30 tháng 9, 2017

Hữu nghị Trung - Việt, mộng tưởng của những kẻ mị dân

Quan hệ Trung – Việt đã có một lịch sử tới 2.000 năm. Trong 1.000 năm đầu, trừ thời gian ngưng chiến ngắn ngủi và những lúc ở Trung Quốc có nội loạn, còn toàn bộ thời gian có thể nói là Trung Quốc đã trực tiếp thống trị Việt Nam. Trong 1.000 năm sau, tuy Việt Nam không bị Trung Quốc trực tiếp thống trị, nhưng họ chịu đủ mọi thứ đối xử không bình đẳng, như là một thuộc quốc, xen vào đó là thời kỳ cách quãng của những cuộc chinh phục bằng quân sự.


Như Engene Lawson nói: “Điều mà Trung Quốc đắn đo chủ yếu đối với Việt Nam không phải là chuyện cướp đoạt của cải, mà chính là vì an ninh của bản thân Trung Quốc. Điều mong mỏi nhất quán trong chính sách của Trung Quốc là muốn ở khu vực bắc Việt Nam phải do một Chính phủ tương đối hữu nghị thân thiện lãnh đạo. Vì trong giới lãnh đạo của Trung Quốc Cộng sản hiện nay vẫn ghi nhớ một nỗi đau là vào cuối thế kỷ XVIII người Pháp đã thâu tóm khu vực Đông Dương và vùng Tây Nam của Trung Quốc thành phạm vi thế lực của mình. Năm 1940, vì lợi ích quân sự, người Nhật đã nắm lấy quyền lực hành lang Việt Nam – Tokyo”. Kỳ vọng truyền thống của Trung Quốc đối với Việt Nam là Trung Quốc muốn Việt Nam trở thành một quốc gia đệm ở trên vùng biên giới để đối phó với những nguy cơ từ sự xâm lược từ bên ngoài vào. Cho đến ngày hôm nay, khi phải lo lắng ý đồ Liên Xô bao vây Trung Quốc, thì kỳ vọng đó vẫn cứ tồn tại. Chỉ nhìn bối cảnh lịch sử 2.000 năm, chúng ta cũng không thể xem thường Chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc và mưu đồ Hán hóa các quốc gia xung quanh họ. Còn hiện nay Chủ nghĩa bá quyền dân tộc cộng với sức mạnh của hình thái ý thức, thì đó chính là thứ Chủ nghĩa cộng sản dưới sự chỉ đạo của tư tưởng Mao Trạch Đông, Tình cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc tương đối phức tạp, nó là một mối mâu thuẫn chứa đầy hận thù với hữu nghị.

Một mặt, người Việt Nam ca tụng và tôn trọng Trung Quốc như là nơi bắt nguồn cho những quan niệm mới, những tư duy mới của họ: tư tưởng và quan niệm về các mặt chế độ nhân viên hành chính, tư tưởng Nho gia, ngôn ngữ và cả đến chế độ nông nghiệp của Trung Quốc, thế nhưng trên mặt khác, người Việt Nam bao giờ cũng nghi ngờ ý đồ thật của Trung Quốc xâm lược Việt Nam và họ rất căm ghét thái độ ngạo mạn của người Trung Quốc đối với “Nam man”. Thực trạng quá khứ Trung Quốc xâm lược Việt Nam đã làm cho người Việt Nam khiếp sợ sự thống trị của Trung Quốc, thậm chí ngay cả ở trong nước người Việt Nam cũng rất sợ bị các Hoa kiều có thành đạt về mậu dịch và buôn bán khống chế. Đương nhiên có một phần nhân cách con người dân tộc Việt Nam đã bị Trung Quốc hóa, song họ vẫn rất kiên trì bảo vệ giữ gìn tính độc lập về văn hóa và tính cách của chính bản thân mình. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX, có hai sức mạnh làm cho những người cách mạng Trung Quốc và những người cách mạng Việt Nam gắn bó với nhau: Sức mạnh thứ nhất là Chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của tiên sinh Tôn Trung Sơn đã lật đổ Chính phủ Mãn Thanh, đó là tấm gương cho những người Việt Nam dân tộc chủ nghĩa. Sức mạnh thứ hai là cả hai bên đều có chung mục đích cố gắng đánh đổ Chủ nghĩa đế quốc phương Tây mà đỉnh cao của nó biểu hiện ở việc cách mạng Việt Nam đã đánh đổ được ách thống trị của hai cường quốc Pháp vàMỹ.

Trung Quốc, kẻ thù của Việt Nam
Đối với người dân Việt Nam, Trung Quốc là kẻ thù ngàn năm, là kẻ thù số một.
Alexiou có chỉ ra rằng: chúng ta có thể dễ dàng thấy được liều thuốc kích thích Trung Việt quan hệ với nhau. Đó là vào những năm cuối đời nhà Thanh, tiên sinh Tôn Trung Sơn đã lấy Hà Nội làm một căn cứ để phát động cách mạng Trung Quốc; còn năm 1911 những người cách mạng Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Trung Sơn đã lấy Quảng Châu làm một căn cứ cách mạng của mình.  Harold Hinton chỉ rõ: “Con đường của Chủ nghĩa dân tộc hiện đại của Trung Quốc và Việt Nam là con đường tiến song song, cũng có khi nó gắn chặt với nhau”.

Mâu thuẫn trong quan hệ Trung – Việt đã biểu hiện cụ thể ở Hội nghị Băng Đung năm 1954. Lawson nói: “Bắc Kinh vô cùng phản đối ý đồ của Hà Nội, họ ép Hà Nội phải biểu thị công khai rằng sẽ không can thiệp vào công việc của Lào”.  Năm 1954, Việt Nam đánh bại Pháp, sau đó tổ chức đàm phán ở Giơ-ne-vơ vào tháng 5, thảo luận về việc quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam và lấy vĩ tuyến 17 để phân chia Nam, Bắc Việt Nam. Hội nghị Giơ-ne-vơ là hội nghị lần đầu tiên Trung Quốc tham gia với vai trò quyền lực. Đến sau này, quan hệ Trung – Việt bị phá vỡ vào năm 1979, Việt Nam đã công bố “Sách trắng”, trong đó có nêu rõ: “lúc đó họ đã sắp sửa nhanh chóng giành được thắng lợi trên toàn Đông Dương và chỉ trích Trung Quốc trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 đã ép Việt Nam phải chấp nhận đề nghị phân chia Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam thành hai nước”.

“Sách trắng” còn công bố, sau khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chu Ân Lai đã đề nghị với em trai Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Nhu để Miền Nam Việt Nam được công khai đặt Công sứ quán tại Bắc Kinh. Hành động này, theo “Sách trắng” để lộ, chứng tỏ Trung Quốc có ý đồ làm cho Việt Nam vĩnh viễn bị chia cắt.  “Sách trắng” tiếp tục nói rõ, Việt Nam cho rằng mục đích cuối cùng trong chính sách ngoại giao đối với Đông Nam Á của Mao Trạch Đông là duy trì sự chia cắt Việt Nam để Trung Quốc có thể đạt được mưu đồ thống trị toàn Đông Nam Á. Lawson cũng từng nói rằng: “Trung Quốc rất hài lòng với Hiệp định này. Và trên thực tế là trong vòng 10 năm sau, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chi phối cách suy nghĩ của Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam”. Cho đến tận nay, Việt Nam vẫn nói rằng, dưới sức ép của Trung Quốc, nên trong Hiệp định Giơ-ne-vơ, Lào chỉ giành được hai tỉnh của cả nước Lào để có thể làm khu căn cứ xây dựng và chỉnh đốn quân đội, Việt Nam còn tố cáo Trung Quốc khi thừa nhận chính quyền Sihanouk đã không dành cho quân Cộng sản Cămpuchia một vùng đất đai nào cả.

hiệp định Geneva
Với tư cách là “chủ đầu tư” chính cho lực lượng Việt Minh đánh Pháp. Lần đầu tiên, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được xuất hiện tại Geneva với tư cách là nước lớn và có tiếng nói trên thế giới thông qua chiến thắng Điện Biên Phủ.
Báo Nhân dân của Việt Nam có viết: “Chính sách của họ (Trung Quốc) lúc đó là mong cho nội bộ Việt Nam và Lào bị chia rẽ, đồng thời muốn lợi dụng Miền Bắc Việt Nam cùng với hai tỉnh giải phóng của Bắc Lào làm thành khu vực đệm theo biên giới phía nam của Trung Quốc. Họ đã phớt lờ lợi ích của cách mạng Cămpuchia, trong khi đó cách mạng Cămpuchia đã giải phóng được hai phần ba đất nước”. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1964, giới lãnh đạo của Trung Quốc luôn hy vọng dùng biện pháp đàm phán và biện pháp tiến đánh du kích nhỏ lẻ để giải quyết vấn đề xung đột với Việt Nam, bởi vì trong thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60, chính sách của Trung Quốc là muốn ủng hộ Chính phủ trung lập ở Lào và Cămpuchia, cốt để tránh được việc Việt Nam mở rộng lực lượng trên hai nước này. Sau này, trong một bài bình luận, tờ Kinh tế Viễn Đông (FEER) đã tỏ ra đồng tình với các nhận định này, viết rằng “Theo một số nhân sĩ đã từng có quan hệ thân thiết với cố thủ tướng Chu Ân Lai đã để lộ, trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, đúng sự thực là Chu Ân Lai đã chặn ý muốn của Việt Nam thống trị toàn Đông Dương, đồng thời ông đã ép Việt Nam phải chấp nhận Lào, Cămpuchia, Việt Nam là từng nước độc lập với nhau. Nhưng Việt Nam đã phản bác lại cách đặt vấn đề như thế, họ cho rằng, chính Trung Quốc vì muốn mở rộng Chủ nghĩa bá quyền nên mới buộc ba nước Đông Dương phải phân lập với nhau”.

