt. Tập nhiều lần sẽ thấy bụng có sự thay đổi.
Bí thuật phòng trung độc đáo này giúp Tây Thi luôn quyến rũ trên giường.
Tiếp xúc với những bài tập như vậy, Tây Thi không thể giữ được vẻ ngây thơ của cô gái dệt vải như khi mới vào cung.
Tâm hồn nàng bắt đầu xáo động và có những giấc ngủ không yên vì ham muốn một vòng tay ấm áp hay một bờ vai mạnh mẽ.
Không ngạc nhiên khi Tây Thi nảy sinh cảm tình với Phạm Lãi vì khoảng thời gian đó, chỉ duy nhất Phạm Lãi là nam nhân được tiếp xúc với các mỹ nữ trong đội cống Ngô.
Phạm Lãi khi đó tuổi gần 30 mà lại nổi tiếng là người nho nhã, thông minh bậc nhất nước Việt.
Tiếp xúc với một cô gái như Tây Thi đã làm Phạm Lãi nảy sinh tình cảm. Tuy nhiên, cả hai người đều hiểu sứ mệnh lịch sử nên họ dù hiểu tình cảm của nhau nhưng không thể làm điều gì quá giới hạn.
Thậm chí, nếu không vì tình yêu đặc biệt dành cho quan đại phu nước Việt thì chưa chắc Tây Thi đã chấp thuận sang Ngô như vật cống với sứ mệnh muôn vàn khó khăn, nguy hiểm cận kề.
Chính vì vậy, hậu thế cho rằng Tây Thi liều chết thi hành mỹ nhân kế vì nước Việt cũng do dính nam nhân kế của Phạm Lãi.
Vì quá say đắm Phạm Lãi nên Tây Thi không ngại dầu sôi lửa bỏng nhảy vào nơi hang cọp, miệng hùm.
Từ thân phận con hát, tiến cung khi không còn trong trắng nhưng lại trở thành mẫu nghi thiên hạ nhờ kĩ thuật giường chiếu
Trong lịch sử, Triệu Phi Yến cùng em gái là Triệu Hợp Đức nổi tiếng vì đã làm khuynh đảo hậu cung của Hán Thành Đế, hai chị em bà được các sử gia ví là Hồng nhan họa thủy.
Sử sách đối với nàng ghi lại rất ít, song dã sử ghi lại rất nhiều, do vậy nàng trở thành một trong những mỹ nhân phổ biến trong dân gian thần thoại từ rất sớm.
Bí mật về những tuyệt chiêu phòng the của các mỹ nhân Trung Hoa xưa khiến đàn ông mê đắm bất chấp cả hiểm họa

Ảnh minh họa.
Theo sách "Hậu Hán thư", khi được triệu vào cung để hầu hạ Hoàng đế, mỹ nhân họ Triệu đã không còn trinh nguyên.
Nhưng trong đêm động phòng, Triệu Phi Yến lập tức hớp hồn hoàng đế bởi thân thể ngọc ngà, kỹ năng phòng the điêu luyện và dấu vết trinh nữ đọng trên khăn trải giường.
Để qua mặt đấng quân vương, Triệu Phi Yến đã sử dụng đến "súc âm công" mà trước đó đã âm thầm luyện cùng với những "ngón nghề" có được đã mang đến cho hoàng đế cảm giác nồng nàn, "khít khao" như đang ân ái cùng trinh nữ.
Chính vì thế mà Phi Yến tuy xuất thân là con hát nhưng Hán Thành đế vẫn bất chấp sự phản đối của quần thần để đưa nàng lên ngôi hoàng hậu.
Sau đó, Hợp Đức (em gái Triệu Phi Yến) nhan sắc tuyệt mỹ cũng luyện được "súc âm công" rồi đưa vào cung để cùng với chị phục vụ hoàng đế và hưởng vinh hoa phú quý.
Thời đó, Thánh đế có muôn vàn cung nữ xinh đẹp nhưng thấy quá nhàm chán với hàng trăm đóa hoa chỉ biết thoát y, thụ động phó mặc cho ngài hưởng thụ. Những người này, so với hai chị em họ Triệu thì một trời một vực.
Tuy nhiên, sức người có hạn trong khi dục vọng vô biên, vị Hoàng đế này phải cầu viện các loại thuốc tráng dương.
Những loại thuốc này giúp ông gom sức tàn để triền miên đốt trong các cuộc hành lạc. Ở tuổi tráng niên mà Hán Thành đế đã xác xơ, kiệt quệ.
Dù đã thân tàn ma dại, Hán Thành đế vẫn muốn tận hưởng sắc đẹp và dục lạc.
Sự quá tải này đã khiến vị hoàng đế tham dâm vô độ này đột tử ngay trong cuộc mây mưa với Triệu Hợp Đức khi mới qua tuổi 45.
Cái chết đến bất ngờ là do nhà vua đã uống loại thuốc trợ dương có tên là "thận tức cao".
Loại biệt dược phòng the này lẽ ra mỗi lần chỉ được dùng một viên nhưng hôm đó Hán thành đế nổi hứng uống một lúc đến 7 viên nên mới mất mạng.

