29 tháng 6, 2015

28 tháng 6, 2015

HUỲNH NGỌC CHÊNH: GÓP PHẦN GIẢI BÀI TOÁN NGUYỄN THIỆN NHÂN

HUỲNH NGỌC CHÊNH: GÓP PHẦN GIẢI BÀI TOÁN NGUYỄN THIỆN NHÂN: Nguyễn Đình Cống   GS Nguyễn Đình Cống : "Nếu ông Nhân chấp nhận điều kiện, như trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII Đ...

27 tháng 6, 2015

 THƯ GIÃN CUỐI TUẦN

Sự dữ dội trong tranh khỏa thân thời Phục Hưng

Mỹ thuật Phục Hưng là một trong những đỉnh cao của lịch sử mỹ thuật. Thời đó, những họa sỹ thiên tài đã đưa ra cái nhìn hoàn toàn mới mẻ về tiêu chuẩn thẩm mỹ, theo đó, họ tôn sùng vẻ đẹp tự nhiên của cơ thể con người.

Ở thời kỳ này, những truyền thuyết, thần thoại Hy Lạp – La Mã bắt đầu sống dậy và trở thành suối nguồn sáng tạo cho các tác phẩm hội họa. Để phản ánh sự yếu đuối, mỏng manh của con người, các họa sĩ Phục Hưng thường để nhân vật trong tranh lộ nguyên phần xác.
Đối với nghệ thuật Phục Hưng, khỏa thân bỗng trở thành tâm điểm của sáng tạo nghệ thuật, gợi nhớ về một thuở con người sống rất “thiên nhiên”.
Danh họa người Ý Michelangelo (1475-1564)
Sự dữ dội trong tranh khỏa thân thời Phục Hưng
Bức “Leda and the Swan” (Leda và thiên nga) vẽ năm 1530, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Khi đã ngoài 50 tuổi, Michelangelo công khai mình đồng tính. Ông dũng cảm viết những bài thơ tình dành tặng một thanh niên quý tộc đẹp trai. Ở thời đó, người ta có thể bị thiêu chết vì đồng tính. Trong bức tranh này, nàng Leda của ông có khuôn mặt khá… nam tính.
Danh họa người Ý Leonardo da Vinci (1452-1519)
Sự dữ dội trong tranh khỏa thân thời Phục Hưng
Bức “Leda and the Swan” (Leda và thiên nga) vẽ năm 1515-1520, trưng bày tại Triển lãm Uffizi, Florence, Ý.

Leonardo cho rằng phản ánh dục vọng là sứ mệnh vĩ đại của nghệ thuật. Ông từng viết: “Mỹ thuật siêu đẳng hơn thi ca bởi nếu thi ca chỉ có thể miêu tả tình yêu thì mỹ thuật khắc họa tình yêu. Người họa sĩ châm lên ngọn lửa khao khát trong người xem”.
Sự dữ dội trong tranh khỏa thân thời Phục Hưng
Bức “Saint John the Baptist” (Thánh John làm lễ rửa tội) vẽ năm 1513-1516, trưng bày tại Bảo tàng Louvre, Paris, Pháp.

Đương thời Leonardo từng hai lần bị bắt vì tội “tằng tịu” với người đồng giới. Tuy vậy, ông chưa bao giờ bị kết án bởi những người tình của ông đều xuất thân quý tộc. Trong bức tranh này, người ta tin rằng Leonardo đang khắc họa một người tình của mình.
Danh họa người Ý Raphael (1483-1520)
Bức “The Fornarina” (Nàng Fornarina) vẽ năm 1518, trưng bày tại lâu đài Palazzo Barberini, Rome, Ý.
Bức “The Fornarina” (Nàng Fornarina) vẽ năm 1518, trưng bày tại lâu đài Palazzo Barberini, Rome, Ý.

Trong bức họa là người tình của Raphael – nàng Fornarina. Chính vì vẻ đẹp này mà ông đã sớm qua đời ở tuổi 37 vì một lần “quá sức”.
Danh họa người Hà Lan Rembrandt (1606-1669)
Bức “The Fornarina” (Nàng Fornarina) vẽ năm 1518, trưng bày tại lâu đài Palazzo Barberini, Rome, Ý.
Bức “Portrait of Hendrickje Stoffels” (Chân dung Hendrickje Stoffels) vẽ năm 1654-1656, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Khi Rembrandt thực hiện bức tranh này, người tình của ông cũng đồng thời là nhân vật nữ trong tranh đang gặp rắc rối với nhà thờ vì bị kết án là một “phụ nữ dễ dãi”. Nàng Hendrickje chuyển về sống với Rembrandt dù họ không kết hôn. Bức tranh này đã thể hiện tình yêu sâu sắc mà Rembrandt dành cho người tình, nó lột tả cả vẻ đẹp nhan sắc và nội tâm của nàng.
Bức “The Fornarina” (Nàng Fornarina) vẽ năm 1518, trưng bày tại lâu đài Palazzo Barberini, Rome, Ý.
Bức “A woman bathing in a stream” (Người phụ nữ tắm suối) vẽ năm 1654, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Lại một bức tranh khác mà Rembrandt vẽ nàng Hendrickje Stoffels. Nàng trở thành người tình của ông sau khi vợ của Rembrandt qua đời. Ông không thể kết hôn với Hendrickje, bởi việc kết hôn này sẽ tước quyền thừa kế tài sản từ vợ ông. Kinh tế của Rembrandt khá bấp bênh và ông không thể từ bỏ quyền thừa kế. Sau này, Rembrandt vẫn bị phá sản vì ông đầu tư quá nhiều vào trang phục cho người mẫu cũng như sưu tầm quá nhiều tranh.
Danh họa người Ý Agnolo Bronzino (1503-1572)
Bức “The Fornarina” (Nàng Fornarina) vẽ năm 1518, trưng bày tại lâu đài Palazzo Barberini, Rome, Ý.
Bức “An Allegory with Venus and Cupid” (Biểu tượng thần Vệ Nữ và thần Tình Yêu) vẽ năm 1545, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Bronzino là người đồng tính. Đương thời, ông chung sống với người bạn đời làm nghề sản xuất binh khí. Khi người tình qua đời, Bronzino đã lãnh trách nhiệm chăm sóc cho gia đình của người đàn ông kia.
Tranh của Bronzino nhấn mạnh vẻ đẹp hình thể và những khoái lạc của con người. Bức họa trên là món quà mà tòa án tối cao của Cộng hòa Florence tặng nhà vua Pháp. Tác phẩm này đã truyền cảm hứng và sự mạnh dạn cho nhiều họa sĩ Pháp sáng tạo nên những tác phẩm đậm màu dục vọng.
Danh họa người Ý Tiziano Vecelli (1490-1576)
Bức “The Fornarina” (Nàng Fornarina) vẽ năm 1518, trưng bày tại lâu đài Palazzo Barberini, Rome, Ý.
Bức “The Venus of Urbino” (Vệ Nữ của tỉnh Urbino) vẽ năm 1536-1538, trưng bày tại Triển lãm Uffizi, Florence, Ý.

Một người bạn của họa sĩ Tiziano từng viết một lá thư tay, trong đó đề cập tới tình hình sức khỏe của Tiziano như sau: “Sức khỏe của Tiziano tốt nhưng đôi khi rơi vào trạng thái kiệt sức vì sau khi thực hiện những bức tranh tuyệt đẹp về phụ nữ, Tiziano thường “yêu” luôn mẫu”. Điều này đã lý giải tại sao những bức tranh của Tiziano luôn chân thực, sống động và thể hiện khát khao mạnh mẽ đối với cái đẹp.
Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.
Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.

Nàng Danae của thần thoại Hy Lạp đang ngẩng đầu lên nhìn thần Dớt đến tự tình với cô trong hình dáng một cơn mưa vàng.
Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.
Bức “Diana and Actaeon” (Diana và Actaeon) vẽ năm 1556 – 1559, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Bức tranh kể lại một truyền thuyết Hy Lạp: tráng sĩ Actaeon đi săn trên núi, tình cờ nhìn thấy nữ thần Diana tắm. Actaeon liền bị Diana biến thành một con hươu. Chàng bị chính đàn chó săn của mình xẻ thịt. Đó là cái giá phải trả cho thói tò mò, mạo phạm tới thần linh của Actaeon.
Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.
Bức “Saint Mary Magdalene” (Thánh Mary Magdalene) vẽ năm 1535, trưng bày tại Triển lãm Palatina, cung điện Pitti, Florence, Ý.

Danh họa người Ý Palma Vecchio (1480-1528)
Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.
Bức “A Blonde Woman” (Một phụ nữ tóc vàng) vẽ năm 1520, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Bức chân dung khắc họa một gái điếm ở Venice. Dấu hiệu để nhận biết những cô gái này là trên tay họ luôn cầm một bó hoa. Đặc điểm này sinh ra từ một truyền thuyết La Mã, theo đó gái điếm được bảo vệ bởi nữ thần Cây cỏ.
Danh họa người Ý Antonio Correggio (1489-1534)
Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.
Bức “Jupiter and Io” (Thần Dớt và nàng Io) vẽ năm 1539, trưng bày tại Bảo tàng Kunsthistorisches, Vienna, Áo.

Các họa sĩ Phục Hưng đặc biệt thích khắc họa chuyện yêu đương của thần Dớt. Trong các truyện thần thoại cổ xưa, thần Dớt thường ngụy trang, biến hóa khôn lường để có thể tự tình với phụ nữ mà không bị vợ ngài – nữ thần Hera phát hiện ra. Khi ở bên nàng Io, ngài hóa thành sương mù.
Danh họa người Đức Lucas Cranach (1472-1553)
Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.
Bức “Cupid Complaining to Venus” (Thần Tình Yêu làm nũng thần Vệ Nữ) vẽ năm 1525, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Thần Vệ Nữ trong tranh Lucas Cranach rất thanh mảnh – một “chuẩn đẹp” khá mới so với quan niệm đương thời.