Nhưng để hiểu được tố cáo của “Sách trắng” của Việt Nam, chúng ta cần phải hiểu rõ chính sách cân bằng của Trung Quốc và Liên Xô đối với Việt Nam vào lúc đó. Lawson nói: “Đã từ lâu Việt Nam phát hiện Liên Xô và Trung Quốc đều giống như nhau, cả hai đều muốn ủng hộ có mức độ cho Việt Nam chỉ đủ đạt mức phù hợp với các mục tiêu của họ. Trước năm 1954, Liên Xô ủng hộ Việt Nam vô cùng nhỏ nhoi. Và trong đàm phán ở Hội nghị Giơ-ne-vơ, Liên Xô và Trung Quốc đã cùng nhau ép buộc Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện bất lợi.” Cho nên sau khi kết thúc hội nghị đàm phán Giơ-ne-vơ, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã vun đắp quan hệ tốt đẹp với Liên Xô và Trung Quốc để giành được viện trợ cho xây dựng kinh tế và tiến hành đấu tranh ở Việt Nam.

Huỳnh Tấn Bửu

(Quan Hệ Quốc Tế)

29 tháng 9, 2017

Bầu cử ở Đức, đốt củi ở Việt Nam và cơn lốc Trịnh Xuân Thanh

Sa Huỳnh (Berlin)
Theo Thoibao 
Sáng ngày Chủ Nhật, 24.09.2017, sau buổi điểm tâm, tôi cùng cô bạn đi tham gia bầu Quốc Hội nước Đức. 

Bầu cử ở Đức, đốt củi ở Việt Nam và cơn lốc Trịnh Xuân Thanh
Đương kim Thủ tướng Angela Merkel đã được nhiều công dân Đức gốc Việt bỏ phiếu ủng hộ. 

Đối với tôi, có quốc tịch từ năm 1991, nên chẳng phải là lần đầu. Riêng cô bạn tôi, vẫn còn là công dân Việt, nên chỉ đi theo để... quan sát.

Trên đường đi, nàng bảo: "Lạ thật, không khí bầu cử ở đây im ắng, khác với ở Việt Nam. Ra đường chỉ thấy từng cặp dắt tay nhau, ăn mặc chỉnh tề, chuyện trò vui vẻ đi vào phòng phiếu. Ở Việt Nam ta, vào những dịp như thế thì rất ồn ào. Khẩu hiệu, cờ quạt treo khắp nơi. Đỏ chóe làm chói cả mắt. Chưa kể loa phường thi nhau phát công xuất tẹc ga ngay từ sáng sớm. Nhức hết cả đầu."

Tôi mỉm cười thông cảm: "Ở những nước văn minh, nền dân chủ đã phát triển cao, mọi người dân đều ý thức được tầm quan trọng của lá phiếu, nên không cần ai... hò hét. Ở những nước kém phát triển hầu hết đều khác xa. Không giăng cờ, không khua mõ... chắc ít ai chịu đi bầu. Nước Việt Nam ta cũng không ngoài trường hợp đó. Ngoài việc kém phát triển về dân chủ, nước ta còn bị nạn độc quyền lãnh đạo, theo nguyên tắc 'đảng cử - dân bầu', nên lá phiếu thực ra chẳng có giá trị gì."

Trong kỳ bầu cử này, tại nước Đức có đến 48 đảng phái tham gia. Nhưng thực tế chỉ có 6 đảng: CDU/CSU, SPD, Grüne, Linke, FDP và AfD là có khả năng chia nhau 631 số ghế ngồi trong Quốc hội. Đảng nào, hay liên minh nào, chiếm được từ 316 ghế trở lên, sẽ được phép thành lập chính quyền, bầu Thủ tướng, thành lập nội các, thảo ra chương trình hành động cho nhiệm kỳ 4 năm tới.

Đúng 18 giờ ngày bầu cử, mọi việc đã rõ ràng. Đương kim Thủ tướng Angela Merkel, 63 tuổi, sẽ tiếp tục trong vai trò lãnh đạo. Nhưng rất tiếc, đảng của bà không nắm quyền lực một mình, mà phải chia bớt một phần cho đảng xanh Grüne và đảng vàng FDP, bởi CDU/CSU chỉ được 32,9% tổng số phiếu.

Dù chiếm được 20,6%, nhưng đảng SPD đã tuyên bố rời liên minh cầm quyền, nhận lãnh vai trò dẫn đầu đối lập trong quốc hội, để ngăn việc đảng cực hữu AfD, với 13% số phiếu, là lực lượng mạnh thứ 3, sẽ thao túng nghị trường.

Đối với tôi, kết quả là tạm chấp nhận được. Tôi đã bầu cho đảng Xanh, dù tôi thuộc khuynh hướng CDU và SPD. Việc làm của tôi nhằm mục đích giúp không khí dân chủ trong Quốc hội. Với sự suy nghĩ rằng, dù sao thì CDU/CSU và SPD cũng sẽ thành những lực lượng chính trị mạnh nhất và nhì, họ sẽ không cần thêm phiếu nữa, chúng ta dành cho đảng phái khác, hầu giảm bớt sức mạnh của 2 đảng mà tôi không hài lòng, là đảng cánh tả Linke, và cánh hữu AfD.

Theo thông tin trong những ngày qua, đây là một "chiến lược" không phải của riêng tôi, mà của nhiều cử tri khác trên nước Đức. Vì vậy, việc các chính đảng lớn là CDU/CSU và SPD, bị mất phiếu trầm trọng trong kỳ này, có thêm một lý do vô cùng dễ hiểu. Ít nhất là tôi đã không bầu cho họ, như những lần qua.

Trên đường về, khi nghe tôi kể về suy nghĩ của mình, cô bạn đã thốt lên: "Ước gì ở quê hương Việt Nam của mình, cử tri cũng được cơ hội dân chủ để chọn lựa như thế, có nhiều đảng phái ra tranh cử như ở Đức hiện tại. Lúc ấy nếu người dân vẫn chọn đảng Cộng sản làm lãnh đạo đất nước, và bên cạnh có nhiều đảng đối lập làm nhiệm vụ kiểm tra, thì quyền lực sẽ không còn bị lạm dụng, đỡ khổ cho dân mình biết bao. Và những người 'cộng sản chân chính' có lòng với vận mệnh đất nước, cũng đỡ nhức đầu, với tình hình ngoài tầm kiểm soát như hiện nay."

Tôi gật đầu: "Đúng là như vậy, nhưng vô cùng gian khó. Đảng Cộng sản có tổ chức rất tinh vi, chặt chẽ và chằng chịt từ lâu trong xã hội Việt Nam. Điều đó vô cùng có lợi trong thời kỳ chiến tranh, vì nhờ thế mà đảng đã có thể nắm toàn bộ quyền hành để quyết định và triển khai sức mạnh. Thế nhưng ngày nay, trong thời kỳ xây dựng, cần phát triển mọi mặt khác trong xã hội, đưa đất nước tiến lên, hội nhập vào dòng chảy tiến bộ của toàn thế giới, chúng ta cần một thể chế dân chủ, minh bạch, tự do, trong tinh thần thượng tôn pháp luật."

Dù trong nước, hiện nay có bao người, kể cả những người cộng sản, trăn trở về một hướng đi đúng đắn cho dân tộc, và đặc biệt là thành phần trí thức, dù trong những năm tháng qua họ bị làm thui chột, mất dũng khí, đôi khi phải chịu tiếng ươn hèn. Những người cộng sản muốn thay đổi cũng không dễ, vì chính cái tổ chức chặt chẽ tinh vi, lại trở thành "gậy ông đập lưng ông". Điển hình là chính sách độc đảng, chính sách hộ khẩu, đảng cử / dân bầu, sổ hưu và lý lịch, vân vân.

Đã từ lâu những chính sách này đã giúp đảng ổn định, tồn tại và phát triển. Rất có lợi trong thời kỳ chiến tranh. Thế nhưng hiện nay, chính sách này đã và đang thành trở ngại, bó tay đảng về những tham vọng như quyết tâm đổi mới, chuyển mình tiến bộ, đoàn kết dân tộc, bài trừ tham nhũng, chống nạn bè phái, xây dựng dân chủ, hoà giải và hoà hợp dân tộc.