27 tháng 8, 2018

VNTB- Phía trước Nguyễn Phú Trọng là cả một đại dương gầm thét


Phạm Chí Dũng

Người Việt 26/8/2018




Vụ người dân Thủ Thiêm, Sài Gòn, bị cướp đất, cướp nhà, có dấu hiện Nguyễn Phú Trọng để cho chìm xuồng. (Hình: Pháp Luật TP.HCM)
Dù chiến dịch “đốt lò” của Nguyễn Phú Trọng đã xử được một số quan chức tham nhũng, dù cũng giống như Tập Cận Bình đánh vào khu vực công an và cả khu vực quân đội, nhưng vẫn đang tồn tại một sự bất xứng và thiên vị giữa các khu vực.
Và giữa “củi nhà” với “củi rừng.”
Một cuộc chiến thiên vị
Dư luận đang cho rằng trong cuộc chiến “chống tham nhũng,” Nguyễn Phú Trọng thiên về đốt “củi rừng” nhiều hơn hẳn đốt “củi nhà.”
Trong vụ Đà Nẵng vào cuối năm 2017, trong khi Bí Thư Thành Ủy Nguyễn Xuân Anh bị cách chức Ủy Viên Trung Ương Đảng, thì Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Huỳnh Đức Thơ – bị cho là có rất nhiều sai phạm về mặt đất đai – vẫn bình chân như vại và chỉ nhận một cảnh cáo nhẹ nhàng từ phía chính phủ.
Còn ở Sài Gòn, một quan chức cao cấp của Thành Ủy thành phố này là Phó Bí Thư Thường Trực Tất Thành Cang đã cố ý làm trái trong việc ký thông qua chủ trương bán đất công giá bèo cho Quốc Cường Gia Lai, bán 32 hécta đất ở Nhà Bè, nhưng cho tới giờ Tất Thành Cang vẫn chưa hề bị kỉ luật, và vụ việc này đang có nhiều dấu hiệu chìm xuồng.
Nhưng ở Sài Gòn còn một vụ lớn hơn nhiều – một Thủ Thiêm đẫm máu, đẫm nước mắt cùng những cái chết tự treo cổ phẫn uất của dân oan đất đai khi bị cưỡng chế. Sau nhiều hứa hẹn của cơ quan chức năng, vẫn không có bất kỳ kết luận thanh tra nào của Thanh Tra Chính Phủ công bố về vụ Thủ Thiêm.
Rất nhiều người dân đang cho rằng khi lần mò vào vụ Thủ Thiêm, Nguyễn Phú Trọng thấy đụng phải quá nhiều quan chức nên ông ta muốn làm ém nhẹm hoặc cho chìm xuồng vụ này.
Vậy cuộc chiến được xem là “chống tham nhũng” của Nguyễn Phú Trọng có công bằng hay không?
Một trường hợp cực kỳ bất xứng trong xử lý quan chức là hai vụ Đinh La Thăng và Trương Minh Tuấn. Cả hai quan chức Đinh La Thăng và Trương Minh Tuấn đều bị Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng đánh giá có sai phạm “rất nghiêm trọng,” nhưng trong khi Đinh La Thăng lãnh hai án 31 năm tù giam, thì Trương Minh Tuấn lại nghiễm nhiên trở thành Phó Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đảng để tiếp tục răn dạy báo giới và giới văn nghệ sĩ về “đạo đức cách mạng sáng ngời.”
Chưa kể những quan chức khác – bị người dân xem là tội đồ dân tộc: Võ Kim Cự – cựu bí thư Hà Tĩnh đã tiếp tay cho Formosa gây ra thảm họa xả thải gây ô nhiễm 4 tỉnh miền Trung và khiến nửa triệu người dân phải treo thuyền treo niêu và mất kế mưu sinh, Nguyễn Thị Kim Tiến – đương kim bộ trưởng y tế – quan chức phải chịu trách nhiệm về vụ một công ty của ngành này nhập khẩu thuốc ung thư giả và khiến hàng ngàn bệnh nhân ung thư phải chịu hai lần cái chết. Nhưng tội trạng của hai quan chức này đều không một lần được Nguyễn Phú Trọng hé môi, dù chỉ là hé theo cách đầu môi chót lưỡi.
Với bản thành tích sơ bộ trên của Nguyễn Phú Trọng, làm thế nào để so sánh ông Trọng với Tập Cận Bình?
Một thất bại rõ rệt
Chỉ có bản lĩnh mới làm nên hình ảnh và quyền lực. Trong khi Tập Cận Bình không chỉ tống những viên tướng lĩnh cao cấp dát vàng trong nhà của công an và quân đội Trung Quốc vào sau chấn song nhà tù mà còn trực tiếp chỉ huy các đại chiến khu với một quyền uy tuyệt đối, Nguyễn Phú Trọng có vẻ vẫn quá trầy trật khi đến giờ chỉ mới “tiếp quản” Bộ Quốc Phòng và bước đầu “làm nhân sư”’ Bộ Công An, dù đại hội 12 “bất cứ ai, trừ Dũng” đã trôi qua từ lâu.
Vai trò, vị thế và tương lai chính trị của Nguyễn Phú Trọng cũng bởi thế đang và sẽ khá chông chênh.
Ông ta chỉ còn khoảng hơn hai năm cho một núi việc cùng ưu tư “làm sao để lại dấu ấn sử xanh.” Nhưng còn lâu mới được như một Tập Cận Bình, gần như mất sạch đối thủ chính trị, xung quanh Nguyễn Phú Trọng vẫn thoắt ẩn thoắt hiện hàng lô hàng lốc những cái bóng không không ưa ông ta, những cái bóng mà luôn có thể làm cho Trọng không còn giữ được cái bóng của mình nữa.
Trong khi đó, lại đang có những biểu hiện cho thấy ông Trọng thỏa mãn quá sớm với bản thành tích chống tham nhũng còn quá ít ỏi của ông ta. Không ít lần ông Trọng đã khiến cho một bộ phận không nhỏ cán bộ lão thành, công chức và người dân vốn còn nặng tâm lý “theo đảng, tin đảng” suýt vỡ tim vì thất vọng.
Đến giờ, hơn một năm sau khi chủ trương về kiểm tra tài sản của 1,000 cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư Quản Lý được chính thức phát ra, chủ trương này cũng gần như chính thức thất bại.
Hiển nhiên là trong giấc mơ kéo dài được hơn một năm qua, chiến dịch kiểm tra tài sản 1,000 quan chức của ông Trọng đã bị “đụng tường” – một bức tường lớn, rất cao và còn “khó nhằn” hơn cả sự chống đối quyết liệt đang diễn ra trong nội bộ đảng Trung Quốc.
Cũng hiển nhiên là mặc dù không thiếu tham vọng để làm một cuộc cách mạng long trời lở đất như Tập Cận Bình ở Trung Quốc, Nguyễn Phú Trọng lại quá thiếu chân đứng cho chiến dịch tìm ra núi tài sản bất minh của giới quan chức Việt Nam.
Trớ trêu thay, sự hụt hẫng chân đứng đầu tiên lại thuộc về Nguyễn Phú Trọng: Từ giữa năm 2018 đến nay, ông ta đã không chịu hồi âm cho một bản kiến nghị của nhiều trí thức bất đồng đòi hỏi Trọng phải công khai tài sản thì mới biết được ông ta có xứng đáng “thu phục nhân tâm” hay là không.
Phía trước ông Trọng là gì?
Chỉ còn hơn hai năm nữa sẽ đến đại hội 13 của đảng cầm quyền vào năm 2021, nếu còn có đại hội đó. Nguyễn Phú Trọng liệu có in đậm giấc mơ như “ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi” như Tập Cận Bình?
Chỉ biết rằng vào giữa nhiệm kỳ của đại hội 12, đã chẳng thấy ông Trọng nào thoái lui khỏi cương vị tổng bí thư như điều được cho là cam kết của chính ông ta ngay trước khi đại hội 12 mở màn. Nếu quả đúng là đã có một cam kết bị nuốt lời như thế, còn giờ đây lại là bối cảnh mà Tổng Bí Thư Trọng được một số văn nhân cận thần vây quanh ca tụng ngút trời và thậm chí gợi ý về việc “thêm một nhiệm kỳ nữa,” chẳng có gì bảo đảm là ông Trọng sẽ tự nguyện nhường lại ngôi vị tổng bí thư cho những Trần Đại Quang, Phạm Minh Chính, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Xuân Phúc… hay các quan chức thuộc hàng cháu chắt của ông ta tại đại hội 13.
Nhưng tương lai là thứ không thể đoán biết. Điều gì sẽ xảy ra nếu trong tương lai không xa, Tổng Bí Thư Trọng mệt mỏi cùng tuổi già không thể cưỡng trong cuộc chiến được xem là “chống tham nhũng” nhưng chẳng đi tới đâu của ông ta mà do đó bắt đầu tìm cách thoái lui khỏi cái ghế quyền lực, hoặc “im cho nó lành” trong cơn bể dâu chính trị nội bộ và những đối ngoại xáo xào chẳng biết đâu mà lường – như vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, hoặc chính quyền lực của ông Trọng sẽ bị lấn át một cách nguy hiểm bởi những thế lực mới nổi lên trong nội bộ đảng?
Trong khi tương lai trở thành “bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo” và “lưu danh sử xanh” của Nguyễn Phú Trọng vẫn còn quá mờ mịt, ông ta có thể bị hất đổ vào bất kỳ thời điểm nào ông bị đổ bệnh hoặc phải tạm thời rời bỏ quyền lực tối cao, để sau đó bị “hồi tố” – không chỉ bởi những đối thủ chính trị và các thế lực tham nhũng, mà còn có thể do chính những “người tâm phúc” và cận thần mà ông Trọng đã từng tin cậy như loại “cộng sản tốt tương đối” hoặc “có nhùng chàm nhưng đã gột rửa.”
Hãy nhắc lại một bài học kinh điển: sau vụ chỉ đạo bắt cựu ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng vào Tháng Mười Hai, 2017 và giáng hai bản án tổng cộng 31 năm tù giam đối với nhân vật này, Nguyễn Phú Trọng đã chính thức “leo lên lưng cọp,” chính thức xóa bỏ tiền lệ ủy viên bộ chính trị không bị bắt giam và xử tù, và cũng chính thức vượt qua lằn ranh lo sợ “mình mà xử thằng này thì thằng khác sẽ xử mình.”
Hiện tại và tương lai, ông Trọng dù có muốn cũng không còn nhảy khỏi lưng cọp được nữa.
Phía trước ông ta là cả một đại dương gầm thét. 
(Phạm Chí Dũng)

26 tháng 8, 2018


TIẾN SỸ VŨ NGỌC HOANG – CHUYỆN ĐẶC KHU KINH TẾ
Nhà nước của dân phải luôn biết lắng nghe ý kiến của dân, kể cả trước và sau khi thông qua quyết định. Phản biện khoa học và thảo luận bình đẳng là con đường tiếp cận chân lý mà không có gì có thể thay thế trong khoa học xã hội. Trường hợp vừa rồi là cách tốt cần được phát huy đối với nhiều việc khác. Từ xưa đến nay, kể cả lịch sử tất cả các triều đại, khi nào lãnh đạo đất nước thật sự cầu thị lắng nghe dân thì lòng dân tin tưởng và hướng về triều đình, lúc ấy dân tộc có sức mạnh gấp bội để giữ nước và kiến thiết quốc gia. Còn khi nào triều đình quan liêu, xa dân, không biết lắng nghe mà còn đối phó với nhân dân, thì lòng dân ly tán, sức mạnh quốc gia suy yếu, đến lúc nghiêm trọng thì kẻ thù từ bên ngoài lợi dụng cơ hội ấy để tấn công, đất nước không đứng vững trước hiểm nguy và triều đình suy vong, sụp đổ.



Hình minh họa
Đặc khu- thành công và thất bại

Chuyện đặc khu kinh tế đã bàn từ lâu, hàng chục và hàng trăm năm trước, tại nhiều nước trên thế giới và kể cả ở nước ta. Thế giới đã có hàng nghìn đặc khu kinh tế ở hơn một trăm nước. Một số đặc khu thành công, số lớn hơn thì không thành công hoặc thất bại. Họ tổ chức bao gồm 2 loại hình: Loại thứ nhất, có đơn vị hành chính riêng (của một khu). Loại thứ hai, không có đơn vị hành chánh riêng mà chỉ là cho áp dụng cơ chế đặc biệt trên một vùng lãnh thổ nhất định (khác với cả nước ở bên ngoài đặc khu) tại địa điểm cụ thể nào đó. Loại thứ nhất số lượng rất ít nhưng thường mạnh mẽ hơn về cơ chế chính sách và quyền tự chủ, nhiều nơi gần giống như “khu tự trị” về kinh tế; loại thứ hai nhiều hơn, phổ biến hơn.

Ở nước ta hàng trăm năm trước đã từng có các đặc khu kinh tế. Phố Hiến ngày trước cũng là một kiểu đặc khu. Tại Hội An, cách đây khoảng 4 thế kỷ, chúa Nguyễn đã từng tổ chức một đặc khu kinh tế, và đã rất thành công tại đó vào lúc ấy. Với đặc khu kinh tế Hội An, gắn với một thương cảng quốc tế Cửa Đại sầm uất-một trung tâm giao lưu buôn bán của khu vực, nơi đây đã trở thành trung tâm kinh tế của Xứ Đàng Trong. Trung tâm kinh tế này đã đóng góp rất quan trọng về nguồn tài chính và hậu cần cho công cuộc khai khẩn hòa bình khi cư dân Đại Việt tiến dần về phương Nam để mở mang bờ cỏi và nhân đôi nước Việt.

Cách đây hơn 25 năm, giai đoạn đầu của đổi mới, lãnh đạo nước ta đã có chủ trương cho nghiên cứu để xây dựng một vài đặc khu kinh tế. Sau đó, khi triển khai, thì Bộ Chính trị và Chính phủ lúc đó chỉ đạo cho làm trước một khu Kinh tế mở Chu Lai (không gọi đặc khu nữa). Lúc đó được hiểu là chỉ cho cơ chế thoáng mở để thu hút đầu tư phát triển, chứ không lập đơn vị hành chánh riêng theo kiểu gần như “khu tự trị” vì xét thấy không cần thiết phải như thế, do vậy không gọi là đặc khu kinh tế, mà chỉ là khu kinh tế mở. Như vậy, theo cách hiểu phổ biến của thế giới, thì Khu Kinh tế mở Chu Lai cũng là một kiểu đặc khu theo mô hình thứ hai-không có đơn vị hành chánh riêng.

Sau 15 năm thành lập, Khu kinh tế mở này mặc dù đã có một số thành công đáng kể, bắt đầu tạo ra một số ngành công nghiệp và tham gia phát triển du lịch, tạo việc làm trực tiếp cho mấy vạn lao động, trong đó có một bộ phận lao động kỹ thuật có tay nghề cao, góp phần quan trọng nhất để tăng thu ngân sách của tỉnh Quảng Nam lên gấp 150 lần so với 20 năm trước, từ một trong hai tỉnh nghèo nhất cả nước về thu ngân sách, hằng năm trung ương phải thường xuyên trợ cấp hầu hết ngân sách, đã trở thành một trong số các tỉnh tự cân đối được ngân sách và có đóng góp một phần về ngân sách trung ương. Tuy nhiên so với ý định và mục tiêu ban đầu nêu ra thì có thể khẳng định rằng Khu kinh tế mở Chu Lai chưa thành công. Đáng lẽ trước khi bàn về đặc khu kinh tế thì cần tổng kết lại câu chuyện về Khu Kinh tế mở Chu Lai, xem thử thành công và thất bại ở điểm nào, vì sao ngày ấy không làm đặc khu mặc dù trước đó đã có nghị quyết.