Danh họa người Ý Sandro Botticelli (1445-1510)Bức “Danae” (Nàng Danae) vẽ năm 1544 – 1545, trưng bày tại Bảo tàng Capodimonte, Naples, Ý.
Bức “Venus and Mars” (Thần Vệ Nữ và thần Chiến Tranh) vẽ năm 1485, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Vẻ đẹp của thần Vệ Nữ đã ru ngủ thần Chiến Tranh. Sắc đẹp có thể khiến mọi sức mạnh dù tàn bạo nhất phải ngã gục. Vì vậy, người ta thường nói cái đẹp cứu thế giới.
Danh họa người Hà Lan Gerrit van Honthorst (1592-1656)
Bức “Saint Sebastian” (Thánh Sebastian) vẽ năm 1623, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.
Bức “Saint Sebastian” (Thánh Sebastian) vẽ năm 1623, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Bức tranh kể lại chuyện Thánh Sebastian bị bắn chết vì đi theo đạo Thiên Chúa. Trong tác phẩm này, Honthorst thể hiện rõ nét phong cách của mình: sự đối lập mạnh mẽ giữa ánh sáng và bóng tối.
Danh họa người Ý Guido Reni (1575-1642)
Bức “Saint Sebastian” (Thánh Sebastian) vẽ năm 1623, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.
Bức “Saint Sebastian” (Thánh Sebastian) vẽ năm 1620-1630, trưng bày tại Triển lãm Dulwich, London, Anh.

Các nhà phê bình mỹ thuật rất giỏi “bắt mạch” đời sống tình cảm của họa sĩ qua tranh. Đối với trường hợp của Honthorst và Reni, họ cùng thực hiện hai bức tranh về Thánh Sebastian. Các nhà phê bình nhận định rằng, ở cả hai tác phẩm, họ đều thấy sự khao khát mạnh mẽ của họa sĩ đối với chính nhân vật mà họ tạo nên.
Anh em họa sĩ người Ý Antonio và Piero del Pollaiolo
Bức “Saint Sebastian” (Thánh Sebastian) vẽ năm 1623, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.
Bức “The Martyrdom of Saint Sebastian” (Hành quyết Thánh Sebastian) vẽ năm 1475, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia, London, Anh.

Thời Phục Hưng, người ta thường gọi những người đồng tính là “Florenzer” (Người ở thành Florence, Ý). Có từ lóng này là bởi các họa sĩ phương Tây đương thời thích tới Florence sống. Rất nhiều người trong số họ đồng tính khiến chính quyền thành phố quyết định thành lập một ban chuyên trách, phát hiện, xử lý những người đàn ông đồng tính. Bức tranh này đã ngầm phản ánh nỗi lo sợ của các họa sĩ trước sự khắc nghiệt của luật pháp đương thời.
Danh họa người Ý Giorgione Castelfranco (1477-1510)
Bức “Laura” (Nàng Laura) vẽ năm 1506, trưng bày tại Bảo tàng Kunsthistorisches, Vienna, Áo.
Bức “Laura” (Nàng Laura) vẽ năm 1506, trưng bày tại Bảo tàng Kunsthistorisches, Vienna, Áo.

Giorgione đương thời nổi tiếng là họa sĩ đào hoa, đẹp trai. Ông chơi đàn luýt rất hay và thường lấy món tài lẻ này để quyến rũ phụ nữ. Ông chinh phục được những người đẹp nổi tiếng ở Venice và thường thuyết phục họ làm mẫu cho các bức vẽ của mình. Đây là một trong những người tình của ông.
Bức “The Tempest” (Giông tố) vẽ năm 1505-1508, trưng bày tại Triển lãm Accademia, Florence, Ý.
Bức “The Tempest” (Giông tố) vẽ năm 1505-1508, trưng bày tại Triển lãm Accademia, Florence, Ý.

Venice là thành phố của tình yêu và sự nghiệt ngã. Những cô gái điếm hết thời có cuộc sống hết sức bi đát.
Danh họa người Pháp Francois Clouet (1510-1572)
Bức “The Tempest” (Giông tố) vẽ năm 1505-1508, trưng bày tại Triển lãm Accademia, Florence, Ý.
Bức “A Lady in her Bath” (Quý bà đang tắm) vẽ năm 1571, trưng bày tại Triển lãm Mỹ thuật Quốc gia, Washington DC, Mỹ.

Những quý bà thượng lưu ở Pháp đương thời có “mốt” vẽ tranh chân dung khỏa thân. Người phụ nữ trong tranh là Diane de Poitiers, người tình của vua Henry II của Pháp. Khi nhà vua lên ngôi năm 27 tuổi, Diane đã 48 tuổi nhưng bà vẫn có vẻ đẹp vô song.

Danh họa người Đức Peter Paul Rubens (1577-1640)
Bức “The Tempest” (Giông tố) vẽ năm 1505-1508, trưng bày tại Triển lãm Accademia, Florence, Ý.
Bức “The Little Fur” (Chiếc áo lông) vẽ năm 1630, trưng bày tại Bảo tàng Kunsthistorisches, Vienna, Áo.

Bức chân dung khắc họa nàng Helena Fourment – vợ của Rubens. Họ kết hôn vào năm 1630 khi Helena 16 và Rubens 53 tuổi.
Danh họa người Ý Paris Bordone (1500-1571)
Bức “The Tempest” (Giông tố) vẽ năm 1505-1508, trưng bày tại Triển lãm Accademia, Florence, Ý.
Bức “Venetian Women at their Toilet” (Những cô gái Venice điểm trang) vẽ năm 1545, trưng bày tại Triển lãm Quốc gia Scotland, Edinburgh, Anh.

Tại Venice ở thế kỷ 16 có tới 20.000 gái điếm. Trong tranh là hai cô gái đang thay đồ và trang điểm, người phụ nữ đội khăn xanh là một mụ tú bà.
Danh họa người Ý Tintoretto (1518-1594)
Bức “The Tempest” (Giông tố) vẽ năm 1505-1508, trưng bày tại Triển lãm Accademia, Florence, Ý.
Bức “Leda and the Swan” (Leda và thiên nga) vẽ năm 1555, trưng bày tại Triển lãm Uffizi, Florence, Ý.

( NGUỒN: iNTERNET)
Theo Ngô Minh blog

26 tháng 6, 2015

Nhị Linh: Tự Lực: Một sự nghiệp tuyệt đẹp

Nhị Linh: Tự Lực: Một sự nghiệp tuyệt đẹp: Trời mưa buồn nhỉ. Không phải chỉ có mỗi Phan Cự Đệ mới sai lầm về niên đại (xem thêm ở đây ), mà ngay nhiều nhà nghiên cứu khác, xuất phá...

Tôi thích đọc . I love to read: “Ghê rợn”: lễ hội thịt chó lớn nhất trong năm

Tôi thích đọc . I love to read: “Ghê rợn”: lễ hội thịt chó lớn nhất trong năm: “Ghê rợn” những hình ảnh tại lễ hội thịt chó lớn nhất trong năm Ngày Hạ Chí hàng năm, thường vào ngày 21 hoặc 22.6, người dân ở Ngọc Lâm ...

25 tháng 6, 2015

Bùi Văn Bồng1: ĐÂU NGỜ ÔNG TÙNG MÀ VIẾT NHƯ VẬY !

Bùi Văn Bồng1: ĐÂU NGỜ ÔNG TÙNG MÀ VIẾT NHƯ VẬY !: * TÔ VĂN TRƯỜNG Tôi không tin Gs Lê Xuân Tùng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, và “ê kíp” của ông sai lầm ‘một cách chân thành’! Họ không...

Tôi thích đọc . I love to read: Đừng vứt TỎI MỌC MẦM! Chúng CỨU SỐNG bạn!

Tôi thích đọc . I love to read: Đừng vứt TỎI MỌC MẦM! Chúng CỨU SỐNG bạn!: Đừng vứt TỎI MỌC MẦM! Chúng có thể CỨU SỐNG bạn đấy! Nhiều người thường vứt tỏi đã mọc mầm vì nghĩ không có thể ăn nữa, hoặc có hại cho sứ...

Tôi thích đọc . I love to read: (3) Góp ý kiến cho Đại hội lần thứ XII của Đảng

Tôi thích đọc . I love to read: (3) Góp ý kiến cho Đại hội lần thứ XII của Đảng: Góp ý kiến vào quá trình tiến đến Đại hội lần thứ XII của Đảng 3. Trung thực và nghiêm chỉnh thực hiện “Điều mong muốn cuối cùng” của C...

Tôi thích đọc . I love to read: (2) Góp ý kiến cho Đại hội lần thứ XII của Đảng

Tôi thích đọc . I love to read: (2) Góp ý kiến cho Đại hội lần thứ XII của Đảng: Góp ý kiến vào quá trình tiến đến Đại hội lần thứ XII của Đảng 2. Về cái gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin Như vừa trình bày ở trên, “kim chỉ ...

Tôi thích đọc . I love to read: (1) Góp ý kiến cho Đại hội lần thứ XII của Đảng

 LƯU ĐỂ ĐỌC VÀ SUY NGẪM
Tôi thích đọc . I love to read: (1) Góp ý kiến cho Đại hội lần thứ XII của Đảng: Góp ý kiến vào quá trình tiến đến Đại hội lần thứ XII của Đảng Tương Lai - Đã có khá nhiều ý kiến đóng góp về Văn kiện sẽ đưa trong Đại hộ...
 
 
BI KỊCH CỦA THIÊN TÀI
 LTS: Nhân vụ xây văn miếu Khổng Tử ở Vĩnh Phúc, xin mời tham khảo mấy suy nghĩ về Khổng Tử. Khổng Tử và Các-Mác đều là triết gia. Cả hai đều muốn áp dụng học thuyết của mình cho cả thiên hạ. Cái “thiên hạ” của Khổng Tử là tập thể các nước thời Xuân Thu còn cái thiên hạ của Mác là các nước nghèo trên thế giới. Cả hai đều không câu nệ đến vấn đề biên giới, dân tộc, mà có tham vọng dùng học thuyết của mình để mưu cầu hạnh phúc ở bất cứ nơi đâu.

Và cả hai đều đã thất bại thê thảm.
Tại sao?


Con người có hai BẢN NĂNG GỐC. Freud gọi bản năng thứ nhất là tính dục (libido), và La Rochefoucauld gọi bản năng thứ hai là lòng ích kỷ (egoism).