Thật ra, nạn bè phái và nạn tham nhũng tuy hai mà một. Bởi chính vì cùng có mưu đồ tham nhũng nên các nhóm lợi ích kết lại thành bè phái. Và vì quyền lực không được kiểm soát nên nhóm bè phái càng thêm sức mạnh, sự tham nhũng càng bành trướng to hơn. Đến lúc cần, họ lại thanh toán, triệt hại nhau, đất nước càng điêu linh và nghèo khó.

Điển hình hiện nay là việc ví von "nung lò, đốt củi" của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Dù ông rất quyết tâm bài trừ tham nhũng, thế nhưng đại đa số người dân đều không tin vào sự thành công. Họ càng không tin rằng, nạn tham nhũng và nạn bè phái, cuối cùng sẽ hoàn toàn biến mất trong nhà nước CHXHCN Việt Nam. Bởi khi đốt xong được đám củi này thì đám củi khác lại... hiện ra, đôi khi còn cứng và khó cháy hơn những đám củi khác. Bởi tham nhũng và bè phái càng ngày càng khôn, tinh ma hơn.

Nguyên do của vấn nạn này chính là sự thao túng quyền lực. Mà bản chất con người là tham lam quyền lực để dễ bề thực hiện được lòng tham, chiếm đoạt của cải vật chất, biến của công thành của riêng mình. Không ai tự nhiên từ bỏ quyền lực và từ bỏ lòng tham, trừ khi bị bắt buộc.

Và vũ khí hữu hiệu giúp thực hiện sự bắt buộc đó, chúng ta không phải mất công tìm kiếm hay mò mẫm đâu xa, vì thiên hạ trong thế giới đã tìm ra cả mấy trăm năm nay rồi. Đó là xây dựng một thể chế dân chủ, có khả năng kiểm soát quyền lực, theo hình vòng tròn của tam quyền phân lập: Lập pháp (Quốc hội), Tư pháp (Tòa án) và Hành pháp (Chính quyền).

Ba cơ quan này phải tuyệt đối độc lập với nhau, không quyền nào được đứng trên quyền nào, cùng nhau giúp điều hành sự hoạt động và trật tự xã hội, mang ấm no, hòa bình, hạnh phúc và công bằng đến cho tất cả mọi người.

Trở lại tình hình đất nước ta, ngoài những thiếu sót về một thể chế dân chủ, như đã nói ở trên, dư luận hiện nay cũng nghi ngờ quyết tâm đánh bại tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng. Họ cho rằng, thực ra đó chỉ là màn đấu đá nội bộ, nhằm tranh giành quyền lực và làm các đối thủ, phe của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yếu đi, để chuẩn bị nhân sự của phía ông, cho kỳ Đại Hội đảng lần thứ 13. Bởi nếu không nắm được quyền lực, đảng sẽ mất khả năng kiểm soát và quyết định, trong bối cảnh một nền kinh tế khó khăn và xám xịt như hiện nay, cùng với sức ép về đòi hỏi quyền con người của quần chúng, đòi hỏi dân chủ của những phong trào đấu tranh dân sự, cũng như đòi hỏi phải cứng rắn hơn với chính quyền Trung Quốc, của tuyệt đa số người dân trong và ngoài nước.

Chính vì những ngờ vực đó, mà lòng tin của dân chúng ở trong nước, vào một đất nước trong sạch với sự phát triển bền vững, không có nền tảng vững chắc.

Còn đối với người Việt ở ngoài nước, hay còn gọi là "khúc ruột ngàn dặm", lòng tin ấy đã ít ỏi từ lúc không mấy ai hài lòng, về thái độ quá mềm yếu của nhà nước, đối với sự hung tàn, xem thường khí phách dân tộc Việt Nam của bành trướng Bắc Kinh. Đến tình trạng đạo đức xã hội và học đường xuống dốc thảm hại. Tiếp theo là vấn nạn tham nhũng tràn lan, ăn sâu vào gốc rễ khắp mọi cơ sở và tổ chức xã hội ở Việt Nam.

Lòng tin ít ỏi đó lại càng ít đi hơn, sau... cơn lốc Trịnh Xuân Thanh (TXT).

Đặc biệt Việt kiều tại Đức, lúc đầu rất hoang mang bởi 2 nguồn dư luận.

Hoặc là ông TXT "đầu thú", theo như thông tin nhà nước, một tuần sau khi TXT mất tích tại Berlin, rồi xuất hiện bơ phờ trên truyền hình Việt Nam.

Hay "bị bắt cóc", theo như nguồn tin từ những trang báo đáng tin cậy trong và ngoài nước, đặc biệt là sự nhạy bén, chuyên nghiệp của tờ Thoibao.de ở Berlin, mà Tổng biên tập là ông Lê Trung Khoa.

Sự hoang mang này lập tức được giải tỏa, sau khi có sự xác nhận của chính quyền Đức. Dựa vào kết quả điều tra, Đức cáo buộc điệp viên Việt Nam, cùng liên quan với Đại Sứ Quán tại Berlin, đã tổ chức bắt cóc người, trên lãnh địa nước Đức. Vi phạm trắng trợn, chưa có tiền lệ, chủ quyền nước Đức và luật pháp quốc tế.

Việt Kiều tại Đức rất tin tưởng vào nguyên tắc làm việc của người Đức. Tin tưởng vào sự chính xác, khoa học, kiên trì với bài bản nghiêm túc của họ. Chẳng khác chi khi nhìn họ chơi đá bóng. Họ chơi nhẫn nại, siêng năng, kỷ luật, không chán nản. Thế trận trông rất chậm chạp từ từ, nhưng sức ép vào khung thành đối phương vô cùng nặng ký và dũng mãnh.

Người Đức không khôn lõi, dối trá hay xảo quyệt. Người Đức tôn trọng pháp luật và những qui ước đã thỏa thuận cùng nhau. Người Đức không tìm cách nói trắng thành đen. Tóm lại, những gì chính quyền Đức tuyên bố, Việt Kiều đều hết sức tin tưởng. Và khi họ nói là "bắt cóc", thì sẽ không có nghĩa là "ra đầu thú".

Chính vì vậy mà phía Việt Nam phải ngậm đắng nuốt cay, khi phía Đức trục xuất 2 nhà ngoại giao, vì họ phát hiện có những dấu hiệu dính dáng trực tiếp đến bắt cóc.

Họ tạm dừng quan hệ đối tác chiến lược đã ký kết tại Hà Nội, từ năm 2011, giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và bà Angela Merkel.

Họ yêu cầu nhà nước Việt Nam có lời xin lỗi nước Đức, hứa không tái phạm những phi vụ bắt cóc như vậy nữa trên nước Đức. Họ bảo lưu những biện pháp trừng phạt khác trong thời gian tới, nếu phía Việt Nam vẫn khư khư với ý kiến bảo thủ rằng, ông TXT đã về nước đầu thú và bị bắt tại Việt Nam.

Họ cũng yêu cầu có giám sát viên quốc tế, tham gia vào việc xét xử TXT.

Họ cho rằng, còn có thêm vài nhân viên tại Đại Sứ Quán dính líu dến vụ này. Nhưng mục đích của họ không phải là đuổi hết người về rồi đóng cửa cơ quan ngoại giao. Họ chỉ muốn phía Việt Nam thực hiện những điều cần thiết, để khôi phục lại niềm tin đã mất, và nối lại bang giao tốt đẹp như lúc ban đầu.

Thế là, Việt kiều tại Đức đang từ giai đoạn hoang mang, chuyển qua giai đoạn bị bàng hoàng. Nhất là 2 ngày sau bầu cử, thái độ Đức càng quyết liệt hơn. Ngưng cấp Visa cho một phái đoàn Việt Nam muốn đến Đức làm việc. Đóng các lịch hẹn xin cấp Visa trên 90 ngày cho sinh viên, học nghề. Tuyên bố của Đức được sự hưởng ứng của vài thành viên khác thuộc Liên minh Âu Châu, như Pháp, Ý, Thụy Điển, Hà Lan...

Ngày lễ Quốc khánh năm nay, Đại Sứ Quán Việt Nam không tổ chức hoành tráng như những lần trước, mà chỉ làm cho có lệ. Với một nhóm chừng 40 người, ngồi trong một căn phòng nhỏ hẹp. Nhân viên ngoại giao và người thân của họ, đã chiếm một phần không ít. Một vài gương mặt doanh nhân quen thuộc, chỉ đại diện cho một thiểu số nhỏ kiều bào. Dư luận cho rằng, đây là một buổi tổ chức nhằm đối phó với truyền thông báo chí, đối phó với tình thế lưỡng nan: Tổ chức to thì phía Đức không đi, không tổ chức thì mất thể diện.

Nghe đến đó, cô bạn tôi tiếp lời: "Hiện nay ngoài việc bàng hoàng như anh nhận định, Kiều bào ta tại Đức còn cảm thấy bất an và nguy hiểm, bởi sự lộng hành của các điệp viên Việt Nam trên nước Đức."