Nhà nước của dân phải biết lắng nghe dân

Trong kỳ họp Quốc hội gần đây có bàn dự luật về 3 đặc khu kinh tế theo loại hình thứ nhất-có đơn vị hành chánh riêng (tại Vân Đồn, Phú Quốc và Bắc Vân Phong). Khi biết nội dung của dự luật thì dư luận trong cả nước đã có nhiều ý kiến phản đối. Và khi nghe thông tin về ý kiến của Chính phủ và Quốc hội cho tạm dừng, chưa thông qua trong kỳ họp vừa rồi, để thảo luận kỹ thêm về dự thảo luật đặc khu, cán bộ, nhân dân đã có nhiều ý kiến đánh giá cao thái độ và tinh thần cầu thị đó của lãnh đạo.

Nhà nước của dân phải luôn biết lắng nghe ý kiến của dân, kể cả trước và sau khi thông qua quyết định. Phản biện khoa học và thảo luận bình đẳng là con đường tiếp cận chân lý mà không có gì có thể thay thế trong khoa học xã hội. Trường hợp vừa rồi là cách tốt cần được phát huy đối với nhiều việc khác. Từ xưa đến nay, kể cả lịch sử tất cả các triều đại, khi nào lãnh đạo đất nước thật sự cầu thị lắng nghe dân thì lòng dân tin tưởng và hướng về triều đình, lúc ấy dân tộc có sức mạnh gấp bội để giữ nước và kiến thiết quốc gia. Còn khi nào triều đình quan liêu, xa dân, không biết lắng nghe mà còn đối phó với nhân dân, thì lòng dân ly tán, sức mạnh quốc gia suy yếu, đến lúc nghiêm trọng thì kẻ thù từ bên ngoài lợi dụng cơ hội ấy để tấn công, đất nước không đứng vững trước hiểm nguy và triều đình suy vong, sụp đổ. Việc lãnh đạo thật sự cầu thị, lắng nghe dân là tín hiệu tốt đẹp.

Có người cho rằng nếu cứ đưa ra dự luật mà Quốc hội không thông qua thì mất uy Bộ Chính trị và Chính phủ. Tư duy kiểu ấy chắc chắn là sai. Quan điểm của Đảng là xây dựng nhà nước của dân, (chứ không phải của Đảng); Đảng lãnh đạo bằng thuyết phục, nói rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của vấn đề, bằng phát huy dân chủ, chứ không phải áp đặt mất dân chủ. Dùng quyền lực để áp đặt không phải là lãnh đạo theo đúng nghĩa khoa học và chân chính của nó. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, một nhà nước của dân, phải đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực chất chứ không phải hình thức, không phải là khẩu hiệu mị dân.

Đảng mong muốn Quốc hội là một tập thể có trách nhiệm với nhân dân, trung thành với nhân dân, và có năng lực tư duy độc lập, chứ không phải là cơ quan thụ động, hình thức. Một bộ luật được thông qua hay không thông qua là do sự cần thiết, chất lượng chuẩn bị hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau, và đó là việc rất bình thường, như lẽ tự nhiên, thể hiện chính kiến của Quốc hội. Uy tín của Chính phủ và Quốc hội trong việc đề ra chủ trương và xây dựng luật chỉ có thể được tăng lên khi nâng cao được chất lượng và hiệu quả của các quyết định và nhất là biết lắng nghe dân, thấy sai thì tiếp thu và sửa chữa một cách nghiêm túc và cầu thị. Xử sự như trường hợp vừa rồi là đúng.

Vừa qua, cán bộ đảng viên và nhân dân, nhất là trí thức Việt Nam trong và ngoài nước, đã có rất nhiều ý kiến đóng góp tích cực và xây dựng, rất đáng hoan nghênh và khuyến khích. Cần phải như thế trong trách nhiệm và tâm huyết đối với quốc gia. Bên cạnh đó cũng có một số ý kiến phê phán nặng nề, suy diễn và quy chụp về động cơ làm đặc khu, cứ như thể chỉ có mình mới biết yêu nước. Trước sự trì trệ trong công việc, những suy nghĩ về đổi mới để phát triển đều cần được khuyến khích và lắng nghe. Những đề xuất đưa ra chắc sẽ có cái đúng và chưa đúng hoặc sai. Nếu cứ suy diễn và quy chụp thì ai còn dám đổi mới. Nào là có động cơ đen tối, bán nước, chệch hướng, chống đối, phản động…Cái bệnh hay quy chụp lẫn nhau là một tội đồ kìm hảm tư duy của dân tộc. Cần phải biết lắng nghe nhau một cách cầu thị và biết tôn trọng những ý kiến khác mình.

Hiện nay chuyện đặc khu không còn nóng hổi và thời sự như thời kỳ 30-40 năm trước, vì tình hình đã khác, đã không như lúc đó. Nhưng nói vậy cũng không có nghĩa là nhất thiết không được xây dựng đặc khu kinh tế. Vẫn có thể xây dựng đặc khu, nhưng nếu cần làm thì phải có cách tiếp cận khác, cách tiếp cận mới, chứ không phải như vừa rồi. Phải bảo đảm chắc chắn về hiệu quả kinh tế-xã hội và quốc phòng-an ninh cho đất nước. Nếu thấy không chắc chắn thì không làm, bởi vì không để làm gì. Bản thân việc xây dựng đặc khu kinh tế là một cách làm, nhằm bảo đảm hiệu quả, chứ không phải là một mục đích tự thân hay một nguyên tắc nhất thiết phải làm cho bằng được hoặc tuyệt đối không được làm.

Đặc khu- nên làm hay không nên làm?

Đặc khu là một khu vực đặc biệt. Xuất phát từ nhiệm vụ đặc biệt và được áp dụng cơ chế đặc biệt. Dự định xây dựng đặc khu để làm gì, nói cách khác, nhiệm vụ đặc biệt ở đây là gì? Phải chăng có 2 mục tiêu chính: Thứ 1, là để thử nghiệm cơ chế, thể chế, chính sách cho việc quản trị một nền kinh tế hiện đại; thứ 2, là để tạo ra đột phá trên thực tế nhằm hình thành một khu phát triển động lực với một số ngành nghề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế nước nhà, có hiệu quả cao về tài chính, và từ đó mà lan tỏa, thúc đẩy cả vùng phát triển theo. Đối với mục tiêu thứ 1 thì chưa thấy rõ trong dự thảo định thử nghiệm cơ chế, thể chế gì? Và để đạt mục tiêu đó thì cách làm là cần đưa ra thảo luận rộng rãi, nhiều lần, để huy động chất xám, nâng cao hàm lượng trí tuệ và từ đó mà tạo ra nhận thức chung về cách quản trị đối với nền kinh tế hiện đại. Bản thân việc thảo luận ấy nếu biết tổ chức tốt thì nó đã tạo ra sản phẩm về nhận thức.

Đối với mục tiêu thứ 2, để tạo ra một khu phát triển thì rất cần làm rõ xem thử khu ấy là khu gì, ưu tiên cho cái gì (ngành nghề gì, sản phẩm gì) ở đó, và chắc chắn không thể ưu tiên tràn lan cho mọi thứ. Trong một đặc khu chỉ nên ưu tiên cho vài thứ ngành nghề quan trọng nhất theo chủ định của ta, có trọng tâm rõ ràng, còn các thứ khác thì phát triển bình thường như bên ngoài đặc khu, theo cơ chế chung như cả nước. Ví dụ du lịch, khách sạn, thương mại, casino, kinh doanh bất động sản, nhà hàng ăn uống, các nhà máy với công nghệ trung bình…thì có thể phát triển bình thường, không cần thiết phải tạo đặc khu. Người ta tạo đặc khu cũng là để rút kinh nghiệm rồi sau này hòa chung với cả nước mà nhân lên sự phát triển, chứ đâu phải để tạo ra một sự tách biệt nào trên lãnh thổ thống nhất. Còn những thứ xét thấy rất quan trọng, ví dụ như một hệ thống công nghiệp công nghệ cao nằm trong chuổi giá trị toàn cầu, hay một trung tâm tài chính quốc tế, một cảng trung chuyển hàng hải hay trung chuyển hàng không quốc tế…hay cái gì đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế VN thì mới cần khuyến khích nhiều, tức là mới thuộc đối tượng ưu tiên theo kiểu đặc khu. Các ưu đãi cần thực hiện theo hướng ưu tiên cái gì (ngành gì) chứ không phải ưu tiên tràn lan cho tất cả những thứ gì có trong địa bàn, không gian của đặc khu đó. Bản thân hình thức đặc khu đã là xuất phát từ tư duy không tràn lan.

Cũng có ý kiến rằng, vì nước ta còn thiếu vốn, làm đặc khu để thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài. Việc đó cũng cần, nhưng chỉ là yêu cầu kết hợp chứ không phải là chính, vì nếu chỉ để thu hút đầu tư thì thực hiện trên cả nước chứ không nhất thiết phải đặc khu, mặt khác, độ mở của nền kinh tế VN đối với đầu tư nước ngoài đã khá lớn, thậm chí có một số mặt cần phải chấn chỉnh lại. Cái quan trọng hơn là phải mở cho nội lực phát triển. Mục tiêu cuối cùng là sự phát triển của chủ nhân đất nước (tức là nhân dân) chứ không phải cho ai khác.

Sau khi lựa chọn hướng phát triển, tức là xác định cụ thể cho rõ nhiệm vụ đặc biệt là gì, căn cứ vào đó để mà chọn địa điểm xây dựng đặc khu, cụ thể hiện nay là căn cứ vào đó mà xem xét lại địa điểm có phù hợp không? Nếu địa điểm không phù hợp với nội dung phát triển thì phải chọn lại địa điểm cho phù hợp.