Lòng ích kỷ khiến con người luôn hướng về “tư hữu”. Bản năng truyền giống khiến con người luôn hướng về “sắc dục”. Hai thứ bản năng ấy chi phối mọi sinh hoạt, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi cảm xúc của loài người.

Mác muốn xóa bỏ “tư hữu”, tức là muốn đánh vào cái bản năng gốc quan trọng của con người.

Khổng tử cũng mắc sai lầm tương tự khi muốn dùng “lễ nhạc” để trị thiên hạ trong khi thiên hạ đang đói rách, đang tranh dành miếng ăn mà chém giết nhau cuồng loạn trong thời Xuân Thu. Đó là thời đại mà giới cầm quyền các nước toàn là bọn hôn quân vô đạo, con giết cha, vợ giết chồng, cha con loạn dâm, cái bản năng “tính dục” và bản năng “giành ăn” hoành hành dữ dội chưa từng thấy.

Nếu như Mác muốn tiêu diệt lòng hám lợi của nhân loại thì Khổng Tử muốn dùng lễ nhạc để “bình thiên hạ”, ngăn chặn chiến tranh, đó là vì ông chưa được nghe câu nói của họ Mao : “Chiến tranh là trường cửu, hòa bình chỉ là tạm thời.”

Và ông cũng không nhìn thấy được sức mạnh ghê gớm của cái “tính dục” nên mới có chuyện đang lúc Khổng Tử và vua quan nước Lỗ cúng tế, thực hành Lễ Nhạc thì vua Lỗ lẻn về cung để du hí với mấy nàng kỹ nữ mà nước Tề vừa đem tặng, khiến Khổng Tử thất vọng ê chề, phải bỏ nước Lỗ mà đi.

Cả Mác lẫn Khổng đều thất bại vì có tham vọng điên rồ là xóa bỏ những bản năng gốc của con người.

Không ai có thể xóa bỏ được chúng vì chúng do ông trời tạo ra, chúng là bản chất, là máu thịt, là lẽ sống của nhân loại.

Bản chất của con người cũng giống như dòng sông: chúng ta không thể xóa bỏ một dòng sông được mà chỉ có thể uốn nắn dòng chảy của nó để nó biến thành nguồn nước tưới ruộng đồng, biến thành nguồn điện năng phục vụ đời sống. Nếu chúng ta tìm cách san lấp nó, nó sẽ chảy sang hướng khác, biến thành lũ lụt hủy diệt môi trường, hủy diệt con người.

Đáng buồn là cả Mác lẫn Khổng đều không biết điều đó.

Khổng Tử là một thiên tài nhưng ông không hiểu được một câu nói rất bình dân, rất đơn giản là: “phú quý sinh lễ nghĩa” chứ không phải lễ nghĩa sinh phú quý. Muốn có lễ nghĩa chỉ cần làm cho dân giàu. Nếu để dân nghèo thì “bần cùng sinh đạo tặc.”

Mác cũng là một thiên tài nhưng ông ta cũng không hiểu được một câu châm ngôn rất mộc mạc của chị tiểu thương ngoài chợ: “đồng tiền đi liền khúc ruột”. Câu nói ấy phải được hiểu: “tư hữu là mạng sống của con người.” Vậy muốn cho con người sống cho ra sống thì phải giúp họ tạo ra nhiều “tư hữu” chứ không phải tìm cách tiêu diệt “tư hữu”.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh là khi tiêu diệt tư hữu của nhân dân thì người ta lại tập trung tư hữu vào một nhóm người cầm quyền.

Cả hai nhà tư tưởng lớn của nhân loại sở dĩ đều thất bại ê chề vì đã không hiểu gì về cái “bản năng gốc” của nhân loại.
Có thể có người bỉu môi cho rằng “lòng ích kỷ” và “tính dục” không phải là bản chất của con người mà chỉ là “thú tính” cho nên cần phải ngăn chặn nó.

Xin thưa, đó không phải là thú tính. Đó là bản chất của muôn loài, bao gồm cả con người. Nhưng vì con người có trí tuệ vượt trội các động vật khác nên biết cách “thăng hoa” (sublimer) những bản chất ấy.

Nếu chúng ta đi sâu vào những lý giải của La Rochefoucauld thì lòng ích kỷ cũng chính là cội nguồn của “tình mẫu tử” của “từ thiện” của “lòng bác ái”. Và cái tính dục của Freud cũng bỗng chốc mang vẻ đẹp huyền ảo của tình yêu. Đó là điều mà Freud gọi là sublimation.

Chính vì không hiểu “sức mạnh không gì ngăn cản nổi” của hai thứ bản năng gốc ấy nên cả Khổng lẫn Mác đều đã gây ra những hậu quả bi thảm:
Khổng Tử muốn xây dựng một nhân loại thái bình sung túc trong đó vua tôi và thần dân đều lấy lễ mà sống với nhau chứ không dùng đến chiến tranh chém giết lẫn nhau nhưng trên thực tế thì các chính quyền phong kiến lại dựa vào những ý niệm về trung quân ái quốc, về tam cương ngũ thường để gây chiến tranh khắp nơi, chém giết lẫn nhau, triều đình thì vô đạo, loạn dâm, hoàn toàn đi ngược lại với chủ trương “Lễ Nhạc” của Khổng Tử.

Khổng Tử từng bị các đại thần nhà Chu đuổi đi, ông sang Tề cũng bị Án Anh tìm cách từ chối, ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy học. Ở Lỗ ông từng làm quan phụ trách việc xây dựng gọi là Tư Không. Sau đó vua Lỗ ham mê tửu sắc không lo việc nước, Khổng Tử can ngăn không được liền cùng các học trò bỏ đi, hy vọng tìm được cơ hội thực hiện chủ trương chính trị của mình. Tuy nhiên đó là thời đại chiến tranh liên miên nên chuyện lễ nhạc của Khổng Tử không ai để ý tới. Một lần ông và các học trò bị quân nước Trần vây khốn phải nhịn đói mấy ngày, sau nhờ quân nước Sở đến giải vây, tưởng được trọng dụng nào hay vua Sở chết đột ngột, triều thần nước Sở lại đuổi Khổng Tử đi.

Mác cũng vậy: ông muốn xóa bỏ áp bức bất công, muốn tạo dựng một thế giới đại đồng không có nạn người bóc lột người nhưng thực tế học thuyết của ông lại đẻ ra những chính quyền áp bức, tham nhũng tràn lan bất kể nhân cách… như trường hợp chính quyền Stalin, Bắc Triều Tiên, Mao Trạch Đông, Pol Pot… Cả hai học thuyết đều đẻ ra những nhà nước đi ngược lại ý muốn của người khai sinh ra nó.

Cả hai học thuyết đều rất đồ sộ nhưng chỉ là những tòa lâu đài không có nền móng.

Hơn 2500 năm trước Khổng Tử đã chết trong buồn khổ.

Lúc lâm chung, ông đã nói với các đệ tử:

-Suốt đời ta mơ một thế giới đại đồng, mơ về một xã hội trong đó mọi người thương yêu nhau, không dối trá, không trộm cắp, ra đường thấy của rơi không nhặt, tối ngủ không cần đóng cửa…”

Hơn 2500 năm sau Mác cũng từng có những giấc mơ như vậy. Và nếu còn sống đến ngày nay chắc ông cũng sẽ ê chề vì cái di sản kinh hoàng mà mình đã để lại.

KẾT LUẬN: Bản chất của con người là “tư lợi” và “ái dục”. Đó là hai dòng cuồng lưu rất dũng mãnh. Xây dựng xã hội con người không phải là san lấp hai dòng cuồng lưu ấy mà là biết cách sử dụng nó. Kẻ nào đi ngược lại điều ấy sẽ chỉ gây ra những tàn phá khủng khiếp mà thôi.

Đào Hiếu
Theo Blog Đào Hiếu

24 tháng 6, 2015

Trung Quốc dám làm những điều loài người không dám

Người Việt, nhất là chính trị gia Việt, cũng kinh khủng lắm; họ cũng dám làm những cái mà người có lương tâm không bao giờ làm, người ở nước văn minh không bao giờ làm. 
TRUNG QUỐC DÁM LÀM NHỮNG ĐIỀU MÀ LOÀI NGƯỜI KHÔNG DÁM
Kim Dung: Bài viết này không trên báo chính thống, với một nhận xét, mình xin phép trích đăng ở đây, để bạn đọc suy ngẫm: PGS. X. kể: “Thủ đoạn của chính trị gia Trung Quốc kinh khủng lắm. Nên nhớ rằng chỉ ở Trung Quốc, những lợi ích mang màu sắc chính trị mới có thể khiến người ta thực hiện những hành vi mà trong các hoàn cảnh khác ít ai có thể làm được. 
Đông Chu Liệt Quốc còn chép lại câu chuyện: có một anh đầu bếp nấu cho chủ, một ông vua chư hầu. Có lần ông vua đùa than thở: Cao lương mỹ vị trên đời ăn hết rồi chỉ còn mỗi một thứ chưa ăn là… thịt người. Hôm sau, anh đầu bếp dâng cho chủ một món thật thơm, chế biến rất tinh xảo. Tay đầu bếp cứ nhìn xem chủ ăn, gặng hỏi chúa công ăn ngon không, thấy thế nào. Ông vua bảo: Thấy lạ, cũng ngon đấy.

Rồi hỏi món gì thì đầu bếp quỳ xuống lạy: “Tâu chúa công, thần đắc tội! Hôm qua chúa công nói còn món thịt người chưa ăn, nay thần cho chúa công ăn thịt người. Thần không dám giết người ngoài, chỉ giết con của thần để nấu”. Cái đó là gì vậy? Người Việt Nam có dám làm chuyện đó không? Tôi nghĩ chắc không mấy ai làm được vì nó quá trái với tự nhiên. Vậy thì một khi họ đã dám làm đến những việc như vậy thì ta phải đặt ra câu hỏi: có điều gì họ không dám làm không? Hỏi để nhận ra một điều: nếu chỉ so với lương tri của người bình thường, có khi ta không đo lường hết được họ.