Tôi cũng thêm vào: "Chẳng những thế mà họ còn cảm thấy bị xúc phạm. Vì sau mấy mươi năm sống và làm việc trên nước Đức, phần lớn đã hội nhập hay nhập quốc tịch, con cái đã có cuộc sống vững vàng, đa số Việt kiều xem đây là quê hương đã che chở và cưu mang mình, nên rất biết ơn. Bất cứ nước nào, chứ không riêng gì Việt Nam, nếu xâm phạm vào lãnh thổ Đức, hay vi phạm pháp luật nước Đức... cũng khiến cho mọi người phẫn nộ và đau lòng. Chỉ những người vô ơn mới có thái độ ngược lại."

Cô bạn ngước mắt nhìn tôi: "Anh nói đúng, người Việt tại Đức nên có thái độ đúng đắn kịp thời. Chúng ta mong nhà nước Việt Nam nhanh chóng đáp ứng những yêu cầu rõ ràng và chính đáng của chính quyền Đức, nhằm khôi phục lại niềm tin. Nhằm bảo vệ những thành quả ngoại giao đã đạt được, mà trong đó, công lao đóng góp của bà con Việt kiều, cũng như của các hội đoàn người Việt tại Đức, là vô cùng to lớn, đáng quí và hiệu quả."

Tôi biểu lộ sự đồng tình: "Đó là mong ước và góp ý chân tình, rất hợp lý đối với nhà nước Việt Nam. Riêng đối với Đại Sứ Quán, dựa theo thông tin từ phía Đức, ai cũng nhận ra rằng, chính ngài Đại Sứ, là một trong những người chịu trách nhiệm lớn, trong... cơn lốc Trịnh Xuân Thanh. Cơn lốc này đã phá tan, trong thời gian ngắn, những nỗ lực của bà con. Tuy vậy, có lẽ bà con không cần một lời xin lỗi, nhưng nếu có một buổi đối thoại rộng rãi, trong tinh thần cởi mở, chân tình... sẽ giúp đôi bên thông cảm, đưa bà con xích lại gần như xưa.

Vì với tình hình hiện nay, niềm tin đã mất. Bà con nhìn ngôi nhà Đại Sứ Quán ở Berlin, như một nơi dung túng những điệp viên thô thiển, những thế lực đen tối, và những cố vấn thiếu trình độ nghiệp vụ, có thể gây cho họ sự bất an và lo sợ."

______

Vụ Trịnh Xuân Thanh: Đức đình chỉ đối tác chiến lược với Việt Nam và trục xuất tiếp cán bộ ngoại giao Việt Nam trong vòng 4 tuần
http://thoibao.de/tin-nuoc-duc/11421/vu-trinh-xuan-thanh%3A-duc-dinh-chi-doi-tac-chien-luoc-voi-viet-nam-va-truc-xuat-tiep-can-bo-ngoai-giao-viet-nam-trong-vong-4-tuan..htm

Đức từ chối cấp Visa cho đoàn công tác nhà nước, tạm ngừng cấp Visa cho du học sinh Việt Nam?
http://thoibao.de/tin-nuoc-duc/11428/duc-tu-choi-cap-visa-cho-doan-cong-tac-nha-nuoc%252c-tam-ngung-cap-visa-cho-du-hoc-sinh-viet-nam%3F.htm

Kỷ niệm 72 năm Quốc khánh 2/9 giữa một nhóm người Việt tụ tập với nhau tại Đại sứ quán Berlin:

http://thoibao.de/site/News/11385?title=ky-niem-72-nam-quoc-khanh-2%252f9-giua-mot-nhom-nguoi-viet-tu-tap-voi-nhau-tai-dai-su-quan-berlin

 Tướng Giáp, tài năng và số phận


Bộ phim tài liệu The Vietnam War của hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick vừa được trình chiếu rộng rãi từ trung tuần tháng Chín. Có nhiều tin tức nói rằng Hà Nội không hài lòng với nội dung phim. Một trong các lý do là vì nhắc đến vai trò của Tổng bí thư Lê Duẩn, lấn át ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp mất ngày 4 tháng 10, 2013, ở tuổi 103. Sau đây là bài viết của nhà báo Bùi Tín, người từng có nhiều dịp gần gũi với tướng Giáp, nhân dịp công chiếu The Vietnam War.

Tướng Giáp trong một lần tiếp cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara.
Tướng Giáp trong một lần tiếp cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara.
Tướng Giáp đã đi vào huyền thoại trong lịch sử Việt Nam, trong lịch sử chiến tranh của thế giới. Đã có những bản tiểu sử chính thức của ông.

Cũng có những tin tức thêu dệt về ông, ví dụ có những bài báo, cuốn sách trong nước viết rằng ông từng được Hội đồng Hoàng gia Anh Quốc tuyên dương là một trong 10 thiên tài quân sự thế giới, được đúc tượng đặt trong bảo tàng quân sự Anh quốc. Tôi đã sang London, tìm hiểu, đây chỉ là tin vịt không có thật, nhưng bộ máy tuyên truyền của CHXHCN Việt Nam không hề cải chính.

Vậy tướng Giáp là con người ra sao trong cái cơ chế chính trị Việt Nam do đảng Cộng sản lãnh đạo theo chế độ toàn trị ?

Tôi có nhiều dịp tiếp cận ông, đôi lúc còn cùng ông tâm sự, do tin cậy quý mến nhau, vì cùng trưởng thành qua nền văn hóa học đường Pháp, tôn trọng quyền tư duy độc lập, theo luận lý. Hơn nữa ông sống kín đáo, ít tâm sự cùng ai, sống nội tâm rất mạnh, giàu suy nghĩ, không rượu chè, không thuốc lá, không bia bọt, giải trí hầu như duy nhất là đọc sách, suy ngẫm và chơi nhạc nhẹ piano, mà ông ưa nhất là bài «Sông Đa-núyp xanh» - Le Danube bleu.

Tôi nhiều lần được đi các chuyến xuất ngoại của ông, làm thư ký báo chí, giúp ông trả lời phỏng vấn của các nhà báo Pháp, Anh, Nga, Trung quốc, Ba lan, Đức, Hung… Chuyến đi lý thú nhất là vào năm 1977 ông cầm đầu phái đoàn quân sự đi cám ơn các nước sau khi chiến tranh kết thúc, trao huân chương cho nhiều chuyên gia quân sự từng giúp Việt Nam. Đoàn được mời nghỉ ở Sochi bên bờ Hắc hải, trong dinh thự nghỉ hè sang trọng của Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô. Tại đây, bên bờ biển, tôi có dịp hỏi chuyện ông, gợi ý dò hỏi nhiều chuyện ít ai biết, do bản tính tò mò của nhà báo. Sau đó có vài ngày thăm Berlin, tôi nhớ nhất là cuộc hội ngộ mật của 3 ông tướng 3 châu: Fidel Castro của Cuba, đại tướng Hoffman của CHDC Đức và tướng Giáp, sau khi Fidel rất cao hứng vừa đi thanh tra 20 ngàn quân tình nguyện Cuba ở các nước châu Phi như Angola, Congo, Mozambique… Ngày 1/5/1977, đoàn trở về Moscow, tướng Giáp là khách danh dự duy nhất đứng bên ông Brezhnev trên lễ đài cuộc duyệt binh hoành tráng.

Một kỷ niệm khó quên là hồi năm 1978 tôi có dịp nghe ông nói chuyện về những kinh nghiệm quân sự tại Học viện quân sự cao cấp do tướng Hoàng Minh Thảo làm hiệu trưởng. Nghe nói chuyện có các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hữu An rất gần ông Giáp. Ông từng nghiên cứu về Napoleon, Kutuzov, Zhukov, Frounzé, đọc Binh Gia Yếu lược, Vạn Kiếp Tông bí. Ông say sưa nói về «ngụ binh ư nông,» dân binh, dân quân, về chủ trương «đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung» thời đầu đến Đại Đoàn Công – pháo trước chiến dịch Điện Biên, thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 trước 30/4/1975. Ông giảng về nguyên lý «đánh chắc thắng,» về yếu tố nghi binh, bất ngờ - Pháp không bao giờ nghĩ đối phương có thể mang đủ lương thực từ đồng bằng lên vùng núi xa Điện Biên, cũng không bao giờ nghĩ đối phương có thể kéo pháo nặng lên sườn núi cao hiểm trở quanh Điện Biên; đánh Buôn Ma Thuật mở đầu chiến dịch cũng bất ngờ… Binh thư của ông là tổng hợp nhiều kinh nghiệm thực tế được đúc kết. Ông có năng khiếu của giáo sư sử học, lại có tư duy luận lý của một cử nhân Luật. Đúng là một trí thức toàn diện cầm quân, hiểu quy luật.

Ông Giáp có nhiều nỗi buồn dai dẳng. Tôi cố tìm hiểu vấn đề này.