Đây là công việc phải rất khách quan, khoa học, chứ không phải “đẽo chân” cho vừa giày. Không phải địa điểm quyết định nội dung phát triển đặc khu, mà nội dung cần phát triển sẽ quy định việc chọn địa điểm, vì nó xuất phát từ yêu cầu cốt lõi của nội tại nền kinh tế nước nhà. Theo đó, có thể dễ nhìn thấy là khu vực Vân Phong nhằm để phát triển một cảng trung chuyển hàng hải quốc tế. Nếu có Cảng trung chuyển quốc tế tại Vân Phong thì sẽ rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của VN, chi phí vận chuyển hàng hải đi quốc tế sẽ giảm, gắn nền sản xuất hàng hóa của nước ta với thị trường thế giới, tạo thêm thế và lực để Việt Nam đồng hành cùng các quốc gia lân cận khác theo tinh thần “cần thiết” cho nhau, “tùy thuộc” lẫn nhau; đồng thời cũng là một kiểu “quốc tế hóa” Biển Đông, huy động sức mạnh tổng hợp của quốc tế để bảo đảm tự do hàng hải ở biển đông gắn với bảo vệ chủ quyền của VN ở khu vực này.

Đối tác chiến lược để làm cảng trung chuyển hàng hải quốc tế có thể tìm chọn của một nước phát triển ở phương tây đã có nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực này, nhất là hàng hải vượt đại dương xa. Cũng có ý kiến cho rằng, để phát triển cảng trung chuyển thì cũng không cần đặc khu? Việc này phải luận chứng, nếu không cần đặc khu theo kiểu có đơn vị hành chánh riêng mà chỉ cần cho cơ chế vẫn làm được cảng trung chuyển thì không cần phải làm đặc khu. Mục đích chính ở đây là một cảng trung chuyển quốc tế chứ không phải là một đặc khu. Cũng có ý kiến rằng, lấy đâu ra hàng hóa mà làm cảng trung chuyển quốc tế, trong khi ở gần ta đã có Hồng-Kông, Singapor…?



TS. Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó Ban Tuyên giáo TƯ
Tôi thì nghĩ khác, việc sản xuất hàng hóa ở nước ta và khu vực gần ta sẽ còn phát triển nhiều chứ không thể chỉ dừng lại như hiện nay mãi; mặt khác, có con đường vận tải nào thuận lợi hơn thì người ta sẽ chọn để đi và nó sẽ tác động kích thích sản xuất hàng hóa nhiều hơn cho khu vực lân cận. Việc nghiên cứu thị trường, tổ chức thị trường thì nhà đầu tư đương nhiên sẽ tính kỹ và cụ thể hơn. Chính phủ chọn hướng đi là trên cơ sở của nhu cầu và lợi thế so sánh về phát triển cảng biển nước sâu ở Vân Phong.

Còn Vân Đồn và Phú Quốc, nếu đúng lợi thế lớn nhất là du lịch và không có lợi thế khác để phát triển nội dung nào quan trọng hơn đối với nền kinh tế nước nhà thì cũng nên xem xét lại vấn đề địa điểm ở đây thử có cần làm đặc khu tại đó hay không? Du lịch thì cứ phát triển mạnh trên cả nước và không cần đặc khu. Còn nơi nào định làm cảng trung chuyển quốc tế hoặc các thứ công nghiệp công nghệ cao thì du lịch không thể đứng chung trong một không gian với các nội dung đó. Đối với công nghệ cao và trung tâm tài chính quốc tế như đã nêu ví dụ ở phần trên, thì nó thường thích hợp hơn với các địa điểm không cách xa các đô thị trung tâm.

Mà công nghệ cao thì đã có một số khu ở cả bắc trung nam, thậm chí đã 20 năm rồi nhưng chưa thành công, trước mắt cần phải xem xét lại cho kỹ về nguyên nhân, cách làm, xem vì sao mà chưa thành công, điều chỉnh và bổ sung giải pháp để bảo đảm cho các khu ấy thành công, đồng thời có thể phát triển thêm các khu công nghiệp công nghệ cao khác mà không cần đặc khu. Riêng đối với trung tâm tài chính quốc tế thì quan trọng nhất là các cơ chế liên quan đến vận hành, đến sự duy chuyển của các dòng tài chính, tiền tệ quốc tế, các loại tiền và công cụ tài chính, hệ thống tài khoản, sự minh bạch về tài chính….(trong dự thảo ít nói chuyện này). Đúng ra phải làm rõ nội dung cần phát triển trước khi chính thức quyết định địa điểm.

Cần chú ý mục tiêu quốc phòng và chủ quyền quản lý lãnh thổ

Người viết bài này chưa được rõ các căn cứ khi lựa chọn địa điểm như các phương án đã nêu ra! Mà nếu cần làm đặc khu thì cũng không nên đưa việc lựa chọn địa điểm cụ thể vào trong luật. Dự luật chỉ cần làm rõ các nguyên tắc, tiêu chí về mục tiêu, yêu cầu, nội dung phát triển và cơ chế chính sách lớn, chế tài xử lý đối với việc làm sai, vi phạm. Còn lựa chọn địa điểm ở đâu thì luận chứng rõ ràng trong từng dự án, và đó là loại dự án cần đưa ra cho quốc hội phê chuẩn sau khi đã lựa chọn kỹ lưỡng đối tác chiến lược. Với vị trí địa chính trị và trong tình hình cụ thể ở khu vực như ta đã biết, việc lựa chọn địa điểm cần đặc biệt chú ý mục tiêu quốc phòng về lâu dài, đề phòng cảnh giác đối với âm mưu thâm hiểm của thế lực muốn tìm cách xâm lăng nước ta.

Bản thân đặc khu, sau một thời gian, phải đem lại hiệu quả cao về tài chính cho đất nước, chứ không phải là nơi tiêu hao ngân sách. Các chính sách ưu đãi về thuế nói chung không kém hấp dẫn so với các đặc khu đã có trong khu vực, nhưng không nhất thiết phải vượt trội so với thiên hạ. Cần quan tâm hơn về cải cách hành chánh, cơ chế quản lý thoáng mở, thủ tục không rườm rà, giảm tối đa thời gian làm thủ tục, bảo đảm sự minh bạch, không có phí tiêu cực. Lấy đó làm hướng chính thay cho việc miễn giảm thuế. Sự miễn giảm thuế không nằm ngoài việc hướng đến tạo nguồn thu lớn hơn cho ngân sách. Nói chung, không phải tập trung ngân sách để đầu tư vào đặc khu để xây hạ tầng vượt trội trong điều kiện tài chính mất cân đối như hiện nay.

Khu Thẩm Quyến của Trung Quốc chỉ được đầu tư rất ít từ ngân sách để xây hàng rào, còn hạ tầng thì đặc khu tự cân đối và kêu gọi các nhà đầu tư. Nhưng sau đó một thời gian không lâu thì đặc khu đã có nguồn thu lớn nộp cho ngân sách. Nước ta phải nghĩ theo cách đó chứ không phải tính chuyện dùng nhiều tiền từ ngân sách để đầu tư vào mấy đặc khu gây hụt nguồn cho các nhu cầu khác hoặc lâm nợ. Đặc khu phải hạch toán có hiệu quả, vừa bảo đảm tự cân đối cho công việc phát triển đặc khu, vừa có nguồn để nộp cho ngân sách nhà nước, chứ không thể chi nhiều hơn thu. Đây là yêu cầu khó khăn khi thực hiện, nhưng không thể không làm thế. Nếu đặc khu là chỗ tiêu hao ngân sách quốc gia và không đem lại hiệu quả tài chính thì không cần phải xây dựng đặc khu trong tình hình hiện tại. Nên sử dụng cơ chế là chủ yếu để tạo ra đặc khu, chứ không phải chọn địa điểm để tập trung đầu tư ngân sách.

Thời gian cho thuê đất cần bảo đảm thu hồi vốn cho nhà đầu tư và sẽ gia hạn khi nhà đầu tư có yêu cầu chính đáng trước lúc giấy phép hết hạn. Thời gian cho thuê đất như quy định trong luật pháp hiện hành là được rồi, không cần phải kéo dài thêm. Luật đặc khu của nước Nga chỉ cho thuê đất không quá 20 năm và không cho lập đơn vị hành chánh riêng.

Giữ vững chủ quyền quản lý lãnh thổ (cả chính trị, kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng) là một nguyên tắc không lúc nào được lãng quên. Chính điều này làm cho hình thức đặc khu khác với hình thức tô nhượng mà trước kia một số nước đã từng thực hiện. Theo đó, quyền phán quyết bằng tòa án kinh tế phải do VN đảm nhận thực hiện và theo luật pháp VN. Còn việc các doanh nghiệp VN và doanh nghiệp nước ngoài tự nguyện hợp đồng với nhau chọn cơ quan trọng tài kinh tế nào (kể cả của quốc tế) để xử lý khi có tranh chấp thì có thể được tôn trọng đối với dự án cụ thể ấy. Qua thực tiễn nếu xét thấy luật pháp VN về xử lý tranh chấp kinh tế có điểm nào thiếu hoặc không không tiên tiến, không phù hợp với luật pháp quốc tế thì công việc lập pháp sẽ bổ sung hoặc điều chỉnh.

Để triển khai xây dựng đặc khu, cần lựa chọn kỹ lưỡng chủ đầu tư là những tập đoàn, doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm phát triển lĩnh vực ngành nghề mà ta dự định. Đó là hướng chủ yếu chứ không phải dùng cơ quan nhà nước làm chủ đầu tư để sử dụng ngân sách. Trong tình hình hiện tại, nước ta không đủ ngân sách để xử lý đồng thời nhiều nhiệm vụ quan trọng. Mặt khác, việc đầu tư cho hạ tầng bằng ngân sách nhà nước thường bị lảng phí một tỷ lệ đáng kể, chất lượng công trình cũng dễ có vấn đề và đưa vào sử dụng hiệu quả thường không cao. Như vậy, có thể rút ra cách suy nghĩ là, nhà nước không trực tiếp tạo ra đặc khu kinh tế, mà chính các tập đoàn kinh tế mới là người tạo ra các khu ấy, còn nhà nước thì chỉ tạo điều kiện, nhất là khung pháp lý. Vì vậy, để bảo đảm cho sự thành công của đặc khu, cần thiết phải tìm chọn chủ đầu tư chiến lược song song với quá trình chuẩn bị đề án, chứ không phải lập ra đặc khu và chờ nhà nước cân đối vốn đến đâu thì làm đến đấy.