Trong cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên Lang Đồ Đằng (dịch sang tiếng Việt là Tô Tem Sói), tác giả Khương Nhung của Trung Quốc xác định thuộc tính có tính chất căn tính của người Trung Quốc là sói tính. Sói là con vật ranh mãnh thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, của bình nguyên và cao nguyên. Người Trung Quốc đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy năm liền, người Trung Quốc in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ “tính chiến đấu”, tinh thần “quật cường” của đồng bào họ”

———-

Tác giả: Hà Văn Thịnh - Những hành động càn rỡ, ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc (TQ) trong mấy tháng gần đây ở Biển Đông – xây dựng trái phép những công trình kiên cố quy mô lớn trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam, đã và đang đe dọa, thách thức nghiêm trọng nền độc lập của dân tộc Việt Nam! Rất cần phải cảnh báo rằng kinh nghiệm lịch sử cho thấy nhà cầm quyền TQ có ‘truyền thống’ dám làm tất cả những gì người khác không dám. Không ý thức rõ vấn đề này, cứ để cho người TQ làm cái sự đã rồi thì tất cả đều đã muộn…

Để duy trì quyền lực, các hoàng đế TQ dám làm những điều mà không một người nào ở bất kỳ dân tộc nào, bất kể thời điểm nào có thể ‘nghĩ’ ra



Sử ký Tư Mã Thiên cho biết tướng Tần là Bạch Khởi, theo lệnh của Tần Doanh Chính (tức tần Thủy Hoàng sau này) chôn sống một lúc 40 vạn hàng binh nước Triệu năm 228 tr.CN!

Đàn áp những người chống đối thì từ cổ chí kim không hiếm, thế nhưng, dùng xe tăng để nghiến nát sinh viên – cháu con của chính họ, thì chỉ có TQ là độc nhất vô nhị trên trái đất này.


“Đầu tư” cả cái thai trong bụng để sau này làm vua như cách Lã Bất Vi đã làm là chuyện không thể tìm ra cái tương tự trong sử sách nhân loại…


Kiên nhẫn khác thường là một trong những đặc tính nổi bật của TQ. Họ dám bỏ ra gần 100 năm để đục núi đá, làm nên pho tượng Phật ngồi cao gần 100m trên núi Nga Mi; dám bỏ ra gần 500 năm để xây Vạn Lý Trường Thành…. Tại sao không nghĩ rằng họ có thể bỏ ra 50 năm hay 100 năm để dần dần, từng chút một, gặm mòn, lấn chiếm hết đảo này đến đảo khác ở Biển Đông?

Bất chấp tốn kém về người và của, miễn… xong việc, là đặc tính thứ hai. 

Các nhà sử học ước tính, để xây Vạn Lý Trường Thành, không ít hơn vài triệu người đã bỏ mạng. Để xây Di Hòa Viên, Từ Hy Thái Hậu ‘cho qua’ toàn bộ kinh phí lẽ ra dành cho phát triển một hạm đội, miễn là bà ta được vui thú cuối đời. Không ít chuyên gia trên thế giới tính rằng chỉ riêng việc vận chuyển vật liệu để xây các công trình trên các đảo Gạc Ma, Huy Gơ (thuộc Trường Sa, Việt Nam) đã tốn nhiều tỷ USD. Hai đảo này nằm giữa Trường Sa: khỏi phải bàn về âm mưu dài lâu, nham hiểm của cách xây để cướp.

Dám làm mọi sự không tưởng nhưng vẫn làm được là đặc tính thứ ba. 

Từ thời cổ đại, Hán Vũ Đế (140-87 tr.CN) đã ‘mơ’ giấc mơ kiềm chế… người Việt bằng cách ra lệnh cấm bán gia súc, gia cầm giống cái cho người Giao Chỉ(?) Nói như thế để thấy ‘giấc mơ’ đè ép người Việt của chủ nghĩa Đại Hán đã có ít nhất từ 2.100 năm trước!

Gần đây nhất, chúng ta thấy TQ dám thành lập cái gọi là ‘thành phố Tam Sa”, trắng trợn gộp hai quần đảo của Việt Nam vào Đông Sa. Chưa có nước nào trên thế giới thành lập một thành phố mà nơi đầu đến chỗ cuối cách nhau cả ngàn cây số(!) Và, họ đang xây những tòa nhà cao đến 8 tầng để chứng minh rằng đó là thành phố?…

Không từ bất kỳ thủ đoạn nào, dẫu tàn ác, phi nhân, theo nguyên tắc ‘cứu cánh biện minh cho phương tiện’ là đặc tính thứ tư.

Trên thế giới, không hiếm những chính quyền đàn áp dã man người dân nhưng dùng xe tăng để nghiến nát sinh viên như TQ đã làm là điều không ai dám! Cũng tương tự như thế, việc các triều đại ‘hy sinh’ hàng triệu mạng sống để xây một công trình là điều chưa hề xảy ra trong lịch sử. 
Vạn Lý Trường Thành là dẫn chứng điển hình.

Việc dẫu nhỏ, nhưng nếu cần để phô trương quyền lực thì TQ vẫn làm, là đặc tính thứ năm.

Ở Tử Cấm Thành có những tảng đá nguyên khối dài 11m, rộng 3,8 m (mà người viết bài này đã đo bằng thước dây), dày nghe đâu là 1m, nặng hơn 200 tấn(!) để làm “lối đi” của hoàng đế Trung Hoa, được khai thác cách Bắc Kinh hàng chục km. Vua chẳng bao giờ đi trên tảng đá đó vì nó chạm hình rồng, đi là tai nạn.

Thế nhưng, TQ sẵn sàng đào một con kênh dài hàng chục km, dẫn nước vào, chờ mùa đông đóng băng để “chở” những tảng đá đó về bằng cách kéo trượt trên băng. Nói như thế để thấy rằng đừng nghĩ việc nhỏ, phi thực tế nhưng có ý nghĩa chính trị, đối ngoại sâu sa thì TQ vẫn làm…

Những khái quát trên đây chỉ mới là phần nổi dễ thấy của một tảng băng. Còn rất nhiều những sự kiện, những bài học chua xót mà loài người phải luôn cảnh giác từ nguy cơ Đại Hán. 

Một trong những bài học điển hình nhất là bài học về Nhà Thanh – người Mãn.

Lúc đầu, Mãn Thanh định Mãn hóa người Hán nhưng về sau, họ đã tự Hán hóa một cách thụ động vì không thể thoát được những thủ đoạn tinh vi của người Hán. Đến nay, trong số hàng triệu người gốc Mãn, chỉ còn vài trăm người nói tiếng Mãn là ‘tấm gương’ nhãn tiền về nguy cơ Hán hóa đối với bất kỳ dân tộc nào chịu ảnh hưởng trực tiếp và bị chi phối bởi TQ…

Chế Lan Viên đã có vần thơ rất hay: Hãy cảnh giác em ơi cảnh giác/ Nửa cái hôn phải tỉnh thức ngó quân thù… Thiết nghĩ, lời cảnh báo vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận bây giờ…

————
Nguồn: https://www.danluan.org/tin-tuc/20150621/ha-van-thinh-trung-quoc-dam-lam-nhung-dieu-loai-nguoi-khong-dam#sthash.SjKJVq3u.dpuf

https://kimdunghn.wordpress.com/2015/06/24/trung-quoc-dam-lam-nhung-dieu-loai-nguoi-khong-dam-2/

21 tháng 6, 2015

SỰ THẬT
Thế giới liệu có đại đồng.
mọi người đều được sống trong hài hòa ?.
Đầu óc tư hữu của ta,
dù muốn gạt bỏ, liệu mà được chăng ?
Ai đi tìm sự công bằng,
thà về lặn xuống mò trăng đáy hồ !
RIÊNG VÀ CHUNG
"Quét sạch chủ nghĩa cá nhân ":
khẩu hiệu của bọn tâm thần, chập cheng !
Kẻ nào phủ nhận cái riêng,
thì ta cạch mặt mà kiềng họ ra.
Tạo hóa sinh ra chúng ta,
cái riêng hợp lại, mới là cái chung !
Communism - là điên khùng,
nên không tồn tại ở trong cõi Người !

THAM NHŨNG
Chuyện đời nói cứ như đùa,
Chống tham nhũng - có đến mùa quýt sau.
Vì, tham nhũng ở những đâu,
Chứ thường dân, chỉ trước sau cần cù.
Không quyền lực - thì phải ngu !,
Mở miệng là bị dập trù thẳng tay...
Tham nhũng, định nghĩa sao đây ?
- Là sự tha hóa những tay cầm quyền !
CHÉP SỬ
Lịch sử đặt trong bàn tay,
Chỉ cần bóp nhẹ, méo ngay chẳng tròn.
 Đừng để cho lớp cháu con,
Phải viết lại sách, tủi hồn cha ông.

18 tháng 6, 2015

Trương Vĩnh Tuấn
Thứ tư ngày 17 tháng 6 năm 2015 7:02 AM

Mời xem lại Khúc 1: Mở màn
Khúc 2: Bầu bán

3. KHÚC THĂM DÒ

Người ta thăm biển dò rừng.
Hội ta thăm phiếu dò từng ý nhau.

Chẳng biết tự khi nào không rõ.
Đại hội về là có thăm dò.
Thăm đi thăm lại vẫn lo.
Thăm trong Đảng lại đến mò hội viên.


Chứ ngày trước cao niên để lại.
Mỗi kì vui khi đại hội về.
Gặp nhau là để hả hê.
Chứ đâu để kiếm ghế kê đời mình

Việc nhân sự nhẹ tênh như lụa.
Chốn quan quyền như gió như mây
Trang văn cứ viết cho đầy.
Nghĩa nhân cứ tích cho dầy nghĩa nhân.

Chỉ bởi lẽ không ham không hố.
Coi đó là phận sự đa mang.
Chốn này là chốn cao sang.
Già nhường cho trẻ mở mang nghiệp đời.

Thị trường đến cái thời mở cửa.
Mà đồng tiền mạnh tựa phép tiên.
Muốn tiền thì phải có quyền.
Muốn quyền thì phải già duyên sự đời.

Và mưu mánh mới lòi từ đó.
Và tham lam mới ló từ đây.
Không tin kể cái sự này.
Sờ sờ trước mặt chưa tày vài gang.