Trước hết ông không được ông Trường Chinh đánh giá cao. Mà ông Đặng Xuân Khu – Trường Chinh - lại là Tổng bí thư. Ông Trường Chinh có xu thế thân Trung Quốc, sùng bái Trung Quốc. Cái bí danh ông chọn đã cho thấy điều đó, chỉ có Trung Cộng có cuộc vạn lý Trường chinh. Hai cuốn sách kinh điển của ông là «Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi» và «Nền dân chủ mới» đều là bản dịch 2 cuốn «Trì cửu chiến» và «Tân dân chủ chủ nghĩa» của ông Mao.

Ông Trường Chinh hồ hởi đón các đoàn chuyên gia Tàu của bác Mao gửi sang, một mực nghe theo họ trong Cải cách ruộng đất – tàn sát gần 170.000 trung nông yêu nước có học bị chụp mũ là địa chủ ác bá chui vào đảng. Trong lúc đó ông Giáp một mực chống lại ý kiến của La Quý Ba, Trần Canh và cả của Mao Trạch Đông là dùng chiến thuật biển người để tấn công ở Điện Biên Phủ, theo phương châm tác chiến «tốc chiến - tốc quyết» - đánh nhanh - giải quyết nhanh.

Ông Giáp đã suy nghĩ rất kỹ và quyết định thay hẳn phương châm trên thành «đánh chắc, tiến chắc», rút pháo ra, chuẩn bị kỹ, kéo pháo lên các sườn núi cao chĩa thẳng xuống vị trí địch (không bắn cầu vồng), đánh dũi, đánh lấn dần từng bước, từng trận nhỏ đến lớn, đánh chắc tiến chắc, mà ít tổn thất. Không thay đổi phương châm tác chiến thì có nguy cơ thất bại nặng nề cho cả cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự thay đổi phương châm có ý nghĩa quyết định.

Số phận tướng Giáp thật sự lâm nguy khi ngay sau đó vấp phải cặp Lê Duẩn - Lê Đức Thọ có ý định hạ bệ ông để giành quyền lãnh đạo trên cao nhất khi ông Hồ sức bắt đầu suy yếu. Sau khi phát hiện sai lầm kinh khủng trong Cải cảch ruộng đất, ông Trường Chinh chịu trách nhiệm chính mất chức tổng bí thư, ai sẽ là người thay? Thoạt đầu ông Hồ nghĩ đến ông Giáp, uy tín đang lên sau đại thắng Điện Biên. Ông Hồ chọn ông Giáp để thay mặt đảng nói chuyện với nhân dân đông đảo ở sân vận động Hàng Đẫy nhận sai lầm và hứa hẹn sửa sai, ổn định tình hình. Nhưng Lê Đức Thọ lại có ý đồ khác. Thọ rất thân thiết với Duẩn cùng ở lại miền Nam sau Hiệp định Geneva 1954, do có chung ý định phải ưu tiên đấu tranh bằng bạo lực để thống nhất đất nước, nên quyết gạt ông Giáp ra khỏi quyền lực tối cao. Lê Đức Thọ cùng Lê Duẩn tranh thủ Phạm Hùng, Lê Đức Anh, Võ Chí Công thực hiện âm mưu này, bằng cách phịa ra «vụ án xét lại chống đảng, làm tay sai cho nước ngoài», vu cáo tướng Giáp có mưu đồ đảo chính, lần lượt bắt giam hơn 30 cán bộ cao cấp, từ tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, đại tá Đỗ Đức Kiên, đại tá Lê Trọng Nghĩa, đại tá Lê Minh Nghĩa, viện trưởng triết học Hoàng Minh Chính, vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh, bộ trưởng Lê Liêm… Cậy thế là Trưởng ban Tổ chức TƯ đảng, Lê Đức Thọ dự định khai trừ tướng Giáp ra khỏi bộ Chính trị nhưng ông Phạm Văn Đồng không đồng tình, đặc biệt là ông Hồ lên tiếng bảo vệ ông Giáp khi ông Hồ nói rõ trong cuộc họp của Bộ Chính Trị khi ông Thọ tố cáo ông Giáp nhiều lần tiếp riêng đại sứ Liên Xô Serbatov, rằng «đó là các cuộc gặp xã giao, chú Văn (Giáp) đều báo cáo với bác.»

Sau chiến thắng Điện biên Phủ trong cuộc chỉnh huấn chính trị, chấn chỉnh tổ chức do các chuyên gia Trung Quốc điều khiển, phía Trung Quốc đã đưa ra danh sách cho 2 ông Trường Chinh và Lê Đức Thọ yêu cầu loại bỏ các cấp chỉ huy không có nguồn gốc công nông, nhất là bần cố nông, loại bỏ hết các sỹ quan gốc gác tiểu tư sản, cầu an hưởng lạc, bảo mạng, không thuần, trong đó có ông Giáp, nhưng ông Hồ đã kiên quyết tự mình xé bỏ, một thái độ rất sáng suốt.

Thế rồi nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Anh… ngày càng thắng thế, hạ thấp vai trò của ông Hồ - vin cớ rằng Bác cao tuổi, bát đầu lầm lẫn rồi, ốm đau cần nghỉ ngơi, hạ thấp vai trò chỉ huy quân sự của tướng Giáp, vin cớ là ông Giáp chưa hề vào miền Nam, nâng cao vai trò bao biện của Lê Đức Thọ, vừa cầm đầu cuộc đàm phán ở Paris, vừa trực tiếp vào chiến trường miền Nam để giành toàn thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trong một số lần tâm sự với tôi, tướng Giáp không bao giờ tỏ ra cay cú bực tức vì cá nhân mình bị đối xử bất công, nhưng ông luôn tỏ ra đau buồn khi nói đến sinh mạng binh sỹ bị hy sinh quá nhiều trong và sau cuộc tiến công Mậu Thân.

Theo báo cáo mật do Cục tác chiến báo cáo riêng cho tướng Giáp, trong năm 1968 sau các đợt tiến công tháng 1, tháng 5 rồi tháng 9, quân miền Bắc hy sinh ở miền Nam lên đến 170.000, cộng với 32.000 quân địa phương miền Nam và 30.000 cán bộ đảng viên của đảng bộ miền Nam. Những con số này tướng Giáp dặn tôi giữ kín vì chắc là chưa đầy đủ, nay tôi xin hé ra, vì là con số đã quá nửa thế kỷ để độc giả tham khảo. Theo ông Giáp, sau đợt 1 thất bại, chỉ có bề nổi là một nhóm vào được trong tòa Sứ quán Mỹ, không nên đánh thêm đợt 2, tháng 5 và đợt 3 tháng 8-1968, càng đánh càng thua to, lộ hết cơ sở.

Tôi cảm thấy rất rõ là tướng Giáp tỏ ra không mặn mà mà còn phản đối cuộc tấn công Mậu Thân, ông cho là mạo hiểm, không chắc thắng, khi ở miền Nam chưa có những quả đấm mạnh cỡ Sư đòan, cỡ Quân đoàn như về sau này. Qua cuộc mạo hiểm liều lĩnh vô trách nhiệm này, bao nhiêu vốn liếng quân sự ky cóp từ năm 1963 đến năm 1968 bị thủ tiêu gần hết, 17.000 quân nhân trai tráng miền Bắc bị chết oan «sinh Bắc tử Nam», phải 3, 4 năm sau mới tạm hồi phục, mà không hề có nổi dậy, không có tổng khởi nghĩa như mong muốn và kêu gọi.

Ông kể khi Mậu Thân nổ ra ông đang ở Hungary để mổ sỏi mật và ông Hồ thì sang Bắc Kinh dưỡng bệnh. Họ đã cố tình cách ly 2 vị để không có một trở ngại nào cho kế hoạch ngông cuồng vô trách nhiệm của họ.

Sau 30/4/1975, vị trí ông Giáp ngày càng lu mờ. Kể từ sau Mật ước Thành Đô (tháng 9/1990), 5 đời Tổng bí thư đều ngả hẳn về phía Trung Cộng, từ Nguyễn Văn Linh, qua Đỗ Mười rồi Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh cho đến Nguyễn Phú Trọng, cái thế của ông Giáp bị mất dần cho đến bị triệt tiêu hẳn.

Đầu năm 2004, nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Giáp cố làm một cuộc phản công cuối đời khi ông đã hơn 90 tuổi. Đó là một loạt kiến nghị tâm huyết gửi Bộ Chính trị, Ban chấp hành TƯ Đảng về «Vụ án siêu nghiêm trọng ở Tổng Cục 2,» về «Không nên khai thác mỏ bauxit ở Tây Nguyên,» nhưng không có một hồi âm nào, dù cho các lá thư tâm huyết của ông được hơn 30 tướng lĩnh đồng tình. Họ coi ông không còn tồn tại. Vì ông nói lên khá rõ là Vụ Tổng cục 2, vụ Bauxit đều có bàn tay lông lá của bành trướng Trung Cộng.

Điều những người quý mến đúng giá trị của tướng Giáp được an ủi nhiều là khi ông mất ở tuổi đại thọ cực hiếm 103, đông đảo người dân tiễn đưa, lưu luyến xót thương, vào tận gần Đèo Ngang để tiễn đưa ông về cõi vĩnh hằng, vượt qua tất cả các cuộc tiễn đưa ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Linh… Một sự công bằng đáng quý.