VN đất hẹp người đông, mặt khác, lại nằm ở vị trí địa lý rất nhạy cảm mà đối phương luôn dòm ngó, mưu tính lâu dài. Vì vậy, vấn đề các cư dân sẽ sinh sống lâu dài ở đây cần được xem xét cẩn trọng. Cư dân hiện tại và lâu dài chủ yếu vẫn phải là người VN. Dân cư đang sinh sống trong đặc khu nên được sắp xếp lại và giúp đỡ đào tạo nghề nghiệp để họ có thể sinh sống lâu dài tại chỗ, chứ không nên chuyển dời tất cả đi nơi khác. Đồng thời cũng có thể mở về cơ chế để các cư dân nước ngoài là những nhà khoa học-công nghệ, nhà văn hóa, nhà tài chính được định cư ở đây nếu họ đến làm việc trong đặc khu và có nguyện vọng ổn định chỗ ở để làm việc. Ngoài ra, đều phải quản lý việc nhập cư một cách chặt chẻ, không thể mất cảnh giác.

TS. Vũ Ngọc Hoàng

Quảng Nam tháng 7.2018

* TS. Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó Ban Tuyên giáo TƯ vừa gửi cho Blog bài viết này. Một bài viết chủ đề nhạy cảm- Đặc khu kinh tế- với những phân tích thấu đáo về những được mất, thành bại, nên và không nên làm xung quanh chủ đề đặc khu kinh tế.

CÁC VỊ " ĐẦU LĨNH" ĐÔNG BẮC Á CHÍNH THỨC "TUYÊN CHIẾN" VỚI TRUNG CỘNG 




TT PHILIPPINES RODRIGO DUTERTE 
ĐE DỌA SÚNG CỦA NƯỚC NÀY SẼ CƯỚP CÒ TRÊN BIỂN ĐÔNG

TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG:

"CHÍNH TRỊ CƯỜNG QUYỀN QUAY TRỞ LẠI MẠNH HƠN, NHẤT LÀ TRONG KHU VỰC" 