Vào được cái chấp hành là có
Giải văn chương này nọ ẵm về.
Là đi nước nọ nước kia.
Kẻ tìm người tới chầu rìa cậy xin.

Là có một cơ quan trong hội.
Xe vi vu sớm tối chu toàn.
Lương hưu thì xếp ngăn bàn.
Tiền chia đút túi, lộc san cho bồ

Kệ cán bộ bơ phờ kiếm sống.
Kệ báo văn số lượng teo dần.
Bạn đọc ngoảnh mặt đưa chân
Lánh xa thân phận nhân dân nhọc nhằn

Là tha hồ làm mây làm gió.
Sai mười mươi gân cổ cãi bừa.
Kiểm tra kết luận nọ kia.
Ký chưa ráo mực là lia gậm bàn.

Phiếu thăm dò khôn ngoan đáo để.
Rằng hội viên vẫn nể chúng tôi.
Điều kia tiếng nọ im rồi.
Cứ trông lượng phiếu xứng ngôi chấp hành

Nào đâu biết nguồn cơn này nọ.
Nào đâu hay mẹo ngõ mưu đường.
Rành rành còn lắm tai ương.
Huống chi mờ mịt gió sương dặm dài.

Và như thế mới hài mới hước.
Chọn hai mươi chính thức để bầu.
Lật lên ngó xuống mới rầu.
Mười lăm quan bác vẫn chầu... y nguyên.

Mà trước đó vẫn huyên thuyên bảo .
Rằng kỳ này bô lão ít thôi.
Lấy hình quả trám ra soi.
Già, trẻ, cũ, mới, doi doi lưng chừng

Từ thăm dò chuyển lên đề cử.
Chuyện như đùa chỉ có hội ta.
Thế mà nghĩ mãi chẳng ra
Chước cao là chước chiều tà nhá nhem.

Các đại biểu cho em nhắn với.
Về cho vui trông đợi làm chi.
Mặc ai chài bán cả chì
Ta vui cứ oẳn tù tỳ cho vui.

Thôi lạy Phật mong Trời có mắt.
Kiểu chơi này lạc đất văn nhân.
Trở về giữ nghiệp an thân.
Chốn này chớ có chen chân tủi mình.





 

 NỔ SÚNG LÊN TRỜI TRÚNG CÁI CHI?

Posted by admin on June 17th, 2015
Nhật ký mở lần thứ 144
Tô Hải
17-06-2015
Vậy là, đã đúng nửa tháng, kể từ ngày anh Tổng Bí, anh Ba X… động viên khuyến khích giới trí thức đóng góp, phản biện cho đảng của các anh ý lại kèm theo một cuộc treo giải góp ý tới tiền tỷ (!) được công bố trên báo chí.
Mình càng chú ý theo dõi xem cái chuyện góp ý, góp tứ này nó đi đến đâu, đồng thời cũng báo động để mọi người ham góp ý, ham “kính gửi”, ham “kiến nghị”, biết mọi rủi ro có thể giáng xuống đầu bất cứ lúc nào nếu hiểu… đúng: “thay đổi thể chế là thay đổi chính trị”, “xây dựng kinh tế lại là từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa”, “đổi mới tư duy lại là… phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lê”, thì “ăn đòn” có ngày, vì vua Trọng đã khẳng định ba điều bất khả đổi thay này rất nhiều lần, ở mọi cuộc chỉ đạo đưa “nghị quyết của mấy anh ý vào cuộc sống” để bộ máy tuyên truyền khổng lồ của anh Huynh biến nó thành… “nguyện vọng tha thiết của toàn dân”!
Nhìn chung, các bài viết trên mạng đều “lưa thưa” về số lượng và lặp đi, lặp lại về chất lượng. Còn trên báo chí của đảng các ông ý thì chỉ là những ý kiến lẻ tẻ của các ông Nghị, bà nghị, lần đầu, sắp hết nhiệm kỳ, cũng “ra cái đều” đổi mới tư duy bằng một vài ý kiến, ra cái vẻ “vì dân”, “vì công lý”, vì “luật pháp” … nên thế này, nên thế nọ, không nên thế kia! Nghĩa là chưa có một cái bản góp ý nào công khai đáng trao giải tiền tỷ, dù không nói chi động tới mấy cái “tủ đứng” mà ông Vua Trọng đã ra lệnh kê ngay giữa mồm ba anh hay ý kiến, ý cỏ “sặc mùi… tự diễn biến”
Mình cũng đặc biệt chú ý đến một vài bản góp ý rất công phu, rất dài, rất trí tuệ, rất nhiều lý lẽ đông, tây, kim, cổ mà điển hình là tập tài liệu góp ý rất chân thành, thẳng thắn mang tựa đề “Góp ý kiến vào quá trình tiến đến Đại Hội Lần Thứ XII của Đảng” của một vị “lão thành cách mạng”, “đảng viên kỳ cựu”, “giáo sư tên tuổi”. Mình đã cắn răng đọc đến phát mờ mắt, mỏi lưng, nghẹt thở… để càng thêm băn khoăn, thắc mắc như từng băn khoăn, thắc mắc bấy lâu nay:
Quái! Sao mấy ông đảng viên tên tuổi này không ngại phủ nhận chủ nghĩa xã hội, không ngừng vạch trần cái vô lý, cái phản khoa học của cái gọi là chủ nghĩa Mác- LêNin… và cùng nhau đề ra là: Phải quay lại với cái gì bác của họ đã tuyên bố ngày 2 tháng 9/1945, đồng thời nhắc lại sự “cố tình làm sai” lời nguyện ước của Bác trong “di chúc trước khi đi xa” là: chỉ mong có một “nước nhà độc lập, tự do, hạnh phúc…”, chứ không hề có một chữ nào dính đến cái chủ nghĩa mà các hậu duệ của người đã cả gan mang ra đặt tên đất nước, chưa từng có trên thế giới này!
Để rồi thẳng thừng đề nghị đổi luôn cả tên đảng, tên nước, có điều, cũng như những lần “góp ý”, “kiến nghi”, “thư ngỏ” trước, mấy ông đảng viên lão thành này vẫn chẳng ai… “nói đi đôi với làm” là tuyên bố rời bỏ cái đảng mà mình vừa cực lực phê phán đó ngay lập tức để làm gương cho các đảng viên hậu sinh! Không một ai dám bắt chước Lê Hiếu Đằng, sau khi phê phán những sai lầm của đảng và của cá nhân mình thì đã lập tức tuyên bố rút lui khỏi đảng! Không những thế, lần này mấy ổng lại không giấu mục đích giao cái quyền thi hành “đổi mới như cũ” này cho Đại Hội Đảng XII của mấy chú đàn em của họ làm! Cái việc mà… không bao giờ những “ông vua tập thể” xứ Việt này muốn làm và … “dám làm”, khi Thiên Triều Hán Đế chưa cho phép!
Chả có lý … Đảng cầm quyền các anh cứ “thay đổi áo quần”, “thay đổi tên họ”, còn “đảng cộng sản chân chính” của chúng tôi cứ song song tồn tại để chỉ đạo các anh? Chứ còn sáp nhập với các anh thì… không đời nào?
Cũng chả có lý các vị lý luận và thực tiễn đầy mình này không biết nổi
GÓP Ý CHẲNG QUA CHỈ LÀ GÓP Ý CHO NHIỀU LẮM 4,5 ANH CHÓP BU, CHỨ ĐÂU CÓ CHO CẢ GẦN 200 TRUNG ỦY, CÀNG KHÔNG PHẢI CHO CẢ GẦN 4 TRIỆU ĐẢNG VIÊN, HỌ CÓ QUYỀN GÌ MÀ THAY VỚI ĐỔI?
Cũng chả có lý các vị này muốn ra một “thông điệp ngầm”: HÃY GIAO TẤT CẢ QUYỀN HÀNH LẠI CHO CHÚNG TÔI, CHÚNG TÔI SẼ THAY ĐỔI TẤT?
Cái này xem chừng khó, vì hầu hết các vị có ý kiến mạnh bạo nhất đều đã “thất thập cổ lai hy”, đều gần như “bất khả xử lý mạnh tay” nên chỉ có thể là…
TRÁCH NHIỆM LÀ KẺ ĐI TRƯỚC THÌ PHẢI NÓI CHỨ NGHE THÌ CHẲNG MA NÀO CHỊU NGHE HOẶC BIẾT THỪA LÀ MÌNH ĐANG GÓP Ý CHO… MA, CHO QUỶ!?
Tóm lại “không đi đến đâu và chẳng trúng vào đâu cả! Chỉ có một điều mình cực khoái lần này, đó là:
CÁC VỊ NÃO THÀNH LẦN ĐẦU ĐÃ DÁM DÙNG CẢ UY TÍN, LÝ LUẬN LẪN THỰC TẾ BÁC BỎ THẲNG THỪNG NHỮNG ĐIỀU CẤM KỴ MÀ ÔNG VUA TRỌNG ĐÃ CÔNG KHAI COI LÀ ĐIỀU “KHÔNG ĐƯỢC” LÀ “PHẢI XỬ LÝ”!
Không một chút e dè, nhân nhượng!
Cũng còn một số ý kiến bổ sung về các vấn đề “SAI LẦM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG TA” rất đáng chú ý trên thông tin lề trái. Tỉ dụ: Có nhà phản biện đã vạch ra sự “hiểu lầm cố ý” khi dịch sai một cách có ý đồ chữ CỘNG SẢN, rồi đổ lên đầu anh Mác! Sự thật cái chữ “communism” trong nội hàm của tiếng Đức, tiếng Pháp, hay Anh, tiếng Nga… chẳng hề có một tí ý “Sản” nào. Nó chỉ có thể dịch là “cộng đồng” (chủ nghĩa cộng đồng), đến tay ông Tầu thì họ thay hẳn nội dung bằng từ kép “cộng sản”, nhằm cướp hết tài sản của người giầu chia cho người nghèo!? Tới Việt Nam thì nó lại được biến dạng, từ “cướp hết của người giầu chia cho người nghèo”, sang “cướp hết của … bất cứ ai mà họ muốn cướp, chia cho một nhóm đặc quyền, đặc lợi, cụ thể là đảng viên có chức có quyền!”
Cũng là những ý kiến bên lề Trái nhưng nghe rất là Phải: Đó là cái hệ thống chính trị hiện nay của cái đảng gọi là cộng sản Việt Nam mang đặc mầu sắc… “Tân Phong Kiến”! Từ cái tên “Tổng Bí Thư”, “Bộ Chính Trị”, “Thủ Tướng”, “Bộ Trưởng”, “Thứ trưởng”… đều nhằm tăng thêm “sức nặng của quyền uy” trước kẻ bị trị cho từng vua quan kiểu mới. Sự thật thì trên thế giới ai cũng biết, những chức danh, chức vị như secretariat, department, bureau politique, premier ministre, chairman, assistant … không có một nội dung gì là “bí” (bí mật?) là “tướng tá”, “bộ”, “thứ”… nào trong mấy cái tổ chức, danh vị “lòe dân” như ở ta…
Tóm lại, qua hai tuần lấy ý kiến, treo giải thưởng tiền tỷ, mình càng nhìn rõ như ban ngày:
1-Việc các ông vua xin ý kiến đóng góp, xây dựng, phản biện… cho Đảng nhân dịp Đại Hội XII là chuyện “chót lưỡi đầu môi”, giả vờ dân chủ 100%! Chả “ông vua to vua nhỏ” nào chịu nghe vì nghe có mà…mất đảng như chơi!
2-Các ý kiến mong chờ ở Đảng họ sẽ “thay áo mới” lấy lại niềm tin trong nhân dân luôn chạm phải cái cốt lõi là mất quyền toàn trị, của một nhóm người mà quyền lực luôn bám víu vào những giáo điều cổ lỗ và sự điều khiển uốn nắn, thậm chí quyết định từ bên Thiên Triều Đại Hán, nên có mở mắt ra tí chút cũng phải nhắm mắt bịt tai lại ngay để tồn tại, may ra được đến vài đời!
Và mình lại phải lấy một kết luận trong cuộc thảo luận góp ý về “CẢI CÁCH THỂ CHẾ TỪ TẦM NHÌN ĐẾN THỰC TIỄN”, do “chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright” tổ chức mới đây, tập hợp đủ các tên tuổi kinh tế gia, chính trị gia, khoa học gia tên tuổi trong và ngoài nước, đặc biệt là các trí thức Việt Kiều (nói mà không sợ bị xử lý)… Đó là câu: BỆNH THÌ ĐÃ RÕ, THUỐC ĐÃ CÓ, CHỈ CÓ CHUYỆN BỆNH NHÂN CÓ DÁM UỐNG HAY KHÔNG MÀ THÔI!
Để đưa ra câu trả lời cũng như kết luận của riêng mình: MỘT BỆNH NHÂN UNG THƯ GIAI ĐOẠN CUỐI, TỚI MỨC MÊ SẢNG, MẤT TRÍ, LUÔN NGHĨ THUỐC CHỮA BỆNH LÀ THUỐC ĐỘC DO LỰC LƯỢNG THÙ ĐỊCH MUỐN HÃM HẠI MÌNH, CHỈ BIẾT ĐỌC KINH MÁC-LÊ VÀ SỐNG TRONG VÒNG TAY BẢO VỀ BẰNG SÚNG ĐẠN, ĐỂ ĐỨNG VỮNG THÌ KHÔNG BAO GIỜ CHỊU NGHE AI ĐÂU!
Con đường sống duy nhất của con bệnh này là: HÃY TỰ XỬ BẰNG… TỰ SÁT, TỰ RÚT LUI, NHƯỜNG QUYỀN QUẢN LÝ ĐẤT NƯỚC NÀY VÀO TAY NHÂN DÂN MÀ SỰ ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC NHẤT, CÓ ÍCH VÀ CÓ CÔNG VỚI DÂN TỘC NÀY NHẤT LÀ: TẤT CẢ CÁC ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN HÃY TỰ RỜI BỎ CÁI CON ĐƯỜNG TỘI LỖI VÀ MỊT MÙ XHCN, CHÔN VÙI CÁI CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NÀY ĐI!
Sự đổi thay sẽ mặc nhiên tới, dù có nhiều khó khăn bước đầu nhưng ít nhất nó còn hơn cái xã hội không hiểu mình là gì? là ai? là thế nào hiện nay?
Bằng không thì lịch sử sẽ làm công việc này!
Đấy rồi xem!
Ảnh cuối bài thay lời kết: giá mà nước Việt có được một vài “tay tổ” đương chức đương quyền dám nghĩ, dám nói và dám làm như tay trùm cộng sản phản tỉnh này:
ảnh Gocba và lời sám hối(Theo anhbasam Blog)
ĐỌC & SUY NGẪM :