Bài báo này cũng là bó hương tôi thắp để tưởng nhớ một vị tướng tài ba, có tâm, có tầm nhưng không gặp thời thế, để vừa là anh hùng, vừa là nạn nhân bi thảm của một chế độ thiếu tình yêu thương, thiếu tôn trọng trí thức, lại thiếu vắng luật pháp và sự công bằng.

Bùi Tín

(Blog VOA)


28 tháng 9, 2017

Chuối xanh và 13 tác dụng tốt cho sức khoẻ hẳn bạn chưa biết



Nhiều người đã biết đến chuối xanh qua bài thuốc trị hắc lào, tiêu chảy trong dân gian. Nhưng thực ra chuối xanh còn rất nhiều ích lợi khác: giảm cân, chống ung thư, ổn định đường huyết, điều hòa cảm xúc…
Khác với chuối chín chứa nhiều đường, chuối xanh rất giàu tinh bột, nhất là thành phần kháng tinh bột (resistant starch). Vỏ chuối xanh có nhiều chất chống oxi hóa, các tanin, chất kháng khuẩn. Ruột chuối giàu khoáng chất và vitamin… Điều này làm cho chuối xanh trở nên vô cùng hữu ích trong ẩm thực, phòng chống nhiều loại bệnh.
1. Tăng cảm giác no, giảm cân
Hàm lượng chất xơ trong chuối xanh giúp bạn cảm thấy no lâu, do đó mà sẽ ăn ít hơn. Thêm chuối xanh vào chế độ ăn uống của bạn có thể giúp bạn giảm cân hiệu quả bằng cách giảm lượng calo tiêu thụ.

Người bị tiểu đường ăn chuối xanh nấu chín sẽ không bị tăng đường huyết do tốc độ tiêu hóa chậm hơn rất nhiều so với cơm gạo bình thường.
2. Giúp hấp thụ dinh dưỡng tốt hơn
Chuối xanh giàu kháng tinh bột, chất khoáng và vitamin (Ảnh: Internet)
Phần lớn sự hấp thụ khoáng chất xảy ra ở ruột non. Các thành phần pectin trong chuối xanh làm chậm chuyển động trong ruột non, do đó nó thúc đẩy việc hấp thu khoáng chất tốt hơn vào máu.
Thêm vào đó, các axit mạch ngắn do vi khuẩn sinh ra tại đại tràng thông qua quá trình lên men đã làm tăng tính hòa tan của khoáng chất, khiến chúng được hấp thu tốt hơn vào trong máu.
3. Tăng cường cấu trúc xương
Uống nhiều thực phẩm có bột đường qua chế biến (bao gồm cả chế độ ăn nhiều đường) có thể gây ra chứng “scurvy xương” (stress oxy hóa làm yếu đi các đệm của xương vốn cấu tạo từ collagen) gây yếu xương.
Ăn chuối xanh sẽ giúp ngăn ngừa hoặc làm chậm sự quá trình này. Đồng thời chuối xanh chứa nhiều khoáng chất cho sức khoẻ xương, bao gồm canxi, magiê, mangan và phốt pho.
Ngoài ra, chúng còn cung cấp các chất chống oxy hoá, các tanin kháng viêm và carotenoid, chất diệp lục giúp ngăn ngừa stress oxy hoá có thể làm tổn thương cấu trúc xương. Chuối xanh cũng chứa silica rất quan trọng cho việc xây dựng và duy trì các sợi collagen.
Như đã nói ở trên, chuối xanh giúp các chất khoáng đi vào máu dễ dàng hơn, nhờ đó mà xương được nuôi dưỡng tốt hơn.
4. Chống oxy hóa
Buồng chuối kỷ lục 180 nải tại Bình Dương (Ảnh: Internet)
Một nghiên cứu đã chứng minh rằng vỏ chuối xanh có khả năng chống oxy hoá cao hơn chín.
Vì vậy, ăn chuối xanh (nấu chín) với vỏ có thể cung cấp cho bạn các chất chống oxy hóa tuyệt vời nhờ các chất diệp lục và tannin.
5. Giảm tiêu chảy
Các tinh bột kháng và pectin – chất xơ hòa tan trong chuối xanh có chức năng nuôi và giữ vi khuẩn tốt. Vì vậy, nếu bị tiêu chảy hãy ăn chuối xanh nấu chín với để nguyên vỏ. Chuối xanh cũng chứa hàm lượng tanin cao có tác dụng như chất làm se và kháng viêm.
Trong dân gian, bột chuối tiêu xanh là một vị thuốc quen thuộc trong điều trị tiêu chảy. Nấu cháo bột chuối tiêu xanh giúp trẻ kìm được cơn tiêu chảy.
6. Tăng độ nhạy insulin và làm giảm đường huyết
Chuối xanh giàu kháng tinh bột (resistant starch), chất này có thể giúp cải thiện độ nhạy cảm insulin và giảm lượng đường trong máu. Ăn chuối xanh nấu chín có thể là một cách tốt để phòng tránh bệnh tiểu đường và hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường.
7. Không chứa gluten
Ngày nay nhiều người bị dị ứng với gluten, họ bạn cảm thấy mệt mỏi khi tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho ngũ cốc giàu gluten. Hãy sử dụng chuối xanh nấu chín. Chúng không chứa gluten và cũng tốt cho đường huyết.
8. Giảm căng thẳng
Món cá kho chuối nổi tiếng (Ảnh: Internet)
Pectin và thành phần kháng tinh bột trong chuối xanh không chỉ giúp thúc đẩy quá trình tiêu hóa tốt mà còn giúp giảm căng thẳng hiệu quả. Trong chuối xanh có nhiều tryptophan, giúp tạo ra loại hóc-môn giúp bạn cảm thấy vui vẻ. Đó cũng có thể là kết quả của việc tăng nồng độ oxit nitric (NO) do các chất chống oxy hoá như tannin, carotenoid, chất diệp lục trong chuối xanh.
Chuối xanh giàu axit amin tryptophan, có tác dụng tăng cường sản xuất serotonin – hóc-môn làm bạn có cảm giác hạnh phúc.
9. Giảm viêm dạ dày, loét tá tràng
Bên cạnh thành phần pectin trong chuối có thể phủ một lớp bảo vệ lên dạ dày, ngăn ngừa tác dụng mài mòn của axit clohydric, chuối xanh để vỏ nấu chín cũng cung cấp tannin có tính kháng virut/kháng khuẩn và chống viêm.
10. Tăng tuổi thọ, làm đẹp
Tanin, polyphenol hòa tan trong nước được tìm thấy trong bột chuối xanh và vỏ. Các chất này cùng với carotenoid và chất diệp lục hoạt động như một chất chống oxy hoá, chống viêm và chống ung thư, đồng thời tăng cường miễn dịch, làm đẹp da…
11. Giảm huyết áp, phòng đột quỵ
Các chất chống oxy hóa trong chuối xanh bao gồm tanin, carotenoid và chất diệp lục cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hạ huyết áp. Nó tăng cường oxit nitric – chất có vai trò đặc biệt quan trọng chống lão hóa, mở rộng mạch máu tăng dòng chảy cung cấp oxy và các dưỡng chất đến tế bào, giảm nguy cơ đột quỵ
Bên cạnh đó, các khoáng chất Mg, Ka và vitamin B6 trong chuối xanh cũng tích cực hỗ trợ hoạt động cho hệ tim mạch.
12. Ngăn ngừa ung thư đại tràng
Chuối xanh nấu cùng với các nguyên liệu khác, không ăn sống chuối xanh (Ảnh: Internet)
Thành phần kháng tinh bột trong chuối xanh hoạt động như prebiotic – thức ăn cho các lợi khuẩn phát triển, kìm hãm các vi khuẩn độc hại gây viêm, ung thư đại tràng.
Các chất chống oxy hoá và tanin kháng viêm của tannin cũng được cho là có vai trò quan trọng trong phòng chống ung thư ruột già.
13. Điều hòa mỡ máu
Mỡ máu tăng cao được cho là gắn liền với nguy cơ các bệnh tim mạch.
Vỏ chuối xanh tác dụng chống oxy hóa cao hơn vỏ chuối chín. Ăn chuối xanh cả vỏ nấu chín sẽ mang lại sự chống oxy hóa tuyệt vời nhờ các chất diệp lục và tannin trong đó, nó có thể giúp điều hòa mức độ lipid trong máu.
Theo Naturalnews
Minh Thành

Có phải TBT Nguyễn Phú Trọng thực sự muốn diệt "Mối Chúa"?


Thật là một sự trùng hợp khá thú vị. Trong khi ngài TBT Nguyễn Phú Trọng và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ĐCSVN đang say sưa với chiến dịch “đốt lò” của mình, là thi hành kỷ luật một loạt cán bộ trung cao và cấp tại một số ban ngành và địa phương. Đặc biệt trong số đó là lãnh đạo của TP Đà Nẵng, Bí thư Nguyễn Xuân Anh. Thì cũng là lúc cuốn tiểu thuyết “Mối Chúa” của nhà văn Tạ Duy Anh bị Cục Xuất bản, in và phát hành (Bộ Thông tin - truyền thông) đình chỉ phát hành.