Blog PVĐ

22 tháng 8, 2018

Nghiên cứu Quốc tế

Suy nghĩ lại về Trung Quốc


Nguồn: Kurt Campbell & Ely Ratner, “The China Reckoning”, Foreign Affairs, March/April 2018.
Biên dịch: Huỳnh Hoa
Bắc Kinh coi thường những kỳ vọng của Hoa Kỳ như thế nào
Hoa Kỳ luôn luôn có một ý thức quá lớn về khả năng của mình trong việc quyết định con đường đi của Trung Quốc. Hết lần này đến lượt khác, các tham vọng của Hoa Kỳ đều tan vỡ như bọt nước. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, George Marshall, đặc phái viên Hoa Kỳ tại Trung Quốc, hy vọng được làm mối lái cho một nền hòa bình giữa phe Quốc dân đảng và phe Cộng sản trong cuộc nội chiến Trung Hoa. Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, chính phủ Truman nghĩ rằng Mỹ có thể ngăn chặn được bộ đội của Mao Trạch Đông vượt qua sông Áp Lục [biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Hàn]. Chính phủ Johnson thì tin Bắc Kinh cuối cùng sẽ cố tránh dính dáng vào Việt Nam. Trong mỗi trường hợp này, thực tế của Trung Quốc đã làm đảo lộn mọi kỳ vọng của Hoa Kỳ.
Với sự kiện tổng thống Richard Nixon mở cửa với Trung Quốc, Washington đã làm cú đặt cược lớn nhất và lạc quan nhất. Cả Nixon và Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của ông ta, đều cho rằng cuộc hòa giải này sẽ chêm một cái nêm vào giữa Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa và làm thay đổi quan niệm của Trung Quốc về lợi ích của họ khi tiến gần hơn tới Hoa Kỳ. Vào mùa thu năm 1967, Nixon đã viết trên tạp chí Foreign Affairs: “Thế giới không thể an toàn cho đến khi Trung Quốc thay đổi. Vì vậy mục tiêu của chúng tôi, ở mức độ mà chúng tôi có thể tác động đến các sự kiện, là đem lại sự thay đổi đó”. Kể từ ngày ấy, chiến lược của Hoa Kỳ luôn đặt trên nền tảng là  giả thuyết: làm sâu sắc hơn các mối quan hệ thương mại, ngoại giao và văn hóa sẽ có tác dụng làm thay đổi sự phát triển nội bộ của Trung Quốc và cách hành xử của nước này với bên ngoài. Ngay trong giới chính sách Hoa Kỳ những người mang nỗi hoài nghi về ý định của Trung Quốc cũng chia sẻ  niềm tin tiềm ẩn rằng sức mạnh và vị thế bá chủ của Hoa Kỳ có thể dễ dàng uốn nắn Trung Quốc theo sở thích của Washington.
Nửa thế kỷ đã trôi qua từ những bước đi đầu tiên của Nixon hướng tới tái lập tình hữu nghị Trung-Mỹ, đã có các bằng chứng ngày càng rõ ràng rằng Washington một lần nữa lại đặt quá nhiều niềm tin vào sức mạnh của mình trong việc định hình con đường phát triển của Trung Quốc. Tất cả mọi phe trong cuộc tranh luận chính sách này đều sai: cả những người ủng hộ thương mại tự do và các nhà tài chính từng tiên đoán về sự cởi mở tất yếu và ngày càng tăng ở Trung Quốc; những người ủng hộ hội nhập từng cho rằng các tham vọng của Bắc Kinh sẽ được thuần hóa nhờ sự tương tác rộng lớn hơn với cộng đồng quốc tế; và cả những chính trị gia diều hâu từng tin rằng, sức mạnh của Trung Quốc có thể bị làm cho cùn nhụt bởi tính ưu việt vĩnh cửu của Hoa Kỳ.
Không có cây gậy hoặc củ cà rốt nào có tác động tới Trung Quốc như dự kiến. Những mối ràng buộc về ngoại giao và thương mại đã không mang lại được sự cởi mở về chính trị và kinh tế ở Trung Quốc. Cả sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ cũng như cán cân lực lượng khu vực đều không ngăn cản được Bắc Kinh tìm cách thay thế những thành phần cốt lõi của một hệ thống do Hoa Kỳ dẫn dắt. Và trật tự tự do quốc tế cũng đã thất bại trong việc thu hút hoặc ràng buộc Trung Quốc một cách mạnh mẽ như đã từng kỳ vọng. Thay vì vậy, Trung Quốc đã đi theo con đường của riêng mình, và chứng tỏ hàng loạt kỳ vọng của Hoa Kỳ cho tiến trình này là hoàn toàn sai lầm.
Thực tế ấy đặt cơ sở hợp lý để biện minh cho sự “nghĩ lại tỉnh táo” về đường lối của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Có rất nhiều rủi ro đi kèm với một sự đánh giá lại như vậy; những người bảo vệ cho khuôn khổ hiện hành cảnh báo về một sự mất ổn định trong quan hệ song phương, hoặc khả năng kích hoạt một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Nhưng công cuộc xây dựng một cách tiếp cận và một mối quan hệ vững mạnh hơn, bền vững hơn với Bắc Kinh đòi hỏi phải thật sự thành thực về nhiều giả định căn bản đã biến thành sai lầm như thế nào. Từ bên này sang bên kia phổ ý thức hệ, cộng đồng chính sách ngoại giao Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đầu tư sâu rộng vào những kỳ vọng về Trung Quốc – về đường lối của nước này với kinh tế, chính sách đối nội, an ninh và trật tự thế giới – ngay cả khi đã tích lũy được rất nhiều bằng chứng chống lại các kỳ vọng ấy. Những chính sách xây dựng trên kỳ vọng đã thất bại trong việc thay đổi Trung Quốc ngay trong cách mà chúng ta dự tính hoặc hy vọng.
SỨC MẠNH CỦA THỊ TRƯỜNG
Sự tương tác thương mại rộng lớn hơn với Trung Quốc được giả định sẽ mang lại cuộc giải phóng nền kinh tế Trung Quốc, từng bước một nhưng đều đặn. Chiến lược An ninh quốc gia năm 1990 của tổng thống Mỹ George H.W. Bush [Bush cha] miêu tả các quan hệ được nâng cao với thế giới là “cốt yếu cho triển vọng của Trung Quốc giành lại con đường cải cách kinh tế”. Lối suy nghĩ này chiếm ưu thế trong nhiều thập niên. Nó dẫn dắt các quyết định của Mỹ trong việc cấp cho Trung Quốc quy chế thương mại tối huệ quốc (MFN) trong thập niên 1990, ủng hộ Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2001, thiết lập đối thoại kinh tế cấp cao năm 2006 và đàm phán một hiệp định đầu tư song phương dưới thời tổng thống Barack Obama.
Thương mại hàng hóa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã bùng nổ, từ mức dưới 8 tỉ USD năm 1986 lên mức hơn 578 tỉ USD năm 2016, tăng hơn 30 lần sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát. Tuy nhiên, từ những ngày đầu tiên của thế kỷ này, công cuộc tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã dừng lại. Trái với những kỳ vọng của phương Tây, Bắc Kinh đã đầu tư gấp đôi vào mô hình tư bản nhà nước ngay cả khi họ đã trở nên giàu có hơn. Thay vì trở thành một lực lượng thúc đẩy sự cởi mở rộng lớn, mức tăng trưởng kinh tế liên tục đã phục vụ cho sự chính danh hóa quyền cai trị của đảng Cộng sản Trung Quốc và mô hình kinh tế do nhà nước dẫn dắt của nước này.
Các quan chức Hoa Kỳ tin rằng, nợ nần, sự kém hiệu quả và nhu cầu của một nền kinh tế tiến bộ hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những cải cách sâu rộng ở Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc cũng nhận ra những vấn đề trong đường lối của họ; năm 2007 thủ tướng Ôn Gia Bảo đã gọi nền kinh tế Trung Quốc là “không ổn định, không thăng bằng, không kết nối và không bền vững”. Nhưng thay vì mở cửa đất nước cho cuộc cạnh tranh lớn hơn thì với ý đồ duy trì quyền kiểm soát nền kinh tế, đảng Cộng sản Trung Quốc lại củng cố khối doanh nghiệp nhà nước và theo đuổi những chính sách công nghiệp nhắm tới việc thúc đẩy các tập đoàn hàng đầu về công nghệ quốc gia trong các lĩnh vực thiết yếu, bao gồm cả hàng không không gian, y sinh học và robotics (đáng chú ý là kế hoạch “Made in China 2025”). Và bất chấp những lời hứa hẹn cứ nhắc đi nhắc lại, Bắc Kinh vẫn luôn chống lại áp lực từ Washington và nhiều thủ đô khác đòi Trung Quốc phải tạo lập một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nước ngoài. Trung Quốc đã hạn chế quyền tiếp cận thị trường và buộc các doanh nghiệp không phải Trung Quốc phải ký kết những hợp đồng liên doanh và chia sẻ công nghệ, trong khi họ vẫn tuồn vốn đầu tư và trợ cấp cho những công ty nội địa được nhà nước hậu thuẫn.
Cho tới gần đây, phần lớn các nhà hoạch định chính sách và quản lý doanh nghiệp Hoa Kỳ vẫn ngầm chấp nhận một sự phân biệt đối xử như vậy; những lợi ích thương mại tiềm tàng thì lớn đến mức họ cho rằng sẽ là không khôn ngoan khi đảo lộn mối quan hệ hiện hành bằng những chính sách bảo hộ thị trường hoặc cấm vận thương mại. Thay vì vậy, họ đấu tranh quyết liệt để giành những sự nhượng bộ nhỏ nhoi, từng chút một. Nhưng giờ đây, những gì có thời được coi chỉ là những thất bại ngắn hạn trong việc làm ăn với Trung Quốc đã trở thành những nỗi thất vọng thường trực và tai hại hơn nhiều. Năm ngoái Phòng Thương mại Hoa Kỳ báo cáo cứ 10 doanh nghiệp Mỹ thì có 8 đơn vị cảm thấy ít được hoan nghênh ở Trung Quốc so với những năm trước, và khoảng 60 phần trăm số doanh nghiệp được hỏi ý kiến có rất ít hoặc không có niềm tin rằng Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường nhiều hơn trong vòng ba năm tới. Những cơ chế tự nguyện và hợp tác để thúc đẩy mở cửa nền kinh tế Trung Quốc nhìn chung đã thất bại, kể cả cơ chế Đối thoại Kinh tế toàn diện mới được chính phủ của ông Trump khai trương.
MỆNH LỆNH CỦA TỰ DO HÓA
Tăng trưởng kinh tế được giả định sẽ không chỉ mang lại sự cởi mở kinh tế rộng hơn mà cả sự tự do hóa chính trị. Lối tư duy này cũng cho rằng, sự phát triển sẽ kích hoạt một chu kỳ thuận lợi; một tầng lớp trung lưu mới manh nha sẽ đòi hỏi những quyền lợi mới và các quan chức thực dụng sẽ chấp nhận các cải cách tư pháp cần thiết để tiến xa hơn. Cuộc tiến hóa này dường như là điều chắc chắn sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ và các cuộc chuyển hóa dân chủ diễn ra ở Đài Loan và Nam Hàn. “Không quốc gia nào trên trái đất này tìm ra được một con đường nhập cảng hàng hóa và dịch vụ của thế giới trong khi vẫn ngăn chặn các ý tưởng nước ngoài tại biên giới của mình”, ông George H. W. Bush tuyên bố như vậy. Chính sách của Hoa Kỳ nhắm tạo thuận lợi cho tiến trình này bằng cách chia sẻ công nghệ, đẩy mạnh thương mại và đầu tư, hỗ trợ giao lưu nhân dân và tiếp nhận hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc vào các trường đại học Mỹ.
Vụ đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989 đánh tan niềm hy vọng về sự trỗi dậy của nền dân chủ đại diện ở Trung Quốc. Nhưng nhiều chuyên gia và nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ vẫn kỳ vọng chính phủ Trung Quốc sẽ cho phép thực thi quyền tự do báo chí rộng rãi hơn, cho phép xã hội dân sự mạnh mẽ hơn trong khi dần dần chấp nhận cạnh tranh chính trị nhiều hơn cả bên trong đảng Cộng sản lẫn ở cấp địa phương. Họ tin rằng, cuộc cách mạng công nghệ thông tin của thập niên 1990 sẽ khuyến khích những xu hướng như vậy bằng cách giúp công dân Trung Quốc tiếp xúc nhiều hơn với thế giới bên ngoài và nâng cao những phần thưởng kinh tế cho việc mở cửa. Như tổng thống Bill Clinton có lần nói, “Không có tự do đầy đủ để suy nghĩ, để truy vấn và để sáng tạo, Trung Quốc sẽ rơi vào một tình thế bất lợi rõ ràng khi cạnh tranh với các xã hội hoàn toàn mở trong kỷ nguyên thông tin, trong đó nguồn lực lớn lao nhất của tài sản quốc gia là những gì nằm bên trong đầu óc của con người”. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh sẽ dần dần nhận ra rằng chỉ bằng cách chấp nhận tự do cá nhân thì Trung Quốc mới có thể thịnh vượng trong một tương lai công nghệ cao.