BÓNG TỐI, DAO GĂM VÀ MẠNG NHỆN TRONG " BA BIẾN KHÚC Ở TUỔI 65 " CỦA VĂN CAO
Posted by admin on June 18th, 2015

Cái gọi là “hiện thực XHCN” chỉ là mớ lý luận ấu trĩ, phi thực tiễn và phản khoa học. Nó “định hướng” cho người cầm bút viết theo một chiều, phản ánh một chiều, biến họ trở thành thứ nô bộc, giả dối và lưu manh. Và, thật mỉa mai, chính cái thứ định hướng “văn nghệ phục vụ chính trị trên nền hiện thực XHCN”, mà thực tế là công cụ của chính trị này đã “ăn cắp” niềm tin của người đọc. Hay cụ thể hơn, chính cái thứ văn nghệ giả dối, lưu manh đó đã đánh cắp niềm tin của nhân dân mình.
Nguyễn Chính
18-06-2015
Văn Cao viết bài thơ này ở tuổi 65, trong một tâm trạng như ông nói là: “Những ngày buồn không nói được – Tôi chỉ tìm ra sự sống của tôi”. Nguyên văn bài thơ như sau:

I

Một người cho tôi
con dao găm  
Không biết dùng làm gì
đêm nhìn qua cửa sổ
một khoảng trống đen

tôi ném vào khoảng trống  
con dao găm ấy  
có phải đấy là sự nghịch ngợm?

bỗng nhiên có tiếng người ngã ngoài sân
một người trúng tim đã chết

tôi không hề biết người ấy  
tôi là kẻ không muốn giết người

chỉ biết bóng tối  
mà tôi đã ném dao
  II
Tôi đi trên phố  
bỗng nhiên mọi người nhìn tôi  
một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp  
tôi chạy  
tôi chạy

sao tôi lại chạy  
tôi không hiểu tôi  
cả phố đuổi theo tôi  
xe cộ đuổi theo tôi

tôi chạy bạt mạng  
gần hết đời  
tới chỗ chỉ còn gục xuống
tỉnh dậy mồ hôi chảy
III

Tôi rơi vào mạng nhện  
mạng nhện cuốn lấy tôi  
không cách gì gỡ được
tôi như con sâu tằm  
cuộc đời cứ như thế
muốn phá cái mạng nhện  
tôi không đủ tay.

Những người cầm bút chân chính là những người bị “giời đày”. Tôi phải nhấn mạnh hai chữ “chân chính” để phân biệt họ với đám văn nô, bồi bút, những thằng hề văn chương hướng thượng chốn cung đình. Vâng! Những người cầm bút chân chính, họ tự nguyện và cảm thấy hạnh phúc trong cái sự “giời đày” đó. Với cây bút “trời ban”, thời tuổi trẻ họ hăm hở, xông pha, về già họ vẫn lọ mọ trên trang viết. Thậm chí có người nằm bệt trên giường bệnh, không cầm nổi bút nữa, thì đọc cho người khác ghi giùm. Cả đời họ dấn thân, đam mê, cần mẫn lao động sáng tạo để mong có được những tác phẩm đích thực dâng hiến cho đời, để lại cho hậu thế. Trớ trêu thay, thời nào cũng vậy, họ thường là đối tượng bị đám cường quyền, tham lam, dốt nát, háo danh hành hạ, đầy đọa, rút “phép thông công”. Sở dĩ tôi phải dài dòng như vậy, vì tác giả bài thơ này cũng phải trải qua một quãng đời khốn đốn vô cùng. Văn Cao (1923 – 1995), trong 72 năm cuộc đời đó, thì từ 1958 đến khi về với cát bụi, hầu như ông viết rất ít và không phổ biến. Ca khúc “Ngày hòa bình đầu tiên” ông viết năm 1975, nhưng ca khúc này cũng ít được nhắc đến trong một thời gian dài. Vậy là người nghệ sỹ tài năng Văn Cao đã bị bứng khỏi mảnh đất lao động sáng tạo của mình tới hơn một nửa cuộc đời của ông (37) năm.
Theo Wikipedia Việt Nam và theo Nhà thơ Văn Thao – người con trưởng của ông, thì ông làm thơ từ năm 12 – 13 tuổi. Ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền Tân nhạc Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Văn Cao viết “Tiến quân ca” khi ông 20 tuổi. Gia tài ông để lại về thơ không nhiều, chỉ khoảng mấy chục bài, đáng chú ý nhất là thi phẩm Trường ca những người trên cửa biển. Ông viết “Ba biến khúc ở tuổi 65” vào năm 1988. Theo tôi, bài thơ này là một trong những thi phẩm thể hiện rõ thêm tư duy, tính tư tưởng trong thơ Văn Cao mang đậm dấu ấn riêng có của ông cả về hình thức cấu trúc, nhịp điệu. Ở biến khúc thứ nhất ông kể:
Một người cho tôi
con dao găm
Không biết dùng làm gì
đêm nhìn qua cửa sổ
một khoảng trống đen

tôi ném vào khoảng trống
con dao găm ấy
có phải đấy là sự nghịch ngợm?