Lý do khiến cuốn tiểu thuyết "Mối Chúa" của nhà văn Tạ Duy Anh bị đình chỉ phát hành là:

"Nội dung cuốn sách phản ánh những vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện nay. Tác giả đã vạch trần những tiêu cực và bất công trong xã hội. Tuy nhiên, phần lớn các nhân vật trong tác phẩm từ thấp đến cao đều đen tối, vô vọng, đau đớn.

Qua lời kể của các nhân vật, hiện lên những thế lực hắc ám, một xã hội hầu như chỉ được chỉ huy bởi những kẻ ngu dốt, tham lam, thủ đoạn. Toàn bộ hệ thống bộ máy chính quyền bộc lộ sự tàn nhẫn, vô đạo, đàn áp nông dân, giết hại lẫn nhau, giết người chống đối chỉ vì tiền. Các trang viết về chính quyền cưỡng chế nông dân trong việc thực hiện các dự án được miêu tả một cách cường điệu, coi đó như hai lực lượng thù địch, chính quyền đàn áp như một trận đánh được chuẩn bị kỹ lưỡng từ vũ khí đến lực lượng bí mật".

Tác giả Ngã tư Vọng nhận xét:

“Tiểu thuyết Mối chúa chưa đến tay bạn đọc, nhưng những thân hữu có dịp đọc trước cho biết: Nhân vật là những bố già đầy quyền lực đứng sau tất cả các dự án động trời, các hợp đồng béo bở. Họ ngồi xổm lên pháp lý, đái vào pháp luật, ỉa vào đạo đức, lòng tham khôn cùng, bất chấp sự đớn đau, vô vọng, vùng vẫy của những người nông dân, thấp cổ bé họng. Các trang viết về chính quyền đàn áp dân được miêu tả như những trận đánh lớn, chuẩn bị kỹ từ vũ khí, khí tài, vật dụng, với nhiều mánh khóe, mưu mẹo, và xảo quyệt. Chính quyền sử dụng cả lực lượng truyền thông khổng lồ vào việc bôi đen những người nông dân bám đất. Họ huy động đặc công, đặc tình, lực lượng đặc biệt tinh nhuệ để đàn áp nông dân - tầng lớp tay không, bần cùng nhất của xã hội.

Nông thôn Việt Nam đang quằn quại trong cay đắng, chua chát, đớn đau, u ám, đen tối, và băng hoại. Nông dân Việt Nam tuyệt vọng về sự phản bội, tráo trở của những kẻ nắm quyền hành”.

Trong thế giới tự nhiên, mối là loài động vất rất nguy hại. Vì thức ăn chính của mối là chất cellulose có trong gỗ, nên chúng đục khoét tàn phá các công trình, nhà cửa và các vật dụng được làm từ gỗ. Nói về sự nguy hại đối với con người thì chuột không bằng mối. Chuột không thể làm sập nhà, vỡ đê. Nhưng chỉ cần một tổ mối không bị phát hiện và tiêu diệt kịp thời, có thể phá hoại cả con đê vững chắc, đe dọa tính mạng hàng triệu con người khi lũ lụt tràn về đe dọa làm vỡ đê.

Theo kinh nghiệm dân gian, muốn diệt một tổ mối thì phải diệt cho bằng được con mối chúa. Vì nó có khả năng sinh sản ra hàng triệu con mối thợ khác. Muốn triệt tiêu một tổ mối có hai cách. Thứ nhất là xịt loại thuốc lưu dẫn vào đám mối thợ. Tuy rằng thuốc không trực tiếp tiếp xúc với mối chúa. Nhưng với tính năng lưu dẫn của thuốc, nó sẽ lây lan và toàn bộ tổ mối, từ mối chúa đến mối thợ đều chết sạch sành sanh. Kiểu diệt này loại trừ được hậu họa của mối, và giữ nguyên được cái tổ của nó.

Cách thứ hai là phải đào phá nát tan tành cả ổ mối thì mới bắt được mối chúa. Vì mối chúa ở rất sâu trong tổ của nó. Và nó lại được bao bọc bởi một cái tổ đặc biệt, được các mối thợ đúc thành một khối đất to và bền, như hai cái đĩa úp vào nhau. Phải phá được cái tổ đặc biệt ấy mới bắt được mối chúa.

ĐCSVN hiện nay cũng y hệt như cái tổ mối. Cả đất nước là một tổ mối khổng lồ. Trong đó mỗi bộ, ban ngành và địa phương là những tổ mối nhỏ hơn. Những con mối chúa trong những tổ mối này cũng được bao bọc trong những cái tổ đặc biệt bởi các nhóm lợi ích, các thế lực công khai và ngấm ngầm. Chúng luôn bất chấp mọi đạo lý và pháp luật, sẵn sàng xả thân để bảo vệ cho sự an toàn của mối chúa. Loài mối tự nhiên chỉ ăn các loại gỗ. Còn loài mối đặc biệt do ĐCSVN xây đắp nên gần 90 năm nay thì “chúng ăn không từ một thứ gì của dân”. Câu nói này của bà Phó Doan, suy rộng ra (mượn ý Boác), cũng có nghĩa là, như lời bài hát “Chúng đi buôn” của tác giả Phan Văn Hưng:


“Chúng ăn vuông ăn méo ăn tròn
Chúng ăn to ăn bé cỏn con
Chúng ăn trên ăn dưới ăn ngang
Cho mặc người ai thở ai than….
Chúng ăn chơi xương máu đồng loại
Chúng chơi vui trên kiếp nghèo đói
Chúng chơi sang chơi xấu chơi oai
Chơi như đời không còn ngày mai…”.

Chỉ xem qua một đám mối thợ loại vừa tại tỉnh Gia Lai, trong một năm chúng “ăn tàn phá hại” như thế nào:

“Chỉ trong một năm, Văn phòng đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Gia Lai “tiếp khách” hết 3,2 tỷ đồng. Có ngày tiếp đến hai, ba đoàn khách, ở hai, ba địa điểm cách nhau hàng trăm km.Văn phòng này đã chi sai hơn 11 tỷ đồng cho các công tác tiếp khách, đối ngoại và an ninh. Chỉ riêng chi cho Văn phòng phẩm đã hết 1,2 tỷ đồng. Và tiền mua bia hết...2,6 tỷ đồng”.

“Văn phòng chỉ có năm người. Mỗi lon bia bình quân 10.000 đồng. 2,6 tỷ tương đương với 260.000 lon bia. Chia cho 5 người, mỗi người bình quân 52.000 lon bia. Một năm có 365 ngày, vậy mỗi ngày, một người uống hết gần 150 lon”.

Dư luận cho rằng, nói chiến dịch “đốt lò” của ông Nguyễn Phú Trọng là để chống tham nhũng, là diệt những con chuột con mối đang ngày càng sinh sôi nảy nở, để cứu cái đảng “quan vinh muôn năm” khỏi sụp đổ, thì chỉ là chuyện khôi hài. Chính ngay vị Tổng Tư lệnh phát động chiến dịch này cũng đâu có sạch sẽ gì, mà “lại cầm bó đuốc soi xem chân người”. Một khi tay mình đã “nhúng chàm” mà đòi đi “đốt lò, diệt mối” thì chỉ làm trò hề cho những đàn chuột và đàn mối khác tha hồ đục khoẻt mà thôi.

Được sự làm ngơ của ngài Tổng Bí thư, các tổ mối ở các bộ, ngành và địa phương đua nhau phát huy hết tài năng sáng tạo và trí tuệ thông thái của mình trong việc vơ vét và làm giàu một cách bất chính, vô đạo đức.

Bộ Giáo dục là nơi ươm mầm tương lai đất nước, cho ‘lợi ích trăm năm”. Thế nhưng, ở cấp thượng tầng thì họ đem học sinh ra làm chuột bạch cho các mô hình thí điểm với cái gọi là “Đề án Cải cách giáo dục” hàng năm tốn hàng trăm tỷ. Thực chất của các đề án này là rút tiền ngân sách một cách hợp pháp. Đàn mối cấp dưới thì rất hung hăng và sảng tạo ra rất nhiều khoản thu phi lý vào đầu mỗi năm học, thông qua cái công cụ tay sai, gọi là “hội cha mẹ học sinh”. Làm cho các phụ huynh “méo mặt” mỗi khi năm học mới đến.

Bộ Y tế dưới sự lèo lái của con mối chúa béo ụ Nguyễn Thị Kim Tiến, trong những năm qua đã làm biết bao trẻ em vô tội bị chết oan uổng qua các vụ dịch sởi, tiêm nhầm vắc xin.v.v.Mà nguyên nhân là do sự thờ ơ vô cảm, bất tài bất lực của mụ Kim Tiến và đám nhân viên dưới quyền mụ này. Đặc biệt nghiêm trọng nhất là vụ con mụ phù thủy này bảo kê cho công ty VN Pharma buôn thuốc giả về bán cho những bệnh nhân nghèo với giá cắt cổ, gây phẫn nộ trong dư luận mấy tháng qua. Thế nhưng con mối chúa này đến nay vẫn yên vị và tiếp tục tác oai tác quái, làm giàu trên thân xác người bệnh. Coi khinh những tiếng rên xiết của các nạn nhân của mụ do uống thuốc dổm của phe nhóm mụ gây ra những cái chết thương tâm.