Nhưng nỗi lo sợ rằng sự cởi mở rộng hơn có thể đe dọa cả sự ổn định quốc nội và sự sống còn của chế độ đã thôi thúc các nhà lãnh đạo Trung Quốc tìm kiếm một con đường thay thế. Họ coi cả hai cú sốc biến cố Quảng trường Thiên An Môn và biến cố Liên xô sụp đổ như là bằng chứng của những mối hiểm nguy mà công cuộc dân chủ hóa và cạnh tranh chính trị mang lại. Và thế là, thay vì chấp nhận những chu kỳ tích cực của công cuộc cởi mở, Bắc Kinh lại phản ứng chống lại các lực lượng toàn cầu hóa bằng cách dựng lên những bức tường và siết chặt quyền kiểm soát của nhà nước, thui chột thay vì tăng cường dòng chảy tự do của người dân, của ý tưởng và hoạt động thương mại. Những áp lực bổ sung lên chế độ của Trung Quốc trong thế kỷ này – bao gồm một sự giảm tốc về kinh tế, bệnh tham nhũng đặc hữu của chính quyền và quân đội, cũng như những trường hợp đáng ngại về sự nổi dậy của dân chúng ở khắp nơi trên thế giới – đã kích thích thêm chứ không làm giảm đi chế độ chuyên chế độc tài.
Thật vậy, những biến cố trong thập niên vừa qua đã phá hỏng những niềm hy vọng khiêm tốn nhất về tự do hóa chính trị ở Trung Quốc. Năm 2013, một chỉ thị nội bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc, được biết tới như là Tài liệu số 9, cảnh cáo thẳng thừng rằng, “chế độ dân chủ hiến định phương Tây” và các “giá trị phổ quát” khác là những bức bình phong che giấu ý đồ làm suy yếu, mất ổn định, thậm chí làm tan rã nước Trung Quốc. Chỉ thị đó chứng tỏ rằng hố ngăn cách giữa những kỳ vọng của Hoa Kỳ với kỳ vọng của Trung Quốc về tương lai chính trị của nước này đang mở rộng ra rất nhanh. Như Orville Schell, một chuyên gia về Trung Quốc hàng đầu của Mỹ, nhận xét: “Trung Quốc chắc chắn đang trượt lùi vào một bầu không khí chính trị gợi nhớ tới ông Mao Trạch Đông trong thập niên 1970 hơn là ông Đặng Tiểu Bình của thập niên 1980”. Ngày nay, cuộc đàn áp đang diễn ra với các nhà báo, các lãnh tụ tôn giáo, người hoạt động xã hội và các luật sư nhân quyền không có dấu hiệu giảm xuống – chỉ trong năm 2015 đã có hơn 300 luật sư, người trợ giúp pháp lý và người hoạt động xã hội bị giam giữ.
Công nghệ thông tin, thay vì giúp chuyển giao quyền lực cho nhân dân Trung Quốc như ở nhiều nước phương Tây, lại giúp tăng cường bàn tay của nhà nước, giúp nhà cầm quyền Trung Quốc kiểm soát dòng chảy thông tin và giám sát hành vi của công dân. Kiểm duyệt, giam cầm, và một bộ luật an ninh mạng mới trao cho chính quyền quyền kiểm soát rộng rãi mạng Internet ở Trung Quốc, ngăn cản hoạt động chính trị bên trong “Vạn lý hỏa thành” (Great Firewall) của Trung Quốc. Giờ đây chế độ chuyên chế thế kỷ 21 của Trung Quốc còn triển khai cả một “hệ thống tín nhiệm xã hội”, sử dụng nguồn dữ liệu lớn (big data) kết hợp với trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence) để khen thưởng hay trừng phạt công dân Trung Quốc dựa vào hoạt động chính trị, thương mại, xã hội và hoạt động trực tuyến của họ. Ứng dụng công nghệ nhận diện khuôn mặt, kết hợp với mạng lưới máy quay phim theo dõi phủ khắp Trung Quốc, đã giúp cho nhà nước có thể xác định vị trí của bất kỳ người dân nào chỉ trong vài phút đồng hồ.
NGĂN CHẶN VỊ THẾ HÀNG ĐẦU
Sự kết hợp giữa ngoại giao Hoa Kỳ với sức mạnh quân sự Hoa Kỳ – củ cà rốt và cây gậy – được giả định sẽ thuyết phục Bắc Kinh rằng Trung Quốc sẽ không thể và không cần thiết phải thách thức  trật tự về an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt ở châu Á. Washington đã “thúc đẩy mạnh mẽ sự tham gia của Trung Quốc vào các cơ chế an ninh khu vực để trấn an các quốc gia láng giềng và làm dịu mối quan ngại về an ninh của chính mình”, Chiến lược An ninh quốc gia năm 1995 của chính phủ Clinton xác định như vậy và được hỗ trợ bằng những mối quan hệ giữa quân đội với quân đội cùng nhiều biện pháp xây dựng lòng tin khác. Những phương thức giao kết này được kết hợp với một “hàng rào an toàn” – gia tăng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực, được hỗ trợ bởi các đối tác và đồng minh có năng lực. Lối suy nghĩ này cho rằng, tác động của đường lối này là để làm nguội cuộc cạnh tranh quân sự ở châu Á và kiềm chế tham vọng của Trung Quốc trong việc thay đổi trật tự khu vực. Bắc Kinh sẽ hài lòng chấp nhận một mức độ đủ về quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang cho những sự kiện bất ngờ hạn hẹp ở khu vực và dành phần lớn nguồn lực cho các nhu cầu nội địa.
Lập luận này giả định rằng, Trung Quốc sẽ tập trung vào cái mà họ tự mô tả là “cửa sổ cơ hội chiến lược” cho công cuộc phát triển ở trong nước với rất nhiều thách thức về kinh tế và xã hội xâm chiếm sự quan tâm của các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách và các học giả Hoa Kỳ cũng giả định rằng Trung Quốc đã học được bài học quý báu từ Liên xô về cái giá khủng khiếp phải trả cho việc tham gia chạy đua vũ trang với Hoa Kỳ. Như vậy, Washington không chỉ có thể ngăn cản hành động xâm lăng của Trung Quốc mà còn có thể – dùng từ của Ngũ giác đài – “can ngăn” Trung Quốc đừng thử cạnh tranh với Hoa Kỳ. Zalmay Khalilzad, một quan chức trong cả hai chính phủ Reagan và Bush, lập luận, một Hoa Kỳ ở vị thế thống trị có thể “thuyết phục giới lãnh đạo Trung Quốc rằng một thách thức như vậy sẽ rất khó khăn khi chuẩn bị và hết sức rủi ro khi theo đuổi”. Hơn thế nữa, vẫn không rõ là liệu Trung Quốc có thể thách thức vị thế hàng đầu của Hoa Kỳ cho dù họ muốn vậy hay không. Vào cuối thập niên 1990, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) được coi là vẫn đi sau quân đội Hoa Kỳ và quân đội các nước đồng minh nhiều thập kỷ.
Trong bối cảnh như vậy, các quan chức Hoa Kỳ luôn giữ sự thận trọng đáng kể để không bị vấp vào một cuộc chạm trán với Trung Quốc. Nhà khoa học chính trị Joseph Nye giải thích lối suy nghĩ này khi ông phụ trách văn phòng châu Á của Ngũ giác đài dưới thời chính phủ Clinton: “Nếu chúng ta đối đãi với Trung Quốc như kẻ thù, chúng ta chắc chắn sẽ có kẻ thù trong tương lai. Còn nếu chúng ta đối đãi với Trung Quốc như bạn bè, chúng ta không chắc có được tình bạn, nhưng ít ra chúng ta cũng để ngỏ khả năng có thêm nhiều kết quả tốt lành”. Trong cuộc điều trần trước quốc hội để được xem xét phê chuẩn làm bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ hồi tháng 1-2001, ông Colin Powell nói rằng: “Trung Quốc không phải là kẻ thù và thách thức của chúng ta là giữ cho họ không biến thành kẻ thù”.
Ngay cả khi Bắc Kinh bắt đầu đầu tư nhiều hơn vào quân đội bằng nguồn của cải mà họ mới tích lũy được, chính phủ Trung Quốc vẫn tìm cách trấn an Washington; tỏ dấu hiệu cho thấy họ vẫn tiếp tục gắn bó với con đường chính sách ngoại giao ôn hòa, thận trọng mà ông Đặng đã vạch ra. Năm 2005, quan chức cao cấp của đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Trương Tất Kiên (Zhang Bijian) đã viết trên tạp chí Foreign Affairs rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ khu vực mà vẫn duy trì cam kết “trỗi dậy hòa bình”. Năm 2011, sau một cuộc tranh luận sôi nổi trong các nhà lãnh đạo Trung Quốc về chuyện liệu đã đến lúc “sang số” chưa, ông Đới Bỉnh Quốc (Dai Bingguo), ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc, khẳng định với thế giới rằng “phát triển hòa bình là lựa chọn chiến lược mà Trung Quốc đã thực hiện”. Bắt đầu từ năm 2002, bộ quốc phòng Hoa Kỳ được quốc hội ủy quyền đã soạn thảo báo cáo hàng năm về quân đội Trung Quốc, nhưng có một sự đồng thuận trong các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục là một thách thức xa xôi và có thể quản lý được.
Tuy nhiên quan điểm đó đã đánh giá không đúng mức thực trạng giới lãnh đạo Trung Quốc vừa đầy tham vọng vừa đồng thời bất an như thế nào. Đối với Bắc Kinh, khối đồng minh của Mỹ và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở châu Á đặt ra những mối đe dọa không thể chấp nhận đối với lợi ích của Trung Quốc ở Đài Loan, bán đảo Triều Tiên, biển Hoa Đông và biển Đông. Theo lời của Vương Cát Tư (Wang Jisi), giáo sư Đại học Bắc Kinh, thì “ở Trung Quốc, mọi người đều tin chắc rằng… Washington sẽ cố gắng ngăn cản các cường quốc đang nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc, thực hiện các mục tiêu và nâng cao vị thế của họ”. Vì thế Trung Quốc đã bắt đầu phá hủy dần dần  trật tự an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt ở châu Á, phát triển những khả năng [quân sự] để ngăn chặn sự tiếp cận của quân đội Hoa Kỳ tới khu vực này, và ly gián hoặc gây chia rẽ Washington với các đồng minh.
Cuối cùng, cả sức mạnh quân sự lẫn nỗ lực giao kết ngoại giao của Hoa Kỳ đều không can ngăn được Trung Quốc xây dựng một đội quân đẳng cấp thế giới của riêng mình. Những cuộc phô diễn công nghệ cao của lực lượng Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Iraq và nhiều nơi khác chỉ có tác dụng thúc đẩy nhanh hơn những nỗ lực hiện đại hóa PLA của Trung Quốc. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát động những kế hoạch cải cách quân đội nhằm làm cho các lực lượng vũ trang của Trung Quốc có sức sát thương hơn, có khả năng phóng chiếu sức mạnh quân sự rất xa ngoài bờ biển Trung Quốc. Với chiếc hàng không mẫu hạm thứ ba đang được xây dựng, với những căn cứ quân sự tân tiến mới được lập trên các đảo ở biển Đông và với căn cứ quân sự đầu tiên của Trung Quốc ở nước ngoài được lập ở Djibouti (châu Phi), Trung Quốc đang trên đường trở thành một đối thủ quân sự bằng vai phải lứa mà Hoa Kỳ chưa từng nhìn thấy kể từ thời Liên bang Xô viết. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không còn nhắc lại câu châm ngôn của Đặng Tiểu Bình rằng để phát triển, Trung Quốc cần phải “thao quang dưỡng hối” (che giấu năng lực, chờ đợi thời cơ). Hồi tháng 10-2017, Tập Cận Bình tuyên bố “đất nước Trung Quốc đã đi từ chỗ đứng lên, trở nên giàu có và trở nên hùng mạnh”.
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA TRẬT TỰ
Vào cuối cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai, Hoa Kỳ xây dựng những thiết chế (institution) và luật lệ góp phần tạo nên cơ cấu chính trị toàn cầu và động lực khu vực ở châu Á. Những quy tắc được chấp nhận rộng rãi, chẳng hạn như tự do thương mại và tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, hợp tác quốc tế để xử lý những thách thức toàn cầu v.v… đã thay thế cho các không gian ảnh hưởng của thế kỷ 19. Lối suy nghĩ thiện chí cho rằng, là người được hưởng lợi nhiều nhất từ  trật tự tự do quốc tế này, Bắc Kinh chắc hẳn sẽ có phần đóng góp đáng kể vào việc duy trì  trật tự ấy và coi sự tiếp tục  trật tự này là hết sức thiết yếu cho tiến bộ của chính Trung Quốc. Chính sách của Hoa Kỳ nhắm khích lệ sự tham gia của Bắc Kinh bằng việc chào đón Trung Quốc vào các thiết chế hàng đầu và làm việc với Trung Quốc về những vấn đề quản trị toàn cầu và an ninh khu vực.
Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ hy vọng rằng, một khi Trung Quốc đã gia nhập các thiết chế đa phương thì Bắc Kinh sẽ học cách chơi theo luật lệ và chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ bắt đầu góp phần vào việc duy trì các thiết chế ấy. Thứ trưởng bộ ngoại giao Robert Zoellick trong chính phủ George W. Bush [Bush con] đã kêu gọi Bắc Kinh hãy trở thành một “cổ đông có trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế. Từ quan điểm của Washington, quyền lực lớn hơn đi kèm với nghĩa vụ lớn hơn, đặc biệt là vì Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều từ hệ thống. Như ông Obama đã nhấn mạnh, “Chúng ta kỳ vọng Trung Quốc tôn trọng và bảo vệ chính những luật lệ đã giúp họ thành công”.
Ở một số thiết chế, Trung Quốc có vẻ sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm, dù mưa nắng thất thường. Trung Quốc gia nhập tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1991, Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1992, Tổ chức Thương mại thế giới năm 2001, và tham gia nhiều nỗ lực ngoại giao quan trọng, kể cả hội nghị 6 bên [Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật, Nam Hàn và Bắc Hàn] và các cuộc đàm phán P5+1 [5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc + Đức] để giải quyết các chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn và Iran. Trung Quốc cũng trở thành nước đóng góp quan trọng cho các hoạt động chống hải tặc và gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc.
Nhưng Bắc Kinh vẫn cảm thấy bị đe dọa bởi các yếu tố trung tâm khác trong  trật tự do Hoa Kỳ dẫn dắt – và đang ngày càng tìm cách thay thế chúng. Điều đó đặc biệt đúng về những gì mà Trung Quốc coi là những vụ vi phạm không mong muốn về chủ quyền quốc gia của họ do Hoa Kỳ và các đối tác của Hoa Kỳ thực hiện, dù dưới hình thức cấm vận kinh tế hoặc hành động quân sự. Những quy tắc của chủ nghĩa tự do liên quan tới quyền hay trách nhiệm của cộng đồng quốc tế được can thiệp để bảo vệ người dân khỏi những vụ vi phạm nhân quyền chẳng hạn, đã đối chọi trực tiếp với ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là bảo vệ hệ thống chuyên chế khỏi sự can thiệp của nước ngoài. Với một vài ngoại lệ đáng chú ý, Trung Quốc luôn bận rộn với việc làm giảm nhẹ những biện pháp cấm vận đa phương, che chở các chế độ chuyên chế trước sự lên án của phương Tây và kết bè cánh với Nga để ngăn chặn Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc phê chuẩn các hành động can thiệp. Một số chính phủ phi dân chủ – ở Sudan, Syria, Venezuela, Zimbabwe và nhiều nơi khác – đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự ngăn chặn này.
Trung Quốc cũng bắt đầu xây dựng một tập hợp các thiết chế quốc tế và khu vực của riêng mình – mà Hoa Kỳ chỉ là kẻ ngoại cuộc đứng ngoài nhìn vào – hơn là làm sâu sắc hơn các cam kết của Bắc Kinh đối với các thiết chế hiện tồn. Bắc Kinh đã khai trương Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB), Ngân hàng Phát triển mới (NDB) (cùng với Brazil, Ấn Độ, Nga và Nam Phi) và đáng chú ý nhất, Trung Quốc đã khởi động dự án “Nhất lộ nhất đới” (một vành đai, một con đường) –  tầm nhìn phi thực tế của ông Tập nhằm xây dựng những tuyến đường bộ và đường hàng hải nối Trung Quốc với phần còn lại của thế giới. Những thiết chế và chương trình này đã trao cho Bắc Kinh tư cách đặt ra nghị trình và tập hợp sức mạnh của riêng mình trong khi bỏ qua các tiêu chuẩn và giá trị được các thiết chế quốc tế hiện hành tôn trọng và tuân thủ. Bắc Kinh công khai phân biệt rõ đường lối phát triển của mình bằng việc lưu ý rằng, không giống như Hoa Kỳ và các cường quốc châu Âu, họ không đòi hỏi các nước nhận viện trợ phải chấp nhận cải cách quản trị quốc gia như là điều kiện để được hỗ trợ.
Trong khi đó, ở khu vực châu Á, Bắc Kinh đã bắt đầu thay đổi cán cân về an ninh, từng chút từng chút làm biến đổi hiện trạng bằng những bước đi đủ nhỏ để tránh kích hoạt một phản ứng quân sự từ Hoa Kỳ. Ở biển Đông, một trong những hải lộ quan trọng nhất của thế giới, Trung Quốc đã khéo léo sử dụng tàu tuần tra biển, chiến tranh pháp lý và cưỡng bức kinh tế để thúc đẩy đòi hỏi chủ quyền của mình. Trong một số trường hợp, Trung Quốc chỉ đơn giản xâm chiếm các vùng lãnh thổ tranh chấp hoặc quân sự hóa các đảo đá nhân tạo. Trong khi Bắc Kinh có lúc thể hiện sự kiềm chế và thận trọng có tính chiến thuật, đường lối chung của Trung Quốc cho thấy họ mong muốn tạo ra một không gian ảnh hưởng hiện đại trên mặt biển.
Vào mùa hè năm 2016, Trung Quốc bỏ qua một phán quyết có tính cột mốc của tòa án quốc tế theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển [UNCLOS], theo đó những đòi hỏi quá rộng của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông là bất hợp pháp xét theo luật quốc tế. Các quan chức Hoa Kỳ đã giả định một cách sai lầm rằng một sự kết hợp nào đó giữa áp lực, sự sỉ nhục và mong muốn của chính Trung Quốc về một trật tự hàng hải căn cứ trên luật lệ sẽ dần dần làm cho Bắc Kinh chấp nhận phán quyết ấy. Nhưng thay vì vậy, Trung Quốc đã bác bỏ thẳng thừng phán quyết của tòa. Tháng 7-2017, một năm sau ngày tòa PCA ban hành phán quyết nói trên, nói chuyện tại một diễn đàn an ninh quốc tế ở Aspen, bang Colorado, một nhà phân tích cao cấp của Cơ quan Tình báo Hoa Kỳ (CIA) đưa ra kết luận, kinh nghiệm đã dạy cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc “rằng họ có thể coi thường luật pháp quốc tế mà vẫn không sao cả”. Các quốc gia trong khu vực, bị ảnh hưởng bởi sự phụ thuộc về kinh tế với Trung Quốc lẫn mối lo ngại ngày càng tăng về cam kết của Hoa Kỳ với châu Á, đã thất bại trong việc phản kháng sự xâm lấn của Trung Quốc chứ không như kỳ vọng của Hoa Kỳ rằng họ sẽ phản kháng mạnh.
KIỂM KÊ LẠI
Khi những giả định dẫn dắt chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã có vẻ ngày càng mong manh, khi khoảng cách giữa kỳ vọng của Hoa Kỳ và thực tế tại Trung Quốc ngày càng doãng rộng ra thì Washington lại tập trung phần lớn sự chú ý vào những nơi khác. Từ năm 2001, cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan (jihadist) đã choáng hết tâm trí của bộ máy an ninh quốc gia Hoa Kỳ, lôi kéo sự chú ý ra khỏi những thay đổi ở châu Á đúng vào lúc Trung Quốc thực hiện những bước tiến dài về quân sự, ngoại giao và thương mại. Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush lúc đầu đề cập tới Trung Quốc như là “đối thủ cạnh tranh chiến lược”, nhưng sau vụ tấn công khủng bố ngày 11-9, trong Chiến lược An ninh quốc gia năm 2002 của mình, ông lại tuyên bố, “Các cường quốc của thế giới tự thấy mình đứng về cùng một phía – đoàn kết chống lại những mối hiểm nguy chung của bạo lực và hỗn loạn mà bọn khủng bố gây ra”. Trong thời chính phủ của tổng thống Obama, đã có một nỗ lực “xoay trục” hoặc “tái cân bằng”, chuyển mối quan tâm chiến lược về châu Á. Nhưng đến cuối nhiệm kỳ của tổng thống Obama, ngân sách và nhân lực của Hoa Kỳ vẫn được tập trung chủ yếu cho các khu vực khác – ví dụ, đội ngũ chuyên viên Hội đồng An ninh quốc gia phụ trách khu vực Trung Đông thì đông gấp ba lần đội ngũ phụ trách Đông Á và Đông Nam Á.
Sự sao nhãng chiến lược này đã đem lại cho Trung Quốc cơ hội để tận dụng các lợi thế của mình, và được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi  quan điểm ngày càng phổ biến ở Trung Quốc rằng Hoa Kỳ (cùng với phương Tây nói chung) đang trong tiến trình suy thoái nhanh chóng và không thể lay chuyển được. Các quan chức Trung Quốc nhìn thấy một nước Mỹ trong nhiều năm liền bước đi khập khiễng vì khủng hoảng tài chính toàn cầu, vì những nỗ lực chiến tranh rất tốn kém ở Iraq và Afghanistan và tình trạng rối loạn chức năng ngày càng sâu sắc ở Washington. Ông Tập đã kêu gọi Trung Quốc phải trở thành “một nhà lãnh đạo toàn cầu về phương diện sức mạnh toàn diện của quốc gia và ảnh hưởng quốc tế” vào giữa thế kỷ này. Ông ta khoe khoang mô hình phát triển của Trung Quốc như là “một lựa chọn mới cho các quốc gia khác”.
Giờ đây Washington phải đối mặt với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, năng động nhất trong lịch sử hiện đại. Để xử lý đúng đắn thách thức này, đòi hỏi nước Mỹ phải từ bỏ ngay lối suy nghĩ đầy hy vọng từ lâu đã là đặc điểm của lối tiếp cận của Mỹ đối với Trung Quốc. Chiến lược An ninh quốc gia đầu tiên của chính phủ Trump đã tiến một bước theo hướng đúng đắn bằng cách đặt thành nghi vấn những giả định trong chiến lược của Hoa Kỳ trong quá khứ. Nhưng nhiều chính sách của ông Donald Trump – như tập trung chú ý quá hạn hẹp vào thâm hụt thương mại song phương, từ bỏ các hiệp định thương mại đa phương, đặt câu hỏi về giá trị của quan hệ đồng minh, và giáng cấp các chính sách ngoại giao và nhân quyền – đã đặt Washington vào nguy cơ đi theo cách tiếp cận đối đầu mà không cạnh tranh (confrontational without being competitive); trong khi Bắc Kinh theo đuổi đường lối ngày càng cạnh tranh mà không đối đầu.
Khởi điểm cho một lối tiếp cận tốt hơn là Hoa Kỳ cần tỏ ra khiêm tốn về khả năng làm thay đổi Trung Quốc. Nguyên tắc chỉ đạo chiến lược của Hoa Kỳ ở châu Á không phải là tìm cách cô lập và làm suy yếu Trung Quốc, cũng không phải là cố gắng thay đổi Trung Quốc theo hướng tốt hơn. Thay vì vậy, Washington nên tập trung chú ý nhiều hơn vào sức mạnh và cách hành xử của chính mình; sức mạnh và các hành xử của tất cả các đồng minh và đối tác. Xây dựng chính sách trên nền tảng là một tập hợp các giả định có tính hiện thực hơn về Trung Quốc có thể nâng cao lợi ích của Hoa Kỳ và đưa mối quan hệ song phương vào một cơ sở bền vững. Để đạt được điều đó đòi hỏi phải làm việc, nhưng bước đi đầu tiên tương đối đơn giản: Hoa Kỳ cần phải thừa nhận các chính sách của chúng ta đã thất bại trong việc thực hiện các kỳ vọng của chúng ta đến mức nào.
Kurt M. Campbell là chủ tịch Asia Group, nguyên trợ lý bộ trưởng bộ ngoại giao Hoa Kỳ phụ trách vụ Đông Á-Thái Bình Dương trong giai đoạn 2009-2013. Ely Ratner là nhà nghiên cứu cao cấp về nghiên cứu Trung Quốc của Hội đồng Quan hệ đối ngoại (CFR), nguyên phó cố vấn an ninh quốc gia của phó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden giai đoạn 2015-2017.
Nguồn: Viet-studies