bỗng nhiên có tiếng người ngã ngoài sân
một người trúng tim đã chết

tôi không hề biết người ấy
tôi là kẻ không muốn giết người

chỉ biết bóng tối
mà tôi đã ném dao

Đó, không phải là con dao hiền lành chỉ dùng vào việc bếp núc của các bà nội trợ, mà là con dao găm, một hung khí có thể giết người. Và, nó đã giết người thật. Bây giờ, ta hãy xem tình tiết cái sự “giết” ấydiễn ra thế nào. Là một nhà thơ, một người cầm bút, sau khi được người ta đưa cho dao găm , hiển nhiên là tác giả đã “không biết dùng đề làm gì”, vì tác giả đã khẳng định rất rõ “tôi là kẻ không muốn giết người”. Theo logic, không muốn giết người, không biết dùng dao để làm gì, thì vứt đi thôi, nhưng thay vì vứt vào sọt rác, thì nhà thơ của chúng ta lại ném qua cửa sổ, mà lại ném vào bóng tối.
Thứ “bóng tối” ấy chắc là phải “tối” lắm. “Tối” đến mức chính tác giả cũng không nhìn thấy gì cả, cứ tưởng mình ném thứ hung khí giết người kia vào “khoảng trống đen” và đặt câu hỏi “có phải đấy là sự nghịch ngợm?”. Đặt câu hỏi như vậy, cũng là trả lời rồi. Rằng, không có sự nghịch ngợm nào ở đây cả. Chỉ là miễn cưỡng thôi, tác giả đã làm theo cái ý của người đưa dao găm. Chính ông cũng đã thừa nhận mình không biết nạn nhân, rằng “tôi không biết người ấy…, chỉ biết bóng tối mà tôi đã ném dao”. Bởi cũng lại rất logic, người ta đưa dao găm để nhà thơ vứt vào sọt rác thì đưa làm gì. Nghiệt ngã thay, nạn nhân lại đang mò mẫm đi trong cái bóng tối mịt mùng kia, đúng vào cái thời điểm khốn nạn đó. Con dao găm ấy quả là rất bén, còn cú ném của nhà thơ cũng lợi hại vô cùng, trúng ngay tim thì chỉ còn có nước chết.
Đọc biến khúc thứ nhất, ai cũng biết Văn Cao dùng hình ảnh trực quan đầy tính ẩn dụ. Bởi, vũ khí của người cầm bút là cây bút, chứ không phải là dao găm, súng lục. Vũ khí ấy của người cầm bút là do “ông Giời” ban và theo sự phân công của “Ông Giời”. Vũ khí ấy mạnh tới mức không một loại vũ khí cổ kim nào có thể sánh được, nó đi thằng vào con tim, làm cho con tim của người ta phải thổn thức,rung động và … phẫn nộ, từ đó mà điều chỉnh hành vi của mình. Nó không trực tiếp làm bất cứ một cuộc cách mạng lật đổ nào, nhưng khả năng khai sáng, sức mạnh tích tụ chuẩn bị lực lượng cho các cuộc cách mạng chống lại cái ác, chống lại cường quyền, bạo lực thì vô biên lắm.
Trong lịch sử nhân loại, các triều đại cường quyền đều nhận thức rất rõ sức mạnh vô biên ấy, nên dùng mọi thủ đoạn đưa /giao/ trang bị cho bằng được những con “dao găm” vô hình là : ý thức hệ, tư tưởng trung quân v.v… cho giới văn nghệ sỹ. Thế là, khi đã nhiễm phải thứ vũ khí vô hình ấy, tất nhiên có kẻ nhiễm nặng, có người nhiễm nhẹ, tác phẩm họ làm ra không chỉ “giết” một vài người, mà giết chết cả mấy thế hệ người đọc/người xem/người nghe và giết chết luôn cả một nền văn học, nghệ thuật, cả những giá trị nhân văn, hướng thiện vốn là thiên chức của nghệ thuật chân chính.
Và, khá gần gũi với Văn Cao, trong “Ai ? Tôi!”, Chế Lan Viên đã cụ thể hóa tư tưởng này theo cách riêng của ông, thật thấm thía (xin trích nguyên văn):
Ai ? Tôi !
Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng   
Chỉ một đêm, còn sống có 30  
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?  
Tôi! Tôi – người viết những câu thơ cổ võ  
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm  
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ  
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ  
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ! 
 Ai chịu trách nhiệm vậy?  
Lại chính là tôi!  
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời 
  Tôi ú ớ  
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong  
Mà tôi xấu hổ  
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay  
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ  
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười./.
1987
Cũng với nguồn mạch mặc cảm như vậy, ở biến khúc thứ hai, Văn Cao viết :
Tôi đi trên phố
bỗng nhiên mọi người nhìn tôi
một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp
tôi chạy
tôi chạy
sao tôi lại chạy
tôi không hiểu tôi
cả phố đuổi theo tôi
xe cộ đuổi theo tôi

tôi chạy bạt mạng
gần hết đời
tới chỗ chỉ còn gục xuống
tỉnh dậy mồ hôi chảy
tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội

Chúng ta cùng nhớ lại, năm 1988 là thời điểm các nước cộng sản Đông Âu và Liên xô đang tiến dần đến bờ vực sụp đổ tan rã, cũng là lúc cuốn sách “Trại súc vật” của George Orwell (19031950) đã được công khai phổ biến rộng rãi ở những quốc gia cộng sản này, sau gần 50 năm bị cấm. Mọi thứ tưởng rằng sẽ bền vững đến “muôn năm” phút chốc tan thành mây khói, phải được nhận thức lại, trong đó có lý luận văn học nghệ thuật kiểu Mác – xít. Thì ra, cái gọi là “hiện thực XHCN” chỉ là mớ lý luận ấu trĩ, phi thực tiễn và phản khoa học. Nó “định hướng” cho người cầm bút viết theo một chiều, phản ánh một chiều, biến họ trở thành thứ nô bộc, giả dối và lưu manh. Và, thật mỉa mai, chính cái thứ định hướng “ văn nghệ phục vụ chính trị trên nền hiện thực XHCN”, mà thực tế là công cụ của chính trị này đã “ăn cắp” niềm tin của người đọc. Hay cụ thể hơn, chính cái thứ văn nghệ giả dối, lưu manh đó đã đánh cắp niềm tin của nhân dân mình.
Những câu thơ tả “chân” của Văn Cao trong biến khúc thứ hai thật sinh động, như một video clip làm người ta phải cười ra nước mắt. Đừng tưởng những “người chân chính sáng tạo lịch sử” lúc nào cũng mê muội, nhẹ dạ, cả tin chỉ biết cầm búa, cầm liềm. Trái lại, rất nhạy bén, họ nhận ra ngay đâu là đồ thật, của giả. Qua thời gian và thực tiễn cuộc đời mình, họ đã cay đắng ngộ ra được, họ đã bị mất cái gì và đâu là “thằng ăn cắp”. Một nền văn học đánh cắp niềm tin của nhân dân mình, là một nền văn học phản động và thất bại.
Thành tựu ư? Xin hãy thật công tâm mang cả cái kho tàng văn học theo định hướng “văn nghệ phục vụ chính trị” ấy ra mà soi xét, thẩm định sẽ thấy ngay giá trị nghệ thuật và giá trị nhân văn của nó ở tầm mức nào. Những người nằm trong chăn biết rõ lắm những con rận hút máu người, gây ra biết bao là ghẻ lở. Ngoại trừ Tố Hữu là “cây đại thụ” của nền văn học cách mạng hiện thực XHCN mà chân dung đã được ông Xuân Sách khắc họa: “Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt – Máu ở chiến trường, hoa ở đây”. Hay Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi mà tôi đã đề cập trong các bài “Xuân Diệu, từ người làm thơ tình đến anh bồi văn chương” và “Nguyễn Đình Thi, cây thánh giá, lưỡi lê và cuộc trường chinh theo đảng” ra, thì vào những năm cuối đời, những người cầm bút được coi là gạo cội của nền văn học đó nói những gì, chắc mọi người đều đã rõ. Lẽ thường, người cầm bút chân chính nào cũng có trách nhiệm với bạn đọc, trách nhiệm với chính mình và qua thời gian, chịu sự phán xét của hậu thế. Tôi thuộc lớp người đọc hậu sinh, thiển nghĩ có đôi dòng mạo muội như vậy về các tiền bối, tưởng cũng chưa đến mức đắc tội.
Ở biến khúc thứ hai, Văn Cao viết như thế, nhưng không có cuộc rượt đuổi nào cả. Chỉ qua ánh mắt, xin nhấn mạnh chỉ cần qua ánh mắt thôi, người đời tinh lắm, khi họ nhìn thẳng vào người cầm bút, để nhận ra anh ta là “cái giống gì” cũng đáng sợ và thảm hại lắm rồi. Kết thúc biến khúc thứ hai, Văn Cao viết:
tôi chạy bạt mạng
gần hết đời
tới chỗ chỉ còn gục xuống
tỉnh dậy mồ hôi chảy
tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội…

Trong chuyện phạm tội, khoa học hình sự xác định: đã; đang; chưa và sẽ, để việc xử lý, truy cứu được chính xác. Còn những người cầm bút có tài, có nhân cách như Văn Cao thì luôn truy vấn bản thân, để điều chỉnh hành vi “viết” của mình.
Đúng! Văn Cao đã xác định rất đúng, ông “là người chưa phạm tội”. Bởi, ngay từ những năm cuối thập niên 1950 trong trường ca “ Những người cửa biển” ông đã nhận ra và chỉ rõ:
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh…
Những con bói cá đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người”
Hay:
“Đất nước đang lên da lên thịt
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm dài trong cuống…”
Và, đây nữa:
“Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc
Những tên muốn cây to che cớm mầm non”.
Để rồi cất lên tiếng lòng chua chát:
“Không có tiếng vỡ trong không gian
Sao có tiếng vỡ trong lòng tiếng vang âm rên rỉ”.
Phải chăng, đó chính là cái barrie để một đời cầm bút của Văn Cao luôn đứng ở phía bên này với NHÂN DÂN của mình. Xin được nói thêm, cùng thế hệ với Văn Cao đã có một số ít người cầm bút (rất ít, chỉ đếm được trên đầu ngón tay thôi) cũng có được cái barrie của riêng mình. Những bậc tiền bối từng được người đời và chắc chắn sẽ mãi còn được hậu thế kính trọng đó, thà chấp nhận đi “hót cứt” (xin lỗi cho tôi được dùng hai chữ khốn khổ, khốn nạn này), thà chấp nhận bị đày đọa, chứ quyết không chịu để ngòi bút của mình phụ họa, đồng hành cùng cái ác.
Nếu ở biến khúc thứ nhất và thứ hai, giọng thơ gân guốc, tiết tấu dồn dập, kịch tính, bất ngờ, thì sang biến khúc thứ ba, âm điệu của bài thơ trùng hẳn xuống cho ta thứ cảm giác mệt mỏi và bất lực. Tác giả đã về kết bằng cái bi kịch thế này:
Tôi rơi vào mạng nhện
mạng nhện cuốn lấy tôi
không cách gì gỡ được
tôi như con sâu tằm
cuộc đời cứ như thế
muốn phá cái mạng nhện
tôi không đủ tay.