Nhưng “tập đoàn mối” hút máu nhân dân một cách trắng trợn và tàn bạo nhất hiện nay, là Bộ Giao thông vận tải, thông qua các chủ đầu tư BOT. Chúng lập ra hàng trăm trạm thu phí tại những con đường độc đạo, những nơi hiểm yếu nhất, theo kiểu “đơm đó”, với chủ trương “không cho chúng nó thoát”. Và cứ thế, hàng ngày, những đồng tiền xương máu của nhân dân từ khắp nơi không ngừng chảy vào chiếc túi tham vô độ của bọn chúng.

Các “tập đoàn mối” tại các địa phương cũng không kém các thủ đoạn tàn phá và vơ vét. Tại những tỉnh còn rừng, thì chúng ngang nhiên chặt phá mỗi đợt hàng trăm héc ta rừng gỗ quý. Vụ Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng trị Khổng Trung với ngôi nhà rường bằng gỗ kết cấu ba gian hai chái bề thế với khoảng 80 m3 gỗ quý tại xã Hải Ba (Hải Lăng, Quảng Trị) là một ví dụ.

Nếu có bị dân phát giác và tố cáo, thì bọn chúng cũng chỉ “rút kinh nghiệm sâu sắc” là xong. Nếu dư luận nóng quá thì cũng đem vài con chuột con ra thí, thế là em chuyện.

Thành phố Hà Nội vì không có rừng, thì chúng vắt óc nghĩ ra cách làm tiền bằng cách lập dự án thay thế hàng mấy ngàn cây cổ thụ hàng trăm tuổi, để trồng mới các cây con. Với dự án này, chúng đã thu lợi được hàng ngàn tỷ. Vừa có gỗ quý bán cho nhà thầu TQ để lấy tiền, vừa lấy tiền công trồng mới các loại cây gọi là “Vàng Tâm” đắt tiền, nhưng thực chất là giống Cây Mỡ rẻ tiền.

Bên cạnh đó là các vụ trắng trợn đàn áp dân để cướp đất làm các dự án, được nấp dưới những tên gọi mỹ miều là các công trình phục vụ dân sinh. Chúng còn cấp phép vô tội vạ cho bọn cát tặc lộng hành, nạo vét đến cạn kiệt nguồn tài nguyên quý giá này trên các dòng sông. Làm mỗi năm mất đi hàng ngàn héc ta đất nông nghiệp của dân, biến người làm nông nghiệp trở nên trắng tay, vừa mất do đất bị cướp, vừa mất đất do dòng sông bị sạt lở.

Vụ kỷ luật Bí thư TP Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh đang làm nóng dư luận trong và ngoài nước hiện nay, cũng chỉ là vụ tranh giành quyền lợi giữa các phe nhóm mà thôi. Nếu nói về tài sản không minh bạch của Nguyễn Xuân Anh, chỉ là “cái móng tay” so vời “biệt phủ” của Giám đốc Sở TN&MT Yên Bái Phạm Sỹ Quý; tòa ngang dãy dọc và hàng mấy chục cổ phiếu cổ phần tại các ngân hàng và doanh nghiệp của Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Ngô Văn Khánh. Lại càng không thể so sánh với mấy vị đã “hạ cánh an toàn” như Trần Văn Truyền, Võ Kim Cự, hoặc Hồ Thị Kim Thoa.

Nói về bằng cấp của Xuân Anh không đúng quy định cũng chỉ là những luận điệu vơ vẩn rẻ tiền, không đánh lừa được ai. Tấm bằng TS của Xuân Anh nếu không có giá trị, cũng còn gấp trăm lần những tấm bằng TS được lấy từ các “lò ấp” mà mỗi năm cho ra lò hàng ngàn vị TS giấy.

Từ lâu, TP Đà Nẵng được cho là miếng mồi béo bở cho các nhóm lợi ích của Tổng cục V- Bộ Công an, được nấp bóng thông qua mấy công ty của một số đại gia. Những tài sản về đất đai như hàng loạt nhà công sản, và bản đảo Sơn Trà là khu bảo tồn thiên nhiên với những loài động vật quý hiếm, đã bị chúng thâu tóm và thi nhau băm nát để chia chác nhau.

Nay phe ông Trọng, TT Phúc và Phó TT Trương Hòa Bình đánh vào Bí thư Nguyễn Xuân Anh, cũng là chiến thuật “nhắm bụi tre, nhè bụi hóp”. Tấn công vào thành trì “lợi ích nhóm” gần như bất khả xâm phạm trong hàng chục năm ở Đà Nẵng, chúng vừa giành lại được những miếng mồi béo bở từ tay kẻ khác đem về cho nhóm đàn em của mình. Vừa phá nát những ổ nhóm có thể gây hậu họa về sau. Vì tại đây, ảnh hưởng của Chủ tịch nước Trần Đại Quang còn bao trùm lên nhóm này rất lớn.

Và việc tổ chức vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đem về nước “đầu thú”, mục tiêu cuối cùng cũng chỉ nhắm vào kẻ cựu thù nay đã hạ cánh để “làm người tử tế” là Ba X, xem ra màn kịch này rất hạ sách. Chỉ đem lại sự nhục nhã cho một đất nước được mệnh danh là ổ nhóm của bọn khủng bố dưới con mắt các nước văn minh. Chưa nói đến thiệt hại về mặt kinh tế chưa biết bao nhiêu mà tính.

Nếu phe ông Trọng thật sự chống tham nhũng, tại sao còn dung dưỡng cho những Đinh La Thăng, Nguyễn Thị Kim Tiến, Trịnh Văn Chiến, Võ Kim Cự, Ngô Văn Khánh, và hằng hà sa số những con sâu khác hiện nay tiếp tục ăn tàn phá hại của dân? Sao chỉ dám “lột” mấy cái chức không còn nữa của Trần Văn Truyền, Vũ Huy Hoàng..vv. Sao không dám bắt chúng đứng trước “vành móng ngựa” để trả lời trước dân về những khối tài sản khổng lồ của chúng do đâu mà có?

Nhận xét về thực trạng của ĐCSVN hiện nay, và chiến dịch “đốt lò” của ông Nguyễn Phú Trọng, lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kết luận:

“ĐCSVN hiện nay đã trở thành một ổ tham nhũng trầm trọng, khó có thể kiềm chế và kiểm soát được! Bọn tham nhũng đều là những cán bộ, đảng viên trung cao cấp của Đảng, chúng đã trở thành bầy sâu, tập đoàn sâu và ăn của dân không từ một thứ gì!

Bọn chúng không còn là một khối đoàn kết vững chắc như xưa. Nay đã chia rẽ, đang hình thành nhiều phe nhóm lợi ích tệ hại trong đảng, và các phe phái này đang ra sức đấu đá, tranh giành nhau quyền lợi và quyền lực, không thiết tha gì với lợi ích dân tộc, với quyền lợi đất nước nữa!

ĐCSVN ngày nay đã lệ thuộc nặng nề vào vào ĐCSTQ! Sau khi bí mật ký kết thỏa ước Thành Đô (9/1990) với ĐCSTQ, ĐCSVN làm ngơ, không dám ra tuyên bố phản đối và thực hiện biện pháp đáp trả khi chủ quyền biển đảo của Tổ quốc bị bọn TQ xâm phạm, và mới đây Việt Nam phải nhẫn nhục đầu hàng, chấp nhận yêu sách ngang ngược của TQ đòi VN phải ngừng Dự án khoan thăm dò khí đốt tại Lô 136/03 thuộc bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam!"

Tóm lại, trong tình hình đất nước hiện nay, muốn cứu vãn dân tộc này, đất nước này thoát khỏi họa xâm lăng của giặc Tàu đang từng ngày từng giờ hăm he thôn tính nước ta. Đồng thời thoát khỏi căn bệnh dịch hạch của chủ nghĩa cộng sản đang đè đầu cưỡi cổ và bóc lột, hút máu nhân dân đến tận xương tủy. Không có cách nào khác là, toàn dân ta phải đoàn kết một lòng,chung tay góp sức. Phải dùng loại thuốc “lưu dẫn” cực mạnh, xịt thẳng vào tận hang ổ của chúng. Để từ đó, đám mối thợ chết trước, và sẽ lây lan đến bè lũ mối chúa cùng chết hết.

Sau khi diệt được bầy đàn mối con và giữ nguyên được đất nước này khỏi bị tàn phá, sẽ bắt lũ mối chúa cho vào lò, hoặc quăng xuống biển làm mồi cho cá. Có như vậy nhân dân Việt Nam mới có điều kiện xây dựng nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Và bảo vệ được giang sơn gấm vóc do cha ông để lại.

Hương Khê