Vâng! Đích thị là mạng nhện. Chao ôi! Là thứ mạng nhện vô hình đã giăng, mắc ở cái đất nước khốn khổ này suốt mấy thập niên cuối thế kỷ 20 với những con nhện chúa hãnh tiến, bất tài, hiểm ác, cùng lũ nhện “công công” thừa lòng đố kỵ, dẻo mỏ nịnh thần, đầu têu chỉ điểm, hùa vào dèm pha xúc xiểm, xiên xẹo, mong được lòng ông chủ. Để rồi ai đó “như con sâu tằm” kia rơi vào, chỉ có nước mạt vận, chết mòn, chìm nổi một đời văn.
Quỹ thời gian của một đời người không nhiều. Thời gian dành cho lao động sáng tạo của người cầm bút cũng hạn hẹp lắm. Với một kiếp người, thời gian, miếng ăn và tự do rất quan trọng. Tất nhiên, người cầm bút cũng không ngoại lệ, nhưng thứ quan trọng nhất để họ thai nghén những đứa con tinh thần lại là TỰ DO. Bởi: “Hiện hữu của con người là tự do. Kẻ không có tự do không phải là con người” – Jean Paul Sartre. Thế thì bi thảm lắm, khi đã bị “mạng nhện cuốn lấy … không cách gì gỡ ra được” kéo lê suốt “ngày dài lại đêm thâu” , “muốn phá cái mạng nhện” quái đản đó , nhưng lại “không đủ tay” thì chết chắc rồi còn gì. Mà xét cho cùng thì dù có đủ tay, dù có ba đầu, sáu tay cũng gỡ ra làm sao được, vì ngoài những lũ nhện phản phúc kia , còn có cả những “con” mà Văn Cao đã chỉ ra trong “Trường ca những người cửa biển”. Đó là:
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh…
Những con bói cá đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người”…
Chúng sẽ bu vào rúc rỉa anh, ra đòn hội đồng cho anh sống cũng như chết. Nói đến miếng ăn, đến cái dạ dày, tôi bỗng nhớ đến Vũ Trọng Phụng bụng lép kẹp, thổ ra huyết , vẫn có “Số đỏ” để đời, vì ông không bị rơi vào thứ mạng nhện chết người ấy.
Lại nữa, dự cảm của nhà văn cũng vô cùng quan trọng, phụ thuộc vào nhận thức và tầm nhìn xa của anh ta. Tầm nhìn ấy có khi phải cao hơn, xa hơn thời đại mà anh ta đang sống. Tức là khả năng dự báo của những trang viết. George Orwell cho ra đời tiểu thuyết “Trại súc vật” vào năm 1945, đúng vào thời hoàng kim của ý thức hệ cộng sản. Tác phẩm này lập tức như một hồi còi vang vọng giữa đêm đen, đánh thức toàn nhân loại. Mãi gần nửa thế kỷ sau, với sự tan rã và sụp đổ thê thảm của thứ ý thức hệ phản khoa học, phản nhân văn này, đã chứng tỏ dự báo của George Orwell là chính xác .
Ở ta, trong và ngay sau “Cải cách ruộng đất”, một số văn nghệ sỹ giàu tâm huyết, vừa có tài, vừa có dự cảm và tầm nhìn xa, trong đó có Văn Cao đã nhanh chóng chỉ ra những bất cập, những nguy cơ của một nền văn học, nghệ thuật khô cứng, một chiều, trái với thiên chức người cầm bút. Và, cũng như các nhà thơ, nhà văn lừng danh: Boris Leonidovich Pasternak (1890 – 1960); Joseph Brodsky (1940 – 1996) dưới thời Liên xô (cũ) , những nhà văn, nhà thơ ưu tú đó của đất nước đã bị đày đọa, trừng phạt. Ngoài những tác phẩm nổi tiếng trước đó, cho đến tận cuối đời, họ gần như không có thêm một tác phẩm xuất sắc nào. Tôi đã từng được nghe câu hỏi, rằng gần 100 năm qua, nền văn học nước ta đứng ở tầm mức nào của thế giới? Thiển nghĩ, chúng ta “vô hạng”, nghĩa là không thể xếp vào cái mức hạng nào cả.
Trước 1945, ta có dòng văn học hiện thực phê phán rất đáng tự hào. Dòng văn học này với các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố v.v…, ngoài “chị Dậu”, “anh Pha” còn có hẳn một “Chí Phèo” cũng sống dai dẳng với đời không thua kém gì “AQ” của Tàu. Sau 1945, miền Nam có: Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Hồ Biểu Chánh v.v… Miền Bắc, thời “Nhân văn – giai phẩm” có Phùng Quán; Trần Dần ; Lê Đạt ; Văn Cao; Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng … Các vị này sau đó cũng như Văn Cao đều bị “rơi vào mạng nhện”. Còn từ 1960 đến nay, trong con mắt rất thiển cận của tôi, thì về thơ có: Lưu Quang Vũ; Xuân Quỳnh; Trần Mạnh Hảo; Bùi Minh Quốc; Trần Vàng Sao; Nguyễn Duy; Đỗ Trung Quân; Hoàng Quý; Trần Chấn Uy. Về văn có: Nguyễn Minh Châu; Nguyên Ngọc; Nguyễn Huy Thiệp; Dạ Ngân; Bùi Ngọc Tấn; Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài; Võ Thị Hảo; Tạ Duy Anh; Phạm Thành; Nguyễn Ngọc Tư… Lý luận phê bình có Hoàng Ngọc Hiến; Lại Nguyên Ân; Đặng Văn Sinh; Nguyễn Hoàng Đức…
Thật là trớ trêu, xét theo tỷ lệ dân số, thì số nhà văn, nhà thơ của nước ta thuộc hàng nhiều nhất hoàn cầu, vậy mà số tác phẩm văn học nghệ thuật được nước ngoài biết đến chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Quá ít đấy, nhưng vẫn xin chớ vội mừng, người ta biết đến chưa chắc đã phải đó là những tuyệt tác văn học, mà có khi chỉ đơn thuần vì cuốn sách đó nói được một vài vấn đề nào đó lâu nay bị cấm kỵ ở Việt Nam. Thế thôi. Nghĩa là, còn xa vời lắm, hay nói theo dân gian là còn “lên bờ xuống ruộng” lắm, còn “bảy bồ cám, tám bồ bèo” nữa, may ra Việt Nam mình mới có được những tác phẩm văn học nghệ thuật đích thực, góp phần kiến giải những vấn đề của con người ở tầm nhân loại. Một nền văn học chỉ cúc cung tận tụy làm công cụ phục vụ chính trị, thì việc có được những tác phẩm đỉnh cao sánh vai với thiên hạ bốn biển, năm châu, còn khó hơn cả lên giời.
Trở lại với biến khúc thứ ba. Có thể nói , những năm, tháng thuộc thập niên 1980 đối với Văn Cao là một trong những khoảng thời gian buồn nản nhất của ông. Trong cảnh bệnh tật hiểm nghèo (ông bị ung thư phổi), ngoài chuyện vẫn phải bươn trải để mưu sinh, lo cho cái bụng đói, Văn Cao còn phải đối mặt với những trò hạ tiện nhố nhăng của lũ “bói cá” “ bạch tuộc” muốn hạ đo ván ông. Không kiểm điểm, đấu tố như thời “nhân văn – giai phẩm”, nhưng trò khủng bố có vẻ “nhẹ nhàng” này còn ghê gớm hơn cả một cực hình, nó ngột ngạt, bức bối hơn gấp nhiều lần. Thay vào những ngôn từ trực diện của Xuân Diệu – một “nhện công công” già – một anh bồi văn chương thời “nhân văn – giai phẩm”, rằng thì là : “Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ...”. Rồi thì là : ““Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp.” (*), là tiếng loa oang oang dai dẳng phát đi, phát lại những quốc ca “khoác áo dự bị” chờ thay thế những giai điệu Quốc ca mang tên Văn Cao, hào hùng, bi tráng trộn máu và nước mắt của nhân dân mình, hy sinh vì mơ ước có một tương lai tươi sáng đích thực.
Chao ôi! Là bóng tối, dao găm và mạng nhện trong “Ba biến khúc ở tuổi 65” của Văn Cao. Chao ôi! là cái sự “mạng nhện” trong biến khúc thứ ba này của ông. Vào những năm, tháng khốn khó đó của Văn Cao, sau khi đến thăm ông, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã viết: “ Anh Văn ngồi. Ngồi ở sạp gỗ cũ kỹ như đã ngồi hàng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ, râu cũng bạc phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn. Ngồi như thế có ích gì, anh Văn… Cho đến bây giờ tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái không khí ảm đạm, cô đơn của những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn Cao ngồi một mình với cốc rượu trước mặt ngày này qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một sự vắng mặt trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái bóng. Ly rượu cũng biến thành cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly-rượu-người. Thân thiết và chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh, không còn ai khác có thể san sẻ giùm“. (*)
Thế đấy! “Ba biến khúc ở tuổi 65” của Văn Cao đã khép lại, kết bằng nốt nhạc buồn, bằng hình ảnh con sâu tằm và cái mạng nhện. Xót xa lắm. Liệu có đại ngôn không, khi cho rằng “Ba biến khúc ở tuổi 65” chính là thông điệp gửi các thế hệ mai sau về thân phận những người cầm bút tài năng, chân chính trong một nền văn học luôn coi “chính trị là thống soái”, đánh mất thiên chức, tự biến thành công cụ, thành thứ văn nô, bồi bút?
Nha Trang 10/2009 – 2/2015
Nguyễn Chính

(*) nguồn Talawas
(* *) nguồn Vietnamnet
( Theo anhbasam Blog)